Tài liệu Báo cáo tóm tắt: “Công tác bảo vệ môi trường nông nghiệp và phát triển nông thôn và định hướng đến năm 2015”: BÁO CÁO TÓM TẮT: “CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015”
Hoạt động sản xuất nông nghiệp và phát triển nôn thôn diễn ra rộng khắp trên cả nước bao gồm cả vùng lục địa và vùng chủ quyền lãnh hải của Việt Nam với sự tham gia của hơn 70 % dân số, tạo ra tổng sản phẩm khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2007 theo giá thực tế đạt 231.282 tỷ đồng, chiếm 20,23% trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân (sản xuất nông nghiệp 15,18%; lâm nghiệp 1,05% và thuỷ sản đạt 4%), xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 12,5 tỷ USD, tăng 20,6% so với năm 2006 (nông, lâm sản 8,7 tỷ USD, thuỷ sản 3,8 tỷ USD), vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 là 1,5 tỷ USD. Các hoạt động của ngành đã góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân, xóa đói giảm nghèo tại nhiều địa phương.
Cùng với sự phát triển sản xuất của đất nước thì vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng được Nhà nước và Chính phủ quan tâ...
15 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 851 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo tóm tắt: “Công tác bảo vệ môi trường nông nghiệp và phát triển nông thôn và định hướng đến năm 2015”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO TÓM TẮT: “CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015”
Hoạt động sản xuất nông nghiệp và phát triển nôn thôn diễn ra rộng khắp trên cả nước bao gồm cả vùng lục địa và vùng chủ quyền lãnh hải của Việt Nam với sự tham gia của hơn 70 % dân số, tạo ra tổng sản phẩm khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2007 theo giá thực tế đạt 231.282 tỷ đồng, chiếm 20,23% trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân (sản xuất nông nghiệp 15,18%; lâm nghiệp 1,05% và thuỷ sản đạt 4%), xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 12,5 tỷ USD, tăng 20,6% so với năm 2006 (nông, lâm sản 8,7 tỷ USD, thuỷ sản 3,8 tỷ USD), vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 là 1,5 tỷ USD. Các hoạt động của ngành đã góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân, xóa đói giảm nghèo tại nhiều địa phương.
Cùng với sự phát triển sản xuất của đất nước thì vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng được Nhà nước và Chính phủ quan tâm coi đó là 1 trong 3 trụ cột phát triển (Kinh tế-Xã hội-Môi trường). Nghị quyết 41/NQ-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chương trình nghị sự 21 của Chính phủ về Phát triển bền vững là một trong những hành động thể hiện sự cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Những chính sách quan trọng của Nhà nước đã tạo điều kiện tốt cho việc hình thành hệ thống bảo vệ môi trường quốc gia, cũng như của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công tác bảo vệ môi trường đã đóng vai trò gìn giữ và bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ các hệ sinh thái phục vụ cho chiến lược phát triển của ngành. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề môi trường đang ngày càng trở nên bức xúc, đe dọa chính đến sự phát triển bền vững của ngành. Một mặt, hoạt động sản xuất của ngành tác động mạnh đến mô trường, như việc sử dụng phân bón, thuốc hóa chất chưa đúng kỹ thuật đã gây tồn dư nhiều hóa chất độc hại trong môi trường đất và môi trường nước; nhiều vùng chăn nuôi tập trung thiếu hệ thống thu gom và xử lý chất thải; nhiều vùng làng nghề sản xuất thủ công chưa có hệ thống thu gom và xử lý chất thải; việc khai thác nguồn lợi thủy sản không hợp lý đã ngày càng làm cạn kiệt nguồn lợi; phát triển nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch dẫn đến ô nhiễm môi trường... Mặt khác, các vấn đề môi trường cũng tác động không nhỏ đến sản xuất của ngành. Thời tiết diễn phức tạp, vụ Đông xuân ở miền Bắc ấm bất thường, hạn hán, bão lũ lụt, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, sâu bệnh cây trồng phát sinh trên diện rộng; nhiều vùng nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại do ô nhiễm môi trường ...
Trước yêu cầu của công tác bảo vệ môi trường, trong các năm qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai nhiều hoạt động bảo vệ môi trường trong ngành góp phần thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng bền vững. Hoạt động bảo vệ môi trường vừa là trách nhiệm và nghĩa vụ của ngành, vừa là nhân tố quan trọng đảm bảo kinh tế phát triển. Bảo vệ môi trường không chỉ là tạo điều kiện bảo đảm cho sản xuất phát triển, mà còn là vấn đề sống còn của ngành.
1. Những vấn đề môi trường bức xúc trong nông nghiệp và nông thôn
Trong các lĩnh vực còn nhiều bức xúc
1.1 Trồng trọt và bảo vệ thực vật
Giá trị sản xuất ngành trồng trọt (GTSXTT) liên tục tăng trưởng qua các năm, chỉ tính từ 2001-2007 GTSXTT tăng từ 92.907 tỷ đồng (8,45 tỷ USD) lên 114.333 đồng (10,39 tỷ USD) với mức tăng bình quân 3,5%/năm (toàn ngành nông nghiệp 4,2%/năm) theo hướng đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa, có giá trị và hiệu quả cao; điều chỉnh cơ cấu cây trồng, mùa vụ hợp lý nhằm né tránh thiên tai và những bất thuận của thời tiết, sâu bệnh, ổn định diện tích gieo trồng và sản lượng nông sản do vậy đến năm 2007 giá trị xuất khẩu của 8 mặt hàng nông sản (gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, hạt điều, rau quả, lạc) đạt hơn 6 tỷ USD. Tuy nhiên lại nẩy sinh một số vấn đề môi trường sau:
-Thâm canh tăng vụ để gia tăng sản lượng nhưng đồng thời cũng chịu nhiều rủi do về sâu bệnh và gia tăng sự suy giảm độ mầu của đất.
- Các vùng chuyên canh cây nông nghiệp ngày càng được mở rộng nhằm tạo lập thị trường cung cấp sản phẩm tập trung nhưng cũng làm gia tăng dịch bệnh cho cây trồng. từ đó dẫn đến gia tăng sử dụng các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật (trong đó có rất nhiều thuốc bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc xuất sứ, trôi nổi trên thị trường. Đến tháng 8 năm 2007, lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu phải tiêu hủy 152 tấn).
- Phân bón khi sử dụng sẽ để lại một lượng không nhỏ dư lượng do không được cây trồng hấp thụ, sẽ tác động tiêu cực đến chính hệ sinh thái nông nghiệp cũng như làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất và có thể gây đột biến gen đối với một số loại cây trồng. Theo ước tính năm 2007, có khoảng 60-65% lượng phân đạm không được cây trồng hấp thụ (tương ứng với 1,77 triệu tấn urê, 55 - 60% lượng lân tương đương với 2,07 triệu tấn supe lân và 55-60% lượng kali tương đương với 344 nghìn tấn Kali Clorua (KCl) được bón vào đất nhưng chưa được cây trồng sử dụng).
- Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng được sử dụng gia tăng Từ năm 1991 đến năm 2000, khối lượng thuốc BVTV được nhập khẩu và sử dụng biến động từ 20.000 - 30.000 tấn thành phẩm quy đổi, lượng sử dụng trên một đơn vị diện tích từ 0,67 - 1,0 kg ai/ha. Từ năm 2000 đến nay khối lượng nhập khẩu và sử dụng ở Việt Nam tăng từ 33.000 đến 75.000 tấn. Lạm dụng thuốc BVTV trong phòng trừ dịch hại, tùy tiện không tuân thủ các quy trình kỹ thuật, không đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc đã dẫn đến hậu quả nhiều trường hợp ngộ độc thực phẩm, mất an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng ruộng bị ô nhiễm.
Việc sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật làm cho sâu bệnh quen thuốc gây ra hiện tượng kháng thuốc BVTV, mặt khác do sử dụng nhiều loại thuốc BVTV làm cho các loài sinh vật có ích (thiên địch) bị tiêu diệt, gây mất cân bằng sinh thái và như vậy sâu bệnh hại càng phát triển mạnh hơn và nông dân càng dùng thuốc nhiều hơn
1.2 Chăn nuôi, thú y
Năm 2007 cả nước có 38,4 triệu gia súc, ước tính thải ra 61,2 triệu tấn thất thải nhưng chỉ khoảng 40% số chất thải này được xử lý, còn lại thường được xả thẳng trực tiếp ra môi trường. Số phân không được xử lý và tái sử dụng lại chính là nguồn cung cấp phần lớn các khí nhà kính (chủ yếu là CO2, N20) làm trái đất nóng lên, ngoài ra còn làm rối loạn độ phì đất, nhiễm kim loại nặng, ô nhiễm đất, gây phì dưỡng và ô nhiễm nước. Chưa kể nguồn khí thải CO2 phát tán do hơi thở của vật nuôi (ước chừng 2,8 tỷ tấn/năm/tổng đàn gia súc thế giới).
Do không có sự quy hoạch ban đầu, nhiều xí nghiệp chăn nuôi, lò mổ, xí nghiệp chế biến thực phẩm còn nằm lẫn trong khu dân cư, trong các quận nội thành, sản xuất chăn nuôi còn nhỏ, manh mún, phân bố rải rác trong khi sản xuất nông nghiệp có lợi nhuận thấp, giá cả bấp bênh, thị trường ít ổn định. Vì vậy, sức đầu tư vào khâu xử lý môi trường trong chăn nuôi còn thấp. Số lượng các lò mổ đạt yêu cầu vệ sinh chỉ khoảng trên 30%. Hiện tượng giết mổ lậu, giết mổ gia súc, gia cầm bị bệnh, không qua kiểm soát giết mổ, nước sử dụng chất thải từ các lò mổ không được kiểm soát cũng là các nhân tố tác động làm tăng ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm do chăn nuôi và đặc biệt là chăn nuôi lợn không chỉ làm hôi tanh không khí mà còn ảnh hưởng nặng tới môi trường sống dân cư, nguồn nước và tài nguyên đất và ảnh hưởng chính đến kết quả sản xuất chăn nuôi. Các hoạt động gây ô nhiễm do chăn nuôi vẫn đang tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi trên cả nước. Tình trạng chăn nuôi thả rông, chăn thả trên đất dốc, đầu nguồn nước, ... còn khá phổ biến đã góp phần làm tăng diện tích đất xói mòn, suy giảm chất lượng đất, nước, giảm thiểu khả năng sản xuất nông nghiệp trên vùng rộng lớn.
Ô nhiễm môi trường còn làm phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi. Trong mười năm qua, từ 1997 đến nay, dịch lở mồm, long móng trên gia súc đã hoành hành và đến nay chưa được khống chế triệt để. Từ cuối năm 2003, dịch cúm gia cầm đã bùng phát tại Việt Nam, qua 4 năm, dịch đã tái phát 5 đợt, đã phải tiêu huỷ trên 51 triệu gia cầm các loại, thiệt hại ước tính lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Bệnh đã có nhiễm sang người, đến nay đã có 100 người mắc và đã tử vong 46 người. Từ đầu năm 2007 đến nay đã bùng phát hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (bệnh tai xanh-PRRS) trên lợn đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi lợn tại nhiều địa phương, đến nay đã được khống chế, chỉ còn một số ít cơ sở đang tiếp tục phải theo dõi. Tuy vậy, diễn biến của bệnh khá phức tạp, khả năng gây dịch còn rất lớn. Dịch bệnh đã gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi, gây mất an toàn thực phẩm và còn có nguy cơ lây nhiễm sang người nguy hiểm như bệnh cúm gia cầm,
1.3 Nuôi trồng và khai thác thủy sản
Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trong vòng 10 năm trở lại đây, không chỉ nuôi sông hồ, đàm phá.. mà còn tiến ra biển. Năm 2007, cả nước mở thêm 15.600 ha nuôi trồng thuỷ sản, đưa tổng diện tích đạt khoảng 1,065 triệu ha (kể cả diện tích nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với trồng lúa khoảng 65.600 ha), đạt sản lượng 2,1 triên tấn. Do hoạt động nuôi trồng thủy sản chủ yếu mang tính cá thể và ít có sự hỗ trợ cơ sở hạ tầng từ nhà nước, nên các khu vực nuôi trồng thủy sản thường không có hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản dẫn người nuôi thường sử dụng kênh cấp nước và thoát nước thải chung, nên khi dịch bệnh xẩy ra, thì ảnh hưởng đến cả vùng nuôi, gây thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Từ năm 1993 trở lại đây, dịch bệnh thủy sản xẩy ra liên tục. Năm 2005 dịch bệnh đã gây thiệt hại rất lớn đến các tỉnh Nam Trung Bộ, làm suy giảm sản lượng khu vực này từ 40-60% so với cùng kỳ năm trước. Cá biệt có tỉnh như Ninh Thuận diện tích nuôi tôm bị thu hẹp còn 10% so với diện tích nuôi các loài thủy sản khác.
Nuôi thủy sản Nuôi trồng thủy sản có thể mang lại lợi nhuận cao, nên việc kiểm soát quy hoạch nuôi trồng thủy sản rất khó. Tại nhiều địa phương, người dân thường tự ý phá rừng ngập mặn hay chuyển đổi diện tích trồng lúa sang nuôi thủy sản, dẫn đến hủy hoại các hệ sinh thái đất ngập nước do sự suy giảm đa dạng sinh học. (thủy lợi phục vụ TS)
Tải lượng ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản thải ra môi trường rất lớn. Chỉ tính riêng với sản lượng cá tra năm 2006 là 576 tấn thì sẽ tạo ra gần 600 tấn chất thải.
Nghề nuôi trồng thủy sản thường chịu rủi ro cao do diễn biến thời tiết bất thường, bão lũ, lụt và ô nhiễm môi trường. Việc xả chất thải các các ngành công nghiệp khác ra các lưc vực sông, đã làm thiệt hại rất lớn cho người nuôi thủy sản (người hứng chịu lại là người nuôi thủy sản nhưng lai không được đền bù). Điển hình là hiện tượng các bè cá chết hàng loạt trên lưc vực sông Đồng Nai, Lưu vực sông Thị Vải, ngao chết hàng loạt lại Bến Tre do ô nhiễm dầu...
- Xử lý môi trường ao nuôi
Nghề khai thác hải sản đang gặp khó khăn do nguồn lợi gần bờ có biểu hiện cạn kiệt, trữ lượng hải sản ở vùng biển xa bờ chưa được đánh giá đầy đủ. Công tác dự báo nguồn lợi hải sản khu vực xa bờ đến nay mới chỉ bắt đầu.
Để giảm áp lực khai thác cạn kiệt nguồn lợi hải sản vùng biển gần bờ, Chính phủ đã hỗ trợ tính dụng để khuyến khích đánh bắt xa bờ thông qua hình thức cho vay vốn để đóng tầu nhưng thực tế số lượng tầu đánh cá hiện có số lượng rất nhiều, nhưng tổng công suất lại rất thấp, phần lớn là loại tầu có công suất máy < 45 CV do vậy khai thác vẫn chủ yếu tập trung khai thác hải sản ven bờ, từ độ sâu 30-50 m nước. Trên 60% loại nghề khai thác liên quan tới đánh bắt các đối tượng hải sản chưa trưởng thành như lưới kéo, vây, vó, màng, chụp mực kết hợp ánh sáng và pha súc, trong đó lưới kéo chiếm 30,6%.
Hiện tượng vi phạm các quy định của Nhà nước trong khai thác thuỷ sản vẫn còn xẩy ra ở nhiều nơi. Đáng kể là dùng ánh sáng đèn có cường độ quá lớn, xung điện, chất độc, chất nổ, lưới cào “tầu bay”để đánh bắt cá; khai thác vào mùa vụ cấm, không tuân thủ đúng quy định về mắt lưới và loại nghề cho phép dẫn đến tình trạng nguồn lợi hải sản bị giảm sút, một số loài hải sản quý hiếm có nguy cơ cạn kiệt và tuyệt chủng.
Nguy hiểm hơn, còn biểu hiện rộng khắp và chưa có khả năng ngăn chặn hành động tàn phá môi trường sống và nơi sinh cư tự nhiên của các loài sinh vật biển. Một số HST biển tiêu biểu, nơi sinh cư của trên 3000 loài hải sản và chim nước như RSH, cỏ biển, cũng bị phá huỷ nghiêm trọng, vượt quá khả năng phục hồi hoặc sẽ phục hồi chậm. Theo Viện Tài nguyên Thế giới (2000, 2002) thì 80% rạn san hô và thảm cỏ biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở tình trạng rủi ro cao.
Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản gặp rất nhiều khó khăn do số lượng cán bộ và phương tiện có hạn, mặt khác các hình thức xử phạt vi phạm hành chính còn nhẹ chưa có tính răng đe. Công tác phục hồi và bảo tồn nguồn lợi mới ở bước mức đầu, hiện chưa có một khu bảo tồn mang tính quốc gia nào được thiết lập, kể cả các khu bảo tồn biển.
Cảng cá, bến cá
Chế biến thủy sản
1.4 Lâm nghiệp
- Phá rừng
- Khô hạn, sa mạc hoá và thoái hoá vật lý đất: Số liệu của văn phòng điều phối công ước chống sa mạc hóa (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho biết nước ta hiện có khoảng 7.055.000 ha đang chịu tác động mạnh bởi quá trình hoang mạc hóa bao gồm đất trống bị thoái hóa mạnh, đất bị đá ong hóa, đụn cát và bãi cát di động tập trung ở các tỉnh miền Trung. Do hậu quả của việc chặt phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử dụng đất không bền vững qua nhiều thế hệ nên đất đai bị thoái hoá về mặt vật lý (đất chai lỳ, khô cứng, tầng mặt bị bóc mòn hoặc kết cấu rời rạc, ở các tầng dưới hiện tượng chặt dí, kết von tăng) do đó cây cối khó có khả năng tái sinh nên nguy cơ hoang mạc hoá cao. Tình trạng sa mạc hoá thể hiện rõ nhất ở các vùng có lượng mưa thấp, đất phát triển trên các loại đá mẹ khó phong hoá, nghèo dinh dưỡng và thành phần cơ giới nhẹ.
- Cháy rừng: Việt Nam có nhiều loại rừng dễ bị cháy trong nùa khô như rừng khộp Tây Nguyên, rừng tràm ở một số tỉnh phía Nam, rừng thông và một số loài cây rừng trồng khác. Những năm gần đây do công tác phòng chống cháy rừng làm tốt hơn nên diện tích rừng bị cháy hàng năm không nhiều. Theo số liệu thống kê của Cục Kiểm Lâm, từ năm 1995 đến nay trung bình mỗi năm rừng bị thiêu huỷ khoảng 5.000 ha. Đặc biệt năm 1998, do ảnh hưởng của hiện tượng El-Ninô, nắng hạn gay gắt nên tổng số vụ cháy rừng trên cả nước tới 1.681 vụ với diện tích rừng bị cháy: 20.357 ha. Năm 1999 diện tích rừng bị cháy giảm 15 lần, năm 2000 giảm 20 lần. Sau đây là bảng thống kê số vụ cháy và diện tích rừng bị thiệt hai:
Năm
Số vụ cháy
Diện tích thiệt hại, ha
Ghi chú
2001
490
2.466,0
2002
1.098
15.404,0
Rừng tràm U Minh
2003
1.158
1.785,0
2004
899
5.563,0
2005
1165
5.114,0
2006
475
1.535,0
2007
792
2.328,0
Sáu tháng đầu năm 2008
232
960,0
- Suy giảm chất lượng rừng
1.5 Làng nghề và môi trường nông thôn
Vấn đề ô nhiễm làng nghề và nông thôn đang ngày càng trở lên nổi cộm, hiện đã có nhiều dự án hỗ trợ chuyển giao của các tổ chức trong và ngoài nước cho việc xử lý ô nhiễm làng nghề, bảo đảm vệ sinh môi trường vùng nông thôn nhưng thực tế ô nhiễm vẫn ngày càng trở lên nghiêm trọng với diện ngày càng rộng. Cả nước hiện có hơn 1450 làng nghề, trong đó riêng đồng bằng sông Hồng có 800 làng nghề. Đa số các làng nghề bị ô nhiễm bởi chất thải sản xuất, bụi, khí độc, cặn bã, nước thải xả ra trong quá trình sản xuất được thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhễm cục bộ, làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.
Bảo đảm vệ sinh môi trường trong nông thôn còn yếu, chưa kiểm soát được vấn đề ô nhiễm trong nông thôn. Tình hình xả chất thải trong sinh hoạt nông thôn và sản xuất nông nghiệp còn bừa bãi, hiện chưa có hệ thống thu gom chất thải để xử lý. Cả nước còn gần 30% dân số nông thôn chưa được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh. Số lượng làng ung thư bị phát hiện ngày càng lớn gây nhiều bức xúc trong dự luận.
Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
1.6 Đa dạng sinh học
1.7 Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Theo Quyết định số 64/2003/TTg của Thủ tướng Chính phủ về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương được giao theo dõi xử lý 59 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (15 kho thuốc bảo vệ thực vật, 35 doanh nghiệp chế biến thủy sản, 1 lò mổ gia súc, 1 trại chăn nuôi gia súc). Hiện còn 1 kho thuốc bảo vệ thực vật và 8 doanh nghiệp chế biến thủy sản chưa hoàn thành biện pháp xử lý triệt để. Tuy nhiên thực tế cho đến nay, lại phát sinh rất nhiều các cơ sở gây ô nhiễm môi trường mới với số lương và quy mô ngày càng lớn. Chỉ tính riêng lượng thuốc bảo vệ thực vật 2007, khối lượng thuốc và bao bì chứa thuốc BVTV tồn đọng cần tiêu huỷ là: 69.237,236 kg và 43.574,179 lít thuốc và 69.640,282 kg bao bì. Hơn 150 doanh nghiêp chế biến thủy sản gây ô nhiễm môi trường đang được các địa phương đề nghị đưa vào danh sách cần được xử lý.năm 2007 của Các Chi cục BVTV tỉnh, thành phố trong cả nước.
1.8 Biến đổi khí hậu (a Thìn và C Bình)
2. Kết quả đạt được
2.1 Công tác tổ chức bộ máy
Nghị định 01/2008/NĐ-CP quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nghị định 81... đã tạo điều kiện cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hình thành mạng lưới quản lý nhà nước về môi trường thuộc ngành (trước đây chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm). Với đơn vị đầu mối là Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Cục là các đơn vị triển khai.
Cục Thủ lợi, Cục Chăn nuôi, Cục Thủy lợi, Cục Nuôi trồng thủy sản, Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản là đã có các phòng quản lý môi trường. Một số cục khác thuộc Bộ đã hình thành nhóm công tác làm việc trong lĩnh vực môi trường.
Tại địa phương, các sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng được giao chủ trì thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong ngành tại các địa phương theo Thông tư liên tịch 61 /2008/TTLT-BNN-BNV giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ ngày 15 tháng 5 năm 2008 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và nhiệm vụ quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã về nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2.2 Xây dựng các văn bản quản lý nhà nước
Theo phân cấp của Luật Môi trường, trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rất lớn, bao gồm bảo vệ các hệ sinh thái trên cạn và dưới nước, cũng như chủ trì triển khai hoạt động bảo vệ môi trường trong toàn bộ các hoạt động sản xuất của ngành. Do vậy, ngày 20 tháng 2 năm 2008 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Chỉ thị 36/2008/CT ngày 20 tháng 2 năm 2008 về tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chỉ thị xác định những việc cần làm trước mắt và cấp bách thuộc phạm vi quản lý của ngành. Ngoài ra, Bộ đã ban hành 3 văn bản quản lý thuốc bảo vệ thực vật, 2 văn bản về quản lý phân bón, 3 văn bản về chân nuôi thú y và 1 văn bản về quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng tránh ô nhiễm, 1 tiêu chuẩn ngành Đất ngập nước-hệ thống phân loại, 1 hướng dẫn về xây dựng báo cáo đánh giá tác động môi trường trong nuôi trồng thủy sản ven biển. Về lâu dài, ngành cần phải xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật hoặc các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa những nội dung của Luật Môi trường liên quan đến công tác quản lý môi trường của ngành.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đã có nhiều nội dung liên quan đến bảo vệ môi trường như quy định việc cấm săn bắn các loài hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, hạn mức trong khai thác rừng, thành lập các khu bảo tồn....những nội dung này đã được cụ thể hóa thành các nghị định hướng dẫn thi hành Luật: như Nghị định 23/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Nghị định 32/2006/NĐ-CP quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, Nghị định 159 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Luật Thủy sản hiện cũng đã quy định những nội dung về bảo vệ môi trường như bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản; quy hoạch và quản lý khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển... những nội dung này đã được cụ thể thể hóa thành các hướng dẫn nghị định như Nghị định 27/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật thủy sản, Nghị định 128/2005/NĐ-CP về xử phát vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, Nghị định 57/2008 về Quy chế quản lý các Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế...
2.3 Quan trắc môi trường
Quan trắc môi trường của ngành được triển khai thường xuyên, hàng năm theo yêu cầu sản xuất của ngành cũng như đặt hàng của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hiện đã có 1 số hoạt động quan trắc sau đây đang được triển khai:
Quan trắc môi trường đất ở các tỉnh miền Bắc, miền Nam, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ để quan trắc các yếu tố ảnh hưởng tới mối trường đất.
Quan trắc mưa axit tại miền Nam (thuộc trạm Quan trắc môi trường Quốc gia) để đánh giá diến biến mưa axit theo thời gian.
Quan trắc-cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản hiện đã có sự tham gia của hơn 20 tỉnh thành nhằm hỗ trợ người nuôi thủy sản phòng trị bệnh nuôi thủy sản và cảnh báo ảnh hưởng môi trường, xây dựng lịch mùa vụ và tư vấn kỹ thuật cho người nuôi.
Quan trắc các khu bảo tồn biển nhằm đánh giá biến động đa dạng sinh học biển như thảm cỏ biển, các rạn san hô, thành phần loài, biến động chất lượng môi trường nước quanh các khu bảo tồn biển.
2.4 Các chương trình, dự án
Ngành đang được Chính phủ giao nhiều chương trình, dự án theo quyết định của Thủ tướng, chỉ tính riêng trong Chiến lược bảo vệ môi trường ngành nông nghiệp được giao 7 dự án/chương trình (liệt kê).
Hiện các chương trình Dự án 5 triệu ha rừng, Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đã được triển khai.
Một số chương trình như Chương trình bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế, Chương trình phục hồi rừng đầu nguồn bị suy thoái nghiêm trọng, Chương trình phục hồi các hệ sinh thái đặc thù đã bị suy thoái nghiêm trọng, Chương trình xây dựng và phổ biến nhân rộng các mô hình làng kinh tế sinh thái, Chương trình bảo vệ các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng... đã và đang xây dựng nội dung và dự toán kinh phí để bố trí triển khai.
Xây dựng các mô hình:khai nghiên cứu áp dụng các công nghệ xử lý môi trường và nhân rộng các mô hình quản lý trường như mô hình xử lý rác thải nông nghiệp, phân gia súc để nuôi giun làm thức ăn nuôi thủy sản và nuôi gia súc; mô hình xử lý rác thải, nước thải cho các hộ sản xuất miến dong tại Cát Quế, Hoài Đức, Hà Tây; mô hình làng kinh tế sinh thái trên vùng cát khô hạn tại xã Vân Long. huyện Bắc Bình, Bình Thuận (20 bể nuôi dong, 10 bể biogas, cải tạo 15 vườn tạp và 20 ha trồng cây lâm nghiệp); mô hình quản lý rừng ngập mặn có sự tham gia của công đồng tại 2 xã thuộc thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng, chương trình khí sinh học được triển khai trên địa bàn 6 tỉnh ...Về chính sách quản lý mô trường làng nghề Bộ đã ban hành Chỉ thị về quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề.
Về chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường, đến năm 2007 đã có 70% dân số nông thôn được tiếp cận nước hợp vệ sinh và đã cải tạo làm mới khoảng 500.000 nhà tiêu hợp vệ sinh.
Triển khai hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn cho 5 doanh nghiệp chế biến thủy sản, triển khai 3 lớp tập huấn (Bắc, Trung Nam) cho các doanh nghiệp về sản xuất sạch hơn, công nghệ xử lý môi trường.
2.5 Hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức môi trường
Đang chuẩn bị xuất bản Chuyên đề về bảo vệ môi trường thuộc Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Phối hợp với các tỉnh, thành phố tổ chức thường xuyên ngày môi trường thế giới, tuyên truyền bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ rừng, các khu bảo tồn trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tổ chức được cuộc thi “ Tìm hiểu nguồn lợi hải sản” trên báo Thiếu niên tiền phong và hệ thống tổng đài điện thoại với đối tượng tham gia là các em học sinh từ tiểu học đến trung học cơ sở trên phạm vi toàn quốc.
Ngoài ra còn tổ chức một số hội thảo, hội nghị có liên quan đến bảo vệ môi trường (tên hội thảo: Đa dang sinh học, ĐMC...)
3.Tồn tại và thách thức
3.1 Tồn tại
- Về tổ chức:
Lực lượng bảo vệ môi trường của Bộ mới được hình thành, đa phần là làm việc kiêm nhiệm, nên lực lượng còn mỏng và còn yếu. Mặc dù Nghị định 81/2007 đã cho phép Bộ Ngông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ), Bộ Thủy sản được phép thành lập Vụ Môi trường nhưng đến nay việc quản lý môi trường giao cho Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường kiêm nhiệm. Các cục quản lý chuyên ngành Tại địa phương, chưa hình thành 1 đơn vị chuyên trách về quản lý môi trường thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên thiếu đơn vị tham mưu cho sở về công tác quản lý môi trường.
Việc phân công trách nhiện trong quản lý Nhà nước giữa các Bộ, ngành chưa được rõ ràng, có một số nội dung còn chồng chéo (thí dụ như cả 2 Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và PTNT đều được giao quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, về đa dạng sinh học và các khu bảo tồn thiên nhiên); có những việc nổi cộm như rác thải và môi trường nông thôn thì chưa có cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm chính.
- Văn bản quản lý nhà nước và cơ chế, chính sách (có ví dụ về biogas, sản xuất sạch hơn).
+Luật Bảo vệ môi trường đã có hiệu lực, nhưng các chế tài chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi xâm hại môi trường.
+Hoạt động phát triển kinh tế của ngành thường đứng riêng rẽ, chủ yếu quan tâm đến các chỉ tiêu kinh tế xã hội, ít chú trọng chỉ tiêu và biện pháp bảo vệ môi trường. Hiện ngành chưa có Chương trình nghị sự 21, cũng như chưa có Kế hoạch hành động của Ngành thực hiện Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước. Do vậy việc lồng ghép vấn đề bảo vệ môi trường vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội còn yếu.
- Trừ lĩnh vực tài nguyên nước và tài nguyên rừng, đã có điều tra cơ bản một cách toàn diện, các lĩnh vực khác của ngành cơ sở dữ liệu thường ít do số liệu thu thập chủ yếu dựa các dự án điều tra nghiên cứu, hay các đề tài phục vụ một nhiệm vụ cụ thể ở một phạm vi nhất định, trong thời gian ngắn, dẫn đến việc thiếu số liệu để cung cấp thông tin, đánh giá thực trạng tài nguyên thiên nhiên và môi trường một cách tin cậy để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, cũng như kế hoạch bảo vệ môi trường của ngành.
- Theo Luật Bảo vệ môi trường, các dự án quy hoạch, chương trình phát triển phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược; các dự án đầu tư phải được thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Nhưng hiện nay, việc triển khai hoạt động này của ngành hầu như chưa được triển khai.
.
- Hoạt động bảo vệ môi trường của Ngành gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh phí triển khai. Cụ thể hầu như các chiến lược, kế hoạch, chính sách quốc gia về môi trường đều có nội dung yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện. Nhưng kinh phí sự nghiệp môi trường năm 2008 là 22 tỷ đồng không đủ đáp ứng yêu cầu. Do vậy, nhiều nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong Ngành gặp rất nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện.
- Năng lực quản lý, tổ chức triển khai:
_Cơ sở vật chất của các viện nghiên cứu về môi trường còn thiếu hoặc chưa đồng bộ.
- Con người
- Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp các ngành, các cấp chính quyền, nhưng lại thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, chưa tạo được động lực mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường; chưa có biện pháp khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia vào công tác môi trường.
3.2 Thách thức
Kế hoạch kinh tế xã hội đã đặt ra công tác quản lý môi trường của ngành những vấn đề môi trường bức xúc, đòi hỏi phải có cách quản lý mới
Hiện nay phát tiển bền vững đang được các quốc gia trên thế giới cũng như Chính phủ rất quan tâm. Đây là vấn đề đa mục tiêu cần có cách tiếp cận tổng hợp, liên ngành, liên vùng tỏn quá trình thực hiện để đạt được các mục tiêu lợi ích kinh tế-an sinh xã hội- an toàn môi trường. Phát triển sản xuất của ngành phải dự án trên hệ thống tài nguyên thiên nhiên như các hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái các thủy vực (bao gồm cả biển), hệ sinh thái nông nghiệp. Nhưng đồng thời phải tạo ra nền sản xuất sạch, coi trọng công tác quản lý môi trường trong hoạt động sản xuất của ngành.
Trong quá trình phát triển sản xuất, ngành sẽ phải đối mặt với những thách thức sau:
- Tình trạng tự phát trong sản xuất, thể hiện rõ trong nhiều lĩnh vực hoạt động của ngành, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng ở khu vực chuyển đổi lúa tôm, khai thác hải sản ven bờ, trong việc tự ý chuyển đổi các hệ thống cây trồng thiếu quy hoạch dẫn đến dịch bệnh lây lan và phát tán nhanh, hiệu quả kinh tế bị giảm mạnh.
- Mức độ khai thác tài nguyên rừng, tài nguyên hải sản đã đến mức tới hạn hoặc thậm chí cao hơn mức sản lượng cho phép. Nguồn lợi hải sản vùng gần bờ có xu hướng giảm dần về tữ lượng và kích thước đánh bắt.
- Nhiều loài sinh vật đã bị khai thác đến mắc cạn kiệt và trở lên khan hiếm. Hàng trăm loài đã bị liệt vào danh sách sẽ nguy cấp, bị đe dọa và được đưa vào sách đỏ Việt Nam.
- Công tác quy hoạch và kế hoạch theo ngành hiện nay dẫn đến khó cân đối việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và thường ưu tiên cho việc khai thác tài nguyên, ít cân nhắc đến mặt môi trường.Do vậy các hệ thống taì nguyên sẽ bị chia cắt cục bộ, phá vỡ tính thống nhất của hệ sing thái, dễ phát sinh sự cố sinh thái môi trường.
- Qúa trình phát triển kinh tế không hợp lý sẽ dẫn đến môi trường ngày càng bị ô nhiễm, làm thu hẹp dần các vùng sản xuất. Ô nhiễm môi trường sẽ tác động mạnh đến các lĩnh vực nuôi trồng và khai thác thủy sản
- Sản xuất nông nghiệp hiện nay, chủ yếu theo quy mô nông hộ, nên thường thiếu vốn đầu tư , thiếu thị trường ổn định nên sản xuất còn nhiều bấp bênh. Do vậy khả năng tiếp cận khoa học công nghệ, thông tin thị trường, trách nhiệm bảo vệ môi trường còn thấp.
- Rào cản phi thương mại trong sản xuất thực phẩm sẽ tác động mạnh đến sản xuất của ngành. Các nước sẽ yêu cầu ngày càng cao an toàn thực phẩm thông qua việc kiểm tra dư lượng thuốc, hóa chất trong các sản phẩm xuất khẩu. Việc kiểm soát môi trường không chặt chẽ sẽ là rào cản rất lớn đối với ngành chế biến thực phẩm trong nước cũng như xuất khẩu.
4. Định hướng hoạt động bảo vệ môi trường trong thời gian tới
4.1 Tăng cường năng lực quản lý nhà nước ,hoàn thiện hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng chính sách bảo vệ môi trường cho ngành là một vấn đề cần được lên hàng đầu hiện nay, với 1 ngành quản lý rất nhiều lĩnh vực, phạm vị rộng thì rất cần một khung pháp lý cũng như chính sách để đảm phát tính cân đối giữa nhu cầu phát triển với bảo vệ môi trường. Ngoài việc cụ thể hóa những điều luật bảo vệ môi trường, ngành cần ưu tiên triển khai sớm chương trình hành động của Bộ thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền vững làm khung để triển khai các kế hoạch phát triển của ngành và xây dựng chương trình hành động của ngành thực hiện Nghị quyết 41/NQTW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
4.2 Sử dụng hợp lý tài nguyên để phát triển bền vững
Với một ngành sản xuất dựa nhiều vào điều kiện tài nguyên và môi trường thì việc bảo vệ các hệ sinh thái trên cạn cũng như dưới nước cần được coi trọng. Thay đổi các phương thức khai thác, phương thức sản xuất hợp lý sẽ giảm tác động tiêu cực đến môi trường, cũng như gìn giữ tài nguyên lâu dài.
Công tác quy hoạch vùng sinh thái nhằm tận dụng ưu thế điều kiện tự nhiên để phát triển sản xuất các vùng chuyên canh cây công, nông nghiệp hay giống vật nuôi thích hợp, cùng với hướng dẫn hỗ trợ kỹ thuật cần được ưu tiên tổ chức thực hiện thong qua hoạt đọng khoa học công nghệ và công tác khuyến nông-khuyến ngư.
Hiện trong khai thác rừng đã có hạn mức khai thác, nhưng đối với khai thác hải sản hạn mức đánh bắt cho từng vùng vẫn chưa được xác định dẫn đến khai thác nguồn lợi hải sản cạn kiệt vùng gần bờ. Việc xác định trư lượng đánh bắt và giao khoán mặt nước nhứ giao khoán rừng cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt
Trong lĩnh vực lâm nghiệp cần nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống kiểm lâm, tăng cường cơ sở vật chất và bộ máy cho các khu bảo tồn quốc gia.
Khẩn trương thiết lập các khu bảo tồn thủy sản trong đó ưu tiên triển khai các khu bảo tồn biển.
4.3 Nâng cao chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
Để trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất của ngành phải hướng mạnh vào xuất khẩu và phục vụ đắc lực nhu cầu thị trường tiêu thụ nội địa ngày một tăng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia nền kinh tế thị trường, sản phẩm hàng hoá nông thủy sản phải đạt chất lượng cao và bảo đảm yêu cầu về môi trường nhằm tăng sức cạnh tranh và giảm thiểu tác động xấu từ mặt trái của quá trình toàn cầu hoá. Muốn vậy, phải chú ý đến vấn đề môi trường ở tất cả các lĩnh vực hoặc các bước của quá trình sản xuất hàng hoá xuất khẩu: từ qui hoạch, sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi), đến khâu bảo quản, chế biến sản phẩm...
- Quy hoạch vùng sản xuất an toàn môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu chọn địa điểm đến hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ vùng sản xuất an toàn, đến khâu áp dụng các biện pháp quản lý quá trình sản xuất. Nhanh chóng đưa chương trình quản lý chất lượng HCCP vào toàn bộ quá trình sản xuất hàng nông thủy sản của ngành
- Thiết lập và mở rộng hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường trong các hoạt động sản xuất của ngành, cũng như xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kiểm tra dự lường hóa chất độc hại tỏng sản phẩm nông thủy sảnn để từ đó ngăn chặn và phòng ngừa những rủi do môi trường và tranh chấp thượng mại.
4.4 Phòng ngừa và ngăn chặn suy thoái môi trường
Khắc phục thiệt hại do suy thoái môi trường rất tốn kém và không hiệu quả nên công tác bảo vệ môi trường lấy phòng ngừa và ngăn chặn là chủ yếu, việc kiểm soát chất thải, xử lý ô nhiễm phát sinh trong quá trình sản xuất là một yêu cầu bắt buộc và là nghĩa vụ của mọi tổ chức cá nhân. Nhưng thực tế cho thấy ít cơ sở sản xuất thực hiện đúng yêu cầu bảo vệ môi trường.
- Triển khai thực hiện việc lập và thẩm định đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án thuộc ngành. Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức kiểm tra, thanh tra để tiến hành răng đe ngăn chặn những hành vi xâm hại môi trường
- Nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện môi trường, công nghệ xử lý chất thải phù hợp điều kiện Việt Nam, công nghệ sản xuất sạch hơn... để dần từng bước hướng doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ luật bảo vệ môi trường.
- Khuyến khích áp dụng công nghệ quản lý môi trường tiên tiến như sản xuất sạch hơn, ISO14001 thông qua việc gán nhãn sinh thái, nhãn xanh trong sản phẩm hàng hóa.
4.5 Nâng cao nhận thức và vai trò của cộng đồng
- Tổ chức thường xuyên các chương trình truyền thông cho các cán bộ làm quản lý, các nhà khoa học và những người tham gia vào hoạt động sản xuất của ngành.
- Lồng ghép các mô hình bảo vệ môi trường có sự tham gia của cộng đồng trong các loại hình sản xuất: bảo vệ rừng và các khu bảo tồn, Khai thác nguồn lợi, trong nuôi trồng thủy sản.
- Phối hợp với các bộ, ngành thiết lập và triển khai quản lý tổng hợp các lưc vực sông, quản lý đới bờ để chia sẻ quản lý tài nguyên./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_hien_trang_cong_tac_quan_ly_moi_truong_nong_nghiep_6675.doc