Tài liệu Báo cáo Tình hình cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản: TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:
Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối
quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản
Đề tài : Cải cách kinh tế của Nhật Bản và
mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản
Lời nói đầu
Trong tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế vận động và bối
cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với những tác động của tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội… để tránh khỏi bị tụt hậu Việt Nam đang đứng trớc thời cơ mới và thách
thức mới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế thị trờng lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trởng kinh tế cha cao,
để đa đất nớc phát triển nhanh Đảng ta đã khẳng định ” Phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài” Quá trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
là tất yếu.
Nhật Bản là một trong những nớc có tầm ảnh hởng rất lớn trong nền kinh tế ...
39 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tình hình cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:
Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối
quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản
Đề tài : Cải cách kinh tế của Nhật Bản và
mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản
Lời nói đầu
Trong tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế vận động và bối
cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với những tác động của tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội… để tránh khỏi bị tụt hậu Việt Nam đang đứng trớc thời cơ mới và thách
thức mới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế thị trờng lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trởng kinh tế cha cao,
để đa đất nớc phát triển nhanh Đảng ta đã khẳng định ” Phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài” Quá trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
là tất yếu.
Nhật Bản là một trong những nớc có tầm ảnh hởng rất lớn trong nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Nhật Bản là một cờng quốc kinh tế đã trải qua nhiều năm phát
triển thần kỳ vào trớc thập niên 90của thế kỷ XX khiến cho cả thế giới khâm phục. Nhiều n-
ớc trong khu vực Châu á đã phấn đấu noi theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong đó một
số nớc và lãnh thổ Đông á đã nhanh chóng trở thành con rồng, con hổ kinh tế, giải quyết
thành công nhiều vấn đề đời sống kinh tế – xã hội, chỉ trong vòng 2 – 3 thập niên.Vì vậy,
việc xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi những chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến lợc
mà chính phủ Nhật Bản đã sử dụng để đa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nh vậy đối với Việt
Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trởng cao và bền vững cho việc phát triển kinh tế -
xã hội.
Sau quá trình thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản em đã hoàn thành chuyên đề
thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt
Nam – Nhật Bản”.
Vì thời gian ngắn và kiến thức bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề thực tập
này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô chỉ bảo, góp ý để chuyên đề
thực tập của em đợc hoàn chỉnh hơn.
Mục tiêu và phơng pháp nghiên cứu
I. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh tế của Nhật Bản,
hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hởng của nó tới Việt Nam.
Đánh giá bớc đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn tại.
Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hởng của các cuộc cải cách
đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong các lĩnh vực kinh tế –
xã hội.
II. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đợc mục tiêu trên cần phải có phơng pháp, cách tiếp cận khoa học và phù
hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào các lý thuyết liên quan đến lợi thế so
sánh, lý thuyết về phát triển thơng mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế ngày nay.
III. Kết cấu của Đề tài
Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.
Chơng I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách của Nhật Bản và
tầm ảnh hởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.
Chơng II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài chính của Nhật Bản
và hiệu quả của nó.
Chơng III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển trong tơng lai.
Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định những kết quả đạt đợc
và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ kinh tế Nhật Bản - Việt Nam trong tơng lai.
Chơng I: Quá trình cải cách kinh tế của Nhật Bản
I. Xu hớng của nền kinh tế thế giới
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu hớng quan trọng
trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nớc đang phát triển (trong đó có Việt Nam) cùng với
việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn để phát triển cũng khuyến khích, đẩy mạnh việc quan
hệ hợp tác với các nớc phát triển trên thế giới nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng nh mở rộng
thị trờng, tận dụng các nguồn tài nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi nhuận cũng nh tăng c-
ờng ảnh hởng với các nớc khác và. Chính vì những lẽ đó mà đã có rất nhiều quốc gia, tổ chức
quốc tế, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã đa ra, tổng kết những kinh nghiệm,
những vấn đề lý luận, thực tiễn và dự báo về xu hớng phát triển của nền kinh tế thế giới trong
đó có Nhật Bản và Việt Nam.
II. nền kinh tế nhật bản từ cuối những năm 1980 đến nay
Nhật Bản, một nớc nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ một cơ hội thơng
mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và duy trì một mức sống cao. Các
chính sách liên quan tới thơng mại và đầu t do vậy đã chiếm một vị trí nổi bật trong quá trình
phát triển kinh tế. Sau thời kỳ tăng trởng kinh tế cao, ở Nhật Bản đã nảy sinh hàng loạt vấn
đề đòi hỏi nhà nớc phải điều chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực: kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa…
Phạm vi của đề tài đợc xác định là những cải cách đợc tiến hành ở Nhật Bản từ cuối
những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này đã, đang và sẽ đợc tiến hành với
nội dung và hình thức rất phong phú và đa dạng, cha biết đợc thời gian kết thúc.
- Những yếu tố (bên trong và bên ngoài) thúc đẩy Nhật Bản cải cách. Đó là sự đổ vỡ của
kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân hàng tài chính lạc hậu, sự già hoá dân
số, bộ máy nhà nớc yếu kém, tình hình chính trị mất ổn định và tình hình quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp tác động mạnh tới kinh tế, xã hội Nhật Bản.
- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó bao gồm các chính
sách và giải pháp tình thế lẫn các chơng trình cải cách kinh tế một cách toàn diện. Đồng thời,
đánh gia một số thành công cũng nh hạn chế của cải cách kinh tế ở Nhật Bản và cuối cùng
vạch ra những vấn đề cần đợc tiếp tục cải cách.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho nhiều nớc đang
phát triền lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Để thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái
các nớc đang phát triển đã phải cải cách kinh tế theo hớng chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr-
ờng, mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lợc CNH, hớng về xuất khẩu. Và Nhật Bản cũng
không là ngoại lệ, từ đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn cha thoát hẳn ra
khỏi cơn suy thoái kéo dài, cho dù cũng đã có sự tăng trởng trở lại của nền kinh tế với chỉ số
dự đoán khoảng 2,4% năm 2003 (tạp chí “Times” số tháng 10/2003).
Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo dài là đặc trng cơ
bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập niên vừa qua. khởi đầu của sự phất triển
đó đợc đánh dấu bởi sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng Nhật Bản vào đầu thập niên 1990.
Tăng trởng kinh tế (GDP) của Nhật Bản trong những năm 1990 đã suy giảm liên tục với
động thái tăng trởng rất chậm chạp và thất thờng. Cụ thể nh sau:
- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trởng kinh tế: 0,5%; 0,6%; 2,8%; và 3,2%.
- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng. Khủng hoảng kinh
tế Nhật Bản đợc gắn liền với ảnh hởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông
á (1997 – 1998). Lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản
tăng trởng âm liên tục trong 2 năm liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm 1999: kinh tế
Nhật Bản phục hồi trở lại nhng tăng trởng còn mong manh: 0,7%.
- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trởng khả quan: 2,4%.
- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trởng: -0,4%.
- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.
Về đại thể, các chỉ số tăng trởng GDP hàng năm trên đây đã phản ánh khái quát nhất
về mặt định lợng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản kéo dài suốt thập niên 1990 đến
nay. Nếu so với cuộc khuủng hoảng kinh tế 1973 – 1975 của thế giới T Bản Chủ Nghĩa,
trong đó có Nhật Bản thì mức độ khủng hoảng lần này còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng
hoảng 1973 – 1975, năm 1973: tăng trởng GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm 1974 tuy có bị
giảm đột ngột đến mức – 1,2%, song đến năm 1975, lại khôi phục trở lại ngay với tăng trởng
3%, tiếp đó năm 1976 là 4%, từ đó bình quân hàng năm cho đến cuối thập niên 1980 đều đạt
tăng trởng khoảng 5%).
Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản qua động thái suy
giảm của tăng trởng GDP hàng năm.
Iii. cải cách trong lĩnh vực kinh tế của nhật bản
Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu thập kỷ 1990 đến
nay có thể đợc chia thành hai cum chính sách và biện pháp chủ yếu, đó là các chính sách và
biện pháp mang tính chất tình thế, và các chơng trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và
toàn diện.
1. Các chính sách và giải pháp tình thế
Trớc tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên bất ổn định, sự
yếu kém của hệ thống ngân hàng – tài chính, và các vấn đề kinh tế – xã hội khác, Chính phủ
Nhật Bản đã thực hiện khá nhiều chính sách và giải pháp tạm thời để khôi phục và lấy lại sức
sống cho nền kinh tế. Các chính sách và biện pháp loại này thực ra đã đợc áp dụng nhiều lần
trong các thập kỷ trớc đây khi nền kinh tế Nhật Bản có biểu hiện suy thoái theo chu kỳ. Nội
dung chủ yếu của nó là bơm thêm tiền vào nền kinh tế bằng các chơng trình kích thích kinh
tế trọn gói, tăng đầu t vào các công trình công cộng, giảm thuế, giảm tỷ lệ lãi suất chiết khấu
chính thức,… nhằm kích thích nhu cầu trong nớc.
- Các chơng trình kích thích kinh tế trọn gói: Đây là một giải pháp truyền thống mà
Chính phủ Nhật Bản thờng sử dung để khác phục khủng hoảng chu kỳ. Đó là việc dựa vào
ngân sách bổ sung hoặc các chơng trình kích thích kinh tế trọn gói nhằm kích cầu trong nớc
thông quq việc mỏ rộng các công trình công cộng. Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” sụp đổ,
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều biện pháp cả gói với tổng chi phí lên tới 107.000
tỷ Yên. Đây chính là những biện pháp can thiệp của Chính phủ mà theo lý thuyết của Kêyn
thì có thể tạo ra những đòn bẩy cho nền kinh tế.
- Cắt giảm thuế và xoá matt phần nợ cho các công ty kinh doanh bất động sản: Đây
cũng là một giải pháp quan trọng nhằm trợ giúp các công ty đang đứng trớc bờ vực thẳm của
sự phá sản sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng. Ví dụ, Nội các của thủ tớng Obuchi đã
thực hiện giảm thuế thu nhập 9.000 tỷ Yên (2%GDP). Mức thuế thu nhập cao nhất của cả
cấp quốc gia và cấp địa phơng đã đợc giảm từ 65% xuống còn 50%. Sự giảm thuế này đợc
hy vọng là sẽ thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và kích thích tinh thần làm việc chung. Việc giảm
thuế để khuyến khích xây dựng nhà ở cũng đã đợc tiến hành một cách rộng rãi. Hơn nữa,
Chính phủ Nhật Bản đã quyết định giảm tỷ lệ thuế kinh doanh kết hợp cả quốc gia và địa ph-
ơng từ mức 46,36% xuống 40,87% tơng đơng với 2,4 tỷ tỷ Yên (0,4% GDP). Thông qua các
cuộc cải cách và giảm thuế này, Chính phủ hy vọng giảm gánh nặng thuế xuống bằng mức
trung bình của các nớc đã công nghiệp hoá.
Cùng với quá trình này, việc lập quyết định về ngân sách quốc gia và cải cách thuế đã
đa vấn đề cơ cấu vào bàn nghị sự. Chính phủ đã tăng ngân sách về nghiên cứu cơ bản và phát
triển 8,1%, các thiết bị thông tin nh máy vi tính, máy photcoppy kỹ thuật số, và máy điện
thoạ kỹ thuật số sẽ đợc thanh lý ngay nếu chúng ít hơn 1 triệu Yên. Để khuyến khích sử dụng
các loại ô tô có hiệu quả và ít gây ô nhiễm môi trờng, thuế xe khách và các loại xe tải tơng tự
sẽ đợc giảm đi.
Nhằm khuyến khích việc quốc tế hoá đồng Yên, Chính phủ đã ban hành hệ thống bỏ
thầu mở đối với các trái phiếu ngắn hạn, đây là matt hình thức miễn thuế thu nhập đặc biệt
đối với các trái phiếu Chính phủ cho những ngời không phải c dân Nhật Bản. Chính phủ
cũng đã quyết định huỷ bỏ thuế giao dịch chứng khoán và ban hành một hệ thống thuế đã đ-
ợc củng cố trong năm 2001.
- Giảm lãi suất chiết khấu chính thức: Trớc tình trạng sản xuất đình trệ, nhu cầu đầu t
trong nớc giảm sút, Chính phủ Nhật Bản đã liên tục giảm lãi suất cho vay chính thức của
ngân hàng nhằm kích thích đầu t. Đây cũng là một trong những hớng cơ bản của chính sách
kích cầu trong nớc. Trong suốt những năm 1990, lãi suất chính thức đã luôn đợc giảm đi trớc
tình trạng kinh tế suy thoái. Ngân hàng trung ơng Nhật Bản đã duy trì một tỷ lệ lãi suất thấp
tới mức cha từng có trong lịch sử Nhật Bản (0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục và thậm chí
hiện nay đã xuống tới mức sấp sỉ con số không nhằm phuch hồi và lấy lại sinh khí cho nền
kinh tế.
2. Các chơng trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và toàn diện
Nguyên nhân sâu xa gây ra tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản là sự bất
cập hay những hạn chế của mô hình kinh tế Nhật Bản trớc bối cảnh mới của tình hình kinh tế
quốc tế, sự lạc hậu của hệ thống ngân hàng tài chính mang nặng tính bao cấp, sự cứng nhắc
cũng nh thiếu minh bạch của bộ máy hành chính trong việc quản lí và điều hành nền kinh
tế… Chính vì vậy, để khắc phục một cách triệt để tình trạng kinh tế suy thoái đòi hỏi phải
tiến hành những cải cách toàn diện hệ thống kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải vấn đề
này đã đợc nhận thức và thực hiện ngay từ đầu thập kỷ1990 sau khi những “bong bóng” kinh
tế bất đông sản sụp đổ đẩy nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng
và kéo dài. Mà phải đến 1996, sau khi hàng loạt các chơng trình kích thích kinh tế trọn gói,
nh đã đề cập đến ở trên, không đem lại hiệu quả, Chính phủ Nhật Bản dới sự lãnh đạo của
Thủ tớng Hashimoto mới ban hành một loạt các chơng trình cải các liên quan đến nhiều mặt
hoạt động của nền kinh tế xã hội Nhật Bản. Có 6 chơng trình cải cách lớn đã đợc đa ra, trong
đó có 3 chơng trình liên quan đến cải cách kinh tế. Đó là: Điều chỉnh chính sách kinh tế; Cải
cách cơ cấu kinh tế; và Cải cách hành chính. Sau đây là một số nội dung cơ bản nhất của các
chơng trình cải cách này.
Thứ nhất, để thực hiện cải cách cơ câu kinh tế, Chinh phủ Nhật Bản một mặt đã áp
dụng các giải pháp hỗ trợ đối với một số nghành công nghiệp đang bị sa sút nh luyện kim,
đóng tầu, hoá chất… nhằm ngăn chặn nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp đang hoạt động
trong các lĩnh vực này. Các giải pháp chủ yếu nh tài trợ qua ngân sách, kích thích đổi mới
trang thiết bị qua thực hiện khấu hao nhanh, áp dụng giải pháp miễn thuế và hỗ trợ thất
nghiệp… Mặt khác, Chính phủ đã thực thi các giải pháp để khuyến khích đầu t vào các
nghành công nghệ mới nh u đãi về thuế để khuyến khích các hoạt động đầu t nghiên cứu
triển khai (R&D), thực hiện trợ cấp cho các chơng trình và dự án quan trọng có qui mô lớn,
và các dự án trong các lĩnh vực mới có nhiều rủi ro. Chính phủ cũng thực hiện hỗ trợ cho
công tác nghiên cứu tại các trờng, các viện và kêu gọi vốn của khu vực t nhân tập trung vào
nghiên cứu cơ bản, sáng chế quy trình công nghệ mới.
Thứ hai, cùng với các biện pháp kích cầu của Chính phủ, các công ty Nhật Bản đã thực
hiện hàng loạt các giải pháp nh:
+ Cắt giảm chi phí sản xuất, trớc hết là chi phí lao động. Trong suốt những năm 1990,
các công ty Nhật Bản đã hết sức hạn chế việc tuyển thêm công nhân mới, giảm công nhân
hợp đồng, khuyến khích những ngời cao tuổi về hu sớm, và ép các xí nghiệp vừa và nhỏ làm
thầu khoán phải giảm tối đa các chi phí sản xuất phụ tùng. Kết quả là thất nghiệp gia tăng và
các công nhân thờng xuyên còn đợc tuyển mộ phải làm thêm giờ song tiền lơng lại không đ-
ợc tăng một cach tơng ứng. Chính vì thế trong suốt những năm 1990, những cơ hội tìm kiếm
công ăn việc làm tại các công sở nhà nớc lẫn khu vực t nhân cho những ngời dân ở Nhật Bản
ở độ tuổi lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang chuẩn bị tốt nghiệp ra trờng, đã
trở nên rất khó khăn. Đối với những ai lần đầu tiên đi tìm kiếm công ăn việc làm thì quả thật
là cơ hội rất mỏng manh. Bởi vì phần đông các công ty Nhật Bản trong những năm này luôn
ở trong tình trạng suy thoái, họ phải co nhỏ lại quy mô họat động kinh doanh để tránh tổn
thất và sa thải công nhân. Một số nhỏ các công nhân đợc thuyên chuyển tới các xí nghiệp vừa
và nhỏ với những công việc mang tính chất tạm thời.
+ Tiến hành thu hẹp và giảm đầu t vào nhiều khâu sản xuất cần nhiều lao động, không
còn cạnh tranh đợc với hàng nhập khẩu, đồng thời chuyển chúng sang các nớc Đông á. Đó là
các nghành sản xuất phụ tùng ô tô, lắp ráp đồ điện, điện tử, dệt… Hớng thích ứng này đã dẫn
tới nguy cơ của sự “trống rỗng” nền công nghiệp trong nớc mà các sách báo đã đề cập đến rất
nhiều. Theo các số liệu thống kê của 14 nghành công nghiệp, tỷ lệ đầu t ra nớc ngoài trong
những năm giữa thập kỷ 90 bình quân đều đạt trên 27%, vợt xa mức 1,8% vào năm 1986.
Trong đó công nghiệp chế tạo tăng mạnh nhất. Ví dụ, đằu t ra nớc ngoài trong ngành chế tạo
ô tô đã tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995 (Tạp chí “Kinh tế hệ” số tháng 7/1996).
Tỷ trọng sản xuất ở nớc ngoài (chỉ mối quan hệ giữatổng ngạch tiêu thụ của các xí nghiệp ở
nớc ngoài thuộc ngành chế tạo với tổng ngạch tiêu thụ của ngành chế tạo trong nớc) đã tăng
từ 3% năm 1985 lên 6,4% năm 1990 và 7,4% năm 1993, trong đó nghành sản xuất máy điện
tăng lên 12,6%, máy móc vận tải tăng lên 17,3% (Sách trắng đầu t, Hội Chấn hng mậu dịch
Nhật Bản năm 1995).
+ Tăng cờng nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành phẩm, và linh kiện, đặc
biệt là những sản phẩm đợc sản xuất từ những cơ sở chế tạo của Nhật Bản ở nớc ngoài và
nâng cao hơn nữa giá cả hàng xuất khẩu để bù lại những thiệt hại do s tăng giá của đồng Yên
gây ra. Ví dụ trong năm 1995, nhiều công ty xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng giá hàng xuất
khẩu từ 10 – 15%. Điều này đã khiến cho hàng nhập khẩu dễ có điều kiện thâm nhập hơn vào
thị trờng Nhật Bản trong khi đó hàng xuất khẩu từ Nhật Bản lại khó đợc chấp nhận hơn đối
với ngời tiêu dùng nớc ngoài. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Nhật Bản trong name
1995 chỉ tăng có 2,6%so với 5,1% vào năm 1994, trong khi đó, nhập khẩu tăng tới 9,2% so
với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng, cán cân mậu dịch thặng d
của Nhật Bản đã giảm đi đáng kể. Song điều đáng nói là trong khi thặng d mậu dịch với Mỹ
và EU giảm đi thì thặng d mậu dịch của Nhật Bản với Châu á vẫn tiếp tục tăng nhanh, chứng
tỏ Châu á ngày càng trở thành một thị trờng xuất khẩu quan trọng của Nhật Bản. Ví dụ, xuất
khẩu của Nhật Bản sang Châu á trong 6 tháng đầu năm 1995 đã lên tới 99,8 tỷ đôla, cao hơn
cả xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ và EU cộng lại (97,3 tỷ đôla). (Trịnh Ngọc - Kinh tế
Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ. Nghiên cứu Nhật Bản, số 1(5), 3/1996).
+ Tăng cờng liên doanh, liên kết với nớc ngoài trong việc nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm mới. Đồng thời tến hành đào tạo lại lao động, hợp nhất các cơ sở sản xuất không
có hiệu quả, hoặc bán lại cho các nhà đầu t nớc ngoài…
Thứ ba, trong lĩnh vực tài chính, “Bing Bang” đợc coi là một trong những cuộc cải
cách có vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một cuộc cải cách toàn diện, sâu sắc, và triệt để
với mục tiêu cơ bản là: làm cho thi trờng tài chính Nhật Bản năng động hơn, linh hoạt hơn, tự
do hơn, minh bạch, chuẩn mực hơn và có thể sánh vai với những trung tâm tài chính lớn nh
New York và Luân Đôn. Những nội dung chủ yếu của cuộc cải cách này là:
+ Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu t và những ngời đi vay.
+ Cải tiến chất lợng phục vụ của các trung gian tài chính và thúc đẩy sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng.
+ Phát triển một thị trờng đem lại nhiều lợi ích hơn.
+ Thiết lập những khung khổ pháp lý và những quy định đáng tin cậy cho sự giao dịch
bình đẳng, minh bạch.
Trên cơ sở những hớng cải cách cơ bản nói trên, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành và
thực hiện hàng loạt các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể đối với từng lĩnh vực của hệ
thống tài chính. Trong đó, đặc biệt là các chính sách cơ cấu lại Bộ Tài Chính, chính sách tăng
cờng vai trò của Ngân hàng trung ơng Nhật Bản, chính sách cơ cấu lại các ngân hàng thơng
mại, chính sách nới lỏng các quy chế tạo điều kiện cho sự phát triển của các thị trờng vốn
độc lập và sự thâm nhập vào các công việc kinh doanh lẫn nhau của các cơ quan tài chính
nhằm tăng cờng khả năng cạnh tranh của chúng, các chính sách về lãi suất tín dụng, tỷ giá
đồng Yên, và thị trờng chứng khoán, các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo
hiểm…(Hệ thống tài chính Nhật Bản: những đặc trng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay; chủ
biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003). Chi tiết quá trình thực hiện cải cách tài
chính “Bing Bang” của Nhật Bản đợc chỉ rõ trong bảng sau:
Tiến trình thực hiện “Big Bang” của Nhật Bản
Các khoản mục 1997 1998 1999 2000 2001
1. Mở rộng sự lựa chọn cho các
nhà đầu t và các tổ chức tăng
nguồn vốn
- Tự do hoá giao dịch vốn và
kinh doanh noại hối trong
nớc cũng nh ngoài nớc
- Thực hiện tài khoản chứng
khoán chung
- Tự do hoá hoàn toàn các loại
chứng khoán
- Giới thiệu việc bán uỷ thác
đầu t không cần qua quầy
của ngân hàng và các tổ
chức khác
- Tăng khả năng thanh toán của
ABS và các khoản nợ khác
- Mở rộng định nghĩa về chứng
khoán
- Cải cách chế độ lơng hu
2/97
4/98
10/98
12/98
12/98
9/98
12/98
2. Cải tiến chất lợng các loại
dịch vụ và đẩy mạnh cạnh
tranh
- Khai thác sử dụng các công
ty cổ phần
- Xoá bỏ những hạn chế trong
hoạt động kinh doanh ở các
chi nhánh của các tổ chức
tài chính
- Chuyển từ chế độ cấp giấy
phép sang chế độ dăng ký
đối với các công ty chứng
khoán
- Tự do hoá mức hoa Cho
phép các ngân hàng phát
hành thẳng trái phiếu và cổ
phiếu
3/98
12/98
10/99
10/99
10/99
3. Sử dụng thị trờng thân
thiện, nhiều hơn
- Cải tiến mua bán ngoại tệ và
xoá bỏ mức ấn dịnh cho
các loại chứng khoán có
trong danh sách
- Tăng cờng chức năng của thị
trờng đăng ký qua máy
- Xoá bỏ thuế giao dịch chứng
khoán và thuế ở thị trờng
hối đoái
- Xoá bỏ một phần thuế của
những ngời có JGBs
12/98
12/98
4/99
4/99
4. Cải tiến khung pháp lý cho
việc trao đổi bình đẳng và
minh bạch
- Thực hiện ngay các biện
pháp hành động đúng
- Tăng cờng chế độ công khai
tình hình kinh doanh của
12/98
4/99
các doanh nghiệp
- Cải cách các tiêu chuẩn về
kế toán: đánh gia kế toán
thị trờng bằng điểm
3/01
Chơng ii: một số thành công bớc đầu của cải cách kinh tế ở nhật
bản
Có thể thấy t sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông á Nhật Bản đã có
những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chơng trình cải cách nền kinh tế của mình. Trên thực tế
cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ những điểm hạn chế trong bản thân nền kinh tế Nhật
Bản, nhất là trong hệ thống Tài chính Ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn
diện. Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản không chỉ chú
trọng vào phơng diện tạo cầu, kích cầu mà còn chú ý cả khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm
tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sởphát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật cao.
Trên phơng diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chơng trình kích thích kinh tế
hàng năm nhằm mở rộng đầu t. Bên cạnh đó là những cố gắng tập trung giải quyết các khoản
nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu t
t nhân. Trong các chơng trình cải cách của Thủ tớng Nhật Bản trớc ông Koizumi lại chú
trọng kích thích đầu t t nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu t công cộng nhằm tiến tới cân bằng
ngân sách. Chẳng hạn theo dự toán ngân sách năm tài chính 2002, công trái đợc phát hành
không qua 30 nghìn tỷ Yên,giảm 10% ODA và giảm đầu t công cộng 10%. Để kích thích
mạnh hơn đầu t t nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ khó đòi thông qua một số
giải pháp mạnh có tính khả thi nh bán lại nợ, cho doanh nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng
tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng với đó thực hiện giảm thuế để kích thích ngời dân tăng chi tiêu
và đầu t phát triển kinh tế.
Trên phơng diện cung nhà nớc chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và thể chế kinh tế
nhằm tạo môi trờng thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động. Các chính sách Nhà nớc
tập trung chú trọng phát triển các nghành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tế mới – kinh
tế tri thức. Xúc tiến chơng trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu vực
trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đông – Bắc, ven biển Nhật Bản, ven Thái Bình Dơng và
trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so sánh của từng vùng trong hoạt động kinh
doanhhợp tac quốc tế. Nhật Bản cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc tế. Bên
cạnh gia tăng các hoạt động hợp tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng bớc mở cửa thị trờng
nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn dòng vốn nớc ngoài đổ vào
thị trờng Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cáchgần đây là chú trọng phát triển kinh tế theo h-
ớng gia tăng nội nhu, láy nội nhu làm động lực phát triển.
I. một số thành công bớc đầu của cải cách kinh tế Nhật Bản
Nhìn một cách tổng thể, cải cách kinh tế ở Nhật Bản đã thu đợc những kết quả tơng
đối khả quan. Các cuộc cải cách này đã và đang dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế Nhật Bản, làm cho khu vực tài chính Nhật Bản đã trở lên có sức cạnh tranh mạnh hơn và,
sự thâm nhập của nớc ngoài vào nền kinh tế Nhật Bản cũng trở nên ít khó khăn hơn. Các
cuộc cải cách này cũng đã dẫn tới sự cơ cấu lại các công ty và sự phát triển mạnh của các thị
trờng vốn độc lập. Hơn 10 năm trớc dây, ngời Nhật Bản không thể nghĩ rằng sự xuất hiện của
thị trờng vốn sẽ là một lực lợng quan trọng thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế Nhật Bản và
làm thay đổi phong cách quản lý truyền thống trong các công ty của Nhật Bản. Sự ra đời của
một ban giám đốc độc lập và quyền lợi của các cổ đông là những vấn đề đáng chu ý hiện nay
ở các công ty Nhật Bản. Chế độ làm việc suốt đời và trả lơng theo thâm niên cũng đã trở nên
không còn thích hợp nữa. Nếu nh trong những năm 1980, ngời ta không thể tuyển mộ sinh
viên giỏi từ một trờng đại học có tiếng ở Nhật Bản vào làm việc cho một công ty mà không
phải là lớn hoặc không phải Bộ tài chính; và ngời Nhật Bản cũng không thích thú vào làm
việc trong các công ty nớc ngoài, thì trong những năm gần đây, tình hình đã hoàn toàn khác.
Những sự thay đổi này, một phần chính là kết quả của những cuộc cải cách kinh tế trong
những năm 1990, đặc biệt là cuộc cải cách hệ thống tài chính trong những năm gần đây của
Nhật Bản.
1. Những tiến bộ trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành khá
nhiều giải pháp kích thích cả gói với quy mô lớn cùng với các luật cải cách tài chính và tỷ lệ
lãi suất thấp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Những giải pháp này đã góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân. Các nhà lãnh đạo kinh doanh của khu vực
t nhân đã phần nào lấy lại đợc lòng tin trong việc đa khu vực t nhân thành khu vực đi đầu
trong việc đem lại sự phục hồi kinh tế cho Nhật Bản. Dới tác động của các chính sách cải
cách, các tập đoàn công ty của Nhật Bản đã và đang tiến hành việc cơ cấu lại theo hớng phù
hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Có 4 tín hiệu chứng tỏ các tập đoàn công ty Nhật Bản
đang tự chuyển đổi theo hớng một cơ cấu có khả năng cạnh tranh mạnh hơn.
Thứ nhất là có sự thay đổi trong khâu quản lý theo hớng tăng cờng vai trò của những
ngời nắm cổ phần. Theo hớng này, các tập đoàn công ty Nhật Bản đợc đặt dới sự giám sát
chặt chẽ của các cổ đông, và do đó các hoạt động kinh doanh sẽ trở nên có hiệu quả hơn.
Thứ hai là việc thực hiện hệ thống tính toán thống nhất. Hệ thống này đã có tác dụng
quan trọng trong việc tăng cờng sự minh bạch cũng nh buộc các công ty phải tập trung vào
những khả năng cốt lõi của họ.
Thứ ba là các công ty đang xúc tiến việc nâng cao chất lợng lãnh đạo bằng cách đa vào
các giám đốc từ bên ngoài. Bằng cách này các nhà quản lý có thể nghe đợc nhiều ý kiến khác
nhau và không thiên vị về chiến lợc công ty của họ, cho phép họ thực hiện những thay đổi
làm tăng khả năng cạnh tranh hơn. Việc làm này cũng góp phần tăng cờng vai trò của lãnh
đạo vì nó tách chức năng kiểm tra khỏi chức năng hoạt động kinh doanh.
Thứ t, việc quản lý các nguồn nhân lực cũng đang có sự thay đổi. Nhiều công ty hiện
nay nhấn mạnh vào khả năng làm việc hơn là sự thâm niên và thuê mớn suốt đời. Ví dụ, theo
một nghiên cứu, chỉ có 6,3% ngời Nhật cho rằng hệ thống trả lơng theo thâm niên cần đợc
duy trì, trong khi đó 53,8% cho rằng tiền lơng cần đợc trả trên cơ sở công việc thực tế .
Bên cạnh những nhân tố kể trên, sự phát triển mạnh của đầu t nớc ngoài vào Nhật Bản
cũng là một động lực khác cho sự thay đổi cơ cấu các ngành. Đặc biệt là cuộc cải cách tài
chính Big Bang đã và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài
chính Nhật Bản trở nên có sức cạnh tranh mạnh hơn và sự thâm nhập của nớc ngoài vào khu
vực này cũng trở nên ít khó khăn hơn. Theo các số liệu thống kê, đầu t trực tiếp nớc ngoài
(FDI) vào Nhật Bản trong những năm gần đây đã tăng rất mạnh. Trong đó khoảng 34,1%
tổng vốn FDI là vào khu vực tài chính, và khoang 24% vào kỹ thuật thông tin và các ngành
thơng nghiệp bán lẻ. FDI, ngoài các khoản tiền đầu t, đã đa vào Nhật Bản các quan điểm của
các nhà đầu t và các kiểu quản lý công ty không chỉ mới mà còn có thể áp dụng đối với các
xí nghiệp Nhật Bản truyền thống. Nếu nh trớc đây ngời Nhật Bản đã không thích thú làm
việc trong các công ty nớc ngoài ở Nhật Bản thì trong những năm gần đây tình trạng này đã
đợc cải thiện rất nhiều. Ví dụ, nhiều ngời Nhật Bản đã hoan nghênh sự sát nhập của Nissan
và Renault nhằm cứu vãn sự sống còn của Nissan, trong khi thừa nhận rằng sự sống còn
không thể có đợc nếu không chấp nhận sự cơ cấu lại tập đoàn một cách đau đớn nh sa thải
công nhân,…
Tất cả những nhân tố kể trên đã góp phần tạo ra một sự chuyển dịch đáng kể trong nội
bộ các ngành kinh tế của Nhật Bản. Nhiều ngành công nghiệp mới đã ra đời và phát triển nh:
Thông tin liên lạc, viễn thông, điện tử và điện dân dụng…, nhiều ngành công nghiệp truyền
thống đã đợc điều chỉnh theo hớn thu hẹp sản xuất, hoặc liên doanh liên kết, hoặc tăng cờng
năng lực sản xuất nhằ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nh: ôtô, sắt thép, xây
dựng…(Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hoá, Chủ biên Vũ Văn
Hà, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002).
Có thể nói rằng, kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay Nhật Bản đã và đang ở trong một quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sâu sắc. Nền kinh tế Nhật Bản đang chuyển dịch theo hớng
giảm sự can thiệp của Chính phủ và tăng cờng sự cạnh tranh của một nền kinh tế mở theo cơ
chế thị trờng, và theo hớng một nền kinh tế mà sự tiến bộ của ký thuật thông tin đang đợc lan
rộng một cách nhanh chóng đem lại những khả năng cạnh tranh mới cho các công ty trên thị
trờng. Trớc và ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp và dệt là những ngành đặc
trng của cơ cấu kinh tế Nhật Bản kiểu cũ. Trong những thập kỷ gần đây, cơ cấu kinh tế Nhật
Bản lại đợc đặc trng bởi các công ty to lớn đã đợc thiết lập một cách vững chắc trong nhiều
ngành công nghiệp nặng (nh luyện kim, chế tạo máy, và hoá chất), hệ thống ngân hàng, và
các công ty thơng mại tổng hợp lớn,… Và trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế này lại
đang đợc chuyển đổi theo hớng cải tổ cơ cấu và đầu t vào kỹ thuật thông tin để có thể hoạt
động có hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã và đang đợc cải tổ và nâng cấp, có rất nhiều
ngành nghề mới đang đợc hình thành trong nền kinh tế Nhật Bản. Ngời ta gọi đó là “Kinh tế
Nhật Bản kiểu mới”. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành chính là nhân tố quan trọngnhất tạo ra g-
ơng mặt mới của nền kinh tế Nhật Bản.
2. Những thành tựu trong lĩnh vực cải cách tài chính.
Theo đánh giá chung, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản đã thu đợc những kết
quả bớc đầu nh: Vai trò và chức năng của hai cơ quan chủ yếu trong hệ thống tài chính là Bộ
Tài chính (MOF) và Ngân hàng Trung ơng Nhật Bản (BOJ) đã có sự thay đổi về cơ bản với
việc tăng cờng tính độc lập và quyền tự quyết của BOJ trong việc quản lý và thực hiện chính
sách tiền tệ; Luật Ngân hàng mới đã có hiệu lực và đi vào hoạt động kể từ năm 1997; nhiều
ngân hàng đã tiến hành việc bán những uỷ thác đầu t; các cơ quan tài chính đã có quyền chủ
động hơn trong việc giải quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty kinh doanh
chứng khoán đã đợc thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các ngân hàng nhằm làm
tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đã đợc đẩy mạnh. Sự thâm nhập của các ngân
hàng thơng mại và ngân hàng uỷ thác vào kinh doanh bảo hiểm thông qua các chi nhánh
cũng đã đợc thực hiện…
Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản bớc
đầu đã thu đợc những kết quả đáng khích lệ. Cuộc cải cách này đã và đang dẫn tới những
thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật Bản đã trở nên có sức cạnh tranh
hơn, sự thâm nhập của nớc ngoài vào khu vực này cũng trở nênít khó khăn hơn, các thị trờng
vốn độc lập cũng đã đợc phát triển thêm một bớc. Các cơ quan tài chính Nhật Bản đã hoàn
toàn đợc tự do trong các hoạt động của mình và các phơng tiện quản lý tài sản đã đợc cải
thiện một cách có ý nghĩa, sự thâm nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh của các ngân
hàng, các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hớng hợp nhất các loại cơ
quan này đã đợc đẩy mạnh, các thị trờng vốn đã đợc phát triển thêm một bớc, đặc biệt là
mạng lới thị trờng thông qua hệ thông trao đổi thơng mại điện tử và qua Internet; Sự liên
doanh, liên kết với nớc ngoài và sự thâm nhập của các công ty ài chính nớc ngoài vào Nhật
Bản đã đợc đẩy mạnh dới các hình thức nh: FDI, mua cổ phần, tham gia trực tiếp vào công
việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trờng chứng khoán ở Nhật Bản; Và chất l-
ợng quản lý tín dụng của các cơ quan trong hệ thống tài chính Nhật Bản đã đợc cải thiện rất
đáng kể (Hệ thống tài chính Nhật Bản: Những đăc trng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay;
chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
II. những chính sách và biện pháp cải cách trong từng lĩnh vực của hệ thống tài chính
Mặc dù đã từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản,
đặc biệt là trong thời kỳ tăng trởng ngoạn mục (1955 – 1973), hệ thống tài chính Nhật Bản
mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò trung tâm, kể từ cuối thập kỷ 80 đến nay đã bộc lộ
rất nhiều những yếu kém và bất cập, ảnh hởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của đất nớc.
Trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua, Chính phủ Nhật Bản đã phải thực hiện khá nhiều chính
sách và biện pháp nhằm cơ cấu lại hệ thống tài chính thích ứng với những đòi hỏi của tình
hình kinh tế trong nớc và bối cảnh quốc tế mới. Tuy nhiên, những giải pháp tình thế đợc thực
hiện trong những năm đầu thập kỷ 90 đã chứng tỏ rằng đó không phải là những phơng thuốc
hữu hiệu đẻ chữa trị căn bệnh “khủng hoảng cơ cấu” kinh tế nói chung và hệ thống tài chính
của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chơng trình “Big Bang” do Thủ tớng Hashimoto khởi sớng
và đợc thực hiện kể từ tháng 11/1996, hệ thống tà chính Nhật Bản mới thực sự bớc vào một
cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào ngân hàng nên
trớc hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải cách ngân hàng trung ơng
(NHTW) và ngân hàng thơng mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đã đợc ca ngợi có vai trò
sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản trớc những năm 1990. Rất nhiều ngân hàng
Nhật Bản thời kỳ đó là những ngân hàng lớn nhất trên thế giới: 9 trong số 10 ngân hàng hàng
đầu thế giới xét về quy mô tài sản là những ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng này có
những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí thấp và những đánh giá tín dụng cao nhất. Chính vì thế,
Nhật Bản đã thay đổi hẳn trong những năm 1990 với những món nợ khó đòi khổng lồ của
các ngân hàng, kinh tế triền miên trong vòng suy thoái, giảm phát liên tục trong những năm
gần đây. Vậy làm thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài chính để ngân hàng có thể
làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn
cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới trong qua trình hội nhập quốc tế và
toàn cầu hoá. Chơng trình cải cách “Big Bang” đã đa ra những chính sách và biện pháp tơng
đối toàn diện để đổi mới nguyên tắc hoạt động cũng nh cơ cấu tổ chức hệ thống ngân hàng
Nhật Bản.
a. Đối với NHTW
Nh chúng ta đã biết, ngân hàng trung ơng là một định chế quản lý nhà nớc về tiền tệ –
tín dụng. Nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Song, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể
của mỗi nớc, HNTW có thể độc lập hay trực thuộc Chính phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và Đức, thực
hiện thể chế NHTW độc lập với Chính phủ. Trong thể chế này, Chính phủ không đợc can
thiệp vào hoạt động của NHTW. Nhng ở Nhật, Anh, Pháp và một số nớc khác thực hiện thể
chế NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có ảnh hởng quyết định đối với hoạt động của
NHTW.
Khác với tính chất quản lý nhà nớc của các bộ, NHTW thực hiện việc quản lý nhà nớc
qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận. Song, việc kinh doanh này chỉ là phơng
tiện nâng cao hiệu suất của công tác quản lý, chứ không phải là mục đích của hoạt động
chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hoà lu thông
tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm lu thông tiền tệ ổn định, từ đó tạo diều
kiện tăng trởng kinh tế, tăng việc làm và kiềm chế lạm phát. Với 3 chức năng cơ bản là: phát
hành tiền tệ, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của nhà nớc, NHTW đóng vai trò
quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế – xã hội nh điều tiết khối lợng tiền trong l-
u thông, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ơng Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo sáng kiến của Bộ tr-
ởng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần trong chơng trình hiện đại hoá tài chính
Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục tiêu là để cải cách hệ thống tiền tệ, thiết lập một đồng tiền
chung trong cả nớc, tạo cơ sở cho tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng
nói chung. Gần 60 năm sau Pháp lệnh BOJ đợc thay thế bằng một luật NHTW mới đợc thực
hiện trong thời kỳ Chính phủ do giới quân sự lắm quyền vào năm 1942. Sự sửa đổi lần đó có
thêm vào quyền hạn của NHTW trong chính sách tiền tệ, nhng vẫn coi HNTW là một bộ
phận của Bộ Tài Chính. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, BOJ hầu nh không có sự thay đổi.
Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW – một lần vào cuối những năm 1950 và một lần
nữa vào năm 1965 đều không đem lại kết quả. Vì lúc đó kinh tế đang tăng trởng với tốc độ
cao nên các chính trị gia cũng nh công chúng thấy không quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật
NHTW. Điều này mới chỉ đợc thực sự nghĩ tới khi nền kinh tế đã nh một quả bóng căng
phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng nổ thì những tiếng kêu cứu từ những tổ
chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ phải có một vài hành động để thay đổi
chính sách tiền tệ và hệ thống tài chính. Một uỷ ban t vấn riêng của Thủ tớng Hashimoto và
báo cáo đầu tiên đợc công bốvào tháng 11 năm 1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt đầu đ-
ợc Uỷ ban Nghiên cứu hệ thống tài chính và Ban Cố vấn trong Bộ Tài chính tiến hành.
Tháng 2 năm 1997 dự thảo luật đợc nội các chấp thuận và đợc 2 viện của Quốc hội thông qua
vài tháng sau đó. Với tiêu đề “Tiến tới sự độc lập của BOJ” báo cáo của Uỷ ban T vấn đã
tổng hợp ý kiến của các quan chức trong BOJ và Bộ Tài chính.
Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW đợc độc lập trong chính sách tiền tệ và
cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW. Điều 1 của Luật đa ra 2 mục tiêu của
NHTW là quản lý tiền, ổn định giá cả, và đảm bảo cung cấp vốn cho các ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác, duy trì trật tự của hệ thống tài chính. Quy định này cho thấy NHTW là
trung tâm của hệ thống thanh toán cũng nh là tổ chức để duy trì “trật tự tài chính”. Điều 3
của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng quyền tự quyết của NHTW bằng sự độc lập trong quá trình ra
quyết định và công bố nội dung các quyết định. Luật cũng quy định chức năng và việc bổ
nhiệm các chức vụ của NHTW. Ban trị sự của BOJ sẽ gồm: 1 thống đốc, 2 phó thống đốc, 6
thành viên đợc lựa chọn nằm trong Ban chính sách, 3 kiểm toán viên,6 giám đốc điều hành,
và một số cố vấn. Thống đốc, 2 phó thống đốc, 6 thành viên đợc lựa chọn nằm trong Ban
Chính sách, ban này do Nội các chỉ định với sự đồng ý của 2 viện trong Quốc hội sẽ đợc ra
những quyết định quan trọng về chính sách tiền tệ và về hệ thống ngân hàng. Những kiểm
toán viên cũng do Nội các bổ nhiệm, nhng các giám đốc điều hành và các cố vấn thì do Bộ
trởng Tài chính bổ nhiệm theo sự giới thiệu của Ban Chính sách. Luật ghi rõ 6 thành viên đ-
ợc lựa chọn phải là chuyên gia kinh tế hoặc tài chính, hoặc những ngời có kiến thức uyên
thâm về kinh tế – xã hội để tăng cờng tính minh bạch và có thể hạn chế sự can thiệp của Bộ
Tài chính. Nh vậy luật mới đã lành mạnh hoá chức năng của Ban Chính sách tiền tệ, trong
tổng số 9 ngời của ban thì 4 thành viên mới đợc bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1998 đều độc lập
với Chính phủ. Trong Ban Chính sách tiền tệ, không một thành viên nào có quyền áp đặt
quan điểm của riêng mình, mọi ngời đều có thể thẳng thắn nêu ý kiến. Bắt đầu từ tháng 1
năm 1998, BOJ đã thực hiện các cuộc họp định kỳ 1 hoặc 2 lần trong một tháng về chính
sách tiền tệ, và sau 5 hoặc 6 tuần sẽ công bố công khai nội dung các cuộc họp. Đây có thể coi
là một đột phá để đa Nhật Bản tiến đến các tiêu chuẩn quốc tế về tính minh bạch trong hoạt
động ngân hàng. Ngoài ra, trong việc quản lý nhân sự BOJ đã bãi bỏ quy chế thăng chức tự
động hàng năm, tăng cờng hiệu quả nguồn nhân lực, áp dụng một cách then trọng hệ thống
thăng chức dựa vào sự đóng góp của các cá nhân cho hoạt động của ngân hàng.
Nh vậy vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức của BOJ đã có những thay đổi đáng kể theo
hớng độc lập, tự quyết chứ không phải là tổ chức chỉ biết thực thi những mệnh lệnh của Bộ
Tài chính nh trớc kia. Tuy nhiên, những thay đổi này vẫn cha thể theo kịp các đồng sự phơng
Tây của họ. Có những phê phán cho rằng BOJ tuy đã đợc độc lập trong thực thi chính sách
tiền tệnhng lại bị hạn chế trong việc quản lý tiền tệ. Khi nói về quan hệ với Chính phủ, Điều
4 của Luật mới lại ghi “tiền mặt và quản lý tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế
tổng thể, BOJ cần phải giữ quan hệ mật thiết với Chính phủ và trao đổi ý kiến đầy đủ, nh vậy
thì chính sách tiền tệ mới có sự hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ”. Điều này có
nghĩa là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không giống với đồng sự của họ ở Đức
hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2 nớc này không đựoc phép nhận xét công khai về
chính sách tài chính ngay cả khi nó không phù hợp với sự lựa chọn trong chính sách tiền tệ.
Điều 37 và 38 khi nói về trờng hợp cho vay khẩn cấp thì lại thiếu sự phân biệt giữa việc bảo
vệ hệ thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của Chính phủ trong việcgiúp đỡ cho vay
đối với các tổ chức. Với vai trò ngời cho vay cuối cùng, về nguyên tắc BOJ chỉ cho những
ngân hàng có khả năng trả nợ đợc vay nhng điều 37 của Luật lại ghi “khi các tổ chức tài
chính thiếu vốn tạm thời ngoài dự đoán do những tai nạn ngẫu nhiên mà không thanh toán đ-
ợc” thì BOJ có thể cho vay. Ngoài ra điều 38 còn nói Bộ Tài chính có thể yêu cầu BOJ cho
vay trong những trờng hợp khác nh “khi thấy cần thiết phải duy trì hệ thống theo trật tự nếu
thấy tình trạng kinh doanh và tài sản của một số tổ chức tài chính có thể có vấn đề dẫn đến
phá vỡ trật tự tài chính”. Điều đó không nói rõ là BOJ có thể từ chối những yêu cầu hoặc đa
ra điều kiện gì không.
Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW luôn gặp phải những vấn đề khó
sử trớc đây. Chính phủ các nớc đều đã có lúc gây áp lực với NHTW trong việc thay đổi
chính sách lãi suất để có những khoản vay với lãi suất thấp hơn cho những hoạt động của
Chính phủ. Điều 34 nói BOJ có thể cho vay không cần thế chấp đối với Chính phủ, hoặc mua
trái phiếu hoặc ghi nợ trong giới hạn của Luật Ngân sách mà Quốc hội dặt ra.
Nh vậy, việc áp dụng luật NHTW sửa đổi cho phép tạo lập môi trờng pháp lý phù hợp
với tiêu chwnr quốc tế về quyền tự chủ, tính minh bạch và các nhân tố quan trọng khác của
NHTW. Đây là những điều kiện cần thiết để chiếm đợc lòng tin của thi trờng. Với Luật sửa
đổi này phạm vi can thiệp của Chính phủ với BOJ đã bị thu hẹp, tuy nhiên BOJ cũng phải
luôn duy trì mối quan hệ gần gũi và trao đổi quan diểm với Chính phủ một cách đầy đủ để
đảm bảo chính sách của BOJ hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ. Luật ngân hàng
mới nhấn mạnh khái niệm “minh bạch” với quy định rằng BOJ sẽ thông báo ra công chúng
nội dung các quyết định cũng nh quá trình ra quyết địnhcó liên quan tới vấn đề quản lý tiền
và ngoại hối. Có thể thấy cuộc cải cách đối với BOJ tơng đối toàn diện vì không chỉ về cơ
cấu luật pháp bên ngoài mà còn về cấu trúc và động lc bên trong của nó, tạo điều kiện để
BOJ trở thành một ngân hàng hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đã đợc chứng minh
trong thời gian 4 năm qua khi BOJ luôn kiên định duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ của
mình với việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt, can thiệp kịp thời vào thị trờng ngoại hối. Chẳng
hạn, trong thời gian qua khi đồng Yên lên giá quá mức, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu
của Nhật Bản. Chỉ tính từ cuối tháng 5/ 2002 đến đầu tháng 7/2002, BOJ đã 7 lần tung đồng
Yên ra để mua Đôla Mỹ và trong lần can thiệp thứ 6, BOJ đã yêu cầu Cục dự trữ Liên bang
Mỹ và NHTW châu âu giúp cho việc bán đồng Yên. Đây là lần đầu tiên BOJ có sự phối hợp
với NHTW của các nớc khác.
b. Đối với các NHTM
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng và có thể hiểu đó
là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có nhiều loại hình NHTM nh NHTM công,
NHTM t, NHTM trong nớc, NHTM nớc ngoài, NHTM toàn quốc, NHTM địa phơng, NHTM
duy nhất hoặc NHTM mạng lới, dựa trên tiêu thức doanh số ngời ta phân biệt NHTM nhỏ,
NHTM lớn hoặc siêu lớn.
NHTM có 3 chức năng: trớc hết, NHTM hoạt động với t cách là một trung gian tín
dụng. Một mặt, thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội bao gồm tiền của các doanh
nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nớc. Mặt khác, nó ding chính số tiền đã
huy động đợc để cho vay đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi có nhu cầu bổ sung
vốn. Thứ hai, NHTM là một trung gian thanh toán vì phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá,
dịch vụ của xã hội đều đợc thực hiện qua ngân hàng. Chức năng thứ 3 của NHTM là nguồn
bổ sung tiền. NHTM có thể bổ sung tiền bằng cách chuyển khoản hay các giấy tờ có giá trị
để thay thế cho tiền mặt. Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc NHTW, NHTM góp
phần thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phơng tiện giao dịchcủa toàn xã hội. Quá trình bổ sung
tiền của NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Song, số tiền đó đợc nhân lên gấp bội khi
ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Khả năng
làm tăng tiền của NHTM phụ thuộc vào các yếu tố nh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dôi d
và tỷ lệ giữa tiền lu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi của xã hội ở hệ thống ngân
hàng. Việc quản lý hoạt động của NHTM cần đảm bảo khả năng thanh toán thờng xuyên đối
với khách hàng, bảo đảm mức sinh lời cao, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm
khả năng thanh toán và mức sinh lời cao. Muốn vậy, NHTM phải sắp xếp tài sản Có theo trật
tự lỏng của chúng để bố trí cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn,
đầu t chứng khoán trung và dài hạn trong mối tơng quan với các nguồn vốn tơng ứng bên tài
sản Nợ.
Cho đến trớc những năm1990, hệ thống ngân hàng Nhật Bản nói chung và các NHTM
Nhật Bản nói riêng luôn hoạt động dới chế độ bảo hộ của Chính phủ. Chính phủ đảm bảo lợi
nhuận ổn định cho các ngân hàng dù ở mức thấp nhất. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng để
có đợc nhiều tiền gửi cho đến những năm 1980 đợc xem là hết sức hợp lý vì có nhiều đơn xin
vay vốn đầy hứa hẹn và một sự đảm bảo lợi nhuận nhất định bằng tiền những quy dịnh về lãi
suất của Nhà nớc.Tuy nhiên sự ổn định lãi suất ngân hàng và quản lý ngân hàng dần dần suy
giảm do những thay đổi của môi trờng kinh tế trong nớc cũng nh trên thế giới nh: tự do hoá
lãi suất, cạnh tranh lớn hơn trong thị trờng vốn, đơn xin vay có nhiều hứa hẹn giảm do nền
kinh tế đã phát triển tơng đối hoàn chỉnh. Sự bảo hộ của Nhà nớc cộng thêm với sự thay đổi
trong môi trờng tài chính toàn cầu đã làm cho phơng thức quản lý của các NHTM Nhật Bản
trở nên lạc hậu, kém hiệu quả. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng thì hệ thống ngân
hàng Nhật Bản thực sự rơi vào khủng hoảng vì sự quản lý lỏng lẻo của ngân hàng trong việc
cho vay tràn lan, không giám sát, không thẩm định chặt chẽ tài sản và tình hình kinh doanh
của các công ty dẫn đén sự bùng nổ của các khoản nợ khó đòi. Tháng 3 năm 1997, BOJ cũng
nh Bộ Tài chính mới coi vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng là vấn đề cấp thiết. Để vực dậy
hệ thống ngân hàng, cuộc đại cải cách tài chính “Big Bang” đã đa ra những giải pháp dài hạn
cơ cấu lại các NHTM. So với các nớc phát triển khác, các NHTM của Nhật Bản hiện tại khả
năng sinh lời thấp, chất lợng tín dụng cha cao, trình độ công nghệ và mô hình tổ chức quản lý
còn cha tốt. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập thì cần phải có kế hoạch tổng
thể cơ cấu lại NHTM, cụ thể là:
Lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các NHTM. Trớc hết,
phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết tài sản, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá
hạn xuống dới 5% tổng d nợ theo tiêu chuẩn quốc tế thông qua việc thành lập Ban Cơ cấu tài
chính các NHTM và công ty mua bán, giải quyết nợ. Tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhằm
đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ vốn tự có theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM, tăng cờng sự kiểm tra, kiểm soát để tăng chất
lợng tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đảm bảo quyền tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết
định. Quản lý tín dụng theo hớng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thị trờng, giảm dần sự
bảo hộ của nhà nớc, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các thiết chế quản lý
rủi ro, giảm thiểu rủi ro và tăng năng lực tài chính. Đánh giá đúng thực trạngtài chính của các
NHTM đồng thời xây dựng chiến lợc đào tạo và sử dụng nhân viên theo hớng đáp ứng đợc
yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Nh vậy mới có thể làm cho các
NHTM của Nhật Bản đạt trình độ của các đối tác phơng Tây.
Ngoài ra, trong chơng trình “Big Bang” còn đa ra một loạt các cải cách nh mở rộng sự
lựa chọn cho các nhà đầu t và những ngời đi vay. Trong đó có các biện pháp nh xoá bỏ hoàn
toàn lệnh cấm đối với những dẫn xuất chứng khoán, giới thiệu tài khoản quản lý tài sản, cho
phép các ngân hàng bán các tín thác đầu t và bảo hiểm, tăng khả năng thanh toán tiền mặt của
tài sản bằng việc sử dụng chứng khoán dựa vào tài sản, tự do hoá giao dịch vốn xuyên quốc
gia và tiền gửi từ nớc ngoài về. Luật Sửa đổi về ngoại hối đã đợc Quốc hội thông qua và có
hiệu lực từ 1/4/1998.
Với mục đích cứu trợ cho những ngân hàng yếu kém, cung với kế hoạch rót 13 nghìn
tỷ Yên, Chính phủ còn đề nghị khoản tiền trị giá 50 nghìn tỷ Yên trái phiếu bảo đảm của
Chính phủ vào tháng 2/1998, trong đó 17 nghìn tỷ Yên sẽ chuyển cho công ty bảo hiểm tiền
gửi Nhật Bản để thanh toán cho những ngời gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng
thanh toán cho những ngời gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng thanh toán. Cuối
tháng 6/1998, Nhật Bản đa ra sáng kiến thành lập ngân hàng cầu nối để giải quyết các vụ phá
sản tài chính. Ngân hàng này sẽ kế thừa và quản lý hoạt động của các tổ chức tiền tệ phá sản,
đảm bảo quyền lợi cho ngời gửi, thanh toán nợ lần, thực hiện các dự án đầu t và cho vay đối
với những khách hàng có khả năng thanh toán cao. Ngân hàng này sẽ duy trì hoạt động của
tổ chức tiền tệ đó trong 2 năm kể từ khi phá sản. Sau 2 năm nó có thể chuyển thành ngân
hàng quốc doanh mới. Chính phủ dự kiến dành 30 nghìn tỷ Yên từ ngân sách cho ngân hàng
này làm vốn hoạt động, trong đó 17 nghìn tỷ Yên để bảo vệ ngời gửi và 13 nghìn tỷ Yên để
cho vay và đầu t. Ngoài ra, Chính phủ còn lập ra một quỹ trị giá 22 nghìn tỷ Yên và một cơ
quan kiểm soát tài chính nhằm tăng cờng thanh tra, kiểm tra nợ khó đòi trong hệ thống ngân
hàng Nhật Bản.
Cuối tháng 9/1998 Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống ngân hàng Nhật
Bản và thành lập một uỷ ban khôi phục tài chính. Các ngân hàng thua lỗ quá nhiều thì cuộc
phá sản theo Luật phá sản. Chính phủ sẽ mua lại cổ phiếu của những ngân hàng bị phá sản
hoặc chuyển thành những ngân hàng cầu nối cho đến khi khu vực t nhân mua lại, cho phép
ngân hàng mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hoá. Ngày
12/10/1998, 8 luật liên quan đến các ngân hàng bị phá sản đã đợc phê chuẩn, theo đó, Chính
phủ có thể bơm tiền vào một số ngân hàng với một số điều kiện nhất định nếu nh tỷ lệ vốn
trên tài sản có cao hơn 4%, Chính phủ sẽ mua cổ phiếu u đãi, nếu nằm trong khoảng 2 đến
4% thì Chính phủ có thể mua cổ phiếu thờng hay cổ phiếu u đãi nhng các giám đốc của ngân
hàng phải từ chức, số chi nhánh sẽ phải giảm và các cơ sở của nó ở nớc ngoài sẽ phải đóng
cửa, nếu thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm thời bị quốc hữu hoá, sau đó, phải ngừng hoạt
động, sáp nhập với các ngân hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động của mình. Tất
cả những ngân hàng muốn bơm tiền từ nguồn công quỹ đều phải cải thiện mức thu nhập trên
cổ phần đóng góp thông qua các biện pháp tái cơ cấu, loại bỏ những tài sản không cần thiết
và tăng cờng các tài khoản cho vay đối với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đảm bảo tính
hiệu quả của các chính sách và các ngân hàng không lặp lại tình trạng cho vay tràn lan nh tr-
ớc kia, Chính phủ buộc các ngân hàng phải giải trình cụ thể các kế hoạch cải cách tài chính
và cải thiện cách thức cho vay. Quá trình công khai hoá thông tin và cơ cấu lại các khoản nợ
chắc chắn sẽ khiến các ngân hàng và các công ty tài chính bị thiệt hại nặng nề nhất. Bởi vì
việc công nhận thiệt hại ở các khoản nợ khó đòi và tính lỗ vào doanh thu sẽ không đủ riêu
chuẩn cung cấp những khoản tín dụng mới. Sự trục trặc của các ngân hàng sẽ làm tăng những
khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hoạt động tài
chính của hầu hết các doanh nghiệp là dựa vào các ngân hàng. Do số lợng các doanh nghiệp
này chiếm tới 6,47 triệu trong tổng số 6,53 triệu doanh nghiệp, chiếm 51,4% thị phần sản
xuất công nghiệp, 61,4% bán sỉ và 76,8% bán lẻ, sử dụng tới 80% lực lợng lao động nên
Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi luật doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm giúp giảm thiểu tác động
trái chiều của những cải cách ngân hàng nêu trên (Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh
Huyền, Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho
Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội).
Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng có kế hoạch sáp nhập thành các tập
đoàn ngân hàng lớn hoặc thành lập liên minh để chuẩn bị cho việc tự do hoá hoàn toàn hoạt
động môi giới. Chẳng hạn, ngân hàng Sumitomo Trust và công ty Sumitomo, Dai-Ichi
Kangyo và Fuji đã sáp nhập các công ty cổntng lĩnh vực ngân hàng và có kế hoạch mua công
ty quản lý tài sản của Yasuda Trust. Công ty Sumitomo cũng đã cùng với công ty chứng
khoán Daiwa thành lập một công ty chuyên kinh doanh công trái, cổ phiếu, môi giới sáp
nhập và mua lại cổ phiếu. Ngân hàng lớn nhất Nhật Bản là Tokyo-Mitsubishi cũng đàm phán
để mua lại công ty Nomura- một trong 3 công ty môi giới chính của Nhật Bản. Ba ngân hàng
hàng đầu của Nhật Bản là ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, Dai- Ichi Kangyo Bank Ltd, và
Fuji Bank Ltd. vào đầu năm 2000 đã liên minh với nhau để tạo ra nhóm ngân hàng lớn nhất
thế giới với tổng tài sản là 140 nghìn tỷ Yên (1.260 tỷ USD), trong đó giá trị tài sản của Fuji
Bank là 385 tỷ USD và của ngân hàng công nghiệp Nhật Bản là 370 tỷ USD, Dai- Ichi
Kangyo Bank là 456 tỷ USD. Trớc đó ngày 14/10/1999, hai NHTM lớn nhất Nhật Bản là
Sumitomo Bank và Skura Bank đã chính thức công bố sẽ sáp nhập với nhau để thành lập một
ngân hàng khổng lồ, lớn thứ 2 thế giới với tổng tài sản là 99 nghìn tỷ Yên (927 tỷ USD) vào
tháng 4/2002. Đây là một hớng đi mới để tăng thêm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng
Nhật Bản trong xu thế toàn cầu hoá và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin.
Tuy nhiên các NHTM của Nhật Bản vẫn trong tình trạng làm ăn không có lãi. Trong
hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng trong cả nớc đã sử lý hơn 70 nghìn tỷ nợ khó đòi nhng
vẫn còn nhiều khoản nợ xấu. Vì vậy, giờ đây để để kiếm lãi ổn định và ít mạo hiểm hơn các
ngân hàng chỉ muốn cho các công ty lớn vay. Trong thời đại ngày nay điểm đến của các
khoản nợ mới là các công ty vừa và nhỏ bởi vì các công ty lớn có thể thu hút vốn trực tiếp từ
thị trờng tài chính toàn cầu nên họ không cần dựa nhiều vào ngân hàng Nhật Bản.
Nh vậy, mục cải cách các NHTM của Nhật Bản là Nhằm giảm bớt sự bảo hộ của Nhà
nớc, nâng mức lợi nhuận của ngân hàng bằng những hoạt động kinh doanh đa dạng hơn và
tiến tới có một hệ thống NHTM có khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh chungcủa toàn
cầu hoá tài chính.
2. Các chính sách cải cách Bộ Tài chính
Đối với Nhật Bản, Bộ Tài chính là nơi thể hiện rõ nhất những đặc điểm và sắc thái của
Nhà nớc tham gia vào đời sống kinh tế của đất nớc. Sức mạnh của Bộ Tài chính lớn đến mức
chính sách của Bộ Tài chính là chính sách của Chính phủ. Thẩm quyền của Bộ Tài chính rất
rộng lớn nh: lập dự toán và quyết toán ngân sách, thu thuế các loại, theo dõi hoạt động của
các tổ chức tài chính, quản lý tài sản nhà nớc, kể cả đề xuất và thực hiện t nhân hoá… Có thể
nói không ở nớc nào Bộ Tài chính có sự tập trung quyền lực lớn nh ở Nhật Bản. Từ trớc đến
nay hệ thống tài chính của Nhật Bản vẫn dựa vào ngân hàng là chính, vì thế các ngân hàng,
kể cả BOJ đợc coi nh một bộ phận của Bộ Tài chính, hoạt động theo các quy tắc do Bộ Tài
chính áp đặt.
Do đó, trong chơng trình “Big Bang”, Nhật Bản đã dự định cải tổ lại Bộ Tài chính theo
hớng phân rõ chức năng quản lý nhà nớc và giám sát, tách bớt chức năng vủa các bộ phận
theo hớng chuyên môn hoá, đào tạo lại và bồi dỡng đội ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy, giảm
bớt quyền lực và tăng cờng giám sát lẫn nhau, tách chức năng tài chính của Bộ Tài chính và
chức năng quyết sách tiền tệ của BOJ. Chính phủ thực hiện bãi bỏ các chơng trình đầu t Nhà
nớc và các quỹ bí mật đi cùng với nó. Chuyển quá trình huy động vốn đầu t của các quỹ này
theo các nguyên tắc của kinh tế thị trờng. Nh vậy, vai trò của Bộ tài chính là làm sao định ra
những quy chế phù hợp để các ngân hàng hoạt động và phát triển ch không phải can thiệp
vào hoạt động kinh doanh hoặc tuỳ tiện áp đặt các quyết sách của mình.
3. Các chính sách về lãi suất tín dụng
Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất cũng đợc sử dụng với mục tiêu kích thích
các doanh nghiệp tăng cờng đầu t, mở rộng sản xuất nhằm phục hồi mức tăng trơng kinh tế
và chống lại tình trạng giảm phát. Mặc dù trớc năm 1998, lãi suất các loại đã ở mức rất thấp
nhng đến tháng 2/1999 BOJ đã thực hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi suất bằng
0 ngoài mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cờng đầu t, còn nhằm giảm đi số tiền lãi
cần phải trả khi nợ của Chính phủ và nợ của các công ty đã phình ra tới mức có thể nguy hại
nền kinh tế Nhật Bản. Việc áp dụng chính sách lãi suất trên đã góp phần làm cho kinh tế
Nhật Bản có sự chuyển biến tích cực khi mức tăng trởng đạt 0,5% năm 1999 so với mức tăng
– 1,9% năm 1998. Đến tháng 8/2000 NHTW Nhật Bản lại ra thông báo xoá bỏ chính sách lãi
suất bằng 0 (xem bảng: Mức lãi suất của Nhật Bản 1994 – 2002). Nhng tình trạng trì trệ
trong nền kinh tế sau đó đã cho thấy sự xoá bỏ chính sách này là cha đúng lúc. NHTW lại
thông qua chính sách lãi suất bằng 0 vào tháng 2/2001 và giới thiệu phơng thức cho vay theo
kiểu Lombard (là cách cho vay thế chấp chứng khoán, tín dụng), cộng thêm sự nới lỏng hơn
về số lợng cho vay.
Bên cạnh việc thực hiện chính sách lãi suất bằng 0, còn có những biện pháp khác để
giúp các ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng, giảm phí dịch vụ trong việc mua bán
các giấy tờ có giá… Hiện nay, số tiền gửi của cá nhân và của các công ty vào ngân hàng là
hơn 600.000 tỷ Yên. Trong số đó chỉ có 4 nghìn tỷ Yên đợc gửi vào BOJ nh là khoản dự trữ
bắt buộc, nh vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là quá thấp so với tiêy chuẩn quốc tế.
Cho đến nay BOJ vẫn quyết định giữ nguyên mục tiêu dự trữ trong tài khoản vãng lai
của họ ở mức 10 – 15 nghìn tỷ Yên và mức mua trái phiếu của Chính phủ Nhật Bản hàng
tháng ở mức 1 nghìn tỷ Yên, coi đây nh là một phần của chính sách lãi suất bằng 0 và tiếp
tục chính sách nới lỏng tiền tệ cho tới khi nền kinh tế đạt mức lạm phát dơng. Việc chuyển
mục tiêu từ lãi suất sang số lợng trong chính sách nới lỏng tiền tệ của BOJ bắt đầu thực hiện
vào tháng 3/2001, theo giáo s Nariai Osamu của trờng đai học Reitaku là một bớc chuyển
quan trọng để kéo nền kinh tế ra khỏi tình trạng giảm phát.
Mức lãi suất của Nhật Bản 1994 – 2002 (%/ năm)
Các loại lãi suất 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn
0,10 0,10 0,10 0,05 0.10 0,02 0,08
Lãi suất có kỳ hạn từ 3
đến 6 tháng
0,475 0,474 0,532 0,221 0,179 0,087 0.035
Lãi suất tiết kiệm bu
điện không kỳ hạn
0,25 0.25 0,15 0,08 0,12 0,02 0,01
Lãi suất bu điện kỳ
hạn 3 năm trở nên
0,80 0,45 0,25 0,20 0,20 0,07 0,07
Lãi suất trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 10
năm
2,75 1,99 0,97 1,83 1,66 1,31 1,40
Lãi suất chiết khấu 0,50 0,50 0,50 0,50 0,50 0,10 0,10
Lãi suất cho vay ngắn
hạn
1,62 1,62 1,50 1,37 1,50 1,37 1,37
Lãi suất cho vay dài
hạn
2,50 2,30 2,20 2,20 2,10 1,85 1,75
Lãi suất cho hộ gia
đình vay mua nhà
3,10 3,00 2,20 2,80 2,80 2,60 2,60
(Nguồn: Financial and economic statistic monthly, June 2002, No.39, p.4)
Cho đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện chơng trình “Big Bang”, BOJ vẫn không thay
đổi chính sách nới lỏng tiền tệ của mình với việc duy trì lãi suất thấp và tăng cơ số tiền.
4. Các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo hiểm
a. Về thuế
Thực tế chỉ ra rằng thuế là một vấn đề nhạy cảm và tác động nhanh tới hoạt động kinh
tế. Nhằm làm sống động nền kinh tế sau 2 năm suy thoái nặng nề 1997 – 1998, và để kích
thích tiêu dùng và đầu t, Chính phủ Nhật Bản đã tập trung vào việc cải cách thuế, coi đó là
một phần trong cải cách cơ cấu của Nhật Bản. Trong năm tài chính 1999, Chính phủ đã thực
hiện chơng trình cắt giảm thuế thờng xuyên và thuế chiến lợc.
Trong cắt giảm thuế thờng xuyên thì thuế thu nhập sẽ đợc cắt giảm 20% với mức cắt
giảm tối đa không quá 250.000 Yên. Mức thuế thu nhập cao nhất sẽ giảm từ 65% xuống
50%. Thuế nhà ở sẽ đợc giảm 15% với mức cắt giảm tối đa là 40.000 Yên. Thuế công ty sẽ
đợc cắt giảm từ 46,36% xuống còn 40,87% với tổng trị giá là 2,3 nghìn tỷ Yên (Nguyễn
Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản những năm cuối
thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội). Thuế chiến lợc bao gồm việc
nới lỏng thuế đối với các tài sản cầm cố trị giá 2,5 nghìn tỷ Yên. Có thể nói đây là chơng
trình cắt giảm thuế lớn nhất trong lịch sử của Nhật Bản.
Không giống nh các nớc công nghiệp khác, ở Nhật Bản thuế trực tiếp nh thuế công ty,
thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng hơn thuế gián tiếp nh thuế giá trị gia tăng.
Thời gian gần đây, do kinh tế Nhật Bản suy thoái trầm trọng nên nhiều công ty đã
không nộp thuế, và điều đó đã trực tiếp làm tổn thơng đến ngân khố quốc gia. Vì vậy, Hội
đồng chính sách kinh tế và tài chính Nhật Bản do thủ tớng Kozumi làm chủ tịch đã đa một
loạt đề suất mới về cải cách thuế. Trong đó coi thuế thu nhập nh là mục tiêu hàng đầu cần
thay đổi. Theo đề xuất mới này, mức thuế khởi điểm sẽ đợc hạ thấp nhằm mục đích mở rộng
diện chịu thuế (tăng số lợng ngời đóng thuế), giảm thuế suất tối đa từ mức 75% xuống còn
70%. Trớc đây, nhiều gia đình Nhật Bản không phải đóng thuế vì mức khởi điểm phải đóng
thuế thu nhập còn cao. Ngoài ra, sẽ đánh thuế tài sản nặng hơn, đặc biệt là những vụ mua bán
bất động sản lớn nhằm làm dịu đi sự bất ổn trong thị trờng bất động sản. Thuế đánh vào tài
sản thừa kế và quà tặng sẽ giảm nhăm kích thích tiêu dùng, hiện đang ở mức 5%. Mặc dù đây
là cải cách hợp lý nhất nhng nó có thể ảnh hởng xấu đến tiêu dùng nh đã xảy ra vào năm
1997, khi tỷ lệ thuế tiêu dùng tăng từ 3 lên 5%. Các nhà phân tích cho rằng năm nay là năm
thuận lợi nhất để Chính phủ đẩy mạnh cải cách thuế – một hành động mất lòng dân, vì là
năm không có tổng tuyển cử (Tin Kinh tế 25-04-2002).
Chính sách giảm thuế thu nhập có tác động tích cực nếu đó là sự cắt giảm lâu dài vì
đối với ngời tiêu dùng, một mức thuế thu nhập thấp hơn sẽ kích thích chi tiêu, đặc biệt đối
với ngời có thu nhập thấp. Nhng sự cắt giảm lâu dài lại tiềm ẩn nguy cơ chin ép đầu t bởi vì
lợi tức trái phiếu dài hạn sẽ gia tăng – hậu quả của gia tăng nợ chính phủ. Ngợc lại, một mức
thuế công ty thấp hơn chỉ kích thích đầu t khi đó là sự cắt giảm tạm thời bởi vì đầu t phụ
thuộc nhiều vào lợi nhuận, đầu t quá mức và lòng tin.
Thu thuế ở Nhật Bản tính đến tháng 3/2003 giảm 5,5% xuống còn 47,9 nghìn tỷ Yên,
thấp hơn so với dự toán 1,7 nghìn tỷ Yên. Thuế thu từ các công ty giảm 12,7% so với năm tài
chính trớc, xuống còn 10,3 nghìn tỷ Yên, giảm 935 tỷ Yên so với dự toán.
Trong năm tài chính 2002, Nhật Bản dự tính sẽ cắt giảm 1.000 tỷ Yên thuế công ty và
ngày 5/8/2002 Thủ tớng Koizumi đã cắt giảm thêm 1.000 tỷ Yên thuế công ty thêm một năm
nữa, nghĩa là năm tài chính 2003 kết thúc vào tháng 3/2004 tạo ra sự cạnh tranh bình dẳng
cho các công ty.
Giảm thuế tập trung vào các công ty trong việc tăng cờng sử dụng vốn và nghiên cứu.
Thuế công ty của Nhật Bản hiện nay là 40,87% so với thu nhập, cao hơn chút ít so với Mỹ
(40,75%). Nhng mức này cao hơn 10,84% mức thuế của Anh và 6,54% của Pháp, và cao hơn
các nớc châu á khác 10 đến 15% (Việt Nam News, 12/8/2002).
b. Về thu chi ngân sách của Chính phủ
Mặc dù trong những năm 1990 Nhật Bản đã nhiều lần tiến hành cải cách thu chi ngân
sách, song, đây vẫn là lĩnh vực khó khăn và gay gắt nhất. Trong khi các nớc châu âu và Mỹ
liên tục duy trì những nguyên tắc tài chính ở trung ơng và địa phơng để cải thiện thu chi ngân
sách, Nhật Bản trái lại thâm hụt ngân sáchkhông ngừng tăng. Hai nhân tố chính khiến thâm
hụt ngân sách tăng là sử dụng qua mức chính sách tài chính để kích thích phát triển kinh tế
và sự cách biệt giữa lợi ích và chi phí.
Về chi tiêu ngân sách: Trong năm tài chính 2001, Nhật Bản vẫn duy trì chính sách tăng
chi tiêu để kích thích nền kinh tế. Trong tháng 11/2002, chỉ cha đến 1 tuần, Chính phủ đã phê
chuẩn2 đợt chi ngân sách bổ sung trị giá 5,5 nghìn tỷ Yên cho năm tài chính 2001 kết thúc
vào tháng 3/2002. Trong đó 3 nghìn tỷ Yên đợc chi cho chơng trình việc làm và 2,5 nghìn tỷ
Yên đợc chi cho hỗ trợ tăng trởng kinh tế. Riêng khoản chi cho chơng trình việc làm đã
khiến cho tổng giá trị trái phiếu phát hành của Chính phủ đợcphát hành trong năm tài chính
2001 lên tới 30 nghìn tỷ Yên và nợ của Chính phủ sẽ lên đến 666 nghìn tỷ Yên, tơng đơng
với 130% GDP, mức cao nhất trong số các nớc phất triển.Tài khoản chi tiêu tổng hợp của
Chính phủ cho năm 2001 vào khoảng 83 nghìn tỷ Yên. Trong đó dịch vụ nợ quốc gia chiếm
khoảng 17 nghìn tỷ Yên, gần bằng 1/5 tổng số. Trợ cấp thuế cho địa phơng cũng xấp xỉ 17
nghìn tỷ Yên. Đây là những khoản chi tiêu không nằm trong chi tiêu chung của Chính phủ.
Chi tiêu chung của Chính phủ là 48 nghìn tỷ Yên, chiếm 58,9% tổng tà khoản chi tiêu chung.
Trong đó an ninh xã hội, các công việc công cộng, giáo dục và nghiên cứu khoa học chiếm
2/3 chi tiêu chung, còn lại là chi cho quốc phòng và các chi tiêu khác nh chi cho những trờng
hợp khẩn cấp, trợ giúp kinh tế, lơng hu cho nhân viên nhà nớc. Chi tiêu ngân sách của Chính
phủ năm 2002 ớc tính là 47,5 nghìn tỷ Yên và tăng lên 48,1 nghìn tỷ Yên trong năm tài chính
2003.
Về đầu t công cộng: Những công trình tạo cơ sở cho các hoạt động kinh tế nh đờng
giao thông, hải cảng, nhà cửa, cấp thoát nớc, đê đập… cần đầu t của nhà nớc. Lịch sử đầu t
công cộng ở Nhật Bản, nhìn chung so với các nớc phơng Tây còn cách xa và đi sau một đoạn
khá dài, vì vậy trong tơng lai vẫn sẽ duy trì một mức đầu t công cộng cao. Kết quả là một số
hạng mục sẽ đợc đầu t nhiều hơn trớc, trong tình trạng tài chính khó khăn đòi hỏi phải sử
dụng vốn đầu t hiệu quả hơn. Vì vậy, khi phát triển đầu t công cộngtrong tơng lai sẽ phải u
tiên cho các khu vực sẽ phục vụ nhiều cho phát triển kinh tế của thế kỷ XXI cũng nh sự hiệu
quả và minh bạch hơn.
iii. những vấn đề kinh tế Nhật Bản cần đợc tiếp tục cải cách
Trớc tình hình suy thoái kinh tế kéo dài, đặc biệt là vấn đề tài chính và ngân sách khó
khăn, chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng cờng các biện pháp chính sách cải cách nhằm
đem lại sự ổn định hơn cho khu vực tài chính bằng cách tăng cờng các biện pháp chính sách
cải cách nhằm đem lại sự ổn định hơn cho khu vực tài chính bằng cách tăng cờng các biện
pháp đẩy nhanh sự khôi phục các chức năng tài chính trung gian, giải quyết các khoản nợ
khó đòi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bổ lại các nguồn tài lực cho các lĩnh vực tăng tr-
ởng mới, và hiện thực hoá sự phục hồi của các nghành tàu chính và công nghiệp Nhật Bản.
Chính phủ của Thủ tớng Koizumi sẽ tiếp tục chơng trình cải cách cơ cấu một cách toàn diện
dới khẩu hiệu “Không có tăng trởng nếu không có cải cách”.
Nhằm lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản, Chính phủ Nhật Bản cho rằng cần
phải tiến hành tất cả những biện phápchính sách có thể. Hiện nay, Chính phủ đã và đang đẩy
mạnh cải cách cơ cấu thông qua 4 trụ cột chính là: cải cách hệ thống tài chính, cải cách thuế,
cải cách sự can thiệp của Chính phủ, cải cách cơ cấu chi tiêu của Chính phủ, nhằm đẩy mạnh
những cố gắng theo hớng lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản, và nhằm hiện thực hoá
sự tăng trởng bền vững dựa vào cầu của khu vực t nhân trong khi khắc phục sự giảm phát.
Chính phủ Nhật Bản cũng đã và đang thực hiện mọi biện pháp có thể nhằm tạo thêm việc
làm và mạng lới an toàn cho các xí nghiệp vừa và nhỏ, phân cấp mạnh mẽ cho các chính
quyền địa phơng trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi. Sau đây là nội dung cụ thể của
các chính sách và biện pháp cải cách trong lĩnh vực kinh tế hiện nay.
1. Cải cách hệ thống tài chính
Đây đợc coi là lĩnh vực nóng bổng và kho khăn nhất của các cuộc cải cách hiện nay.
Trong lĩnh vực này, Chính phủ Nhật Bản chủ trơng: Cần phải giải quyết ngay vấn đề nợ khó
đòi của các ngân hàng chủ yếu nhằm lấy lại lòng tin cho hệ thống tài chính Nhật Bản và sự
quản lý tài chính cũng nh tạo ra một thị trờng tài chính đợc thế giới đánh cao; Chính phủ đặt
mục tiêu giải quyết một bớc vấn đề nợ khó đòi vào cuối năm tài chính 2004 bằng cách giảm
một nửa tỷ lệ các khoản cho vay không hoạt động của các ngân hàng chủ yếu, và chủ trơng
tạo ra một hệ thống tài chính mạnh hơn có thể hỗ trợ cho cải cách cơ cấu; Nhằm xây dựng
một khung khổ mới cho việc quản lý tài chính và tạo thuận lợi cho cải cách cơ cấu, Chính
phủ sẽ tiến hành 3 biện pháp chủ yếu là: Thắt chặt việc đánh giá tài sản; đảm bảo sự dủ vốn;
và tăng cờng công tác quản lý.
2. Cải cách thuế
Chính phủ sẽ xúc tiến cải cách thuế một cách toàn diện và mạnh mẽ nhằm làm cho hệ
thống thuế thích hợp nhất với tình hình của thế kỷ XXI. Cuộc cải cách này cũng nhằm tạo ra
một hệ thống thuế gọn nhẹ và đơn giản. Hiện nay các chính sách cải cách thuế đang trong
quá trình xem xét dựa trên cơ sở 6 điểm chính sau đây:
Dành u tiên cao nhất cho sự phục hồi nền kinh tế Nhật Bản
Tính toán đầy đủ đến những đặc trng và khả năng của mỗi cá nhân trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với cải cách chi tiêu của Chính phủ
Thực hiện cải cách thuế phù hợp với cải cách hệ thống đảm bảo xã hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với giảm sự can thiệp của Chính phủ và cải cách tài
chính ở các đia phơng
Chia sẻ gánh nặng một cách công bằng cho tất cả các cá nhân và các công ty, có tính
đến các nhóm thu nhập thấp khi thật sự cần thiết.
3. Cải cách sự can thiệp của Chính phủ
Về vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản chủ trơng: Thực hiện giảm hơn nữa sự can thiệp
của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm phát huy đến mức tối đa khả năngcủa khu vực t nhân và
mở rộng kinh doanh t nhân; Thực hiện các “Đặc khu dành cho cải cách cơ cấu”. Điều này đã
cho phép các chính quyền địa phơng hoặc các hãng t nhân áp dụng và tận hởng sự miễn trừ
đặc biệt của Chính phủ, dựa trên cơ sở những đóng góp của địa phơng. Đặc khu cải cách cơ
cấu có ý nghĩa quan trọng bởi vì các thực thể địa phơng ở khu vực đó có thể xúc tiến cải cách
cơ cấu trên cơ sở sáng kiến của chính họ.
4. Cải cách chi tiêu của Chính phủ
Cải cách chi tiêu Chính phủ là sự cần thiết tất yếu cho việc lấy lại sinh khí cho nền
kinh tế và giải quyết tình trạng thâm hụt lớn trong ngân sách. Nói một cách cụ thể hơn,
Chính phủ Nhật Bản đã và đangthwcj hiện 4 biện pháp chủ yếu là: Xem xét lại sự phát triển
cơ sở hạ tầng xã hội theo quan điểm phân bổ một cách có trọng điểm và hiệu quả nguồn vốn
đầu t công cộng; Thiết lập một hệ thống bền vững dựa trên cơ sở: Cải cách hệ thống đảm bảo
xã hội phù hợp với sự thay đổi xã hội, nh “Xã hội của những ngời cống hiến suốt đời” hoặc
“Xã hội không phân biệt giới tính”; bình đẳng giữa các thế hệ; và cân đối giữa nghĩa vụ và
quyền lợi; Thực hiện mạnh mẽ và toàn diện các cuộc cải cách tài chính và phân cấp cho các
chính quyền địa phơng nhằm giảm sựcan thiệp của Chính phủ trung ơng vào các vấn đề địa
phơng, cũng nh mở rộng quyền và nghĩa vụ của các chính quyền địa phơng; Cải cách một
cách toàn diện ngành lơng thực; đồng thời tăng cờng năng suất và hiệu quả của khu vực công
cộng thông qua các nguồn lựcbên ngoài và sáng kiến tài chính t nhân; Thực hiện khẩu hiệu
“Từ công cộng chuyển sang t nhân”.
Tóm lại, quá trình cải cách kinh tế Nhật Bản đã, đang và sẽ vẫn còn tiếp tục đợc thực
hiện. Những thành công bớc đầu của cuộc cải cách này là rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó
cũng còn tồn tại không ít khó khăn và bất cập mà hệ thống kinh tế Nhật Bản vẫn đang và sẽ
tiếp tục phải đơng đầu. Tơng lai của hệ thống này sẽ ra sao vẫn còn là một điều bí ẩn. Tuy
nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, hệ thống này đã có những sự thay đổi cho dù rất
chậm chạp và sẽ còn tiếp tục đợc cải cách theo hớng một nền kinh tế thị trờng mở theo kiểu
phơng Tây hiện nay – lấy thị trờng vốn và cạnh tranh tự do làm động lực chính cho sự phát
triển của nó.
chơng iii. quan hệ kinh tế Việt nam – nhật bản
i. các quan điểm và chính sách của việt nam trong quan hệ kinh tế quốc tế
Nh chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát phát triển KT-XH Việt Nam đến năm 2010 đã
đợc khẳng định trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm thông qua tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX là: "Đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Nguồn lực con ngời, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh đợc tăng cờng, thể chế
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đợc hình thành về cơ bản; vị thế nớc ta trên thị
trờng quốc tế đợc nâng cao", với mục tiêu kinh tế cụ thể là:
- Đa GDP năm 2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 với nhịp độ tăng GDP bình quân
7,5%/năm.
- GDP bình quân đầu ngời đạt 700 - 750 USD.
- Nhịp dộ tăng xuất khẩu gấp 2 lần nhịp độ tăng GDP (15%/năm).
Để thực hiện đợc mục tiêu trên Đảng ta coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là
nhiện vụ quan trọng hàng đầu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải đảm bảo xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. “Gắn chặt xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đại hội lần thứ IX
của Đảng nhận định “toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan”, và nền kinh tế độc lập
tự chủ không đối lập với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại mà lại là điều kiện quan
trọng để nớc ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, có khả năng đón bắt thời cơ do toàn cầu
hoá và khu vực hoá kinh tế mang lại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp
để phát triển đất nớc.
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN có sự quản lý của nhà nớc là những đổi mới về t duy, lý luận, thực tiễn của
Đảng ta nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nớc đợc thể hiện tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI. Đại hội VI đã khẳng định trong thời kỳ quá độ lâu dài đi lên chủ nghĩa
xã hội, nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm: thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa (kinh tế nhà nớc và hợp tác xã) và thành phần kinh tế khác (sản xuất nhỏ hàng hoá,
kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc với các hình thức khác nhau), mở đờng cho việc
thu hút nguồn vốn FDI.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đa ra chủ trơng: "Mở rộng kinh tế với
nớc ngoài và thiết lập trật tự, kỷ cơng trong mọi hoạt động kinh tế, mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả hợp tác sản xuất với Liên Xô, Lào, Cămpuchia và các nớc xã hội chủ nghĩa
khác, từng bớc phát triển quan hệ kinh tế với một số nớc khác, thu hút vốn và kỹ thuật của n-
ớc ngoài bằng nhiều hình thức: hợp tác sản xuất, gia công, nhận thầu dịch vụ, hợp doanh, đầu
t toàn bộ, vay vốn dài hạn", "chúng ta cần mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nớc đang phát
triển, với một số nớc hoặc tổ chức t nhân trong thế giới t bản chủ nghĩa".
Bằng những khẳng định và cam kết, Nhà nớc ta đã thừa nhận và đảm bảo bằng pháp
luật sự tồn tại và quyền lợi của một thành phần kinh tế mới, đó là kinh tế t bản t nhân và kinh
tế t bản nhà nớc, mở ra một hớng mới cho hợp tác kinh tế quốc tế, khai thông mọi nguốn vốn
đầu t quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, đa đất nớc ta từng bớc
hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Kinh tế hợp tác, liên doanh với nớc ngoài không chỉ là phơng thức chính để thu hút
vốn đầu t bên ngoài mà còn là con đờng thích hợp để tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, mở lối đi vào thị trờng khu vực và thị trờng thế giới, thúc đẩy xuất
khẩu, tăng năng lực cạnh tranh, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến
đổi của tình hình quốc tế, khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh trong từng thời kỳ phát
triển". Với phơng hớng: "Cần tích cực cải thiện hơn nữa môi trờng đầu t, đổi mới tổ chức và
quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với nớc ngoài có nhiều hình thức thích hợp để tận
dụng mọi nguồn vốn đầu t, chú trọng phát triển các mối quan hệ hợp tác với các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và
thế giới; u tiên cho đầu t trực tiệp, nhất là từ những công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có
tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý, điều hành tiên
tiến, mở lối thâm nhập vào thị trờng khu vực và quốc tế.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996), Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Chúng ta chủ trơng xây dựng một nền kinh tế mở, đa phơng hoá và đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, hớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng
trong nớc sản xuất cha có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trờng quốc tế để tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Phát triển rộng rãi các hình thức kinh tế t bản Nhà
nuớc; áp dụng nhiều phơng thức hợp tác, liên doanh giữa Nhà nớc với các nhà t bản trong n-
ớc và các công ty t bản nớc ngoài. Cải thiện môi trờng đầu t và nâng cao năng lực quản lý để
thu hút có hiệu quả vốn đầu t.
ii. các quan điểm phát triển quan hệ hợp tác kinh tế việt nam – nhật bản
Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, việc mởi rộng hợp tác nói chung, hợp tác kinh
tế nói riêng là nhu cầu tất yếu với mọi quốc gia. Tuy nhiên, mỗi quốc gia phải xuất phát từ
thế và lực của mình mà có quan điểm hợp tác phù hợp với từng đối tác cụ thể. Việt Nam
đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất cần vốn, kỹ thuật và công
nghệ quản lý… Có thể giải quyết nhu cầu đó qua tham gia mở rộng hợp tác quốc tế, mà Nhật
Bản là một đối tác chủ yếu. Việc xác định quan điểm hợp tác với Nhật Bản, từ đó có những
giải pháp cụ thể để tận dụng tốt nhất thế mạnh, cơ hội từ Nhật Bản là rất có ý nghĩa.
1. Nhu cầu mở rộng hơn nữa hợp tác tơng hỗ giữa Nhật Bản và Việt Nam trong tình
hình hiện nay
1.1. Đẩy mạnh cải cách ở Nhật Bản sẽ gia tăng nhu cầu mới trong hợp tác
Có thể thấy từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông á Nhật Bản đã
có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chơng trình cải cách nền kinh tế của mình. Trên thực tế
cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ những điểm hạn chế trong bản thân nền kinh tế Nhật
Bản, nhất là trong hệ thống tài chính ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn diện.
Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản không chỉ chú trọng
vào phơng diện tạo cầu, kích cầu mà còn chú ý cả khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm tạo
ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở phát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật cao.
Trên phơng diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chơng trình kích thích kinh tế
hàng năm nhằm mở rộng đầu t. Bên cạnh đó là những cố gắng tập trung giải quyết các khoản
nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu t
t nhân. Trong các chơng trình cải cách của các Thủ tớng Nhật Bản trớc ông Koizumi đều chú
trọng tăng đầu t công cộng, nhng chính quyền ông Koizumi lại chú trọng kích thích đầu t t
nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu t công cộng nhằm tiến tới cân bằng ngân sách. Chẳng hạn
theo dự toán ngân sách năm tài chính 2002, công trái đợc phát hành không quá 30 nghìn tỷ
Yên, giảm 10% ODA và giảm đầu t công cộng 10%. Để kích thích mạnh hơn đầu t t nhân
chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ khó đòi thông qua một số giải pháp mạnh có tính
khả thi nh bán lại nợ, cho doanh nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ.
Cùng với đó thực hiện giảm thuế để kích thích ngời dân tăng chi tiêu và đầu t phát triển kinh
tế.
Trên phơng diện cung, nhà nớc chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và thể chế kinh tế
nhằm tạo môi trờng thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động. Các chính sách nhà nớc
tập trung chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tế mới – kinh tế
tri thức. Xúc tiến chơng trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu vực
trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đông – Bắc, ven biển Nhật Bản, ven Thái Bình Dơng và
trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so sánh của từng vùng trong hoạt động kinh
doanh hợp tác quốc tế. Nhật Bản cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh gia tăng các hoạt động hợp tác đa phơng, đặc biệt chú trọng hợp tác với ASEAN,
Nhật Bản cũng từng bớc mở cửa thị trờng nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu
hút nhiều hơn dòng vốn nớc ngoài đổ vào thị trờng Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cách gần đây là chú trọng phát triển kinh tế theo h-
ớng gia tăng nội nhu, lấy nội nhu làm động lực phát triển. Các chiều hớng cải cách trên đơng
nhiên có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế của Nhật Bản với các bạn hàng, trong đó có
Việt Nam.Cụ thể nó đặt ra hàng loạtnhu cầu của bản thân nền kinh tế Nhật Bản cần có sự
hợp tác đáp ứng từ phía đối tác.
1.1.1. Trong quá trình cải cách việc tạo lập, mở rộng thị trờng hàng hoá và dịch vụ bên
ngoài là rất cần thiết nhằm tăng cầu qua đó kích thích sản xuất phát triển
Rõ ràng cái khó của nền kinh tế Nhật Bản hiện nay là thúc đẩy tiêu dùng, tạo cầu cho
nền kinh tế. Việc chú trọng tạo cầu nội địa là hớng quan trọng, song bớc chuyển này đòi hỏi
thời gian và hiện tại cũng còn đang gặp rất nhiều khó khăn. Nền kinh tế Nhật Bản thời gian
qua trong tình trạng suy thoái gắn kiền với giảm phát. Giá cả hàng hoá dịch vụgiảm là khó
khăn cho phục hồi sản xuất. Mặc dù nhà nớc chú ý kích cầu qua tăng tiêu dùng công cộng,
song mức chi tiêu công cộng cũng có hạn, hơn nữa quy mô của chúng rất nhỏ bé so với tổng
tiêu dùng nói chung. Đầu t công cộng năm 2000 trên thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 7,2 %
trong tổng cầu của nền kinh tế. Chi tiêu cá nhân tuy chiếm tỷ lệ lớn 55,9% tổng cầu nhng tâm
lý tích luỹ hạn chế chi tiêu trong dân chúng đang tăng lên do tình hình kinh tế – chính trị
không ổn định trong những năm qua làm cho mức gia tăng của khoản chi này cũng ít triển
vọng. Rõ ràng trong tình hình này việc mở rộng thị trờng bên ngoài vẫn có ý nghĩa quan
trọng với sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy ASEAN là thị trờng truyền thống của Nhật Bản. Hàng năm ASEAN nhập
khẩu một khối lợng lớn hàng hoá và dịch vừt Nhật Bản. Theo số liệu thống kê năm 1990 tỷ
trọng hàng xuất khẩu của Nhật Bản vào các nớc ASEAN chiếm 11,49% tổng mức xuất khẩu
của Nhật Bản, tơng đơng 33,7% mức xuất khẩu của Nhật Bản vào Châu á. Tính trung bình
trong thời gian 1990 – 1997 xuất khẩu của Nhật Bản tới ASEAN 5 chiếm khoảng 30%.
Trong các sản phẩm xuất khẩu thì các hàng hoá thiết bị giao thông vận tải, máy móc chiếm
tới 96% giá trị hàng xuất khẩu của Nhật Bản vào ASEAN. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền
tệ Châu á 1997 đã tác động đến nhu cầu hàng hoá dịch vụ của ASEAN với nền kinh tế Nhật
Bản, cộng với đó những khó khăn trong nền kinh tế Mỹ, nhất là sau sự kiện 11/9/2001 làm
giảm nhu cầu sản phẩm hàng hoá. Chính điều này ảnh hởng đến hoạt động ngoại thơng của
Nhật Bản, mức d thừa trong kim ngạch thơng mại có xu hớng giảm sút. Hoạt động kinh tế
đối ngoại khó khăn càng làm cho việc phục hồi nền kinh tế Nhật Bản thêm nan giải.
Đáng chú ý trong những năm gần đây sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và
Việt Nam đã tạo ra nhu cầu mới ngày càng tăng về sản phẩm hàng hoá mà Nhật Bản có thể
đáp ứng. Trên thực tế mức tăng xuất khẩu của Nhật Bản vào Châu á, phần quan trọng là từ
Trung Quốc. Thị trờng Việt Nam tuy tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật Bản còn khiêm tốn, song
đây là thị trờng tiềm năng có sức tăng trởng cao, có thể nhập nhiều loại sản phẩm hàng hoá
từ Nhật Bản. Năm 1998 tỷ trọng của Việt Nam trong kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản
khoảng 0,5%, trong khi đó con số tơng ứng của Trung Quốc là 13,2%; của Singapo là 2,9%;
Malaixia: 2,7%; Thái Lan: 2,6%; Inđônêxia: 2,3% và Philipin:1,7% (TS. Vũ Văn Hà (chủ
biên). Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm1990 và triển vọng.
Nxb.KHXH, Hà Nội). Nếu xét về chiều hớng tăng trởng thì thị trờng Việt Nam sẽ ngày càng
chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng xuất khẩu của Nhật Bản, do nhu cầu gia tăng về sản lợng
hàng hoá trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng nh việc
quan tâm, thúc đẩy giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quan hệ thơng mại giữa hai nớc, nh
vấn đề nợ thơng mại, chất lợng sản phẩm, cơ chế chính sách… nhằm đi tới ký hiệp
địnhthwơng mại song phơng.
1.1.2. Trong quá trình cải cách nền kinh tế Nhật Bản sẽ đẩy đến gia tăng nhu cầu đầu t ra
bên ngoài nhằm khai thác lợi thế công nghệ và nguồn vốn cũng nh tận dụng nguyên vật liệu
và lao động tại thị trờng bản địa
Nền kinh tế Nhật Bản đang trong quá trình chuyển dịch từ nền công nghiệp chín muồi
sang nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Điều rõ ràng là Nhật Bản đã có bớc phát triển vợt trớc
các nền kinh tế trong khu vực. Trong bớc chuyển này, một mặt Nhật Bản phải đầu t nghiên
cứu các công nghệ mới xây dựng các ngành công nghiệp mới; mặt khác sẽ phải đồng thời
chuyển giao các công nghệ của nền công nghiệp hoá, cái mà Nhật Bản đang có thế mạnh và
các quốc gia khu vực trong đó có Việt Nam đang rất cần. Trên thực tế quá trình chuyển giao
công nghệ của Nhật Bản đã đợc thực hiện ngay trong những thập niên trớc đây và dặc biệt đ-
ợc đẩy mạnh sau năm 1985 khi mà đồng Yên tăng giá mạnh.
Việc chuyển giao các cơ sở công nghệ của nền công nghiệp hoá không chỉ là yêu cầu
dặt ra trong bớc đờng cải cách cơ cấu mà thông qua các hoạt động chuyển giao này Nhật Bản
có thể thâm nhập thị trờng, phát huy u thế về công nghệ để tăng lợi nhuận, qua đó có điều
kiện cải cách cơ cấu, phát triển các hoạt động kinh doanh mới.
Tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, tỷ xuất lợi nhuận thấp, nhất là tình trạng giải pháp
vẫn cha khác phục đợc đã không tạo ra đợc môi trờng kích thích các hoạt động đầu t nội địa.
Việc tăng các hoạt động kinh tế đối ngoại, kể cả đầu t và thơng mại sẽ đợc xem nh một kích
thích từ bên ngoài đối với các hoạt động bên trong, tạo điều kiện cho các giải pháp khắc phục
suy thoái.
Trong quan hệ với Việt Nam, Nhật Bản nhìn nhận Việt Nam là thị trờng đầu t tiềm
năng còn ít đợc khai thác so với các quốc gia lân cận. Nhật Bản có nguồn tài chính lớn cần
có nơi đầu t. Việt Nam có thể tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật của Nhật Bản để xây dựng
các ngành kinh tế của mình. Trong những năm qua đầu t của Nhật Bản vào thị trờng Việt
Nam tuy chiếm tỷ lệ cao trong các đối tác đầu t vào Việt Nam nhng so với tiềm năng và nhu
cầu của 2 bên vẫn còn là khiêm tốn.
Do quá trình đông Yên tăng giá làm giảm lợi thế đầu t bên trong đã đẩy Nhật Bản tăng
đầu t ra bên ngoài. Điều này vừa cho phép Nhật Bản phát huy u thế công nghệ, đồng thời qua
đó tận dụng đợc các nguồn lao động rẻ ở các quốc gia bản địa, khai thác tài nguyên nhằm
kiếm lời và tạo nguồn sản phẩm cung cấp phục vụ thị trờng Nhật Bản. Việt Nam là quốc gia
có nguồn tài nguyên phong phú và thị trờng lao động có lợi thế trong cạnh tranh, nên các
công ty Nhật Bản cũng rất quan tâm.
1.1.3. Do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và sự thay đổi của cơ cấu nhu cầu của một xã hội phát
triển dẫn đến gia tăng nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng và nhu cầu lao động
Trên thực tế trong thời gian gần đây có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu nhập khẩu
hàng hoá của Nhật Bản. Mức nhập khẩu lơng thực có sự gia tăng đi liền với đó là các sản
phẩm chế tạo. Nếu thập kỷ 60 – 70 việc nhập các sản phẩm chế tạo chiếm trung bình 20 –
30% tổng mức nhập khẩu thì thập kỷ 90 tăng lên xấp xỉ 60%. Trong xu hớng cải cách cơ cấu
ngành kinh tế, Nhật Bản tiếp tục chuyển giao các cơ sở sản xuất công nghiệp máy móc, kể cả
trong lĩnh vực giao thông xây dựng và đóng tàu, sản xuất thép mà tập trung vào phát triển
các ngành kinh tế dịch vụ, sinh học, điện tử. Do vậy chắc chắn nhu cầu nhập khẩu các hàng
hoá liên quan thuộc nhóm ngành kinh tế khu vực I và II nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế sẽ gia tăng. Điều này thúc đẩy hớng hợp tác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của nền
kinh tế Việt Nam trong việc xuất khẩu các nông sản thực phẩm. Trong những năm qua xuất
khẩu các nông sản thực phẩm của Việt Nam vào thị trờng Nhật Bản ngày một tăng.
Điều đáng chú ý là bên cạnh những sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng, do sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu dân số làm cho nhu cầu nhập khẩu
lao động nớc ngoài trong đó có nhập từ Việt Nam gia tăng, năm 1993 ở Nhật Bản có tới 23
vạn lao động nớc ngoài, năm 1999 là 28 vạn. Đối với Việt Nam trong thời gian từ 1992 –
2000 đã xuất khẩu sang Nhật Bản 7500 lao động. Thực tế cho thấy với sự phát triển của các
ngành và lĩnh vực sản xuất gắn với công nghệ cao đã thu hút giới trẻ Nhật Bản, còncác lĩnh
vực dịch cụ lao động giản đơn ít đợcchú ý nên đẩy đến tình trạng thiếu lao động trong khu
vực này. Bản thân quá trình già hoá dân số không những đặt ra nhu cầu lao động mà còn làm
thay đổi cơ cấu nhu cầu trong dân c đòi hỏi đợc thoả mãn. Măt khác chính quá trình cải cách
mở cửa, gia tăng giao lu đã phá vỡ tính khép kín của thị trờng lao động Nhật Bản dẫn đến gia
tăng lao động nớc ngoài. Trong xu thế này khong chỉ là gia tăng nhu cầu lao động giản đơn
mà cả lao động phức tạp, lao động trong các ngành công nghệ cao. Bản thân Nhật Bản cũng
có chính sách thu hút chất xám bên ngoài phục vụ nhu cầu nghiên cứu và phát triển công
nghệ mới. Chính vì vậy trong tơng lai nhu cầu nhập khẩu lao động của v tiếp tục gia tăng và
đây cũng là cơ hội gia tăng lao động Việt Nam sang thị trờng Nhật Bản. Việc này một mặt
giải quyết tình trạngd thừa lao động ở Việt Nam, mặt khác qua thực tếngời lao độnh có thể
tiếp thukỹ thuật kinh nghiệm quản lý của Nhật Bản.
1.1.4. Nhu cầu gia tăng hợp tác kinh tế với Việt Nam xuất phát từ lợi ích chiến lợc phát triển
chung của Nhật Bản
Nhật Bản hiện nay không chỉ đang phải phục hồi nền kinh tế mà còn phải thực hiện
một cuộc cải cách toàn diện, them chí có ngời còn cho rằng cần có một cuộc cách mạng kiểu
Minh Trị ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo lập một nớc Nhật Bản mới không chỉ mạnh về kinh tế
mà còn có vai trò chính trị quan trọng trong khu vực cũng nh trên trờng quốc tế. Đó cũng
chính là mục tiêu phấn đấu của các giới chức Nhật Bản hiện nay.
Nhật Bản vốn là cờng quốc kinh tế thế giới trong 2 thập niên qua, song cũng do tình
trạng suy thoái, vị trí, vai trò kinh tế của Nhật Bản đang bị thách thức. Theo nhiều dự đoán
đến 2010 nền kinh tế Trung Quốc sẽ chiếm vị trí thứ 4, năm 2020 chiếm vị trí thứ 3 và năm
2040 sẽ dành vị trí thứ 2 sau Mỹ. Đại hội 16 Đảng cộng sản Trung Quốc đã hoạch định rõ
mục tiêu xây dựng toàn diện một xã hội khá giả, trong đó rất chú trọng đến kinh tế đối ngoại.
Một trong những hớng u tiên là đẩy mạnh hợp tác với ASEAN, Trung Quốc đã đạt đợc thoả
thuận khung về một khu vực thơng mại tự do ASEAN + Trung Quốc. Điều này đã đẩy Nhật
Bản muốn phát triển và khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của mình thì phải tạo ra đợc
quan hệ hợp tác hoà bình chặt chẽ với ASEAN. Về truyền thống Nhật Bản và ASEAN đã có
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong bối cảnh mới khi mà các quốc gia lớn đều có chiến
lợc tranh thủ ASEAN, coi ASEAN nh là cơ sở ban đầu để thúc đẩy mở rộng hợp tác trong
khu vực, đòi hỏi Nhật Bản cũng phải có những điều chỉnh. Và trên thực tế trong những năm
gần đây các nhà lãnh đạo của Nhật Bản đều nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác Nhật
Bản – ASEAN. Việt Nam là một quốc gia có quy mô lớn thứ 2 trong ASEAN và có tiềm
năng phát triển. Vai trò và đóng góp của Việt Nam trong ASEAN ngày một tăng dần tơng
thích với tầm cỡ của mình. Hợp tác với Việt Nam, Nhật Bản không những có điều kiện khai
thác các tiềm năng của Việt Nam mà qua đó nâng cao uy tín, vai trò của mình trong khu vực.
Nhật Bản e ngại một Trung Quốc trong tơng lai thách thức vị trí, vai trò của mình
trong khu vực. Chính vì vậy trong chiến lợc phát triển của Nhật Bản đi liền hợp tác – cạnh
tranh và kiềm chế lẫn nhau. Gần đây các công ty Nhật Bản cũng đã có động thái điều chỉnh
dòng FDI vào Trung Quốc. Cuộc đụng độ thơng mại Nhật – Trung 2001 càng làm gia tăng
một tâm lý lo ngại sự nổi lên, lấn át của Trung Quốc.
Nhu cầu gia tăng hợp tác với Việt Nam của Nhật Bản còn xuất phát từ việc muốn đẩy
nhanh tạo lập nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam và qua đó tách Việt Nam khỏi ảnh hởng của
Nga và trung Quốc. Điều này không chỉ là mong muốn của Nhật Bản mà còn nằm trong
chiến lợc toàn cầu của Mỹ. Trên thực tế cả Nhật Bản và Mỹ đều lo ngại Trung Quốc. Trong
thế trận bao quanhTrung Quốc từ Đông sang Tây, nếu Trung Quốc muốn mở xuống phía
Nam thì không thể không tính đếnViệt Nam. Đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam, một mặt tạo
cơ hội để gia tăng quan hệ với các quốc gia Đông Dơng, mặt khác nhằm kìm chế vai trò, sự
ảnh hởng lan toả của Trung Quốc xuống khu vực này. Tất nhiên trong thế giằng co chiến lợc
của các nớc lớn, Việt Nam cần tìm ra phơng cách, con đờng phù hợp để gia gia tăng hợp tác,
tận dụng các cơ hội phát triển.
1.2. Nhu cầu mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản trong bối cảnh mới
1.2.1. Cơ sở của việc gia tăng nhu cầu hợp tác kinh tế của Việt Nam
Ngày nay có thể thấy mở của hội nhập vào nền kinh tế là một xu thế tất yếu trong phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài lôgích đó. Hơn nữa, việc
đẩy mạnh mở rộng hợp tác với Nhật Bản còn xuất phát từ những yếu tố cụ thể của bản thân
Việt Nam.
Về khía cạnh kinh tế: Sau một thập kỷ đổi mới nền kinh tế Việt Nam cho đến trớc
cuộc khủng hoảng tqì chính - tiền tệ khu vực đã có sự khởi sắc. Không những vợt qua khủng
hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, mà từ năm 1991 đến 1996 nền kinh tế liên tục đạt
mức tăng trởng cao với bình quân 8%, riêng năm 1995 đạt 9,54% và 1996 đạt 9,34% (Niên
giám thống kê hàng năm, Nxb Thống kê, 1999). Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng tài chính
– tiền tệ mức tăng trởng GDP có sự suy giảm, năm 1998 chỉ đạt 5,8%, và năm 1999 là 4,8%.
Nếu năm 1999 lạm phát tăng tới 9,2% thì các năm tiếp sau nền kinh tế rơi vào tình trạng
thiểu phát. Mức tăng của xuất khẩu thời kỳ sau khủng hoảng tài chính khu vực cũng chậm
lại. Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài từ năm 1998 có xu hớng giảm mạnh. Thực trạn kinh tế trên
cho thấy cần phải có giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy thu hút đầu t và xuất khẩu, cải thiện
mức tăng trởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu.
Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đã
có bớc phát triển mới mà nhiều ngời gọi đó là thời đại mới của quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản. Riêng trong lĩnh vực kinh tế quan hệ hợp tác không chỉ dừng lại ở các hoạt động đầu t
trực tiếp đã đợc thực hiện và phát triển nhanh. Tuy nhiên điều cũng cần thấy là quy mô của
quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản còn rất khiêm tốn so với khả năng và nhu cầu của 2
nền kinh tế. Mặc dù Nhật Bản là bạn hàng thơng mại số một, nhà tài trợ số một và cũng là
một trong 3 nhà đầu t trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam, song so với tổng lợng kim ngạch
xuất- nhập khẩu cũng nh tổng FDI của Nhật Bản ra nớc ngoài thì phần của Việt Nam trong
đó quá ít ỏi, và thấp hơn so với phần của các quốc gia thuộc ASEAN. Điều này cho thấy cần
phải và có thể gia tăng hơn nữa quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia.
Mở rộng hợp tác kinh tế theo hớng đa dạng hoá, đa phơng hoá là một chủ trơng của
nhà nớc Việt Nam. Mở rộng hợp tác với Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hoá là một phơng
cách đảm bảo an ninh kinh tế nớc nhà. Bởi lẽ nếu chỉ hạn chế trong một số bạn hàng sẽ rất
bất lợi khi đối tác gặp khó khăn, việc mở rộng các nối quan hệ sẽ tạo cho Việt Nam có nhiều
cửa mở ra thế giới bên ngoài, đó là những kênh hàng hoá - dịch vụ chảy vào chảy ra, bảo
đảm cho sự vận hành bình thờng của nền kinh tế. Hơn nữa Nhật Bản là một thị trờng lớn,
một đầu nguồn về dòng vốn và công nghệ, cho nên mở rộng quan hệ với Nhật Bản sẽ gia
tăng các cơ hội phát triển cho Việt Nam.
1.2.2. Nhu cầu hợp tác của Việt Nam với Nhật Bản
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngoài việc phát huy nội lực Việt
Nam phải dựa vào sự hợp tác với nớc ngoài, nhất là các quốc gia có trình độ phát triển cao nh
Nhật Bản. Có thể thấy nhu cầu mở rộng hợp tác quốc tế của Việt Nam với Nhật Bản trên các
phong diện cơ bản nh sau:
Thứ nhất, là Việt Nam cần ở Nhật lợng vốn đầu t lớn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
nền kinh tế. Do đặc điểm của quá trình công nghiệp hoá rút ngắn cho nên nhu cầu vốn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn - Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản.pdf