Báo cáo Tìm hiểu về tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển

Tài liệu Báo cáo Tìm hiểu về tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài: Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển. MỤC LỤC Mục lục....................................................................................................1 Lời mở đầu...............................................................................................3 Chương 1: Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO 1.1Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO..............................5 1.1.1Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT- tổ chức tiền thân của WTO.....................................................................…..5 1.1.2Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO........................12 1.2 Mục tiêu,chức năng và các nguyên tắc của WTO...................……. 18 Chương 2:Tác động của WTO đối với các nước đang phát triển 2.1 Những ảnh hưởng của WTO đến các nước đang phát triển..........20 2.1.1 Những ảnh hưởng tích c...

doc69 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tìm hiểu về tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài: Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển. MỤC LỤC Mục lục....................................................................................................1 Lời mở đầu...............................................................................................3 Chương 1: Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO 1.1Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO..............................5 1.1.1Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT- tổ chức tiền thân của WTO.....................................................................…..5 1.1.2Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO........................12 1.2 Mục tiêu,chức năng và các nguyên tắc của WTO...................……. 18 Chương 2:Tác động của WTO đối với các nước đang phát triển 2.1 Những ảnh hưởng của WTO đến các nước đang phát triển..........20 2.1.1 Những ảnh hưởng tích cực......................................................22 2.1.2 Những ảnh hưởng tiêu cực.....................................................23 2.2 Những cơ hội và thách thức đặt ra với các nước đang phát triển trong quá trình thực hiện một số Hiêp định của WTO. 2.2.1 Hiệp đinh về tự do hàng nông sản..........................................26 2.2.2 Hiệp định hàng dệt may.......................................................28 2.2.3 Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ GATS............. 2.2.4 Hiệp định về đàu tư liên quan đến thương mại TRIMs...................36 2.2.5 Hiệp định về quyền sở hữu trú tuệ liên quan đến thương mại TRIPS....................................................................................................38. 2.3 Các giải pháp nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho các nước đang phát triển...................................................................................................42 2.3.1 Nguyên nhân dẫn đến sự thiệt thòi của các nước đang phát triển..........................................................................................................49 2.3.2 Các giải pháp......................................................................... Chương 3: Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, những cơ hội và thách thức. 3.1 Sự cần thiêt của việc gia nhập WTO.............................................50 3.2 Những thuận lợi và thách thức đến tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam...........................................................................................55 3.3 Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam................................................................................................58.. Kết luận................................................................................................60.. Phụ lục.................................................................................................62... Tài liệu tham khảo..................................................................................65 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT: AoA : Agreement on Agricultural - Hiệp định Nông nghiệp ATC : Agreement on Texitiles and Clothing of the WTO - Hiệp định hàng dệt may. GATS : General Agreement on Trade in Services - Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ . GATT : General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định chung về thuế quan và thương mại . GDP : gross domestic product - Tổng thu nhập quốc dân . IMF :International Monetery Fund - Quỹ tiền tệ Quốc tế. ITO : International Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới. MFA :Multifibre Arrangement - Hiệp định đa sợi . MFN : most-favored nation - Đối xử tối huệ quốc . NT : Nation Treatment -Đãi ngộ quốc gia . TRIMS : trade - related investment measures - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại . TRIPS : trade - related intellectual propecty rights - Khía cạnh về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại . UNCTAD :United Nations Conference on Trade and Development - WTO :World Trade Organization - Tổ chức thương mại quốc tế . LỜI MỞ ĐẦU Cùng với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) kế thừa Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu hoạt động từ 1/1/1995 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ thông thương mại đa biên, đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ dần các rào cản trong thương mại quốc tế. Từ đó cho đến nay, WTO đã không ngừng mở rộng cả vế quy mô lẫn phạm vi hoạt động của mình, đã thực sự khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình tự do hoá thương mại quốc tế. Cùng với hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, các Hiệp định của mình,WTO đã tạo ra một hành lang pháp lý để từ đó các nước có thể đẩy nhanh tiến hành tiến trình toàn cầu hoá, tự do thương mại, đồng thời tiếp nhận những cơ hội thuận lợi để phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, hoạt động của WTO cùng với hệ thông các nguyên tắc và hiệp định của mình không phải lúc nào cũng có lợi và đảm bảo được sự công bằng cho các nước thành viên, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Để có thể tìm hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của WTO đến sự phát triển nền kinh tế của các nước đang phát triển, em đã lựa chọn đề tài: Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển. làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, nội dung của khoá luận được chia làm ba chương: Chương 1 : Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO. Chưong 2 : Tác động của WTO đến các nước đang phát triển. Chương 3: Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, những cơ hội và thách thức. Với những kiến thức đã được trang bị trong 4 năm qua tại Khoa Kinh tế Đại học Quốc Gia-Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Khu Thị Tuyết Mai, em đã hoàn thành được bài khoá luận này. Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu và do trình độ có hạn của người viết khoá luận này không tránh được nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để bài khoá luận này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO 1.1 Sự ra đời của WTO. 1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức tiền thân của WTO. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General agreements on Tariff & Trade) là tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, GATT được ra đời trong trào lưu hình thành hàng loạt các cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế nhằm khôi phục lại sự phát triển kinh tế thương mại thế giới. Ý tưởng ban đầu của các nước là thành lập một tổ chức thứ ba cùng với hai tổ chức được biết đến là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF) nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống "Bretton Woods", hình thành các nguyên tắc thế lệ cho thương mại quốc tế, điều tiết các lĩnh vực về thương mại hàng hoá, công ăn việc làm, hạn chế và khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc thương mại phát triển. Vì vậy kế hoạch đầy đủ được trên 50 nước lúc đó dự định là thiết lập tổ chức thương mại thế giới (ITO) như là một tổ chức chuyên ngành của Liên hợp quốc (UN). Dự thảo hiến chương ITO rất tham vọng, dự thảo này đã tiến xa hơn các nguyên tắc về thương mại gồm các lĩnh vực như lao động, hiệp định hàng hoá, thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Trước khi hiến chương ITO được phê chuẩn, 23 trong số 50 nước đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phám vế thuế quan xử lý các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang được áp dụng và duy trì trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30. Các nước này mong muốn nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch, khôi phục lại nền kinh tế bị phá huỷ nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ II. Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại thế giới đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên hợp Quốc tế về thương mại và việc làm tại Havana từ 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một số nước không tán thành nên việc hình thành tổ chức thương mại thế giới (ITO) đã không thực hiện được. Tuy nhiên kết quả của cuộc đàm phán cũng đem lại sự thành công nhất định; đã có 45000 nhượng bộ về thuế quan, ảnh hưởng đến khối lượng thương mại trị giá 10 tỉ $, tức là gần 1/5 tổng thương mại trên thế giới. 23 nước này đều cùng nhất trí chấp nhận ủng hộ một số quy định trong hiến chương của ITO. Các quy định này sẽ được thực hiện hết sức nhanh chóng một cách tạm thời để có thể bảo vệ được thành quả của những cam kết thuế quan đã được đàm phán. Kết hợp của những qui định thương mại và cam kết thuế quan được biết đến dưới tên gọi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 11/1/1948. 23 nước tham gia trở thành những thành viên sáng lập GATT, hay còn gọi là "các bên tham gia hiệp định". Mặc dù GATT chỉ mang tính tạm thời nhưng đây vẫn là công cụ duy nhất mang tính đa biên điều tiết thương mại thế giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1995 và trong suốt thời gian đó các văn bản pháp lý của GATT vẫn được duy trì gần giống năm 1948. Có thêm một số hiệp định mới được đưa vào dưới dạng hiệp định "nhiều bên" và các nỗ lực cắt giảm thế quan vẫn được tiếp tục. Tất cả những bước tiến lớn của thương mại quốc tế đã diễn ra thông qua các cuộc đàm phán thương mại đa biên được biết đến dưới cái tên "vòng đàm phán thương mại". Bảng 1: Các vòng đàm phán của GATT Năm Địa điểm Chủ đề đàm phán Số nước 1947 Geneva Thuế quan 23 1949 Annecy Thuế quan 13 1951 Torquay Thuế quan 38 1956 Geneva Thuế quan 26 1960 - 1961 Geneva (vòng Dillon) Thuế quan 26 1964 - 1967 Geneva (vòng Kenedy) Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá 62 1973 - 1979 Geneva ( Vòng Tokyo) Thuế quan và các biện pháp phi thuế, các hiệp định khung. 102 1986 - 1994 Geneva (vòng Uruguay) Thuế quan và các biện pháp Phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí Tuệ, giải quyết tranh chấp, Nông nghiệp,WTO... 123 Trong các vòng đàm phán thương mại đầu tiên của GATT chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan hơn nữa. Đến vòng Kenedy, nội dung của các vòng đàm phán đã được mở rộng: đưa ra đàm phàn về hiệp định chống bán phá giá, số nước tham gia là 62 nước. Tiếp theo là vòng đàm phán Tokyo, kéo dài từ năm 1973 đến năm 1979 với sự tham gia của 102 nước. Kết quả vòng đàm phán này bao gồm 9 thị trường công nghiệp hàng đầu trên thế giới cắt giảm trung bình 1/3 mức thuế quan và do đó mức thuế trung bình đối với hàng nông sản giảm xuống ở mức 47%. Việc cắt giảm thuế quan sẽ được thực hiện trong vòng 8 năm bao gồm cả vấn đề điều hoà thuế - thuế càng cao thì cắt giảm càng lớn theo tỷ lệ. Tuy nhiên, bên cạnh các vấn đề có kết quả như trên thì đối với các vấn đề khác kết quả của vòng đàm phán Tokyo là không mấy hoàn hảo. Vòng đàm phán này đã thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến thương mại hàng nông sản, không đưa ra được hiệp định mới về các biện pháp tự vệ (biện pháp khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu). Mặc dù vậy, đã có nhiều hiệp định về hàng rào phi quan thuế đã xuất hiện tại vòng đàm phán này (một vài hiệp định mới hoàn toàn, một vài hiệp định tiếp tục bổ sung thêm từ các qui dịnh của GATT). Trong phần lớn các trường hợp thì chỉ có một số nước rất nhỏ, chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển chấp nhận tham gia vào các hiêp định mới này vì họ là những người được lợi ích nhiều nhất. Do đó, các hiệp định này chỉ được gọi là "hệ thống qui tắc". Những qui tắc này không mang tính chất đa biên, nhưng đây là một bước khởi đầu mới. Các "hệ thống qui tắc" của vòng Tokyo: + Trợ cấp và các biện pháp đổi kháng - diễn giải điều 6.16 và 23 hiệp định GATT. + Các hàng rào kỹ thuật đổi với thương mại - còn được gọi là: Hiệp định về tiêu chuẩn. + Các thủ tục cấp phép nhập khẩu. + Mua sắm chính phủ. + Định giá hải quan - diễn giải điều 7. + Chống phá giá - diễn giải điều 6, thay cho qui định vòng Kenedy. + Thoả thuận về sữa quốc tế. + Thương mại máy bay dân dụng. Một số hệ thống qui tắc sau vòng đàm phán Uuguay đã được điều chỉnh lại và được cam kết mang tính chất đa biên buộc các nước thành viên phải cùng nhau thực hiện. Chỉ có 4 hiệp định: mua sắm chính phủ, máy bay dân dụng cho đến hiện nay vẫn mang tính nhiều bên. Vào năm 1997, hai hiệp định về thịt bò và sữa đã được huỷ bỏ. Cho đến hết vòng đàm phán Tokyo, GATT hoạt động mang tính tạm thời và có phạm vi hoạt động hạn chế. Tuy nhiên, GATT đã đem lại những thành công rất lớn trong việc đảm bảo tự do hoá phần lớn thương mại quốc tế. Chỉ tính đến việc cắt giảm thuế quan đã khiến cho tốc độ tăng trưởng trung bình của thương mại thế giới lên mức trung bình trong suốt thập niên 50-60. Chính tốc độ tự do hoá mậu dịch đã giúp cho tốc độ tăng trưởng của thương mại luôn luôn vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt thời kỳ GATT tồn tại. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều nước đệ đơn tham gia xin gia nhập đã cho thấy hệ thống thương mại đa biên đã được công nhận như một công cụ để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, thương mại của cả thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đã xuất hiện những vấn đề mới nảy sinh. Vòng Tokyo đã cố gắng giải quyết một số vấn đề đó nhưng kết quả mang lại còn khá hạn chế. GATT đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn. Thứ nhất, thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức thấp cộng với tác động của suy thoái kinh tế trong suốt thập niên 70 và 80 đã dẫn đến việc chính phủ các nước đã tiến hành điều chỉnh các hình thức bảo hộ đối với các lĩnh vực đang phải cạnh tranh với nước ngoài nhằm có thể giữ được ổn định cho nền kinh tế của họ. Tỷ lệ thất nghiệp cao cộng với việc phải đóng cửa liên tục nhiều nhà máy đã buộc chính phủ các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phải đi đến thoả thuận song phương về chia sẻ thị trường với các nhà cạnh tranh và ngày càng tăng dần mức độ trợ cấp nhằm duy trì được vị trí của mình, nhất là trong thương maị hàng nông sản. Những thay đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị của việc giảm thuế quan đã mang lại cho thương mại quốc tế, vì vậy hiệu quả và độ tin cậy của GATT bị suy giảm. Thứ hai, đến thập niên 80 thì Hiệp định chung không còn đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn của thương mại quốc tế như ở thập niên 40 nữa. Ít nhất thì hệ thống thương mại thế giới đã trở nên phức tạp, đa dạng và quan trọng hơn rất nhiều so với 40 năm trước. Phần lớn GATT chỉ điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình nhưng ngày nay nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, thương mại dịch vụ - lĩnh vực không được hiệp định GATT điều chỉnh đã trở thành lợi ích cơ bản của ngày càng nhiều nước. Từ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tư vấn ... đã phát triển không ngừng; đầu tư quốc tế cũng được mở rộng. Thương mại dịch vụ phát triển cũng kéo theo sự gia tăng hơn nữa của thương mại hàng hoá. Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá GATT cũng còn nhiều bất cập, ví dụ đối với lĩnh vực nông nghiệp, những lỗ hổng của hệ thống thương mại đa biên đã bị lợi dụng triệt để và mọi nỗ lực nhằm tự do hoá hàng nông sản đã không đạt được thành công. Trong lĩnh vực hàng dệt may cũng vậy, các nước đã cùng nhau miễn trừ các nguyên tắc của GATT và đưa ra một hiệp định mới là Hiệp định đa sợi. Thứ tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng gây ra nhiều lo ngại. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia không mang tính chất bắt buộc do vậy các nước có thể tuân theo và cũng có thể không. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế trong những năm 80 trở đi đòi hỏi phải có một tổ chức cố định, có nền tảng pháp lý vững chắc để có thể đảm bảo thực thi các quy định, các nguyên tắc chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống các quy chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng chưa có cơ chế chặt chẽ, chưa có thời gian biểu nhất định do vậy các cuộc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ đi vào ách tắc. Đây là những nhân tố khiến cho các thành viên của GATT tin rằng phải có những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Những nỗ lực đó đã dẫn đến kết quả có vòng đàm phán Uruguay, tuyên bố Marrakesh và việc tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời. 1.1.2 Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO. 1.1.2.1 Vòng đàm phán Uruguay. Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán lớn nhất cả về thời gian và các lĩnh vực thương mại. Vòng này kéo dài 7 năm rưỡi, gần bằng 2 lần thời gian dự định ban đầu. Đến cuối vòng đàm phán số nước tham dự đă lên tới 125 nước; đây thực sự là vòng đàm phán thương mại lớn nhất từ trước tới nay và có lẽ đây cũng là cuộc đàm phán thuộc loại lớn nhất trong lịch sử. Một số thời điểm chủ chốt của vòng Uruguay: Tháng 9/86 Punta del Este: bắt đầu. Tháng 12/88 Montreal: rà soát giữa kỳ của các bộ trưởng. Tháng 4/89 Geneva: Rà soát giữa kỳ hoàn thành. Tháng 12/90 Brussels: bế mạc hội nghị bộ trưởng trong bế tắc. Tháng 12/91 Genneva: Dự thảo đầu tiên của "Hiệp định cuối cùng" được hoàn thành. Tháng 11/92 Washington: Mỹ và EC đạt được mức bột phá mang tên "Blair House" trong lĩnh vực nông nghiệp. Tháng 7/93 Tokyo: Nhóm Quad đạt được bước đột phá về mở cửa thị trường tại hội nghị thượng đỉnh G7 Tháng 12/93 Geneva: Phần lớn các cuộc đàm phán kết thúc (một số cuộc thương thảo về mở cửa thị trường được tiếp tục). Tháng 4/94 Marrakesh: Các hiệp định được ký. Tháng 1/95 Geneva: WTO được thành lập và các hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Mặc dù tại một số thời điểm, vòng đàm phán có vẻ như thất bại, nhưng cuối cùng vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất từ trước tới nay đối với hệ thống thương mại quốc tế. Cơ sở cho chương trình nghị sự của vòng đàm phán Uruguay đã được khởi đầu ngay từ tháng 11 năm 1982 tại Geneva, tuy nhiên phải mất đến 4 năm để thăm dò làm rõ các vấn đề và xây dựng sự nhất trí thì các bộ trưởng mới đi đến thống nhất trong việc đưa ra 1 vòng đàm phán mới. Cuộc đàm phán được bắt đầu tại Punta del Este Uruguay (1986). Chương trình đàm phán bao gồm hầu hết các vấn đề chính sách thương mại còn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trí tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực có tính nhạy cảm cao như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soát lại. Hai năm sau đó, vào tháng 12 năm 1988, các Bộ trưởng gặp nhau tại Montreal, Canada nhằm mục đích kiểm điểm lại những tiến triển tại thời điểm giữa vòng đàm phán, bên cạnh đó tiếp tục đề ra mục tiêu cho các cuộc đàm phán tiếp theo. Tuy nhiên, đàm phán đã đi đến bế tắc. Mọi vấn đề chỉ được giải quyết tại hội nghị ở Geneva 4 năm sau đó. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn, tại hội nghị Montreal các vị bộ trưởng đều thống nhất thông qua hầu hết các kết quả ban đầu gồm : các nhượng bộ mở cửa thị trường cho hàng nhiệt đới nhằm mục đích giúp đỡ các nước đang phát triển; cơ chế giải quyết tranh chấp được đơn giản hóa và một cơ chế rà soát chính sách thương mại. Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên đưa ra được một cơ chế thường xuyên, mang tính hệ thống và toàn diện để rà soát chính sách và thực hành thương mại đối với các nước thành viên của GATT. Vòng đàm phán này đã dự định kết thúc tại Brussels vào tháng 12 năm 1990, nhưng do bất đồng quan điểm giữa các bên về cách thức tiến hành cải cách hệ thống thương mại hàng nông sản nên đã phải kéo dài. Đây là thời kỳ vòng Uruguay đang đi vào giai đoạn khó khăn nhất. Cho dù viễn cảnh chính trị đen tối, một khối lượng công việc kỹ thuật đáng kể đã được thực hiện và dẫn đến kết quả là có một dự thảo hiệp định pháp lý cuối cùng, dự thảo này được gọi là “Dự thảo luật cuối cùng”. Dự thảo này được đệ trình tại Geneva vào năm 1991. Dự thảo đã hoàn tất được tất cả các mục tiêu đề ra tại Punta del Este, ngoại trừ danh mục cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ của các nước. Dự thảo này đã trở thành cơ sở để có được sự thống nhất cuối cùng. Trong vòng hai năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã đứng giữa hai ngả, một bên là thất bại cận kề, một bên là thành công với tới được. Một vài thời hạn cuối cùng được đưa ra và bị vượt quá. Tại vòng đàm phán đã nảy sinh những bất đồng quan điểm bên cạnh vấn đề nông nghiệp ; đó là dịch vụ, mở cửa thị trường, các qui tắc chống bán phá giá và đề xuất về việc thành lập một tổ chức thương mại mới. Tại đây, bất đồng quan điểm của Mỹ và EU chính là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho vòng đàm phán chưa thể kết thúc thành công được. Tháng 11 năm 1992, Mỹ và EU đã thống nhất được phần lớn sự khác biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, cả hai đã đưa ra được một thỏa thuận mang tên “Thỏa thuận Blair House”. Đến tháng 7 năm 1993, nhóm Quad ( Mỹ, EU, Nhật, Canada ) tuyên bố đã đạt được những thỏa thuận đáng kể trong đàm phán thuế quan và các vấn đề liên quan đến mở cửa thị trường. Đến 15 tháng 12 năm 1993 thì tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết và đàm phán về mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ được kết thúc. Ngày 15/4/1994, thỏa thuận đã được bộ trưởng của phần lớn 125 nước tham gia hội nghị ký kết tại Marrakesh, Marốc. Cuối cùng, vào tháng 1/1995 hội nghị bộ trưởng tại Geneva đã thống nhất thành lập một tổ chức thương mại mới, tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization - viết tắt là WTO chính thức được thành lập ; các hiệp định được kí kết tại vòng đàm phàn Uruguay bắt đầu có hiệu lực. Nhìn chung tại một số thời điểm, vòng Uruguay có vẻ như đã thất bại, tuy nhiên cuối cùng thì vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất, là bước tiến quan trọng nhất đối với hệ thống thương mại thế giới kể từ ngày GATT được thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Mặc dù còn gặp phải nhiều vấn đề, vòng Uruguay đã đem lại một số kết quả ngay từ những ngày đầu: Trong vòng 2 năm các nước tham dự đã nhất trí cắt giảm thuế nhập khẩu với hàng nhiệt đới - những sản phẩm chủ yếu do các nước đang phát triển xuất khẩu. Các nước cũng đã nhất trí điều chỉnh các qui định về giải quyết tranh chấp, trong đó một số biện pháp đã được thực hiện ngay lập tức. Các nước cũng yêu cầu cần có báo cáo thường xuyên về hệ thống chính sách thương mại của các nước thành viên, đây là một bước tiến hết sức quan trọng nhằm làm minh bạch hóa hệ thống chính sách của các nước trên thế giới. Với kết quả của vòng đàm phán Uruguay người ta ước tính thuế quan nói chung sẽ giảm đi trung bình khoảng 40%. Dự kiến Mĩ sẽ giảm 35%, Canada 45%, ấn Độ 55%, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) 41%, Đài Loan giảm khoảng 30 - 50% cho hàng công nghiệp và nông sản. Với mức thuế hàng nông sản nói riêng, trong vòng 6 năm tới tính từ năm 1995 sẽ giảm 36% và mức trợ cấp gây phương hại cho thương mại bình đẳng cũng sẽ giảm 20%. Do đó, người ta dự đoán rằng từ năm 1995 đến năm 2002, buôn bán quốc tế sẽ tăng thêm từ 213 - 272 tỷ đô la mỗi năm, xuất khẩu thế giới mỗi năm tăng 5% nhập khẩu tăng 3,5%. * Chương trình nghị sự : 15 chủ đề tại vòng đàm phán Uruguay + Thuế quan + Hàng rào phi thuế quan + Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên + Hàng dệt may + Nông nghiệp + Sản phẩm nhiệt đới + Các điều khoản của GATT + Các hệ thống qui định của vòng đàm phán Tokyo + Chống phá giá + Trợ cấp + Tài sản trí tuệ + Các biện pháp đầu tư + Giải quyết tranh chấp + Hệ thống GATT + Dịch vụ. 1.2.2. Sự khác nhau giữa WTO và GATT WTO là một tổ chức thương mại được thành lập trên cơ sở kế thừa GATT. GATT sau WTO đã được sửa đổi, bổ sung và là một trong những hiệp định của WTO. Sau đây là những khác biệt chủ chốt : + GATT chỉ mang tính chất tạm thời. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan chưa bao giờ được quốc hội các nước phê chuẩn; nó không có qui định nào về việc thành lập một tổ chức nhất định. WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. WTO là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trí của các quốc gia thành viên. WTO có nền tảng pháp lý vững chức bởi vì các nước thành viên đã thông qua các hiệp định và chính các hiệp định đã mô tả phương thức hoạt động của tổ chức. Các quốc gia thành viên phải thực hiện đúng theo các qui định, nguyên tắc của WTO và các hiệp định của nó. + GATT chỉ có "các bên tham gia ký kết", điều này cho thấy rõ ràng là GATT chỉ mang tính chất một hiệp định. WTO có các nước thành viên và WTO là một tổ chức quốc tế. + Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong khi đó WTO là tổ chức kế thừa và phát triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cùng với các hiệp định khác của WTO như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). WTO đã đưa 3 hiệp định này vào chung một tổ chức. + Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT. Đây là đóng góp lớn nhất của WTO đối với hệ thống thương mại thế giới. Trước đây việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký kết GATT được dựa vào hai cơ chế chủ yếu : + Theo điều khoản tham vấn và điều khoản Bảo vệ các ưu đãi và lợi ích. + Cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp định đa phương. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn bị những hạn chế : + Các nghị quyết đạt được không giải quyết được những tranh chấp phát sinh, thường dẫn đến việc các bên thương lượng hoà giải là chính. + Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính tự động do vậy bên bị kiện có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm chuyên trách (Ban hội thẩm) tiến hành hoạt động của mình. + Thời hạn tiến hành qui trình giải quyết tranh chấp quá dài. + Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện. Những khiếm khuyết trên làm giảm bớt những giá trị của tự do hoá thương mại mà hệ thống thương maị đa phương đem lại các nước đã vấp phải nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp với các đối tác mạnh hơn mình. Đối với WTO, tổ chức thương mại thế giới đã đưa ra được một cơ chế giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế được những hành động đơn phương, độc đoán của các cường quốc thương mại, cho phép nhanh chóng tháo gỡ những ách tắc thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Các thủ tục của WTO dựa trên qui định luật pháp và giúp cho hệ thống thương mại an toàn và dễ dự báo hơn. Hệ thống này dựa trên các qui tắc được xác định rõ ràng với cả biểu thời gian để hoàn thành một vụ tranh chấp. Một nhóm chuyên gia sẽ được thành lập cho mỗi tranh chấp. Nhóm này sẽ đưa ra các qui định đầu tiên và các thành viên WTO có thể ủng hộ hay phản đối, các kháng cáo dựa trên luật là có thể chấp nhận được. Các thành viên WTO đều nhất trí rằng khi mà một nước thành viên khác đang vi phạm qui tắc thương mại, họ sẽ sử dụng hệ thống thương mại đa biên để giải quyết tranh chấp thay cho việc thực hiện các hành động đơn phương. Trước đây GATT có thủ tục để giải quyết tranh chấp nhưng nó chưa đưa ra được thời gian biểu cụ thể, các qui định dễ bị cản trở và nhiều vụ vẫn không giải quyết được sau một thời gian dài. WTO đã đưa ra một quy trình giải quyết tranh chấp với thời gian và thủ tục được xác định rõ ràng hơn. Khoảng thời gian để giải quyết một vụ tranh chấp dài hơn trước kia. Thời hạn cuối cùng cho mỗi giai đoạn giải quyết tranh chấp rất linh hoạt. Hiệp định nhấn mạnh việc giải quyết nhanh chóng là cần thiết. Các thủ tục và thời gian biểu phải được tuân theo trong quá trình giải quyết. WTO cũng không cho phép các nước thất bại trong vụ tranh chấp ngăn cản việc thi hành quyết nghị. Theo thủ tục của GATT các quyết định chỉ có thể được thông qua theo các thoả hiệp. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một sự phản đối nào đó cũng có thể ngăn việc thi hành quyết nghị. Nhưng hiện nay các quyết nghị được thông qua một cách tự động, trừ khi có một thoả hiệp để từ chối một quyết nghị. Bất kỳ một nước nào muốn ngăn cản một quyết nghị cũng cần phải thuyết phục các thành viên khác (kể cả đối thủ) đồng ý với quan điểm của mình. Tóm lại, hệ thống giải quyết tranh chấp được coi là một trong những thành tựu lớn nhất của WTO. 1.2 Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc hoạt động của WTO Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải quyết các qui định về thương mại giữa các quốc gia với nhau. Nội dung chính của WTO là các hiệp định được hầu hết các nước có nền thương mại cùng nhau tham gia đàm phán và ký kết. Các văn bản này qui định các cơ sở pháp lý làm nền tảng cho thương mại quốc tế. Các tài liệu đó về cơ bản mang tính ràng buộc các chính phủ phải duy trì một chế độ thương mại trong một khuôn khổ đã được các bên thống nhất. Mặc dù các thoả thuận đạt được là do các chính phủ đàm phán và ký kết nhưng mục đích lại nhằm giúp các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nước; các nhà hoạt động xuất nhập khẩu có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn. 1.2.1. Mục tiêu : Mục tiêu chính của hệ thống thương mại thế giới là nhằm giúp thương mại được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nó còn nằm trong giới hạn không gây ra các ảnh hưởng xấu không muốn có. Ngoài ra, WTO còn có những mục tiêu sau: + Nâng cao mức sống của con người. + Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực tế của người lao động. + Phát triển việc sử dụng hợp lý của người lao động. + Phát triển việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới . + Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới. 1.2.2 Chức năng của WTO. WTO có những chức năng sau đây: Chức năng thứ nhất của WTO: Là tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên mà nội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Thông qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của các nước trên thế giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới cũng được xây dựng và sửa đổi theo yêu cầu của thời đại. Chức năng thứ hai của WTO: Là một luật lệ quốc tế chung được các nước thành viên cùng nhau ký kết. WTO đề ra những qui tắc quốc tế về thương mại và đảm bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc trưng của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có hiệu lực bắt buộc tất cả các thành viên và có khả năng làm cho mọi thành viên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận "hiệp định WTO" và những hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần phải điều chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO. Chức năng thứ ba của WTO: Là khả năng giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ một thành viên nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại trong hoạt động kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang thực hiện chính sách trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên cơ quan giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt động kinh tế xâm hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi. Chức năng thứ tư của WTO: Là phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc giảm nhẹ qui chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 1.2.3 Các nguyên tắc của WTO. Các hiệp định của WTO mang tính chất lâu dài và phức tạp đó là vì những văn bản pháp lý bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn. Các hiệp định này giải quyết các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, bưu chính viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ sinh dịch tễ, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác nữa. Tuy nhiên có một số các nguyên tắc hết sức cơ bản và đơn giản xuyên suốt tất cả các hiệp định. Các nguyên tắc đó chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Sau đây là chi tiết các nguyên tắc đó. Nguyên tắc thứ nhất: Là thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như nhau. Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên khác tương tự nhau. Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên của hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng hoá. Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ GATS, hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy có khác nhau một ít ở từng hiệp định. Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự. Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu, quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán. Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương mại này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại. Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước. Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong tương lai. Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với thương mại hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần. Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có nghĩa là phải bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm phán Uruguay, một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng buộc thuế. Tính riêng trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được ràng buộc thuế. Kết quả là WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo thuận lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết. Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 2.1. Những ảnh hưởng của WTO đối với các nước đang phát triển. 2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực. Tổ chức thương mại thế giới WTO là một tổ chức quốc tế, điều tiết hệ thống thương mại đa biên, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và đến nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên nói riêng. Đối với các nước đang phát triển, gia nhập WTO đã mang lại được rất nhiều lợi ích thiết thực đối với công cuộc phát triển kinh tế của họ. Cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế và đặc biệt là sự ra đời của WTO từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân của các nước đang phát triển luôn đạt khoảng từ 4% đến 5%. Tỷ trọng kinh tế của các nước này trong nền kinh tế toàn cầu đã tăng lên nhanh chóng, từ 13% năm 1995 lên 29% năm 1998 (chỉ 3 năm, sau khi WTO ra đời). Tỷ trọng trong thương mại thế giới của các nước đang phát triển cũng tăng lên từ 11% đến 32% trong cùng thời kỳ. Đến năm 2010, theo dự báo, tỷ lệ này có thể lên tới 45%. Đặc biệt, các nền kinh tế Đông á trong nhiều năm liền có tốc độ tăng trưởng nhanh đã đạt đến tỷ lệ 7%. Các nước Mỹ La Tinh cũng đạt mức tăng trưởng bình quân cao; các nước Châu Phi đã dần dần bước ra khỏi tình trạng bi đát về kinh tế. Năm 1999, Châu Phi đã đạt mức tăng trưởng 3,6% là mức cao nhất từ hơn một thập kỷ qua. Một số nước đang phát triển có tốc độ phát triển cao đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Đây là những con số tổng quan về những thành công của hoạt động của tổ chức thương mại thế giới đối với các nước đang phát triển, làm rõ thêm những ảnh hưởng tích cực của WTO đến các mặt của nền kinh tế: Thứ nhất, tất cả các hàng hoá và dịch vụ của các nước đang phát triển là thành viên của WTO đều được đối xử theo các nguyên tắc, quy định của WTO; được đối xử bình đẳng, không phân biệt đối với hàng hoá và dịch vụ của các nước phát triển. Các loại hàng hoá và dịch vụ này khi được xuất khẩu sang bất kỳ một thị trường của một nước thành viên nào kể cả Mỹ hay EU đều được hưởng mọi quyền lợi mà chính phủ nước đó dành cho hàng hoá và dịch vụ nước mình. Thứ hai, các rào cản thuế và phi thuế quan đều buộc phải cắt giảm, các biện pháp hạn chế định lượng đều bị cấm sử dụng được áp dụng cho mọi thành viên của WTO không loại trừ một thành viên nào của WTO. Do đó cơ hội xuất khẩu của các nước đang phát triển gia tăng rõ rệt, thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ được mở rộng. Các nước đang phát triển đã và sẽ tập trung chuyên môn hoá các mặt hàng mà mình có lợi thế, nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Thứ ba, sản xuất trong nước được chú trọng và thu hút được nhiều lao động, tạo được nhiều công ăn việc làm hơn cho người dân, đặc biệt là trong những ngành nghề sản xuất phục vụ xuất khẩu làm tăng nhanh sự tăng trưởng của nền kinh tế và xã hội của nước đó. Thứ tư, là thành viên của WTO, có nghĩa là các nước đã tạo dựng được một môi trường kinh tế, chính trị ổn định, tạo được sự tín nhiệm của các nước trên thế giới. Chính vì vậy, các nước đang phát triển có thể mở rộng được thị phần của mình trên thị trường quốc tế, giành được nhiều ưu đãi thương mại tạo được cho mình lợi thế kinh tế chính trị, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Thứ năm, các quan hệ kinh tế, văn hoá, chính trị với các nước thành viên được mở rộng, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt trong quản kí kinh tế, xã hội, khoa học kĩ thuật, tiếp cận được các thành tựu KHKT tiên tiến trên thế giới, cũng như tiếp thu được các lối sống văn hoá của các nền văn minh khác nhau trên thế giới. Thứ sáu, hoạt động của WTO khiến cho cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt, do đó các doanh nghiệp của các nước đang phát triển buộc phải tìm tòi, khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời áp dụng công nghệ mới phát triển bền vững hoạt động sản xuất kinh doanh, tích tụ được nhiều nguồn lực để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh tích cực trong nước thúc đẩy nền kinh tế phát triển và có đủ năng lực canh tranh được với nước ngoài, thích ứng với xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Cạnh tranh với bất cứ bản chất nào thì cũng khiến cho các nước đang phát triển có tầm nhìn tốt hơn, tiếp cận được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa cải tiến và chấp nhận các tiêu chuẩn giám sát quốc tế tốt nhất, kiểm soát được rủi ro và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Thứ bẩy, vấn đề di chuyển lao động giữa các nước thành viên đã trở nên dễ dàng hơn. Di chuyển lao động tự do đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho các nước đang phát triển. Cái lợi của các nước đang phát triển thường xuyên xuất khẩu lao động là nhận được một khoản thu nhập ngoại tệ không nhỏ từ tiền lương mà nước sở tại trả cho người lao động. Theo báo cáo của Economic Aspects thì trong những năm 1990 - 1995 khoản tiền đó lên đến 70 tỷ USD. Xuất khẩu lao động có vị trí đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vừa thay đổi cán cân kinh tế vừa tăng sức mua của xã hội thúc đẩy thương mại và sản xuất nội địa. Thêm vào đó, các nước phát triển thường nhập khẩu lao động từ các nước đang phát triển và sau thời gian làm việc cho các hãng, công ty kinh nghiệm, tay nghề và trình độ của người lao động được nâng lên, có khả năng tiếp cận với nền công nghiệp tiên tiến, khi trở về tổ quốc, họ sẽ trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển đất nước. 2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, những lợi ích không nhỏ, nhận được từ WTO, các nước đang phát triển phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực của nó: Thứ nhất, trong tổ chức thương mại thế giới, theo các nguyên tắc của nó, mọi thành viên đều được đối xử như nhau, đều được hưởng mọi đãi ngộ MFN và NT, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước đều được giảm dần... chính vì vậy, thị trường tiêu thụ được mở rộng, các nước đều tập trung sản xuất theo định hướng xuất khẩu. Các nước đang phát triển cũng không là ngoại lệ. Các nước này đều chú trọng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mà mình có lợi thế so sánh và mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất là nguyên liệu thô và các mặt hàng công nghiệp có giá trị thấp. Tuy nhiên trên thực tế, các nước đang phát triển cũng bị buộc phải sản xuất ra các mặt hàng có giá trị và lợi nhuận thấp đó. Các nước phát triển sử dụng đòn bẩy thuế quan buộc các nước đang phát triển phải tập trung khai thác và xuất khẩu hai loại hàng hoá có mức thuế thấp như nguyên liệu thô và hàng hoá bán thành phẩm, còn mặt hàng công nghiệp có giá trị cao thì chịu thuế cao hơn và vấn đề tìm kiếm thị trường cũng gặp nhiều khó khăn hơn, điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền công nghiệp nội địa của các nước đang phát triển. Do các nước đang phát triển chỉ sản xuất được các hàng công nghiệp có giá trị thấp, không chú trọng được vào đầu tư và phát triển các ngành công nghiệp giá trị cao và phải nhập khẩu các mặt hàng này từ các nước phát triển. Công nghiệp nội địa của các nước đang phát triển do đó không có cơ hội để phát triển. Mặt khác, trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, vai trò của các ngành công nghiệp dịch vụ và lao động kỹ năng ngày càng tăng lên và cùng với nó là sự giảm dần tầm quan trọng của các hàng hoá sơ chế và lao động không kỹ năng. Bên cạnh đó, sự tiến bộ trong khoa học công nghệ cũng không chỉ làm thay đổi cơ cấu mà còn làm thay đổi tầm quan trọng của các sản phẩm đầu vào. Các ngành công nghiệp hiện đại ngày càng ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên, do đó chúng không còn là yếu tố cạnh tranh quan trọng nữa. Điều này đã khiến cho các nước đang phát triển vốn là những nước xuất khẩu hàng hoá sơ chế và nguồn lao động không kỹ năng rơi vào tình trạng rất bất lợi. Thứ hai, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nước đang phát triển cũng phải chịu những tác động rất lớn trong quá trình điều tiết hệ thống thương mại đa biên của WTO: Do định hướng xuất khẩu, nền nông nghiệp của các nước đang phát triển cùng chú trọng vào sản xuất các mặt hàng có giá trị xuất khẩu, đất đai ngày càng khan hiếm, vì một phần bị lấy đi để phát triển công nghiệp, thành thị. Sản lượng lương thực của nhiều nước giảm đi rõ rệt. Điều đó, có nghĩa là sự sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp đã không thoả mãn yêu cầu của nhân dân trong nước do sự bành trướng của cây công nghiệp. Rất nhiều nước đang phát triển, vấn đề an ninh lương thực bị đe doạ nghiêm trọng, buộc các nước này phải nhập khẩu lương thực từ nước ngoài, mức độ lệ thuộc lương thực của các nước này ngày càng gia tăng. Sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Các nước đang phát triển phần lớn đều phải gánh chịu tình trạng dù tỷ lệ tăng trưởng của cả nước khá cao và ngày càng gia tăng nhưng tại các khu vực nông thôn, tình trạng đói nghèo vẫn tồn tại, có nơi còn tăng lên. Sự phồn vinh chỉ thấy được tại các khu vực thành thị. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các nước đangphát triển quá chú trọng vào phát triển công nghiệp,dẫn đến sự phát triển bất cân đối, các nguồn lực ít được đầu tư cho nông nghiệp, nông dân không có đủ điều kiện để phát triển sản xuất. Thứ ba, xu hướng đô thị hoá cộng với tình trạng nguồn lực của nông thôn bị hạn chế buộc rất nhiều nông dân ra thành phố kiếm sống. Nhiều thành phố vì thế đã trở nên quá tải, mật độ dân cư tăng lên quá nhanh ,đã khiến cho tình trạng ô nhiễm, các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông... tăng vọt. Thứ tư, để thực hiện theo quy định của WTO, các nước đang phát triển sẽ bị thúc ép, buộc phải từ bỏ ngày càng nhiều các chính sách hiện hữu đang bảo vệ và phát triển nền kinh tế nội địa của mình cho hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài tự do tràn vào, gây ra các tác động xấu: Phải mở cửa nền kinh tế khi đất nước chưa đủ tiềm lực và sự chuẩn bị đối phó trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh và chưa chuẩn bị sẵn sàng để cạnh tranh với các tập đoàn lớn, có thể các công ty, tập đoàn đó sẽ thế chân họ trên thị trường trong nước. Hàng hoá hoặc dịch vụ nước ngoài có thể tràn ngập thị trường, thế chỗ hàng hóa và dịch vụ nội địa do chúng có sức cạnh tranh cao hơn, như giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, các công ty nước ngoài sẽ ngày càng chiếm được nhiều thị phần của khu vực nội địa. Tình trạng chảy máu chất xám tại các nước đang phát triển gia tăng, do các chính sách đãi ngộ cao của các nước phát triển, nhằm thu hút lao động có trình độ cao sang làm việc cho họ. Nguồn nhân lực tại các nước đang phát triển bị thiệt hại nặng nề, đặc biệt là nguồn nhân lực có kĩ năng cao. Quá trình tự do hoá thương mại đã kéo theo nhiều vấn đề, ảnh hưởng xấu đến nền văn hoá, lối sống tại các nước đang phát triển, du nhập nhiều sách báo, văn hoá phẩm không lành mạnh, làm cho nhận thức của người dân bị sai lệch, do ảnh hưởng của lối sống nước ngoài; tình trạng xung đột bạo lực ngày một gia tăng...Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, do tình trạng khai thác bừa bãi, các chất độc hại của các khu công nghiệp thải ra môi trường không kiểm soát được. Trong xã hội, tình trạng bất bình đẳng ngày càng trầm trọng, người giàu càng giàu thêm, người nghèo càng nghèo đi, sự bất bình đẳng vốn đã ngấm ngầm trong xã hội về giai cấp, sắc tộc, màu da... hiện nay càng trở nên rõ rệt và sâu sắc hơn bao giờ hết. 2.2 Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các nền kinh tế đang phát triển trong qúa trình thực hiện các hiệp định của WTO. 2.2.1 Hiệp định về tự do hàng nông sản. 2.2.1.1 Nội dung: Hàng nông sản là mặt hàng tương đối nhạy cảm, cho nên từ trước đến nay vẫn được hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù nông sản chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới và không quá 5% GDP của nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, nhưng thương mại hàng nông sản vẫn luôn là đối tượng rất quan trọng trong đàm phán thương mại quốc tế. Thương mại hàng nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính sách thương mại của các nước thành viên WTO. Trong thời kỳ GATT, thương mại hàng nông sản đã được quy định, điều chỉnh, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chẳng hạn như cho phép các nước áp dụng một số biện pháp phi thuế, hạn ngạch nhập khẩu... cho loại hàng hóa này. Mậu dịch nông sản do đó trở nên méo mó cao độ. Nguyên nhân của vấn đề này chính là do hàng nông sản là mặt hàng chịu thuế cao nhất, là đối tượng của chính sách bảo đảm an ninh lương thực và nông nghiệp của thế giới, được các nước phát triển áp dụng trợ cấp với mức độ cao. Nông nghiệp là lĩnh vực gây nhiều tranh chấp và thách thức đối với các nước thành viên WTO, đặc biệt là các nước đang phát triển phải gánh chịu ảnh hưởng và sức ép lớn nhất. Nhằm tạo ra khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và thúc đẩy trao đổi mặt hàng này, tại vòng đàm phán Uruguay các nước đã cùng nhau ký kết hiệp một hiệp định mới : “Hiệp định nông nghiệp”. Thỏa thuận đạt được tại vòng đàm phán Uruguay là một bước tiến quan trọng dẫn đến sự cạnh tranh công bằng, có trật tự hơn và mậu dịch ít bị bóp méo hơn. Hiệp định nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở cửa thị trường nông sản, thuế khoá và các biện pháp phi thuế quan; giảm trợ cấp cũng như mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên. Hiệp định vẫn cho phép chính phủ các nước thành viên hỗ trợ cho nền kinh tế nông thôn của mình phát triển, với hy vọng, sự hỗ trợ này sẽ được thực hiện thông qua các chính sách làm cho thương mại nông sản được thông thương và ít bị lệch lạc hơn. Hiệp định này cũng cho phép có linh hoạt về cách thức với mực độ mà các cam kết thực hiện và chấp nhận được. Các nước đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ cấp hay hạ thấp biểu thuế của họ với mức như các nước phát triển đang áp dụng và họ được dành thêm thời gian để hoàn thành nghĩa vụ của mình. * Tiếp cận thị trường: Tất cả thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc. Hầu hết các hạn chế khác không phải dưới dạng thuế đều được chuyển sang thuế - đây là quá trình mà nội dung thực chất là “thuế hoá”. Mức độ thuế hoá dựa trên việc tính toán tác động bảo hộ của biện pháp phi thuế quan đó, nhằm đưa ra mức thuế quan có tác động bảo hộ tương đương. Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức độ giảm tối thiểu đối với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và được thực hiện trong thời gian 6 năm ,từ 1995-2000. Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24% và mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong vòng 10 năm, từ 1995-2004. Các nước chậm phát triển không phải cắt giảm biểu thuế của mình. Đối với các sản phẩm mà hạn chế phi thuế đã được chuyển hoá thành thuế, chính phủ các nước thành viên được phép thực hiện các hành động khẩn cấp đặc biệt hay còn gọi là biện pháp tự vệ, nhằm ngăn chặn không để tình hình giá trượt xuống nhanh hay giá hàng nhập khẩu tăng vọt ảnh hưởng xấu đến nông dân nước họ. Có 4 nước có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy cảm (chủ yếu là với mặt hàng gạo) sử dụng điều khoản đối xử đặc biệt để hạn chế hàng nhập khẩu nhưng họ lại phải có nghĩa vụ đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu. Ví dụ với Nhật Bản: mở cửa thị trường bắt đầu là 4% và lên đến 8% vào năm 2000. Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị trường tối thiểu không thấp hơn mức trung bình của thời kỳ 1986-1990 và không đưa ra thêm hàng rào phi thuế quan. * Các biện pháp hỗ trợ trong nước: Các chính sách trong nước có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và thương mại phải được cắt giảm. Các nước thành viên WTO đã tính toán được mức hỗ trợ toàn bộ hay “tổng AMS” cho khu vực nông nghiệp trong mỗi năm tại các cơ sở, từ năm 1986-1988. Tổng AMS là giá trị của toàn bộ các khoản trợ cấp nội địa và khoản trợ cấp cho từng mặt hàng nông sản. Trong các cam kết, yêu cầu cắt giảm 20% của AMS toàn phần đối với các nước phát triển trong thời gian 6 năm; đối với các nước đang phát triển, cam kết cắt giảm là 13% trong vòng 10 năm, kể từ năm 1995; không có yêu cầu cắt giảm đối với những nước chậm phát triển. * Giảm trợ cấp xuất khẩu hàng nông sản. Hiệp định Nông nghiệp cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp, trừ phi các trợ cấp này được quy định rõ ràng trong danh mục các cam kết của một nước. Đối với các trợ cấp đã liệt kê này, hiệp định đòi hỏi các thành viên của WTO cắt giảm số tiền sử dụng cho trợ cấp xuất khẩu lẫn số lượng xuất khẩu nhận trợ cấp. Lấy mức bình quân trong các năm 1986-1990 làm cơ sở, các nước phát triển thoả thuận cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp xuất khẩu và 21% khối lượng xuất khẩu được hưởng trợ cấp trong vòng 6 năm tính từ năm 1995. Còn các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24% nguồn ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu; khối lượng hàng được hưởng trợ cấp sẽ giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm 1995. Các nước chậm phát triển không phải đưa ra các cam kết cắt giảm. * Các quy định đối với các sản phẩm động thực vật. Có một hiệp định riêng về vấn đề an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn y tế về động thực vật gọi tắt là: “Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch”, đặt ra các quy định cơ bản cho vấn đề an toàn thực phẩm. Hiệp định cho phép các nước đặt tiêu chuẩn cho riêng mình, nhưng đồng thời cũng quy định rằng các quy chế phải căn cứ trên cơ sở khoa học. Các nước thành viên WTO được khuyến khích sử dụng các tiêu chuẩn, hướng dẫn và gợi ý mang tính quốc tế. Hiệp định cho phép các nước được sử dụng những biện pháp khác nhau để giám định hàng hoá; đồng thời hiệp định cũng có những điều khoản quy định về kiểm tra, giám định và các thủ tục phê duyệt. Bảng 2: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp, bảo hộ trong thương mại hàng nông sản. Các nước phát triển ( 6 năm ) 1995 - 2000 Các nước đang phát triển ( 10 năm ) 1995 - 2000 Thuế quan cắt giảm trung bình : +Cho tất cả các nông phẩm +Tối thiểu cho từng sản phẩm 36 % 15 % 24 % 10 % Trợ cấp nội địa Tổng mức cắt giảm AMS ( giai đoạn cơ sở : 1986 - 1988 ) 20 % 13 % Xuất khẩu +Giá trị trợ cấp +Khối lượng được trợ cấp ( gíai doạn cơ sở :1986 -1990 ) 36 % 21 % 24 % 14 % 2.2.1.2 Những cơ hội. Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995. Hầu hết các nhà đàm phán của các nước đang phát triển nói chung đều muốn tham gia vào AoA. Hiệp định về Nông nghiệp đã mang lại những cơ hội chắc chắn cho các nước đang phát triển. Trước hết, khả năng tiếp cận thị trường của các nước đang phát triển sẽ trở nên dễ dàng hơn. Theo quy định của AoA, các nước dần dần phải loại bỏ các loại hạn chế thương mại khác nhau mà nhà xuất khẩu phải đối phó như hạn ngạch, thuế quan và các hàng rào phi thuế quan... Các nước đang phát triển có thể xuất khẩu các mặt hàng nông sản không hạn chế định lượng sang mọi thị trường các nước thành viên WTO, thị trường xuất khẩu được bảo đảm chắc chắn. Tất cả các thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc sẽ làm tăng độ ổn định thị trường cho các nhà kinh doanh xuất và nhập khẩu. Hầu như tất cả các hạn chế không phải dưới dạng thuế đều được chuyển sang thuế dưới hình thức thuế hoá, điều này khiến cho các nhà xuất khẩu nông sản các nước đang phát triển có thể xác định chính xác mức độ bảo hộ của các thành viên khác. Tiếp theo, các nước đang phát triển có thời gian dài hơn (10 năm thay vì 4 năm đối với các nước phát triển) để cắt giảm thuế quan và trợ cấp xuất khẩu; trong những năm thực hiện, các nước này đều được phép sử dụng trợ cấp theo những điều kiện nhất định để giảm bớt chi phí Marketting và vận chuyển hàng xuất khẩu. Ngoài ra, WTO còn cho phép chính phủ các nước đang phát triển hỗ trợ cho nền nông nghiệp nước mình được hưởng ưu đãi hơn so với các nước phát triển; các nước đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ cấp hay hạ thấp biểu thuế của mình với mức như của các nước phát triển. Mặt hàng nông sản của các nước đang phát triển nhờ đó có cơ hội cạnh tranh nhiều hơn đối với hàng nông sản của các nước phát triển do có giá thành thấp hơn nhiều. Tự do hoá mậu dịch hàng nông sản dẫn đến hàng nông sản của các nước đang phát triển không bị đối xử phân biệt theo các nguyên tắc của WTO (nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và tối huệ quốc), khối lượng hàng xuất khẩu không bị hạn chế, các mặt hàng nông sản không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, thu nhập của nông dân được tăng lên, giảm đói nghèo. Trình độ, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tiến bộ rất đáng kể. Các nước đang phát triển có khả năng và điều kiện công nghiệp hóa nền nông nghiệp của mình, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành và đa dạng hóa hàng nông sản, qua đó nâng cao được khả năng canh tranh của hàng hóa nông nghiệp trên thị trường quốc tế. 2.2.1.3 Những thách thức. Bên cạnh những cơ hội đạt được trong Hiệp định Nông nghiệp AoA, các nước đang phát triển đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong lĩnh vực này. Trên thực tế, AoA có lợi nhiều hơn cho các cường quốc kinh tế, nhất là Mỹ và EU. Có nhiều nước đang phát triển đã cảm thấy rằng họ bị buộc phải ký vào Hiệp định này. Vấn đề cạnh tranh thị trường tiêu thụ cộng với việc phải trợ cấp cho nông dân quá cao đã khiến cho Mỹ và EU thống nhất một ý tưởng chung là cùng nỗ lực đưa vấn đề nông nghiệp vào đàm phán tại Uruguay nhằm củng cố thế cạnh tranh độc quyền và mỗi bên tìm kiếm lợi thế của mình trong đó. (Vào cuối những năm 80, EU phải chi gần 80% ngân sách cho việc trợ cấp các chương trình nông nghiệp, còn Mỹ thì bắt tay vào một chương trình tổng thế rất tốn kém để dành lại thị trường từ tay EU, như thị trường bột mì tại Tây Phi): Thứ nhất, về quá trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định nông nghiệp: Do chính phủ các nước đang phát triển phải tiến hành chương trình cắt giảm thuế quan, dần xoá bỏ hạn ngạch và hàng rào phi thuế quan khác, ngành nông nghiệp sẽ không được bảo hộ nhiều như trước. Khó khăn sẽ đến với các nhà sản xuất các mặt hàng chưa có lợi thế cạnh tranh vốn vẫn được nhà nước bảo hộ, đặc biệt đối với những người nông dân sản xuất những mặt hàng mà các nước đang phát triển xuất khẩu nhiều nhất như: gạo, cà phê, hạt điều, cọ dừa...vì thời gian và điều kiện chưa đủ để họ hiện đại hóa nền nông nghiệp. Thời gian cho quá trình cắt giảm các chính sách là 10 năm, so với các nước phát triển là 6 năm, tuy vậy ,đối với các nước đang phát triển thời gian đó là quá ngắn so với quảng đường họ phải đi, vẫn chưa đủ cho nền nông nghiệp các nước này thích ứng được với quá trình chuyển đổi. Những ngành sản xuất nông sản chắc chắn gặp phải những khó khăn rất lớn, thậm chí có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các nông sản này cũng có thể bị phá sản, nhiều vùng nông thôn đang nghèo đói sẽ trở nên đói nghèo hơn, nếu những ngành đó không có sự chuẩn bị điều kiện thích ứng và thích ứng nhanh,không có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư thích hợp, xác định rõ mức độ cạnh tranh với nông sản nhập khẩu và cấu trúc thị trường trong từng thời kỳ. Tự do hoá thương mại hàng nông sản, có nghĩa là nền nông nghiệp các nước đang phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng nhập khẩu tràn lan trên thị trường nội địa với chất lượng cao và giá thấp, điều này sẽ khiến cho các nhà sản xuất trong nước mất đi thị phần, ngay cả đối với những nông sản truyền thống. Một ví dụ về tình trạng nhập khẩu ngô tại Mêhicô. Ngô là một trong những lương thực chủ yếu của Mêhicô. Việc đột nhiên mở cửa thị trường cho nhập khẩu mặt hàng nông nghiệp vào, đã gây ra một cú sốc lớn cho các nhà sản xuất nông nghiệp Mêhicô đặc biệt là ngô. Mỹ là nước xuất khẩu ngô nhiều nhất vào Mêhicô. Sau khi mở cửa, Mỹ xuất khẩu ngô ồ ạt vào Mêhicô, năm 1996 Mêhicô phải chi ra 1,1 tỷ USD cho việc nhập khẩu mặt hàng này, hậu quả là ngô thừa mứa trên thị trường, đẩy giá nội địa tụt xuống 18-23% so với năm 1995. Như vậy, nhập khẩu ngô của Mêhicô đã làm giá ngô nội địa giảm kỷ lục, trong khi giá thế giới đang ở mức cao kỷ lục. Nhà nước phải chi một lượng tiền lớn trong khi nhưng người nông dân và các doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản bị khốn đốn. Giá cả các mặt hàng nông sản, đặc biệt là nông sản thô trên thị trường thế giới biến động rất mạnh, người nông dân khó có thể tự bảo vệ mình trước sự biến động của giá cả. Vì vậy, nhiều nông dân rất lo lắng ngay cả khi họ được mùa. Thứ hai, về mặt trợ cấp. Các nước phát triển trợ cấp cho nông dân của họ như phụ cấp thu nhập trực tiếp cho những người này để bù đắp cho sự bấp bênh của thị trường. Tuy Hiệp định AoA đã có hiệu lực hơn 5 năm, nhưng nó lại chẳng có mấy hiệu lực đối với sự hạn chế bảo hộ và trợ cấp cho nông dân tại các nước phát triển. Việc đặt trợ cấp thu nhập trực tiếp ra ngoài khuôn khổ quy định của GATT là một trong những đòn giáng nặng nề vào các nước đang phát triển, khi họ đang hy vọng Hiệp định Nông nghiệp sẽ được sử dụng như một cơ chế làm cho thương mại quốc tế được thông thoáng hơn. Các phụ cấp trực tiếp đó được chi trả cho nông dân với lý do là “không dính dáng đến sản xuất” và do đó không làm biến dạng thị trường. Mức độ trợ cấp của các nước phát triển rất cao. Các nước OECD, kể từ khi hiệp định AoA có hiệu lực thực hiện trợ cấp trực tiếp cho người nông dân, từ trợ cấp 182 tỷ USD năm 1995 đã lên đến hơn 300 tỷ USD vào năm 1998. Phần lớn số tiền này thuộc về Mỹ và EU, trong khi đó, do các nước đang phát triển không đủ tiền để trợ cấp, nông dân của các nước thành viên này chỉ nhận được rất ít trợ cấp của chính phủ, nếu có thì cũng chưa đạt đến tỷ lệ phần trăm của giá trị sản xuất mà AoA cho phép và không thể so sánh với những khoản tiền mà người nông dân của nước phát triển được trợ cấp. Thực tế các nước đang phát triển đã bị thua thiệt do các chính sách của AoA đã ảnh hưởng tiêu cực cho nền nông nghiệp của họ. Nông dân các nước này đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của việc phải điều chỉnh cho thích hợp với hệ thống nông nghiệp mới (giảm thuế quan, thay đổi hạn ngạch...), vì với một mức trợ cấp ít ỏi của chính phủ cộng với việc họ phải mở cửa thị trường rộng hơn cho các nước phát triển xuất khẩu hàng hoá dư thừa của họ vào làm căng thêm sợi dây thọng lọng thắt vào cổ chính họ. Việc trợ cấp cho các nhà sản xuất nông sản ở các nước phát triển đã biến tự do hoá toàn cầu thành việc giành giật thị trường của các nước đang phát triển và bóp chết những người nông dân không được trợ cấp ở các nước này. Thứ ba, mức độ lệ thuộc vào lương thực của các nước đang phát triển có chiều hướng gia tăng. Hiện nay, sản xuất lương thực theo hướng xuất khẩu là sức ép buộc người nông dân làm ăn theo lối tự cung tự cấp lâu nay phải bỏ mảnh đất của mình hoặc chuyển hướng sang sản xuất hàng nông sản để xuất khẩu. Do vậy lương thực cung cấp cho nội địa ngày một ít đi. Chính vì vậy, mặc dù thế giới đã sản xuất được một lượng lương thực dồi dào, nhưng mức độ lệ thuộc lương thực và tình trạng nhập khẩu lương thực tại các nước đang phát triển ngày càng tăng. Một số lượng khá lớn lao động nông nghiệp do năng suất lao động thấp và mức độ cạnh tranh của hàng nhập khẩu rất cao so với hàng nội địa cùng loại đã phải rời bỏ khỏi mảnh đất của mình, hy vọng tìm được việc làm có thu nhập khá hơn, dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Thứ tư, trong quá trình phân phối sản phẩm, các nước đang phát triển gặp phải những rào cản lớn mà họ không thể vượt qua được khi muốn xâm nhập thị trường của các nước phát triển. Phân phối phụ thuộc rất nhiều với yếu tố thị trường và cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Tại các nước đang phát triển hầu như đều tồn tại tình trạng cơ sở hạ tầng vật chất yếu kém, cũ kĩ, thiếu sự tân trang bảo dưỡng. Do vậy vấn đề vận chuyển bị ảnh hưởng rất nhiều, thời gian vận chuyển dài, chi phí vận chuyển khá cao, điều này khiến cho việc nhập khẩu lương thực từ nước ngoài vào có khi còn rẻ hơn việc vận chuyển và mua bán giữa các vùng trong nước. Thứ năm, các nước phát triển đặc biệt là Mỹ luôn kêu gọi các nước đang phát triển mở cửa tự do hàng nông sản, nhưng lại bảo hộ thị trường của mình gây nên sự bất bình đẳng và ảnh hưởng tiêu cực đến khu vực nông nghiệp của các nước đang phát triển. Thứ sáu, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một thách thức không nhỏ đối với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển gặp khó khăn lớn trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật do thiếu cơ sở kĩ thuật và chuyên môn pháp lý,không đủ khả năng đầu tư trong một thời gian quá ngắn. Nhiều nước phát triển đã dựa vào điểm yếu của các nước đang phát triển là hàng nông sản của họ không đủ điều kiện về an toàn lương thực để hạn chế nhập hàng nông sản từ các nước này. Thách thức cuối cùng của hiệp định AoA đối với các nước đang phát triển là: theo cam kết của AoA, các nước đang phát triển không được chi để hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước quá 10% tổng giá trị của ngành nông nghiệp, còn các nước phát triển là 5%. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều nước phát triển đã chi quá 50% để hỗ trợ cho các nhà sản xuất của mình, các khoản chi này lại được coi là hợp pháp theo cam kết của họ trong AoA. Còn các nước đang phát triển lại không đủ khả năng tài trợ ngay chỉ mức cho phép của AoA. Hiệp định Nông nghiệp đã mang lại cho các nước đang phát triển những cơ hội rất rõ rệt, nhưng các thách thức đặt ra với các nước này cũng rất lớn. Chính vì vậy, chính phủ các nước đang phát triển cần phải có những chính sách thích ứng nhằm phát triển, củng cố và hiện đại hóa nền nông nghiệp nội địa, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2.2.2 Hiệp định về hàng dệt may. 2.2.2.1 Nội dung. Cũng giống như hàng nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề khó khăn nhất trong WTO, cũng như trong hệ thống GATT trước đây. Trước vòng đàm phán Uruguay, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi hiệp định đa sợi (MFA). Đây là khuôn khổ cho các thoả thuận song phương, cũng như các hoạt động mang tính đơn phương, thiết lập quota ,hạn chế số lượng hàng nhập khẩu. Hệ thống này rất bất lợi cho các nước đang phát triển vốn rất có tiềm năng trong lĩnh vực này. Kể từ năm 1995, Hiệp định thương mại hàng dệt và may mặc (ATC) đã được ký kết và có hiệu lực, thay thế cho hiệp định đa sợi (MFA). Hiện tại hàng dệt may đang trải qua một quá trình thay đổi cơ bản kéo dài 10 năm, được các nước chấp nhận tại vòng đàm phán Uruguay.Theo đó đến năm 2005, hệ thống quota xuất khẩu được áp dụng rộng khắp trong thương mại hàng dệt may từ những năm 60 sẽ được bãi bỏ, các nước nhập khẩu sẽ không được phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu với nhau. Khi đó Hiệp định dệt may sẽ không tồn tại nữa. ATC là hiệp định duy nhất của WTO tự đưa ra thời hạn chấm dứt của mình. Theo ATC, toàn bộ sản phẩm dệt may sẽ hoàn toàn được hoà nhập vào hệ thống chính sách thương mại đa biên, quay trở lại với các quy định của GATT. Các sản phẩm dệt may sẽ trở lại khuôn khổ của GATT trong vòng 10 năm. Bất kỳ quota nào tồn tại trước 31/12/1994 sẽ được đưa vào hiệp định và sẽ diễn ra quá trình loại bỏ hay còn gọi là các sản phẩm được nhất thể hoá. Nới lỏng các hạn chế số lượng đối với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức cơ sở được xác định (với mức tối thiểu quy định). Hiệp định cũng quy định tỷ lệ % số sản phẩm phải đưa vào khuôn khổ các quy định của GATT cho mỗi giai đoạn. Tỷ lệ này được tính theo số lượng nhập khẩu hàng dệt may vào năm 1990. Hiệp định ATC cũng quy định khối lượng của quota cũng phải được tăng dần hàng năm và tỷ lệ tăng này phải cao hơn cho các giai đoạn sau. Bảng 3: Các giai đoạn thực thi ATC (áp dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở) STT Giai đoạn % sản phẩm được đưa vào GATT (gồm cả việc dỡ bỏ hạn ngạch) Tốc độ nới lỏng hiện nay (nếu mức năm 1996 là 6%) 1 Từ 1/1/1995 đến 31/12/1997 16% 6,69% /năm 2 Từ 1/1/1998 đến 31/12/2001 17 % 8,7% /năm 3 Từ 1/1/2002 đến 31/12/2004 18% 11,05% /năm 4 Từ 1/1/2005 đến 31/12/2004 nhất thể hoá hoàn toàn vào WTO. ATC chấm dứt. 49% ( tối đa ) Không còn hạn ngạch Hiệp định cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp được áp dụng các biện pháp tự vệ. Chỉ những thành viên đã tiến hành chương trình “nhất thể hoá” mới được áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên các nước nhập khẩu phải chứng minh được rằng có thiệt hại nghiêm trọng hoặc có đe dọa về thiệt hại nghiêm trọng có thể xảy ra. Nước đó cũng phải chứng minh thiệt hại đó là kết quả của hai yếu tố: tăng nhập khẩu từ tất cả các nguồn và tăng đáng kể từ nguồn một nước xuất khẩu nhất định. Hiệp định cũng dự tính đối xử đặc biệt đối với một số nhóm nước: nước mới tham gia thị trường, nước nhỏ và nước chậm phát triển nhất. WTO có một cơ quan giám sát hàng dệt (TMB), giám sát việc thực hiện hiệp định. 2.2.2.2 Những cơ hội. Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và tiềm năng phát triển cao. Hiệp định dệt may được ký kết đã thể hiện được lợi ích thiết thực đối với các nước đang phát triển. Nhiều nước phát triển đã cho rằng: mở cửa lĩnh vực này là đem lại lợi ích nhất cho các nước đang phát triển. Cũng giống như mặt hàng nông sản, tự do hoá thương mại hàng dệt may đã khiến cho thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển được mở rộng. Khi hạn ngạch được xoá bỏ, các nước đang phát triển có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận thị trường thế giới, không còn bị hạn chế về khối lượng xuất khẩu, gia tăng đáng kể cơ hội xuất khẩu mặt hàng này. Sản phẩm dệt may từ các nước đang phát triển có thể tràn ngập thị trường thế giới, có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các nước phát triển. Cạnh tranh giữa sản phẩm nội địa và nước ngoài càng trở nên gay gắt, điều này đã khiến cho các doanh nghiệp tại các nước đang phát triển phải điều chỉnh lại quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để có thể đứng vững, cạnh tranh và giữ được thị phần của mình trong nước và mở rộng thị phần quốc tế. Chính trong quá trình chuyển đổi này, nền công nghiệp dệt may của các nước đang phát triển đã tiến bộ rất nhiều. Kinh nghiệm, trình độ quản lí được nâng cao, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, năng suất lao động tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may ngày càng tốt hơn rất nhiều, giá thành hạ,tạo được thế đứng vững hơn trong thị trường. Trong hiệp định ATC, các nước phát triển đã phải ràng buộc những cam kết kỹ thuật của họ, điều này tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có thể tìm hiểu trước được yêu cầu của các nước phát triển, đối với từng loại hàng dệt may, để từ đó sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trường. 2.2.2.3 Những thách thức Mặc dù Hiệp định về hàng dệt may ATC là một hiệp định là có lợi nhất đối với các nước đang phát triển, tuy vậy nền công nghiệp dệt may của các nước này cũng phải đứng trước những thách thức không nhỏ ,khi phải tuân thủ các yêu cầu của Hiệp định và dưới sự chèp ép liên tục của các nước phát triển. Các nước cùng nhau xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may, thị trường được mở rộng, điều này đồng nghĩa với việc các nước đang phát triển phải đối đầu với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.Các nước đang phát triển phải tự xem xét và quyết định là hàng dệt may của mình có thể cạnh tranh được với các nước khác hay không. Tại các nước đang phát triển ưu thế lớn nhất là giá nhân công thấp, nhưng do vốn sản xuất hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, việc đầu tư đổi mới kĩ thuật còn chậm, lực lượng lại phân tán, tản mạn. Hầu hết các nước đang phát triển đều tồn tại nền sản xuất nhỏ, thủ công chiếm đa số (trừ một số nước có nền công nghiệp phát triển tương đối như Thái Lan, Malaysia, Braxin, Mehico...), nên khối lượng sản phẩm không nhiều, chất lượng không đồng đều, thấp,mẫu mã chậm đổi mới. Chính vì vậy, rất khó khăn cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các nước đang phát triển có thể xuất khẩu sản phẩm dệt may không hạn chế định lượng, tuy nhiên có nhiều nước chưa đủ khả năng cung cấp đủ sản lượng sản phẩm, thậm chí có nước còn chưa đạt đến mức hạn ngạch được xoá bỏ. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến thị phần của các nước này trên thị trường nước ngoài, thậm chí thị phần trong nước cũng bị đe dọa do sự tràn ngập sản phẩm của nước ngoài. Một khó khăn mà các nước đang phát triển phải gánh chịu tiếp là vấn đề các nước phát triển tuy đã ràng buộc những cam kết kỹ thuật sản phẩm dệt may, nhưng họ chỉ làm vậy với các sản phẩm không được bản hộ hàng đầu. Đối với các loại mặt hàng này, các nước đang phát triển sẽ rất khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, thâm nhập thị trường của các nước phát triển. Thực tế, mặc dù có nhiều lợi ích trong Hiệp định hàng dệt may nhưng thay cho việc các nước đang phát triển phải tăng xuất khẩu nhiều hơn trong lĩnh vực này so với các nước phát triển thì xu thế có vẻ ngược lại. Hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển chỉ tăng 4,5% trong vòng 5 năm qua từ năm 1995 - 2000, trong khi của các nước phát triển đã tăng 9% trong cùng khoảng thời gian đó. 2.2.3 Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATT) 2.2.3.1 Nội dung. Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) là hệ thống các quy định đầu tiên từ trước đến nay mang tính đa biên, điều chỉnh thương mại dịch vụ. Hiệp định này được đàm phán tại vòng Uruguay. Hiệp định GATS bao gồm các nội dung chủ yếu sau: + Các nghĩa vụ và nguyên tắc cơ bản. + Các phụ lục giải quyết các chuyên ngành cụ thể. + Các cam kết cụ thể của mỗi nước nhằm mục đích mở cửa thị trường của nước họ. + Các danh mục các nước thôi không áp dụng nguyên tắc MFN về không phân biệt đối xử. Một uỷ ban về Thương mại dịch vụ của WTO giám sát việc thực hiện hiệp định. Bộ khung các điều khoản của Hiệp định GATS (29 điều khoảng của GATS áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ). Chúng chứa đựng tất cả các nguyên tắc mà các nước phải tuân thủ : · Hiệp định áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ mua bán trên thế giới. Nó bao gồm tất cả các hình thức cung cấp dịch vụ; GATS xác định có bốn phương thức sau : + Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được cung cấp thông qua sự vận động của chính bản thân dịch vụ đó, từ nước này sang nước khác. + Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: người tiêu dùng hay công ty tiêu thụ dịch vụ ở một nước khác. + Hiện diện thương mại: Một công ty nước ngoài thành lập một chi nhánh hay công ty tại một nước khác để cung cấp dịch vụ. + Hiện diện của tự nhiên nhân: Các cá nhân đi từ một nước này sang nước khác để cung cấp dịch vụ. · Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Theo quy định của GATS, nếu một nước cho phép cạnh tranh nước ngoài ở một lĩnh vực dịch vụ thì phải tạo cơ hội bình đẳng như nhau cho tất cả các thành viên WTO. Tuy vậy vẫn có một số trường hợp ngoại lệ. · Đãi ngộ quốc gia (NT): Đối xử như nhau giữa các nước thành viên. Đối với GATS chỉ áp dụng tại những ngành có cam kết cụ thể và được phép miễn trừ. · Minh bạch hoá: Các chính phủ phải công bố luật và quy định của mình, thông báo tất cả những thay đổi về luật lệ áp dụng cho những ngành có cam kết cụ thể. · Thanh toán và chuyển tiền quốc tế: Một khi các chính phủ đã có những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì họ không được áp dụng các hạn chế đối với việc chuyển tiền thanh toán ra nước ngoài cho dịch vụ đó. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là trong trường hợp gặp khó khăn về cán cân thanh toán, nhưng các hạn chế cũng chỉ mang tính tạm thời và phải có điều kiện. · Các cam kết cụ thể: Cam kết của từng nước về mở cửa thị trường của từng ngành cụ thể, được tổng hợp trong một danh mục các cam kết, danh mục này liệt kê tất cả các ngành được mở cửa và mức độ mở cửa của ngành đó. Các cam kết này đều mang tính rành buộc, chúng chỉ có thể được thay đổi hoặc loại bỏ, sau khi đã thương lượng về đền bù với các nước bị ảnh hưởng. · Tự do hoá từng bước: Vòng Urugoay chỉ là bước đầu. GATS quy định phải tự do hoá hơn nữa với cuộc đàm phán đầu tiên được bắt đầu sau 5 năm bắt đầu từ năm2000. Sau vòng đàm phán Urugoay, nhiều cuộc đàm phán về thương mại và dịch vụ đã được tiến hành và đi đến ký kết một số hiệp định, như hiệp định về thông tin viễn thông cơ bản, công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính... Các nước thành viên đã nhất trí về chương trình nghị sự để tiếp tục đàm phán mở rộng tự do thương mại dịch vụ vào thiên niên kỷ mới. 2.2.3.2. Những cơ hội Nhìn chung, GATS chưa đem lại được nhiều cơ hội và lợi ích cho các nước đang phát triển. Những thứ mà các nước này nhận được chỉ là một phần lợi ích rất nhỏ so với những cơ hội và lợi ích mà các nước phát triển giành được từ hiệp định này. Tuy vậy, chúng ta không thể phủ nhận được những cơ hội mà GATS mang lại. Một trong những mục tiêu mà GATS ghi nhận là giúp phát triển xuất khẩu của các nước đang phát triển và bảo đảm cho họ có cơ hội xuất khẩu những dịch vụ mà họ có khả năng, qua đó mở rộng sự tham gia của các nước đang phát triển trong thương mại thế giới về dịch vụ. Tuy chỉ có một số tập đoàn lớn của các nước đang phát triển hiện tại là có năng lực xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài, nhưng điều đó cũng khẳng định trong tương lai vấn đề mở rộng thị trường thương mại dịch vụ của các nước đang phát triển là có cơ hội tăng lên. GATS bao gồm tất cả các dịch vụ như dịch vụ tài chính, dịch vụ kinh doanh, viễn thông, dịch vụ liên quan đến xây dựng, dịch vụ hàng hải và cảng, y tế, giáo dục, các dịch vụ nghe nhìn... Tự do hoá thương mại dịch vụ có thể mang lại lợi ích cho người tiêu dùng ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển nhập khẩu các dịch vụ trên từ nước ngoài vào, trong nước có sự cạnh tranh giữa các ngành dịch vụ trong và ngoài nước với nhau, do vậy giá thành của các ngành dịch vụ này có thể rẻ hơn rất nhiều. Ví dụ như cước phí viễn thông, giá điện, nước rẻ hơn do không còn sự độc quyền của nhà nước, cước phí vận tải cũng được hạ thấp. Bên cạnh đó, nguồn tài chính cho sản xuất và tiêu dùng có thể dồi dào hơn, hàng hoá có chất lượng tốt hơn, tin cậy hơn và giá cũng thấp hơn. Các nhà sản xuất kinh doanh bản địa có thể tiếp cận được với những dịch vụ kinh doanh hữu ích, người dân có thể tiếp cận với những dịch vụ y tế, giáo dục đa dạng hơn và chất lượng cũng tốt hơn. Cơ hội tiếp theo mà GATS đã đem lại cho các nước đang phát triển là thoả thuận trong vấn đề di chuyển của tự nhiên nhân. Hiệp định GATS có hiệu lực, điều này có nghĩa là mọi người lao động đều có thể tự do xuất ngoại để làm việc hay cung cấp những dịch vụ khác. Người lao động tại các nước đang phát triển được tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi lại giữa các nước thành viên để cung cấp dịch vụ. Các bác sỹ, luật sư, nhân viên kế toán của những nước này được chấp nhận tại các nước phát triển là thành viên. 2.2.3.3. Những thách thức. Hiệp định thương mại dịch vụ là một trong những hiệp định bất lợi nhất đối với các nước đang phát triển. Như đã đề cập đến tại phần trước, các nước đang phát triển được lợi rất ít từ GATS, trong khi đó những thách thức và khó khăn thì cực kỳ to lớn. Thực tế, Hiệp định GATS phục vụ cho mục đích của các nước phát triển để có thể thâm nhập dễ dàng hơn và chiếm lĩnh thị trường dịch vụ của các nước đang phát triển như trong các lĩnh vực bảo hiểm, hàng không, bưu chính viễn thông, ngân hàng, vận tải, y tế... Những ngành này trước đây được chính phủ các nước đang phát triển bảo hộ rất cao. Đặc biệt là bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, giờ đây sẽ phải mở cửa để cho các nước phát triển tự do thâm nhập, các nhà cung cấp dịch vụ trong nước sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu trên thế giới, tất cả các ưu đãi sẽ phải được đối xử công bằng giữa các nhà cung cấp dịch vụ của nước ngoài và trong nước. Hơn nữa, các lĩnh vực dịch vụ này tại các nước đang phát triển hầu như không có gì để xuất khẩu ra nước ngoài vì các lĩnh vực dịch vụ này còn non trẻ, phát triển với kỹ thuật công nghệ chưa cao, thậm chí còn rất lạc hậu, thực tế là không thể cạnh tranh nổi với các cường quốc kinh tế kĩ thuật. Vì vậy, về trước mắt cũng như lâu dài, việc giữ vững thị trường trong nước và mở cửa thị trường dịch vụ nước ngoài sẽ đặt các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ bản địa của các nước đang phát triển trước những khó khăn to lớn, gay gắt và ít có cơ hội để phát triển và canh tranh. Hơn nữa, để phát triển những dịch vụ này cần có nguồn vốn rất lớn và lao động có trình độ trí thức cao. Trong khi đó tại các nước đang phát triển, hiện tại hai yếu tố này còn rất thiếu và trong tương lai cũng ít có khả năng và nguồn lực để phát triển. Nói cách khác là các nước đang phát triển sẽ không lúc nào có đủ khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực này với các nước phát triển. Hiện nay các nước đang phát triển vẫn còn phải nhập siêu rất lớn các dịch vụ từ các nước phát triển. Như vậy, tự do thương mại dịch vụ sẽ dẫn đến thương mại một chiều ở các nước đang phát triển, chỉ nhập khẩu chứ không có năng lực xuất khẩu và các nước đang phát triển sẽ mất các cơ hội để xây dựng và phát triển các lĩnh vực dịch vụ này. Bên cạnh đó, vấn đề mà được các nước đang phát triển quan tâm và cảm thấy được lợi từ hiệp định GATS như là: “ sự di chuyển của tự nhiên nhân” thì chỉ đạt được kết quả rất khiêm tốn, chỉ có ý nghĩa rất nhỏ đối với nhu cầu quá lớn các nước này. Mua sắm của chính phủ là một vấn đề đã và đang được đưa ra đàm phán trong hội nghị của WTO. Nếu các nước thoả thuận và ký kết về lĩnh vực này thì các nước đang phát triển lại vấp phải một thử thách khác nữa không kém phần gay go quyết liệt. Thông thường vấn đề mua sắm của chính phủ được giao cho các nhà cung cấp nội địa, đây là hình thức, một mặt tăng nguồn thu cho ngân sách, một mặt là biện pháp kích thích kinh tế nội địa phát triển. Mục tiêu của WTO là đưa các quyết định, thủ tục, chính sách chỉ tiêu của chính phủ tất cả các nước thành viên vào dưới sự bảo hộ của WTO, nơi mà nguyên tắc đối xử quốc gia sẽ được áp dụng. Và theo nguyên tắc này, chính phủ các nước đang phát triển sẽ không còn được dành quyền ưu đãi cho công dân hoặc doanh nghiệp nước mình trong việc mua sắm và kí các hợp đồng, dự án mà phải mở cửa cho các công ty nước ngoài tham gia và dành cho những công ty này những cơ hội tương tự như các cá nhân, doanh nghiệp trong nước. Các công ty của các nước phát triển sẽ xâm nhập nhiều hơn nữa và không ngừng vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, trong khi đó các công ty của các nước đang phát triển lại không đủ năng lực, bình đẳng canh tranh khi cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các nước phát triển. Do vậy có thể nói phần lợi mà các nước đang phát triển có thể có được từ việc tự do hoá thương mại dịch vụ thật sự không đáng kể so với phần lợi mà các nước phát triển có thể có. 2.2.4. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) 2.2.4.1. Nội dung. Cùng với quá trình phát triển của thương mại quốc tế, dòng lưu chuyển vốn đầu tư giữa các nước không ngừng tăng lên trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng đầu tư quốc tế đã vượt qua tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các nước. Khi bắt đầu vòng đàm phán Urugoay, các bên đều mong muốn đi đến một hiệp định đầu tư đa phương tương đối toàn diện, đề cập đến các vấn đề chính sách có tác động đến lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn đề áp dụng nguyên tắc của GATS là đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc trong đầu tư. Tuy nhiên, kết quả đạt được tại vòng Urugoay là các nước chỉ đề cập đến một vấn đề đầu tư hẹp - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho lĩnh vực thương mại hàng hoá. Trong số các biện pháp, có nhiều biện pháp đầu tư có tác động bóp méo thương mại. Vì vậy, TRIMs không cho phép các nước thành viên áp dụng 5 biện pháp được coi như vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và không hạn chế về số lượng sau đây: · TRIMS không phù hợp với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, tức là gây ra sự phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu: Yêu cầu các doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước. Yêu cầu các doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một số tổng thể tính theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu. · TRIMs không phù hợp về nghĩa vụ loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng đối với xuất, nhập khẩu: Hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức hạn chế chung hoặc hạn chế nhập khẩu trong giới hạn liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước mà doanh nghiệp đó xuất khẩu. Hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận đến nguồn ngoại hối liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này. Hạn chế việc doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm cho dù được quy định dưới hình thức sản phẩm cụ thể hay hình thức số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp. Các nước được hưởng một khoảng thời gian chuyển tiếp để loại bỏ dần các biện pháp nêu trên. Thời gian chuyển tiếp với các nước phát triển là 2 năm, các nước đang phát triển là 5 năm, nước chậm phát triển là 7 năm, bắt đầu tính từ ngày 1/1/1995. 2.2.4.2. Những cơ hội. Trong lĩnh vực đầu tư hiện nay,các nước đang phát triển đã có những cố gắng đáng kể để tăng tổng số vốn đầu tư ra thị trường nước ngoài, nhất là sang các nước phát triển. Hiệp định TRIMs được thực thi sẽ tạo được nhiều điều kiện thuận lợi cho các công ty các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy được đầu tư hơn nữa ra nước ngoài, các công ty này sẽ tránh được các trở ngại của chính phủ các nước khác đối với các luồng vốn vào nước của họ. 2.2.4.3 Những thách thức. Hiệp định về đầu tư liên quan đến thương mại TRIMs không cho phép áp dụng yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá, nhưng chính điều này lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển vì: Yêu cầu doanh nghiệp sử dụng sản phẩm có xuất xứ trong nước đồng nghĩa với việc tăng sử dụng các nguồn nguyên liệu, sản phẩm trong nước. Các hoạt động kinh tế trao đổi buôn bán nội địa nhờ đó cũng phát triển đáng kể, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế do đó cũng gia tăng. Việc không được phép áp dụng sử dụng hàm lượng nội địa có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của các nước này. 2.2.5. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). 2.2.2.1 Nội dung. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/1995. Đây là hiệp định đa phương toàn diện nhất về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Ngày nay, vấn đề về sở hữu trí tuệ có một ý nghĩa quan trọng trong hoạt động thương mại, đã làm nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn và tranh chấp giữa các nước với nhau.Vì thế, quy định thương mại được thống nhất trên phưong diện quốc tế đối với quyền sở hữu trí tuệ là cách thức tiếp cận có tính ổn định và tạo được cơ sở để giải quyết tranh chấp có tính hệ thống hơn. Vòng đàm phán Uruguay đã đạt được thành công rất lớn khi thoả thuận được một hiệp định về những khía cạnh của sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Theo hiệp định này, các nước thành viên có thể, nhưng không bị bắt buộc khi áp dụng mức bảo hộ cao hơn yêu cầu của hiệp định miễn là không trái với các điều khoản của hiệp định. Lĩnh vực trong phạm vi điều chỉnh của TRIPS: - Bản quyền và các quyền liên quan. - Nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ. - Chỉ định địa lý. - Thiết kế công nghiệp. - Thiếp kế về bản vi mạch. - Các thông tin bí mật, kể cả bí mật thương mại. Hiệp định điều chỉnh 5 vấn đề lớn: Thứ nhất, về việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản về hệ thống thương mại và các hiệp định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ: Các nguyên tắc cơ bản : đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc và vấn đề chuyển giao công nghệ. Khi một người phát minh hay chế tạo đươc cấp bản quyền hoặc bảo hộ quyền tác giả thì anh ta có quyền buộc người khác không được sao chép bất hợp pháp. Theo hiệp định, các vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ phải góp phần đổi mới kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Thứ hai, làm thế nào để bảo hộ công bằng đối với quyền sở hữu trí tuệ. Với mục tiêu đảm bảo các tiêu chuẩn về bảo hộ tương đương nhau ở tất cả các nước, cơ sở các ràng buộc đã có trong các Hiệp định quốc tế chủ yếu của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, tồn tại trước khi WTO ra đời, bao gồm: + Công ước Paris về bảo vệ sở hữu công nghiệp. + Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn chương và nghệ thuật. Hiệp định TRIPS cho thêm một số lượng đáng kể các tiêu chuẩn mới và cao hơn. Thứ ba, về việc thi hành các quyền sở hữu trí tuệ trong lãnh thổ của quốc gia. Theo Hiệp định các Chính phủ cần phải bảo đảm quyền về sở hữu trí tuệ có thể được thực thi theo luật pháp nước mình và cần có những hình phạt đủ mạnh để hạn chế những vi phạm trong tương lai. Các văn bản phải hợp lý công bằng, không nên phức tạp một cách không cần thiết hay quá tốn kém. Thứ tư, giải quyết về các tranh chấp trên vấn đề sở hữu trí tuệ giữa các nước thành viên WTO. Thứ năm, các dàn xếp chuyển đổi đặc biệt khi hệ thống mới được đưa ra. TRIMS cho phép các thành viên có một khoảng thời gian chuyển đổi thích hợp để đảm bảo thực thi đầy đủ các nghĩa vụ. 2.2.5.2. Những cơ hội Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIPS đã mang lại một số cơ hội sau cho các nước đang phát triển: Thứ tư, theo các nguyên tắc của TRIPS, tác phẩm và phát minh của các nước đang phát triển có thể được công nhận và được bảo vệ trên thị trường và lãnh thổ của tất cả các nước thành viên. Thứ tư, các phương thức kinh doanh và bí mật thương mại của các doanh nghiệp, công ty của các nước này cũng được đảm bảo bởi hệ thống luật pháp qua việc thực thi các hiệp định TRIPS. Thứ năm, Hiệp định TRIPS cũng có một số điều khoản tạo sự linh hoạt cho các nước thành viên mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để giảm bớt những thách thức của TRIPS. Chẳng hạn như TRIPS cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết đẻ bảo vệ sức khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng, và để tăng cường lợi ích trong những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế và kỹ thuật, với điều kiện là các biện pháp đó phù hợp với các điều khoản của TRIPS. Vận dụng sự cho phép này, các nước đang phát tiển có thể quy định bắt buộc các công ty nước ngoài phải chuyển giao kỹ thuật cho các công ty bản địa để các công ty này có thể sản xuất đựoc các sản phẩm cùng loại với giá rẻ hơn để phục vụ lợi ích cộng đồng. 2.2.5.3. Những thách thức Thực chất, Hiệp định TRIPS là kết quả của sự vận động của các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, bởi vì những nước này là những nước được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này. Chính vì vậy, TRIPS đặt ra cho các nước đang phát triển những thử thách không nhỏ: Thứ nhất, các nước đang phát triển là những nước có nền công nghiệp chưa phát triển hoặc phát triển sau, nên rất thiệt thòi khi tham gia Hiệp định TRIPS. Các ngành công nghiệp muốn phát triển cần phải có khả năng tiếp cận được với khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nhưng hiện nay khi các nước đang phát triển coi việc sử dụng các phát minh khoa học, kỹ thuật là việc tiếp nhận sự phổ biến phát minh kĩ thuật, công nghệ của loài người thì các nước công nghiệp phát triển coi đó là hành vi ăn cắp bản quyền; Việc làm thông thường đó của các nước đang phát triển được coi là hành vi vi phạm nguyên tắc của Hiệp định TRIPS, do vậy tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hóa của các nước đang phát triển rất khó khăn vì họ không được sử dụng các phát minh, sáng chế công nghiệp... một cách bất hợp pháp. Theo TRIPS các nước đang phát triển muốn sử dụng thì phải mua.Trong khi đó, trước đây các cường quốc kinh tế phát triển nền công nghiệp của mình đều bằng cách vay mượn, sao chép các sáng tạo công nghệ mà không phải đền bù gì cho chủ nhân của nó và coi nó là tài sản của nhân loại. Thứ hai, Hiệp định TRIPS đã định ra việc bảo hộ bằng sáng chế bất kể là sản phẩm hay quy trình sản xuất có thời hạn giá trị ít nhất là trong 20 năm; kéo dài thời gian bảo hộ các chất bán dẫn hoặc chíp vi tính, chế định các quy chế nghiêm ngặt để chống các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Lúc này giá cả hàng hoá được bảo hộ sẽ cao hơn trước và trong suốt thời hạn được bảo hộ buộc các nước đang phát triển phải chi ra một số tiền khổng lồ để mua quyền sử dụng chúng. Nhiều loại hàng hoá công nghiệp tại các nước đang phát triển sẽ rất thiếu thốn vì chi phí để sản xuất ra nó quá cao. Một ví dụ trong lĩnh vực dược phẩm: việc cấp bằng sáng chế đã làm cho giá thuốc tại ấn độ tăng từ 5 đến 10 lần. Trước khi Hiệp định có hiệu lực, Chính phủ các nước đang phát triển có thể không cấp bằng sáng chế cho dược phẩm hoặc chỉ cấp bằng có giá trị trong thời gian ngắn để các công ty trong nước có thể sản xuất dược phẩm cùng loại với giá thấp hơn. Một số nước chỉ cấp bằng sáng chế cho quy trình sản xuất để có thể sản xuất ra loại hàng đó với quy trình sản xuất khác. Nhưng khi TRIPS có hiệu lực và bảo hộ sáng chế trong thời hạn tối thiểu 20 năm thì chắc chắn giá thuốc sẽ cao hơn rất nhiều, do bị độc quyền và vì vậy, nhiều người dân tại các nước đang phát triển sẽ phải chịu cảnh thiếu thuốc trong khi thuốc được bày bán lan tràn tại các quầy thuốc, do giá thuốc quá cao mà tiền thì họ không có đủ để mua. Thứ ba, có nhiều người cho rằng, việc bảo hộ bằng sáng chế sẽ khuyến khích các công ty bản địa ở các nước đang phát triển đầu tư vào nghiên cứu và phát triển các ngành công nghệ. Nhưng trên thực tế thì các nước đang phát triển không có khả năng đầu tư cho các hoạt động này do chi phí để nghiên cứu và phát triển một sản phẩm công nghiệp nào đó quá cao ngay cả đối với các nước phát triển. Ví dụ để nghiên cứu một hợp chất hoá chất mới cần phải chi ra 200 triệu USD. Thông thường chỉ có các công ty của các nước phát triển mới hơn thế nữa phải là một công ty nhà nước, tập đoàn lớn của nước phát triển mới có đủ tiềm lực để đầu tư phát triển một sản phẩm,công nghệ mới và họ nắm giữ bằng sáng chế. Các nước đang phát triển buộc phải mua bản quyền nếu muốn sản xuất ra các sản phẩm đó, hay sử dụng công nghệ đó. Thứ tư, các nước đang phát triển cũng gặp phải khó khăn trong vấn đề chuyển giao công nghệ do các nước phát triển muốn giữ độc quyền hoặc đòi giá cao cho việc chuyển giao mà các công ty nội địa không thể chấp nhận được. Thứ năm, Hiệp định TRIPS được coi là một thắng lợi của công nghệ kỹ thuật cao của Mỹ, Mỹ muốn kiểm soát chặt chẽ về việc phổ biến cách tân công nghệ này. Vấn đề phát triển các ngành kỹ thuật cao như phần mềm, phần cứng tin học điện tử, công nghệ sinh học, laser... rất quan trọng đối với mỗi nền kinh tế. Khi các nước đang phát triển muốn chế tạo ra các phần mềm, lắp ráp vi tính... thì buộc phải mua với giá cắt cổ bản quyền của nhiều quy trình công nghệ khác nhau, mà phần lớn thuộc các công ty lớn của Hoa Kỳ. Do vậy nếu họ tổ chức sản xuất thì hoặc là sản phẩm sản xuất ra với giá rất cao, khó bán được hàng, hoặc là lợi nhuận thu được rất thấp. Điều này không khuyến khích các hoạt động cách tân phát triển công nghệ tại các nước đang phát triển. Các nước này thà mua luôn công nghệ mới không cần mất thời gian để sáng tạo. Và chính vì vậy công nghệ kỹ thuật của các nước đang phát triển sẽ không phát triển được, luôn đi sau và ngày càng bị lệ thuộc vào các nước phát triển. Thứ sáu, Hiệp định TRIPS cũng bảo hộ sáng chế cho các loại cây trồng với lý do là khuyến khích lai tạo giống mới. Theo quy định của TRIPS người nắm giữ bằng sáng chế một loại giống nào đó, có quyền cấm nông dân dùng giống giữ lại từ những vụ gieo trồng trước để gieo lại. Điều kiện này làm cho giá lương thực ở các nước đang phát triển tăng cao vì phải trả tiền mua giống do chính mình sản xuất ra. Không chỉ có vậy, TRIPS với việc khai thông quá trình tư nhân hóa các sản phẩm phát triển qua quá trình lai tạo hoặc biến đổi gen do chính các nước triển khai thực hiện là sự đe doạ đối với nông thôn các nước đang phát triển. Chỉ cần được cải biến, dù rất ít các sản phẩm gen có thể được cấp bằng sáng chế, vì vậy hiện nay có rất nhiều công ty đặc biệt từ các nước phát triển có thể lấy một cây trồng tại các nước đang phát triển cải biến nó sau đó xin cấp bằng sáng chế, thu lợi nhuận mà không phải trả một khoảng tiền nào cho cộng đồng đã sử dụng kiến thức truyền thống để duy trì và phát triển giống cây trồng đó. Ví dụ, công ty dược phẩm Merck ở Châu Âu dường như thu được nhiều lợi nhuận qua việc phát triển một chất chống đông máu được chiết xuất từ cây tikluba mà dân vùng Amazon đã sử dụng lâu đời. * Trên đây là những tóm tắt sơ lược về những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các nước đang phát triển trong quá trình thực thi một số Hiệp định cơ bản của WTO. Từ đó chúng ta có thể nắm bắt được những vấn đề mà các nước đang phát triển phải đối mặt và trên cơ sở đó có thể cùng tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy và đem lại lợi ích cao hơn cho nhóm nước đang phát triển trong tổ chức WTO. 2.3. Các giải pháp nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho các nước đang phát triển trong tổ chức thương mại thế giới. 2.3.1. Các nguyên nhân dẫn đến sự thua thiệt của các nước đang phát triển Mục tiêu của tổ chức thương mại quốc tế là nhằm củng cố nền kinh tế thế giới, dẫn đến tăng trưởng mậu dịch, đầu tư, công ăn việc làm và thu nhập trên toàn thế giới, nhưng đến nay,thực chất WTO vẫn chưa thực hiện được điều đó. Thứ nhất, hầu hết các nước đang phát triển đều là những nước nhỏ, có nền kinh tế chưa phát triển, tồn tại một nền nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp thì phát triển chậm, tiềm năng kinh tế thấp. Thêm vào đó có nhiều nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường do vậy nền kinh tế chưa ổn định, chưa có khả năng thích ứng nhanh được với quá trình tự do hoá thương mại của WTO. Chính vì vậy các nước đang phát triển rất khó khăn trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của WTO và sự cạnh tranh gay gắt từ phía các nước phát triển. Các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của các nước đang phát triển chưa đủ khả năng cạnh tranh được với sản phẩm và dịch vụ của các nước phát triển do chất lượng chưa cao và không đồng bộ. Thứ hai, WTO đã thừa nhận các quy chế đặc biệt và phân biệt đối với các nước đang phát triển nhưng không coi đó là khác biệt mang tính cơ cấu mà chỉ coi đó là những vấn đề có thể vượt qua được bằng cách gia hạn thêm cho các nước này một thời gian để có thể thích nghi với điều kiện mới. Việc gia hạn này không thể đáp ứng được nhu cầu của các nước đang phát triển trong quá trình thay đổi các chính sách kinh tế của mình để hội nhập vào quá trình tự do hoá thương mại quốc tế. Hơn nữa, nền kinh tế của các nước đang phát triển đi sau các nước phát triển ít nhất là 40 năm, vì vậy khoảng thời gian ưu đãi cho các nước đang phát triển (khoảng 4 năm so với các nước phát triển) chắc chắn sẽ không đủ để cho các nền kinh tế đang phát triển có thể theo kịp các nền kinh tế phát triển được. Thứ ba, trình độ nguồn nhân lực của các nước đang phát triển còn quá thấp. Tuy số lượng lao động tại các nước này rất dồi dào song số lao động có trình độ cao lại không nhiều, lao động có bằng kỹ sư, cử nhân, tay nghề cao còn quá ít, chưa được đào tạo đầy đủ hay chưa được nâng cao để thích ứng với tình hình mới. Thứ tư, thế lực thực sự đứng đằng sau WTO là các cường quốc kinh tế lớn mạnh, chủ yếu là bốn nhóm nước: Mỹ, EU, Nhật Bản và Canada. Các vấn đề được mang ra phần lớn đều mang lại lợi ích cho thiểu số các quốc gia này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển..doc
Tài liệu liên quan