Tài liệu Báo cáo Tìm hiểu thông tin khoa học đối với sự phát triển kinh tế - Xã hội ở nước ta hiện nay: BÁO CÁO
THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
HÀ NỘI - 2010
2
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
TTKH = TTKH
CNXH = CNXH
XHCN = XHCN
CSDL = Cơ sở dữ liệu
KH-CN = Khoa học và công nghệ
NC-PT = Nghiên cứu và phát triển
CNH, HĐH = Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
WTO = Tổ chức Thương mại thế giới
3
MỤC LỤC
TT Nội dung Tr
1 Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài 7
Tình hình nghiên cứu 15
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 19
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 20
Nội dung nghiên cứu 22
Ý nghĩa của đề tài 22
Sản phẩm của đề tài 24
2 Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội
1.1. Khái niệm thông tin và TTKH 25
1.1.1. Khái niệm thông tin 25
1.1.2. Khái niệm TTKH và đặc trưng của TTKH 34
1.2. Vai trò của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 44
1.2.1. TTKH tạo cơ sở dữ liệu khoa học và thực tiễn cho việc
hoạch định chủ trương, đường lối, chương trình, kế ho...
169 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tìm hiểu thông tin khoa học đối với sự phát triển kinh tế - Xã hội ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO
THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
HÀ NỘI - 2010
2
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
TTKH = TTKH
CNXH = CNXH
XHCN = XHCN
CSDL = Cơ sở dữ liệu
KH-CN = Khoa học và công nghệ
NC-PT = Nghiên cứu và phát triển
CNH, HĐH = Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
WTO = Tổ chức Thương mại thế giới
3
MỤC LỤC
TT Nội dung Tr
1 Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài 7
Tình hình nghiên cứu 15
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 19
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 20
Nội dung nghiên cứu 22
Ý nghĩa của đề tài 22
Sản phẩm của đề tài 24
2 Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội
1.1. Khái niệm thông tin và TTKH 25
1.1.1. Khái niệm thông tin 25
1.1.2. Khái niệm TTKH và đặc trưng của TTKH 34
1.2. Vai trò của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 44
1.2.1. TTKH tạo cơ sở dữ liệu khoa học và thực tiễn cho việc
hoạch định chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch và
các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
44
1.2.2. TTKH góp phần hình thành tư duy kinh tế một cách
khoa học
48
1.2.3. TTKH khởi nguồn cho tư duy sáng tạo cái mới nói
chung và cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng
52
1.2.4. TTKH đóng vai trò nguồn vốn tri thức cho sự phát triển
kinh tế - xã hội
57
1.2.5. TTKH đóng vai trò tiết kiệm các nguồn lực 60
1.2.6. TTKH đóng vai trò phổ cập hóa kiến thức khoa học
công nghệ nói chung, kiến thức khoa học kinh tế nói riêng cho
những người tham gia hoạt động kinh tế
60
1.2.7. TTKH đóng vai trò cầu nối giữa khoa học với thực tiễn
kinh tế - xã hội
63
1.2.8. TTKH góp phần tạo ra động lực tinh thần cho phát triển
kinh tế - xã hội
64
4
1.2.9. TTKH góp phần làm thay đổi phương thức sinh hoạt
kinh tế - xã hội
67
1.3. Chức năng của TTKH 69
1.3.1. Chức năng thu thập, khai thác tư liệu 69
1.3.2. Chức năng thẩm định giá trị khoa học 69
1.3.3. Chức năng lưu trữ tài liệu khoa học 70
1.3.4. Chức năng tạo tiền đề cho nghiên cứu, sáng tạo 70
1.3.5. Chức năng phục vụ thực tiễn 71
1.3.6. Chức năng dự báo KH-CN, dự báo xã hội 71
1.3.7. Chức năng cập nhật tri thức mới, chức năng nâng cao
dân trí, phổ cập tri thức
71
1.3.8. Chức năng hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý 72
1.3.9. Chức năng hướng dẫn dư luận xã hội 74
Kết luận chương 1 76
3 Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta
2.1. Một số khía cạnh lịch sử hình thành 77
2.2. TTKH đã phục vụ có hiệu quả cho quá trình đổi mới tư duy
kinh tế
82
2.3. TTKH bám sát nhu cầu thực tiễn 88
2.4. TTKH góp phần tạo ra cơ sở khoa học và tư tưởng cho sự
ổn định chính trị - xã hội để đổi mới có trật tự, phát huy mọi
nguồn lực trong phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới
95
2.5. TTKH phục vụ tích cực đường lối đổi mới, độc lập và
sáng tạo của Đảng
96
2.6. TTKH phục vụ cho cuộc đấu tranh với tệ nạn kinh tế - xã
hội và làm lành mạnh hóa xã hội để phát triển kinh tế
99
2.7. Những hạn chế chủ yếu của TTKH trong việc phục vụ sự
phát triển kinh tế - xã hội nước ta
105
Kết luận chương 2 109
4 Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của
công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện
nay
3.1. Những mục tiêu kinh tế - xã hội 110
5
3.2. Xây dựng hệ quan điểm mới về thông tin và TTKH 111
3.3. Nâng cao chất lượng TTKH là vấn đề mấu chốt hiện nay 113
3.4. TTKH phải đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng kế hoạch
chiến lược
115
3.5. TTKH về hệ tư tưởng kinh tế 123
3.6. Thông tin đổi mới về chiều sâu 136
3.7. TTKH góp phần phát triển tư duy xã hội theo hướng khoa
học và lành mạnh
141
3.8. TTKH phải thích ứng nhanh, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới, khi nước ta là thành viên
WTO
145
3.9. Xử lý TTKH về những vấn đề xã hội 149
3.10. Tăng cường công tác thống kê, phân tích, xử lý, phổ biến
tin và kiểm tra chất lượng TTKH
150
3.11. Thông tin các điều mới, sáng tạo mới 151
3.12. Thúc đẩy quá trình thị trường hóa sản phẩm TTKH 154
3.13. Một số giải pháp bổ trợ 157
3.13.1. Đẩy mạnh việc phát triển nguồn nhân lực cho TTKH 157
3.13.2. Tăng cường đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất - kỹ thuật 158
3.13.3. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về TTKH 159
3.13.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TTKH 160
3.13.5. Xây dựng và phát triển hệ thống quốc gia về thông tin
kinh tế - xã hội
161
3.13.6. Hoàn thiện cơ chế hoạt động thông tin kinh tế - xã hội 162
3.13.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm thông tin kinh tế - xã hội
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
163
Kết luận chương 3 165
5 Kết luận chung 166
Danh mục tài liệu tham khảo 167
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thứ nhất: Xem xét dưới góc độ lý luận TTKH, cần tìm ra cách
thức tối ưu để gắn TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời đại ngày nay, khái niệm "thông tin" đã mang tính phổ
biến có ý nghĩa toàn cầu, toàn nhân loại, phổ cập trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Các thuật ngữ: "thời đại thông tin", "xã hội thông tin",
"ưu thế thông tin" v.v... đang được lưu truyền rộng rãi, thậm chí có một số
nhà lý luận còn cho rằng có cả "nền kinh tế thông tin". Thực vậy, ở Tây
Âu, trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin phát triển với
tốc độ nhanh gấp 2 - 3 lần các ngành khác. Ngay từ năm 1993, khối lượng
giá trị được tạo ra từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt
động dịch vụ mang tính thông tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất
công nghiệp của Tây Âu. Hiện nay, ở Mỹ người ta ước tính giá trị khu vực
thông tin chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Còn trên phạm vi toàn cầu, năm
2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin đạt 7,1%, cao
gấp hơn 2 lần tăng trưởng bình quân GDP của toàn thế giới 1).
Dưới góc độ lý luận, thông tin đã được rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu nhưng chủ yếu là nghiên cứu về bản chất thông tin, vai trò của
thông tin, vai trò xã hội của thông tin, còn đi sâu vào lĩnh vực hẹp là
TTKH (TTKH) thì chưa được đề cập thỏa đáng, có thể nói là rất ít, chỉ
thoáng qua. Đặc biệt là vai trò chức năng của TTKH đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, tác động của TTKH đối với với sự phát triển
1) Xem:Báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam năm 2006, Hội tin học Thành
phố Hồ Chí Minh, tr.2.
7
kinh tế - xã hội của Việt Nam chưa được nghiên cứu thấu đáo. Do vậy,
khía cạnh lý luận về vận dụng TTKH vào lĩnh vực kinh tế - xã hội cần
được nghiên cứu tiếp.
Ngày nay, TTKH là một hoạt động quan trọng không thể thiếu
không chỉ đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục - đào tạo, mà
cũng rất cấp thiết đối với hoạt động thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa v.v.. Thí dụ, xử lý dữ liệu về biến động thị trường thế giới: như giá
vàng, các ngoại tệ mạnh, về giá dầu thế giới hiện nay v.v... đòi hỏi một sự
phân tích tổng hợp về kinh tế chính trị, về kinh tế - kỹ thuật, về chính trị
và xã hội thế giới, phải phân tích các dữ liệu có căn cứ khoa học, để có
chính sách ứng phó quốc gia. Nếu nối mạng được toàn bộ các dữ liệu
thông tin về tài chính, ngân hàng, đầu tư, xuất - nhập khẩu, công nghiệp -
nông nghiệp, cũng như có đầy đủ thông tin về kinh tế đối ngoại, về chính
trị thế giới, về các điều kiện tự nhiên và xã hội khác v.v... thì chúng ta sẽ
có các biện pháp phát triển kinh tế nói chung, cũng như góp phần đối phó
với khó khăn kép của nền kinh tế nước ta như vừa lạm phát cao lại vừa
tăng trưởng chậm và hiệu quả kém. Có TTKH từ sự nghiên cứu của các cơ
quan nghiên cứu trong nước cũng như nghiên cứu quốc tế, nắm bắt và xử
lý kịp thời các thông số kinh tế - xã hội, xử lý linh hoạt các biện pháp điều
chỉnh về đầu tư, xuất - nhập khẩu, về lãi suất tín dụng ngân hàng, về tài
chính và ngân sách v.v... chúng ta sẽ kìm hãm được lạm phát cao hiện nay
và có khả năng kéo lạm phát xuống mức một con số, để rồi kéo về mức
lạm phát tối ưu. Nói chung, nếu nắm được những TTKH, những dữ liệu có
tính chính xác, được xử lý một cách khoa học, đảm bảo độ tin cậy thì
chúng ta sẽ giải quyết được các vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm là kinh
tế - xã hội một cách hiệu quả.
TTKH là nhân tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hơn thế
còn là tăng trưởng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tăng trưởng, gắn phát
triển kinh tế với phát triển xã hội một cách tối ưu.
TTKH là phạm trù riêng trong tập hợp chung của hai phạm trù lớn
8
là thông tin và khoa học. Nó vừa nằm ở lĩnh vực thông tin, lại đồng thời
nằm ở lĩnh vực khoa học, vừa mang nội dung thông tin, vừa mang bản
chất khoa học.
Còn nhiều khía cạnh TTKH cần được đi sâu nghiên cứu về phương
diện lý luận, chẳng hạn như: phân biệt thông tin với tri thức, phân biệt
thông tin với truyền thông và tuyên truyền, phân biệt thông tin nói chung
với TTKH; xác định những dấu hiệu riêng của phạm trù TTKH; nghiên
cứu vị trí TTKH trong hoạt động nghiên cứu khoa học và với đời sống
chính trị, kinh tế và xã hội; nghiên cứu chức năng đặc thù của TTKH và
quan hệ giữa các chức năng đó với kinh tế - xã hội nước ta, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới, với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Việc sử
dụng có hiệu quả nguồn lực thông tin (tri thức) để phục vụ cho công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu
rất cấp bách. Đó cũng chính là yêu cầu đối với TTKH - thu nhận được
nhiều thông tin (tri thức), xác định rõ các đối tượng thông tin, đồng thời
quản lý được thông tin để đáp ứng các nhu cầu về TTKH khác nhau, mà
trọng tâm là phát tỉển kinh tế - xã hội.
Phạm trù TTKH là sự thống nhất biện chứng của hai phương diện:
thông tin và khoa học, cùng nằm trong một chu trình vận động của tri
thức. TTKH chính là sự truyền bá khoa học, là thông qua những công cụ
nhất định (các công cụ và phương pháp truyền tin) để phổ cập tri thức, đưa
tri thức vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (khoa học, kinh tế,
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, quân sự v.v...).
Nếu chúng ta coi toàn bộ hoạt động khoa học (xét về bản chất, nội
dung của hoạt động khoa học) gồm hai khâu cơ bản: 1) Sản xuất (nghiên
cứu), sáng tạo tri thức (khoa học); 2) Đưa tri thức vào sử dụng, phục vụ
cho các đối tượng sử dụng, là khâu lưu thông và tiêu dùng tri thức. TTKH
vì thế có vai trò, chức năng riêng đối với khoa học và đối với đời sống
chính trị, kinh tế và xã hội. TTKH là bộ phận không thể thiếu, bộ phận cơ
bản vừa độc lập tương đối với nghiên cứu khoa học, đồng thời lại nằm ngay
9
trong tiến trình nghiên cứu: thông tin dữ liệu để chuẩn bị cho ý tưởng.
Có thể nói rằng, TTKH chính là xử lý một cách khoa học về nội
dung các thông tin, tức là xác định, thẩm định giá trị tin và tổ chức sử
dụng các giá trị tin. Vì thế TTKH khác với thông tin nói chung và các hình
thức cụ thể khác của thông tin, TTKH là việc tìm ra bản chất của tin và
đưa ra hệ thống tin phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng chính
trị, kinh tế, xã hội v.v... phục vụ cho các đối tượng với những nhu cầu
tương ứng. Trong muôn vàn biểu hiện các thông tin khác nhau thì giá trị
nội dung đích thực chỉ có một. Vì thế phải xác định tin nào đúng, tin nào
sai, cần có cách xử lý để đi đến kết luận tính chân lý. TTKH chính là xử
lý, thẩm định nội dung (giá trị tin), hệ thống các nội dung thông tin để
giúp cho người nắm thông tin có điều kiện tìm ra tính chân lý hoặc chí ít
cũng tiến gần nhất đến chân lý.
Đối tượng nghiên cứu của TTKH cũng là một khía cạnh mới, là
nghiên cứu về nội dung, bản chất của tin. Trong đời sống có rất nhiều tin,
xác định tính chính xác của thông tin, mức độ khoa học của tin, xác định ý
nghĩa xã hội của tin và phương pháp sử dụng thông tin cụ thể v.v... Đó
cũng là đối tượng nghiên cứu của TTKH. Trong trường hợp này TTKH lại
như là một phân ngành khoa học hẹp. Đây là một ‘‘khoảng trống” còn
chưa được nghiên cứu thấu đáo.
Mục tiêu cao nhất của TTKH là đưa tri thức, góp phần đắc lực để tri
thức được ứng dụng vào đời sống một cách có hiệu quả, mà trong đó trọng
tâm là phát triển kinh tế - xã hội. Tri thức là một nguồn lực, một nguồn
vốn vô cùng to lớn mà chi phí để sử dụng nó nói chung là không lớn
(không tương xứng với chi phí tạo ra tri thức), nhiều trường hợp nhờ
TTKH mà sử dụng tri thức không phải chi trả, nó chỉ phụ thuộc vào khả
năng nắm nguồn lực tri thức. Một trong các yếu tố để nắm nguồn lực đó là
TTKH. Hiện nay sử dụng TTKH phục vụ cho đời sống, trước hết phục vụ
cho phát triển kinh tế, đang là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy đề tài này hy
vọng góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong việc sử dụng
10
TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta
hiện nay.
TTKH cũng là khái niệm bao gồm hai nghĩa cơ bản, khi xét về
phương diện vận hành:
- Hoạt động xử lý tri thức, khía cạnh nội dung khoa học của thông tin.
- TTKH là hình thức xử lý nội dung thông tin một cách có tổ chức,
có quy chế hoạt động theo hệ thống, là lĩnh vực thông tin trong hoạt động
khoa học, gắn với nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội về lưu thông và
cung ứng tri thức.
Tuy nhiên, trong thực tế, chủ yếu người ta mới chỉ đề cập đến
thông tin nói chung, chưa chú ý phân biệt thông tin với TTKH. Thậm chí,
chỉ coi thông tin, TTKH như là một hoạt động bên ngoài, có quan hệ chứ
không phải có cấu tạo hữu cơ về nội dung trong hoạt động khoa học, nằm
trong hệ thống khoa học. Hơn thế, thông tin trong hoạt động kinh tế và xã
hội được sử dụng ở cấp độ "tin tức", "thông báo", còn TTKH nghĩa là
thông tin ở cấp độ lý tính, quy luật, bản chất của thông tin thì chưa được
chú ý đến mức cần thiết phải có.
Thứ hai: Xem xét sự cần thiết nghiên cứu đề tài dưới góc độ sử
dụng TTKH phục vụ cho sự phát triển kinh - xã hội nước ta hiện nay (nói
cách khác là xem xét nhu cầu về TTKH trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội).
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng, chúng ta phải nỗ lực
phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nhiều biện pháp, trong đó
khoa học là một nhân tố quan trọng hàng đầu, phải đi trước nhiều bước.
TTKH cũng là một nhân tố trong hệ thống khoa học. Nó là nhân tố tri thức,
một nguồn lực để phục vụ cho quá trình đẩy nhanh sự phát triển này và đặc
biệt là để phát triển hài hòa, đảm bảo cân đối giữa các mặt: kinh tế với xã
hội, kinh tế với an toàn sinh thái, vật chất với tinh thần, hiện tại với tương
lai. Ngay cả trong thời điểm hiện nay đang có mâu thuẫn căng thẳng giữa
11
tăng trưởng với khó khăn về tài chính - ngân hàng và đời sống của đa số
người dân bị giảm sút, đặc biệt là người có thu nhập thấp, người nghèo gặp
khó khăn. Những thành tựu của đổi mới đang bị đe dọa do hạn chế của chất
lượng tăng trưởng. Trước tình hình đó, TTKH phải góp phần tích cực và có
hiệu quả thiết thực để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.
Hiện nay, nhu cầu xã hội về TTKH là rất lớn, TTKH đang phải trả
lời, phải tham gia giải quyết nhiều vấn đề do thực tiễn kinh tế - xã hội đất
nước đặt ra, ví dụ:
- Làm thế nào để có thông tin với chất lượng, hàm lượng tri thức
khoa học cao cho sự phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển với tốc độ
và hiệu quả kinh tế cao, vừa thỏa mãn được nhu cầu xã hội (với những qui
chế, hạn định nào đấy), hay nói cách khác là kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, đáp ứng phát triển toàn
diện hài hòa, có hiệu quả các nguồn lực.
- TTKH góp phần cung cấp những tri thức khoa học cho việc giải
quyết hài hòa giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
- TTKH phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát triển
kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
- TTKH phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc
phát triển kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng
cách về thu nhập và đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các
nhóm, bộ phận dân cư có thu nhập thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo,
cải thiện nhiều hơn mức sống cho người nghèo và tầng lớp dân cư yếu thế,
phát triển kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội của cộng đồng.
- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội, về
sinh thái, tiết kiệm tài nguyên.
- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng
thời tạo cơ sở thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại
12
chúng và tiên tiến, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam,
xây dựng một nền kinh tế giàu tính văn hóa và nhân văn Việt Nam v.v...
- TTKH phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản lý
về phát triển, về tư duy kinh tế - xã hội cũng như phổ cập tri thức cho
người dân, để người dân hình thành tư duy kinh tế - xã hội hợp lý, lành
mạnh nhất.
- TTKH phải tạo được dữ liệu để dự báo chính xác xu thế của kinh
tế thế giới, đặc biệt là phương diện xã hội của sự phát triển này v.v...
Như vậy, xem xét từ góc độ TTKH phục vụ cho hoạt động kinh tế -
xã hội hiện nay, với nền kinh tế nước ta đã đến lúc phải chú trọng nhiều
hơn đến khía cạnh đồng bộ, hài hòa của sự tăng trưởng và hội nhập sâu
hơn với kinh tế thế giới, việc nghiên cứu để gắn kết đề TTKH đối với phát
triển kinh tế - xã hội là cần thiết, vì TTKH là phương tiện của sự phát triển
và ngược lại, sự phát triển kinh tế - xã hội luôn có nhu cầu nhiều hơn, cao
hơn về TTKH:
- Nhu cầu tri thức khoa học, nhu cầu trí tuệ của sự phát triển ngày
càng lớn, vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt. Để
đảm bảo cho đất nước phát triển đúng quỹ đạo XHCN, cần có đường lối
đúng, chính sách khoa học và biện pháp hợp lý, linh hoạt. Nhu cầu TTKH
trở nên cấp bách, nó đảm bảo cho việc cung cấp tri thức để đề ra đường
lối, chính sách có tính khoa học hơn, chính xác hơn.
- Nhu cầu cập nhật để hiện đại hóa: nền kinh tế thế giới đang
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, kinh tế thông tin. Vì
vậy, TTKH như là một phương tiện, phương thức hữu hiệu để thúc đẩy
tiến trình đó. Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, vừa
phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, lại đồng thời kết hợp với hiện
đại hóa (ở qui mô, trình độ và lĩnh vực nào có thể) nền kinh tế và xã hội,
vì vậy càng phải cập nhật tốt nhất kiến thức trên các lĩnh vực: khoa học,
kỹ thuật - công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tư tưởng phát triển,
cũng như cả các lĩnh vực tinh thần khác v.v... để phục vụ có hiệu quả cho
13
tiến trình phát triển của đất nước. Ở đây, TTKH được xem như một
phương tiện, một yếu tố tiên phong trực tiếp của lực lượng sản xuất.
- Nhu cầu TTKH về các vấn đề xã hội gắn với sự phát triển kinh tế
còn ít được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Thí dụ: xử lý thông tin về tính
chính trị, tính nhân văn - văn hóa - dân trí- tâm lý - đạo đức của sự phát
triển kinh tế, về quản lý nội bộ của các công ty trên thế giới, chống tội
phạm và tham nhũng ở các công ty cổ phần và công ty tư nhân (thường
chúng ta chỉ hay nhấn mạnh ở khu vực nhà nước), nội dung của xã hội dân
sự và sự phát triển của nó ở Phương Tây, ở Phương Đông cũng như ở Việt
Nam hiện nay, vấn đề bảo hiểm xã hội và an sinh cho các đối tượng và
trường hợp khác nhau, thông tin về các vấn đề xã hội mang tính chính trị
như an ninh xã hội, dân chủ trong đời sống của thời mở cửa và hội nhập
với thế giới bên ngoài v.v.., đều cần có những phân tích, xử lý khoa học về
phương pháp và nội dung.
- Nhu cầu TTKH về an ninh kinh tế ngày càng cấp thiết, sự hòa
quyện an ninh kinh tế với an ninh xã hội ngày càng tăng lên.
- Nhu cầu TTKH về khía cạnh kinh tế của các lĩnh vực văn hóa tinh
thần, khoa học, nghệ thuật, thể thao, chính trị - xã hội và ngược lại, cần có
TTKH về khía cạnh văn hóa (xã hội) trong kinh tế.
- Nhu cầu đánh giá thực trạng sử dụng TTKH, vai trò chức năng của
nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Công tác này hiện còn nhiều bất
cập và hạn chế cần được khắc phục. Nguồn lực TTKH chưa thực sự được
phát huy. Đây cũng là một phương diện lý luận và thực tiễn có tính liên
ngành: thông tin, khoa học, kinh tế và xã hội cần được nghiên cứu.
Trên các phương diện lý luận và thực tiễn phát triển của đất nước về
kinh tế - xã hội, cũng như gắn với lĩnh vực chuyên môn hẹp (TTKH), đang
đặt ra nhu cầu nghiên cứu đề tài: TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta hiện nay.
Như vậy, sự cần thiết nghiên cứu đề tài này xuất phát từ hai phương
diện cơ bản: 1) Cần nghiên cứu rõ hơn những vấn đề về lý luận TTKH, để
14
TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội; 2) Sự phát triển kinh tế - xã hội
nước ta đang ngày càng đòi hỏi, càng có nhu cầu lớn hơn về tri thức, do đó
có nhu cầu cao hơn về TTKH, đòi hỏi nhiều hơn về TTKH.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nổi tiếng nghiên cứu về lĩnh vực
thông tin, ví như: A. Toffler và D. Bell ở Mỹ, A. Eliacov, B.L. Inozemsev
ở Nga, Paul A. David, Domonique Foroy ở Pháp v.v...
Dưới góc độ nghiên cứu quan hệ giữa thông tin với kinh tế - xã hội,
có thể nêu ra một số tác giả và công trình tiêu biểu:
- Afanasev V.G. Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Hà nội, 1979.
- Jashin G.E. Thông tin kinh tế là gì? Tài liệu dịch, ký hiệu TC2210,
Thư viện Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Rezman L.Đ. Xã hội thông tin và vai trò của viễn thông trong sự
hình thành xã hội thông tin 2). Nội dung đề cập đến ảnh hưởng của công
nghệ thông tin và sự hình thành khái niệm xã hội thông tin, sự tác động xã
hội của thông tin.
- Inozemsev B.L. Kinh tế hậu công nghiệp và xã hội hậu công
nghiệp3). Nội dung đề cập đến kinh tế và xã hội hậu công nghiệp, đến xu
thế gia tăng vai trò của thông tin.
- Eliacov A. Ưu thế thông tin của Mỹ và Nga 4). Tác giả nêu lên ưu
thế thông tin của Mỹ so với Nga. Do vậy, xét từ góc độ đóng góp vào nền
kinh tế, thì thông tin ở Mỹ có vai trò lớn hơn nhiều so với ở Nga.
- Tikhovovich E.A. Thời đại thông tin và những vấn đề cấp thiết
của nền kinh tế 5). Tác giả xem thông tin như là một điều kiện của phát
triển kinh tế, coi kinh tế mang bản chất thông tin.
2) T/c: "Những vấn đề triết học”( tiếng Nga), số 3/2001, tr.3-9.
3) T/c: "Khoa học và xã hội”(tiếng Nga), số 3/2001, tr.140-152.
4) T/c: "Đối thoại”(tiếng Nga), số 11/2005.
5) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”( tiếng Nga), số4/2005.
15
- Meitus. V. Doanh nghiệp ảo trong xã hội thông tin 6). Ở đây đề
cập đến một khía cạnh mới của kinh tế: hình thành xí nghiệp mới (ảo) do
tác động của thông tin.
- Meliansev B. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới 7).
Tác giả chỉ ra vai trò biến đổi mang tính cách mạng của kinh tế do ảnh
hưởng của cách mạng thông tin.
- Eliacov A. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục 8). Tác giả
chứng minh sự phát triển tiếp tục nhanh hơn của cách mạng thông tin và
nền kinh tế phải thích ứng.
- Sapra G. Nền kinh tế thông tin 9). Ở đây tác giả đã đưa một khái
niệm hoàn toàn mới hẳn: nền kinh tế thông tin.
Nói chung, những vấn đề lý thuyết chung về thông tin đã được
nghiên cứu từ lâu và khá nhiều ở nước ngoài.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về thông tin hoặc
liên quan đến thông tin kinh tế - xã hội, ví dụ:
- Nguyễn Nhâm. Thông tin kinh tế và quản lý kinh tế ở cơ sở, Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1987. Tài liệu đề cập về cung cấp dữ liệu trong quản lý
kinh tế.
- Lê Xuân Hòa. Điều tra và xử lý thông tin trong quá trình quản lý,
Nxb Thống kê, 1999. Tài liệu đề cập về nghiệp vụ xử lý tin một cách cụ
thể ở dạng đơn giản.
- Viện TTKH xã hội. Những thách thức trong xã hội thông tin (Tập
tài liệu tham khảo nội bộ, năm 2001). Tài liệu này đề cập nhiều về các
khía cạnh chung của thông tin với sự phát triển nói chung.
- Hàn Viết Thuận (chủ biên). Giáo trình Hệ thống thông tin kinh tế
(Đại học Kinh tế Quốc dân), Nxb Lao động - xã hội, 2004. Tài liệu hướng
6) T/c: "Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý”(tiếng Nga), số 4/2006.
7) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001.
8) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 8/2006.
9) T/c: "Nhà kinh tế”(tiếng Nga), số 10/2005.
16
dẫn tra cứu, tìm tin, dữ liệu kinh tế.
- Nguyễn Hữu Hùng. Thông tin từ lý luận tới thực tiễn, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2005. Tác giả nêu phương pháp luận về sử dụng
thông tin, chủ yếu dưới góc độ thông tin học để phục vụ cho nghiên cứu
về các vấn đề khác.
- Vũ Đình Hòe, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền. Truyền thông đại chúng
trong công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Các tác giả đã nêu lên vai trò truyền thông phục vụ cho lãnh đạo, quản lý.
- Đường Vinh Sường: Thông tin kinh tế với quản lý nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. Tác giả
chủ yếu đề cập đến vai trò của thông tin để chế định đối với những khuyết
tật của kinh tế thị trường. (Công trình này về thực chất là công bố kết quả
đề tài cấp bộ của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: ‘‘Thông tin
kinh tế với việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường” do
chính tác giả chủ nhiệm đã được nghiệm thu năm 2000. Nội dung cơ bản
của nó là thông tin kinh tế phải giúp cho việc quản lý nhà nước chủ động
chế ngự những khuyết tật bẩm sinh của kinh tế thị trường.
- Hoàng Ngọc Kim. TTKH với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề
tài cấp cơ sở của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Nội
dung chủ yếu là nêu lên khía cạnh thông tin nói chung với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nghiên cứu TTKH độc lập, đúng nghĩa
cần có.
Đã có một số công trình nghiên cứu thực tiễn có liên quan đến
thông tin, ví dụ như:
- ThS. Đoàn Thị Hải Yến và cộng sự. Nghiên cứu phương pháp xây
dựng Báo cáo tổng quan kinh tế quí (Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, năm 2008).
- Một số tài liệu khác như: Cẩm nang báo cáo kinh tế quí, Cẩm
nang xây dựng bản tin ngoại thương (tài liệu của Trung tâm Thông tin và
17
Dự báo Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000) v.v...
Cũng cần khẳng định rằng việc cập nhật và đưa thông tin về kinh tế
- xã hội thì rất nhiều và thường xuyên, nhưng ít có những công trình mang
tính chuyên nghiệp dưới góc độ TTKH ở các cơ quan kinh tế, các cơ quan
nghiên cứu, hoạt động thông tin. Về phương diện này ít có những công
trình nghiên cứu tương xứng.
Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến hoặc
chưa đạt đến độ cần có về phạm vi và chiều sâu, còn nặng về thông tin
và nhẹ về khoa học, còn thiên về mô tả mà chưa đi sâu nghiên cứu bản
chất vấn đề dưới góc độ TTKH. Do vậy cần có những công trình đi sâu
nghiên cứu một số nội dung sau:
- Khu biệt rõ phạm trù TTKH.
Các công trình đã có mới giải quyết thuần túy lý luận thông tin (các
công trình nước ngoài), hoặc nặng về mô tả thông tin nói chung (công trình
trong nước). Nhiều công trình vẫn chưa tách biệt được TTKH với thông tin
nói chung. Trong thực tiễn ít tác giả khu biệt, phân định rõ điều này.
- Mối quan hệ giữa TTKH (chứ không phải thông tin nói chung) với
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
- Làm rõ hơn các chức năng cơ bản của TTKH đối với kinh tế - xã
hội, định vị TTKH trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Khảo sát đánh giá khách quan thực trạng tác động của TTKH đối
với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian vừa qua,
tổng kết những bài học kinh nghiệm để sử dụng có hiệu quả TTKH phục
vụ quá trình phát triển này. Cũng đã có một số đề xuất, nhưng vì những lý
do khác nhau, nay mới có điều kiện để nghiên cứu tốt hơn.
- Đưa ra được các giải pháp mới, có tính khả thi cao và hiệu quả để
TTKH phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế nước ta đang đứng trước yêu cầu phải phát triển với tốc
độ cao để khắc phục sự tụt hậu so với khu vực và thế giới, đồng thời phải
18
đảm bảo chất lượng tăng trưởng, phải phát triển theo đúng quĩ đạo XHCN,
phải giải quyết tốt yêu cầu kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và
tiến bộ xã hội, phát triển theo nguyên tắc tái sản xuất mở rộng bền vững
(về xã hội và sinh thái). Điều đó đòi hỏi mọi lực lượng xã hội phải nỗ lực,
trong đó TTKH là một yếu tố - một lực lượng tiền phong của sự phát triển.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ khỏa lấp được "những lỗ
hổng” khoa học và thực tiễn, do các nghiên cứu trước đó để lại.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu
Nghiên cứu để tạo ra được một công trình lý luận có tính hệ thống
về TTKH, tìm ra cơ chế, phương thức để TTKH gắn nhiều hơn, chặt chẽ
hơn với thực tiễn kinh tế - xã hội, để TTKH vừa có được ý nghĩa khoa học
lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn thiết thực, nâng cao tính hiệu quả của
TTKH, để TTKH trở thành một trong những nhân tố tích cực hàng đầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, đóng góp cụ thể vào
việc nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời kinh tế
hài hòa với khía cạnh xã hội và các khía cạnh khác của sự tăng trưởng.
Nhiệm vụ
* Làm rõ phạm trù TTKH:
- Phát hiện, khái quát và bổ sung những nét mới, hoàn chỉnh hơn
về nội hàm, đặc trưng của phạm trù TTKH.
- Bổ sung những điểm mới, nêu bật các vai trò, chức năng chung
của TTKH (trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển kinh tế - xã hội).
* Làm rõ ý nghĩa thực tiễn của TTKH đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam hiện nay:
- Đưa ra được một đánh giá mới (đầy đủ và thuyết phục hơn so với
các công trình đã được nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này) về vai trò,
chức năng của TTKH trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
trong thời kỳ đã qua.
19
- Rút ra những bài học kinh nghiệm về sử dụng TTKH phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội.
* Tìm ra các giải pháp cụ thể hóa chức năng của TTKH để TTKH
phục vụ một cách hiệu quả cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã
hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo cho kinh tế nước ta vừa
có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và
giải quyết tốt các vấn đề xã hội:
- Về quan điểm, phương thức chung để thực hiện vai trò, chức năng
của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Về những vấn đề cụ thể hóa vai trò, chức năng của TTKH (gắn với
kinh tế - xã hội), để TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế -
xã hội nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập sâu hơn
với kinh tế thế giới.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
TTKH ứng dụng, tức là nghiên cứu bản chất khoa học của thông tin
trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu một lĩnh
vực độc lập của sự gắn kết 2 phạm trù với nhau: thông tin khoa học và
kinh tế - xã hội. Nghiên cứu cấu trúc của TTKH phục vụ cho yêu cầu tổng
thể về đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu
- Lý thuyết: khảo sát những vấn đề cơ bản liên quan đến nội hàm
của phạm trù TTKH, nghiên cứu thêm và bổ sung để làm rõ hơn vai trò,
chức năng thực tiễn kinh tế - xã hội của TTKH.
- Thực tiễn: những vấn đề nằm trong giới hạn kinh tế và xã hội,
những vấn đề TTKH liên quan đến kinh tế và xã hội. Không chỉ coi
TTKH tác động đến các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội của kinh tế mà
xem thông tin các vấn đề xã hội tác động ngược lại đối với kinh tế, đặc
biệt kinh tế tác động lại chính TTKH.
20
- Thời gian và không gian: từ năm 1986 đến nay, trong không gian
kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt chú ý giai đoạn từ 2001 đến nay và
dự báo trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử vào nghiên cứu lý luận, nghiên cứu kinh tế - xã hội. Đặc biệt lưu ý: tư
duy lôgic gắn với lịch sử; coi thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội là thước đo, là tiêu chuẩn cơ bản nhất để đánh giá về
tính đúng đắn của lý luận, của tư tưởng, của một đường lối, chính sách,
biện pháp nào đó;
- Phương pháp tư duy lý luận: nghĩa là phải trừu tượng hóa một
cách khoa học. Phải đúc kết thực tiễn bằng tư duy lý luận, khái quát lý
luận phải dựa vào hệ thống các phạm trù nhất định làm công cụ tư duy. Để
nghiên cứu về thực tiễn đa dạng, tư duy về một vấn đề phải xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn và hướng về thực tiễn nhưng khám phá thực tiễn phải
bằng tư duy khoa học (lý luận);
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (phương pháp nghiên cứu
thông tin với phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học kinh tế).
Ở đây là đề cập đến việc phải vận dụng các công cụ của thông tin học để
xử lý tư liệu, vận dụng những kiến thức triết học xã hội để áp dụng vào tư
duy về thông tin và các vấn đề kinh tế và xã hội, vận dụng tư duy kinh tế
chính trị để giải quyết những khía cạnh sở hữu và lợi ích, quan hệ giai cấp
và giai tầng xã hội, quan hệ phân phối lợi ích..., từ quan điểm lợi ích để
xem xét mục đích, nội dung và ý nghĩa của thông tin, thông tin vì ai và
bằng cách nào v.v... Như vậy không chỉ có tư duy hệ thống mà còn phải có
tư duy liên hoàn, tư duy tổng thể.
- Phương pháp khảo cứu, điều tra - thống kê, phân tích - tổng hợp,
đối chiếu và so sánh giữa lý luận với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn,
giữa thực tế này với thực tế khác v.v..;
- Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát toàn bộ
21
những giá trị khoa học của các công trình (có thể nắm được) đã có để
tránh lặp lại, kế thừa và lựa chọn những kết luận đã có (mà tác giả thừa
nhận) rồi mới có thể suy nghĩ và sáng tạo mới.
5. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu nội dung cơ bản gồm lời mở đầu, 3 chương, kết luận:
Mở đầu: Khái quát về lý do, mục đích, phương pháp, nội dung, ý
nghĩa nghiên cứu
Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội
Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội
ở nước ta
Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của công
cuộc đổi mới KT-XH ở nước ta hiện nay
Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là một công trình độc lập, có giá trị khoa học mang bản sắc
riêng và giá trị thực tiễn rõ rệt: bổ sung và phát triển thêm một bước lý
luận về TTKH và gắn TTKH với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; nó
vừa có tính thời sự của việc nghiên cứu, phản ánh nhu cầu cấp bách của
thực tiễn, vừa gắn lý luận với thực tiễn, phát huy vai trò tiền phong của lý
luận để tác động chủ động, tích cực, có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế -
xã hội.
* Về lý luận
- Tạo ra một sản phẩm khoa học có tính liên ngành: thông tin và
kinh tế, thông tin và xã hội, phản ánh tính đặc trưng của thời đại: thời đại
thông tin và kinh tế tri thức;
- Sẽ "vẽ” được hình hài mới về phạm trù TTKH, làm cho nó có "da
22
thịt” đầy đủ hơn; nét riêng mà các tác giả sẽ thực hiện trong nghiên cứu là
đưa ra một phương pháp tiếp cận chính xác hơn đối với phạm trù TTKH,
tránh sự đồng nhất TTKH với thông tin nói chung. Đưa ra cách hiểu, cách
vận dụng lý luận thông tin vào thực tiễn của một vấn đề phức hợp;
- Bổ sung và phát triển rõ hơn về vai trò, chức năng, tác động của
TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm rõ TTKH là một yếu tố -
một lực lượng hàng đầu của lực lượng sản xuất trực tiếp đối với sự phát
triển kinh tế xã hội hiện nay;
- Đây là một sản phẩm gắn kết hai nội dung: khoa học ở lĩnh vực
thông tin và kinh tế - xã hội, gắn kết TTKH với phát triển kinh tế xã hội,
một bước tiến về sự thống nhất biện chứng giữa khoa học - lý luận với
thực tiễn;
- Nêu rõ TTKH như là dòng sông chuyên chở tri thức, kinh
nghiệm, lý luận khoa học phục vụ cho xã hội nói chung và sự phát triển
kinh tế - xã hội nói riêng;
- Đề tài cũng khám phá những nét mới về chức năng TTKH để đáp
ứng nhu cầu về tri thức;
- Khái quát, tổng kết, đúc kết mới về lý luận thông qua nghiên cứu
các tài liệu, thông tin mới và nghiên cứu thực trạng TTKH trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội, rút ra được các bài học kinh nghiệm về ứng dụng TTKH
để phát triển kinh tế - xã hội;
- Tầm quan trọng của TTKH cần được nhận thức tốt hơn;
- Đề tài phản ánh được chức năng thực tiễn của thông tin.
* Về thực tiễn, có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu vào
việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
+ Tác động vào các chủ thể của xã hội, các chủ thể nhận thức đúng
tầm quan trọng của TTKH là một nguồn vốn đặc biệt - nguồn vốn tri thức,
khoa học, lực lượng to lớn mà trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta còn chưa được chú trọng đúng mức. (Các ngành, các cấp, các địa
23
phương, các đơn vị khoa học và kinh tế cần phải sử dụng nguồn vốn này
một cách hiệu quả hơn);
+ Giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và kinh tế đánh giá đúng,
mới về thực trạng, vai trò, chức năng của TTKH thời gian qua trong lĩnh
vực phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Gợi ý cho các cấp, các ngành và
đặc biệt là các nhà quản lý sử dụng TTKH như là lực lựng xung kích, đi
tiên phong (thậm chí phải đi trước nhiều bước), mở đường cho việc giải
quyết các vấn đề (về khoa học, về thực tiễn nói chung và kinh tế - xã hội
nói riêng);
Giúp cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ quan đang trực
tiếp vận hành, sử dụng, cán bộ khoa học cũng như người lao động có cách
hiểu, cách tiếp cận tốt hơn về TTKH, có được hệ giải pháp mới để sử dụng
TTKH vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ mới giúp cho các cơ quan
quản lý khoa học và hoạch định chính sách về TTKH;
- Làm tài liệu mới với những nội dung mới nhất định để phục vụ
cho các cán bộ khoa học kinh tế và hoạt động thông tin, cho các đối tượng
có nhu cầu tìm hiểu về TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội.
7. Sản phẩm của đề tài
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài dày 170 trang đánh
máy A4);
- Báo cáo tóm tắt 25 trang;
- Bản kiến nghị (khoảng 10 - 15 trang A4);
- Sản phẩm trung gian: Kỷ yếu gồm
+ Các chuyên đề;
+ Các bài viết, bài tổng hợp, các nghiên cứu nhỏ và chi tiết.
- Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu.
24
Chương 1
VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC
1.1.1. Khái niệm thông tin
Khái niệm thông tin dưới các góc độ sinh học, triết học, điều khiển
học quản lý, kinh tế học, xã hội học v.v... được đề cập khác nhau nhưng
đều có những nét chung.
Khái niệm thông tin liên quan đến các khái niệm tri thức. Tri thức là
những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội 10).
Thuật ngữ "Thông tin" theo tiếng Anh: information (có nguồn gốc
từ tiếng Latinh), là sự giải thích, sự trình bày. Theo quan niệm của chúng
tôi, thông tin là sự truyền tin. Thông tin chính là sự truyền tải tri thức
trong xã hội. Thông tin là các kiến thức, tri thức được làm thành các dữ
liệu, tin tức để lưu chuyển, phổ biến và sử dụng giữa những cá nhân hay
tập thể và cộng đồng xã hội với các qui mô và trình độ khác nhau.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm thông tin có bản chất chung như sau:
- Thông tin là một phạm trù của nhận thức, nó thông qua việc sử
dụng các công cụ biểu hiện đặc trưng để nhận thức thế giới khách quan.
- Nội dung thông tin là tri thức bao gồm tri thức cũ và tri thức mới,
được vật thể hoá bởi các công cụ lao động và sản phẩm lao động, các công
cụ đặc thù của thông tin như sách báo, các phương tiện truyền thanh,
truyền hình, các thiết bị điện tử v.v… và đặc biệt là chính con người - con
người có tích luỹ tri thức ở các mức độ khác nhau. Đó là sự phản ánh thế
giới hiện thực được con người thu nhận bằng hình thức thông tin. Thông
10) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr 998.
25
tin chính là sự chuyển tải (dịch chuyển) tri thức giữa con người với con
người. Tri thức là nội dung đích thực của thông tin, là sản phẩm của ý thức
- nhận thức của chúng ta. Vì thế, thông tin phụ thuộc vào hoạt động ý thức
của con người.
Thông tin được truyền tải bằng những hình thức và công cụ đặc
trưng của quy trình nhận thức, dưới dạng các dấu hiệu có tính lôgic bằng
ngôn ngữ riêng, có vật mang tin cụ thể để chứa đựng thông tin như sách,
báo, truyền hình, truyền thanh v.v... và biểu hiện dưới dạng tiếng nói, cử
chỉ, ngôn ngữ, chữ số, bảng biểu, sơ đồ v.v... gọi là các dữ liệu.
- Các thành tố cơ bản của thông tin gồm:
+ Tri thức là nội dung thông tin, là dữ liệu để được xử lý, truyền
tải, lưu thông.
+ Đối tượng dùng tin: gắn liền với nhu cầu cá nhân hay tổ chức cụ
thể nào đó, phục vụ cho hiểu biết, cho đời sống kinh tế - xã hội hay cho cá
nhân, cho học tập hoặc nghiên cứu, giảng dạy v.v...
+ Chủ thể xử lý thông tin là con người (cá nhân hay tập thể, tổ
chức) với các công cụ, phương tiện để làm tin, thu thập, xử lý, lưu trữ và
truyền tải tin theo các cấp độ và qui mô khác nhau.
- Đặc điểm về giá trị của thông tin: khác với các sản phẩm vật chất,
của giá trị thông tin không bị tiêu dùng hết, không bị hao mòn, không bị
mất đi do tiêu dùng, ngược lại nó dễ dàng được sao chụp lại và truyền tải.
Nhiều khi người dùng tin không phải trả chi phí vì tin đã được đăng tải,
công bố rộng rãi. Nó được làm giàu và phong phú thêm không ngừng do
quá trình lưu thông và sử dụng tri thức. Do vậy, thông tin tiết kiệm được
nhân trí rất lớn cũng như các lượng vật chất và tài chính để sáng tạo ra tri
thức mới, mà nhiều khi không thể sáng tạo lại được những tri thức mà
người khác đã tạo ra.
- Sở hữu giá trị trong thông tin: Trong quá trình sản phẩm thông tin
được chuyển đưa cho người khác tiêu dùng thì người chủ sở hữu giá trị tri
26
thức vẫn không mất quyền sở hữu (càng được khẳng định rõ hơn khi Luật
sở hữu trí tuệ ra đời);
- Lưu trữ sản phẩm thông tin: tương đối độc lập về thời gian, tuỳ
theo nhu cầu và giá trị của tin, cũng như trình độ hiểu biết của người làm
thông tin; về không gian cũng rất linh hoạt và nhiều khi rất dễ dàng, thí
dụ: có thể lưu trữ thông tin bởi các thư viện khác nhau, nhưng cũng có thể
lưu trữ thông tin bằng chính đời sống xã hội hiện thực hàng ngày, bằng
con người thông qua văn hoá và sản xuất, thông qua sinh hoạt xã hội.
- Chi phí bảo quản: Nói chung, không cần chi phi lớn để bảo quản,
xử lý, lưu chuyển giá trị thông tin, nếu so sánh với chi phí để sáng tạo ra
giá trị thông tin.
- Thông tin là sản phẩm sạch đối với môi trường.
- Thông tin có ưu điểm liên kết, vì thế mà thu hẹp khoảng cách
không gian và thời gian của những đối tác liên kết với nhau 11).
Bản chất tự nhiên của thông tin
Dưới góc độ sinh học và triết học, nhiều người cho rằng mô hình
thông tin là cơ sở tồn tại của toàn bộ giới tự nhiên 12).
Đi xa hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu cũng có chung một quan điểm
rằng, thông tin là thực thể phát triển của tự nhiên và xã hội. Theo Giáo sư
I. Iuzvisin (Nga): "Thông tin - đó là tất cả ngọn nguồn của những nguyên
nhân đầu tiên của các hiện tượng và quá trình trong các cấu trúc vĩ mô và
vi mô của toàn thế giới" 13).
Bản chất đặc biệt của thông tin chính là quan hệ lợi ích. Đây là vấn
đề tưởng như cách xa với nhau nhưng thực ra, đó mới là điểm nhấn trong
nội dung thông tin.
11) Xem: A.Eliacov, T/c: "Đối thoại" (tiếng Nga) số 11/2001.
12) Xem: I. Freigenberg, R. Rovinxki. Mô hình thông tin của tương lai với tính cách là
một chương trình phát triển. T/c: "Những vấn đề kinh tế” (tiếng Nga), số 5/2000.
13) Dẫn theo: E.A.Tikhonovich, T/c:"Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng
Nga), số 4/2005.
27
Trong tự nhiên thông tin là hình thức phản ánh, phản xạ tự nhiên
giữa các tế bào của mỗi thực thể sinh vật, là sự phản ứng của sinh thái, sự
sống. Thí dụ, cảm giác nóng lạnh thì bộ não con người phải thông báo cho
bộ phận cơ thể tìm cách xử lý việc nóng hay lạnh, cái bụng đói thì phải có
sự thông báo cho bộ phận nạp nguồn năng lực. Một người đàn ông nhờ con
mắt của mình trông thấy một người phụ nữ đẹp thì lập tức con mắt có sự
thông báo cho bộ phận trí não và xúc cảm cần phải tỏ thái độ ra sao cho phù
hợp. Như vậy, thông tin tự nhiên là mối liên hệ tự nhiên giữa các tế bào các
bộ phận nhỏ nhất của sinh vật với nhau. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã
hội giữa các đơn vị cá thể hay tập thể xã hội với cấp độ và quy mô khác
nhau. Thông tin của xã hội loài người là một hình thức hoạt động mang tính
tri giác, là thông tin xã hội ở các cấp độ và phạm vi khác nhau. Thông tin xã
hội là một dạng khác của thông tin nói chung. Thông tin xã hội loài người
bao gồm 2 cấu tử hợp thành: dạng thông tin tự nhiên (thông tin sinh vật) và
thông tin riêng có của xã hội loài người (thông tin loài người).
Thông tin xã hội là sự nhận thức tự giác của con người. Đương
nhiên nó vẫn mang những đặc điểm do phản ánh vật chất làm cơ sở cho
phản ánh xã hội. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã hội ở các cấp độ khác
nhau do sinh hoạt xã hội mà có thể nảy sinh ra ở phạm vi nhỏ nhất là giữa
2 cá nhân với nhau và ở cấp độ lớn nhất là thông tin toàn cầu với rất nhiều
những sự đan xen và mâu thuẫn của tầng tầng lớp lớp các sự kiện tự nhiên
và xã hội phức tạp. Ngày nay, bên cạnh khái niệm thông tin đã xuất hiện
khái niệm xã hội thông tin. Ở đây xin lưu ý, rằng khái niệm xã hội thông
tin được hiểu không chỉ về phương diện kỹ thuật - công nghệ và cả
phương diện xã hội của thông tin, là sự tác động và lan toả mạnh mẽ,
nhanh chóng của thông tin đối với các quan hệ xã hội.
Tốc độ tăng của sản xuất tri thức mang tính "bùng nổ". Theo
A.Toffler (Mỹ), 13 thế kỷ đầu công nguyên loài người chỉ xuất bản được
1.000 loại sách, riêng thế kỷ XIV sách được xuất bản được bằng tổng cộng
của 13 thế kỷ trước, hiện nay cứ 1 giờ xuất bản hơn 1.000 loại. Theo
Jamas Martin, một nhà xã hội học nổi tiếng Anh, rằng để tăng tri thức lên
28
2 lần, ở thế kỷ XIX là mất 50 năm, đầu thế kỷ XX là 30 năm, đến những
năm 1950 là 10 năm, hiện nay khoảng 3 năm. Có 90% tri thức được tạo ra
trong 50 năm gần đây, gấp 19 lần tổng lượng tri thức của xã hội loài người
có được trong gần 10.000 năm trước 14).
Ở các nước kinh tế phát triển, lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng trên
50% tổng số việc làm, mà trong đó dựa vào sự phát triển của thông tin.
Nhật Bản và Mỹ, đã đi tiên phong trong việc xây dựng xã hội thông tin,
sau đó Châu Âu nhanh chóng nhập cuộc. Năm 1994 Ủy ban cộng đồng
Châu Âu đã đưa ra kế hoạch hành động: "Con đường đi vào xã hội thông
tin của Châu Âu", năm 1995 Phần Lan đưa ra chương trình: "Con đường
đi vào xã hội thông tin của Phần Lan", năm 1996 Đức đưa ra chương
trình: "Đường vào xã hội thông tin của Đức", và ngay sau đó đã được các
nước khác như: Anh, Đan Mạch, Nga đồng loạt hưởng ứng.
Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ B. Clinton tháng 1/2001,
có nói rằng: "Lĩnh vực công nghệ thông tin đang biến thành chủ đạo của
nền kinh tế Mỹ, nên ở nền kinh tế mới việc sản xuất và phổ biến công
nghệ thông tin có thể đặt dấu ngang bằng, nghĩa là về thực chất, hai cái đó
là một" 15).
Bản chất của quan hệ kinh tế cũng là thông tin
Thông tin là điều kiện và là máu thịt của đời sống kinh tế. Nền kinh
tế là tổng hòa toàn bộ các yếu tố, các bộ phận, tức là tổng hòa toàn bộ các
quan hệ cung - cầu với hàng tỉ hành vi giao tiếp về cung - cầu; mua - bán,
hàng hóa - tiền tệ. Sự phân công của nền kinh tế chính là nội dung vật chất
của thông tin, đó là thông tin của trao đổi vật chất - xã hội. Nó có cội rễ từ
sinh hoạt vật chất, từ nhu cầu trao đổi chất trong tự nhiên của loài người.
Ở đây khía cạnh thông tin là ở chỗ: mọi hành vi trao đổi mua - bán chính
14) Dẫn theo Shu Yongqing. Xã hội loài người đi về đâu - Tài liệu phục vụ nghiên cứu
của Viện TTKH xã hội, số 2002 - 76 và 77, tr. 3.
15) Economic Report of the President, 2001. Wash. 2001 - P. 10 - Dẫn theo GS,TS. A.
Eliacov. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục, T/c: “Kinh tế thế giới và quan hệ
quốc tế”(tiếng Nga) số 5/2006.
29
là thông tin vật chất. Các mối liên hệ cơ bản như sản xuất - phân phối -
trao đổi và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội là những khâu
thông tin kinh tế cơ bản, những khâu đảm bảo cho sự vận hành liên tục,
đổi mới và phát triển không ngừng.
Có nhận định rất mạnh dạn, rằng thông tin không chỉ là một trong
những nguồn lực kinh tế quan trọng nhất mà còn là sản phẩm cuối cùng
của toàn bộ nền kinh tế. Hơn thế, một số nhà kinh tế còn khẳng định, cần
phải nghiên cứu của cải vật chất trên phương diện bản chất thông tin của
chúng. Điều đó có nghĩa là, ý nghĩa kinh tế của việc sở hữu các yếu tố vật
chất bị quy định hoàn toàn bởi giá trị của thông tin được chứa đựng trong
chúng 16).
Thông tin với thị trường
Nội dung khái niệm thông tin trong thời đại kinh tế thị trường mang
yếu tố thị trường.
"Thị trường là một hệ thống thông tin phức tạp mà trong tiến trình
phát triển, tiến hóa có thể hình thành cơ chế độc đáo về sự đơn giản và
tính hiệu quả bằng công cụ truyền thông tin đến mọi người tham gia thị
trường là giá cả. Nhờ đó mà đưa ra những quyết định đúng đắn và thực
hiện những dự tính, do đó con người tham gia vào hệ thống thì phải nắm
được thông tin đầy đủ về hệ thống kinh tế nói chung. Họ cần phải biết giá
sản phẩm mà họ sản xuất, biết hết các nguồn lực cần thiết để sản xuất" 17).
Và "Như vậy, thị trường đã tìm được một công cụ có hiệu quả để tập trung
và truyền tải thông tin về tình trạng của nền kinh tế để mỗi người tham gia
hệ thống đó khi đưa ra các quyết định. Sự độc đáo của cơ chế đó là ở chỗ
khi ra các quyết định cá nhân vì lợi ích riêng của mỗi người tham gia vào
đời sống kinh tế, cơ chế đó cho phép đảm bảo phân bố có hiệu quả các
16) Xem: B. Meljansev. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới; R. Svulev. Sự
biến đổi của nền kinh tế công nghiệp, vấn đề đo lường kinh tế. T/c: “Kinh tế thế giới
và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001.
17) A. Movsesian - Dẫn theo I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai,
T/c:“Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.
30
nguồn lực ở quy mô toàn cầu. Đó cũng chính là "bàn tay vô hình" của thị
trường" 18).
Nền kinh tế được vận hành, hoạt động chính là nhờ có hệ thống
thông tin chằng chịt giữa cung và cầu, giữa các hành vi kinh tế. Các tiếp
xúc, liên hệ kinh tế từ các cấp độ thấp nhất, nhỏ hẹp nhất đến cấp độ cao
nhất đều mang bản chất thông tin. Nội hàm thông tin ở đây được hiểu là
sự trao đổi qua lại giữa hai hoặc nhiều đơn vị, bộ phận kinh tế với nhau.
Thí dụ, trong một gia đình nông dân, mọi quan hệ nội bộ trong gia đình là
quan hệ kinh tế có tính khép kín, là những hành vi hợp tác với nhau giữa
các thành viên trong gia đình. Trong đó, có vai trò điều khiển của người
chủ đơn vị kinh tế gia đình, đồng thời có quan hệ hưởng ứng (chịu sự chỉ
huy, phân công) của các thành viên hoặc một thành viên tự sắp xếp công
việc của mình từ đầu đến cuối. Đó là quan hệ thông tin kinh tế cục bộ nhỏ
nhất. Theo cách gọi của một số nhà nghiên cứu hiện nay, gọi hành vi kinh
tế của cá nhân như vậy là kinh tế nanô. Về thực chất, đó là những quan hệ
trao đổi hoạt động giữa các thành viên trong đơn vị kinh tế cấp nhỏ nhất.
Quan hệ kinh tế vi mô là toàn bộ những vấn đề liên quan đến hoạt động
của doanh nghiệp như giá cả, khối lượng nguồn lực mà doanh nghiệp thu
được và phân bổ, tức là các quan hệ kinh tế chi phối mang tính tuyến tính.
Như vậy, quan hệ thông tin kinh tế ở đây là thông tin theo tuyến tính, ví
như sự biến động giá cả thị trường làm cho các cấp, các ngành, các khu
vực và toàn bộ nền kinh tế cũng như kinh tế thế giới phải điều chỉnh giá cả
thay đổi. Còn như quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong khu vực, chẳng
hạn như trong một địa phương cấp tỉnh, đấy là quan hệ thông tin hỗn hợp.
Đó là mối liên hệ (thông tin) giữa các ngành, các doanh nghiệp trong vùng
tạo thành một liên kết kinh tế khu vực, đó là quan hệ thông tin kinh tế tổng
hòa khu vực, liên hệ ngang (phi tuyến tính). Trên thực tế quan hệ kinh tế
đồng thời diễn ra trên phạm vi chiều ngang và chiều dọc ở cấp vĩ mô, tức
là nền kinh tế mỗi nước. Xét trên bình diện thế giới là nền kinh tế siêu vĩ
18) I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai, T/c: "Kinh tế thế giới và
các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.
31
mô, kinh tế toàn cầu. Mối liên hệ kinh tế luôn là liên hệ kinh tế toàn cầu,
quan hệ thông tin toàn cầu, có thể ảnh hưởng nhiều ít, trực tiếp hay gián
tiếp với kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế vùng, kinh tế mini (kinh tế
doanh nghiệp), kinh tế nanô.
Như vậy, bản chất của các quan hệ kinh tế cũng là một quan hệ
thông tin đặc biệt, đó là sự trao đổi, phối hợp, phân phối lợi ích giữa các
cá nhân hay tập thể trên những bình diện và các cấp độ khác nhau, cũng là
những quan hệ lợi ích. Thông tin nằm trong bản chất của các hành vi kinh
tế, nó như là tế bào máu thịt của mọi quan hệ kinh tế, trong mua và bán,
trong quan hệ giữa các doanh nghiệp cũng như nội bộ với nhau, trong
quan hệ thị trường v.v...
Một số nhà khoa học đã đưa ra khái niệm nền kinh tế thông tin, có
thể kể tên họ như: Manschk (1898 - 1977), các nhà kinh tế được giải
thưởng Nôben như: G. Stigler, J. Stigletz, G. Akerfof, A. Spens và nhiều
người khác nữa. Họ có những luận chứng cho rằng: xã hội hiện đại dựa
vào nền kinh tế thông tin, trên cơ sở đó mà hình thành nên xã hội thông
tin. Nền kinh tế thông tin được hiểu theo nghĩa: nền kinh tế này dựa vào
thông tin làm nền tảng, yếu tố thông tin đóng vai trò tiên phong của sự
phát triển nói chung và trước hết là KH - CN, đóng vai trò chính trong đời
sống kinh tế - xã hội, giá trị do khu vực thông tin tạo ra chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng GDP của quốc gia, công nghệ thông tin và các ảnh hưởng dây
chuyền của nó có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội và nền kinh tế, sản
phẩm thông tin là sản phẩm tiêu biểu của nền kinh tế, hay nói cách khác
thì sắc màu thông tin đã bao phủ lên nền kinh tế và đời sống xã hội.
Đi xa hơn nữa, nhiều nhà khoa học đã sử dụng khái niệm thời đại
thông tin với ý nghĩa là thông tin có vai trò quan trọng mang tính tự nhiên
và máu thịt trong đời sống xã hội, với sự lan toả của thông tin dưới nhiều
hình thức. Cũng tương tự như vậy, một số nhà xã hội học đã sử dụng
phạm trù xã hội thông tin, coi xã hội đó như một giai đoạn phát triển của
thời kỳ hậu công nghiệp (A. Toffler).
32
Trong khi một số ít dự báo khẳng định cuộc cách mạng thông tin đã
chấm dứt, thì nói chung nhiều nhà nghiên cứu lại chứng minh tiềm năng to
lớn của cuộc cách mạng thông tin và nó đang phát huy mạnh mẽ (A.
Eliacov).
Điều này cũng đòi hỏi tư duy kinh tế phải tương đồng với thông tin,
TTKH và với các dự báo khoa học. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng chính cuộc cách mạng thông tin đòi hỏi phải có tư duy khoa học mới,
rằng tư duy khoa học không theo kịp với TTKH. Thí dụ, cách đây gần 50
năm nhà khoa học S. Lem đã dự báo, có nguy cơ khoa học - kỹ thuật bị tụt
hậu. Những dự báo về cải tiến mạnh mẽ chế tạo động cơ và năng lượng
nhưng thực tế thì không có sự tiến triển đáng kể. Từ đầu những năm 1960
đã có các dự báo: cuối những năm 1960 nhân loại sẽ chế tạo ra động cơ
tên lửa i-ôn và nguyên tử, đến đầu những năm 1990 sẽ có những thí
nghiệm động cơ quang tử. Nhưng hiện nay, tốc độ máy bay và sự an toàn
cũng không cao, nhiên liệu dầu mỏ vẫn là chủ yếu. Nguyên nhân là do
không chấp nhận sự cảnh báo của TTKH, không kết hợp được với tư duy
kinh tế. Có ý kiến khá xác đáng rằng, phải lập một môn khoa học mới
nghiên cứu về thông tin theo nghĩa rộng nhất, nó chỉ rõ bản chất của thông
tin, các quy luật ảnh hưởng và tác động của nó đối với xã hội và áp dụng
vào kinh tế - xã hội. Do đó, cần có mô hình tư duy thông tin có tính toàn
cầu, trao đổi giữa tất cả mọi nhà khoa học các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy,
tư duy kinh tế phải dựa trên mô hình tư duy thông tin. Có như vậy, mới có
cơ sở khoa học chung để đưa ra các hướng phát triển có hiệu quả.
Có ý kiến đánh giá rằng, một lý do khiến cho kinh tế Liên Xô bị tụt
hậu là do không phát triển đáng kể hệ thống thông tin dân chủ, các bộ
phận cấu thành của nó là điều khiển học kỹ thuật, điều khiển học sinh học,
điều khiển học kinh tế, tư duy chính trị - xã hội v.v... không theo kịp sự
phát triển chung của thế giới.
Ở đây, cần lưu ý tính khách quan của khoa học và TTKH, như
P.Sorokin đã từng nói, rằng khoa học phải không được quỵ lụy và luồn cúi
33
bất kỳ ai 19). TTKH phải như là một phân hệ của khoa học nói chung để
tác động khách quan vào việc nhân đạo hóa kinh tế. Ở đây cần lưu ý rằng,
khoa học kinh tế có phương pháp lựa chọn tối đa lợi ích cho việc giải
quyết những vấn đề đặt ra trước mắt nó, song chúng ta không thể không
chú ý đến một đặc điểm là khoa học kinh tế cũng như TTKH thuộc lĩnh
vực tri thức, do đó, chúng phải xuất phát từ bản chất của con người, lối
suy nghĩ và học vấn của con người. Tính khách quan của TTKH càng cao
thì hiệu quả nhân văn của kinh tế - xã hội càng lớn.
Tóm lại, bản chất của thông tin là thông tin về con người xã hội,
con người là trung tâm của thông tin, dù thông tin đó nói về hành tinh xa
xôi hay các vấn đề cụ thể của đời sống thường nhật của chúng ta. Do phân
loại học về thông tin nên mới có khái niệm thông tin xã hội, trường hợp
này coi các vấn đề xã hội là đối tượng của thông tin. Mục tiêu cuối cùng
vẫn là con người nên thông tin xã hội là nội dung chính của thông tin, mọi
hình thức thông tin khác về thực chất là phục vụ cho thông tin xã hội và
nối dài cánh tay của thông tin xã hội.
Những điều vừa nói trên đây cũng đặt ra cho chúng ta suy nghĩ về
tính lan toả và ảnh hưởng nhiều mặt của thông tin và do đó phải suy nghĩ
nhiều đến vấn đề dân chủ trong thông tin và sử dụng thông tin vì con
người, vì lợi ích xã hội.
1.1.2. Khái niệm TTKH và đặc trưng của TTKH
Từ khái niệm thông tin lại sinh ra những khái niệm mang tính phái
sinh khác như thông tin học, TTKH, TTKH - công nghệ, TTKH xã hội,
TTKH kinh tế v.v.... Tức là phân tách ra thành các thông tin chuyên ngành
và thậm chí chuyên biệt hơn nữa.
Thông tin học là một khoa học nghiên cứu về thông tin 20). Ngay từ
những năm 1960 ở Mỹ cũng đã đưa ra quan điểm như vậy. Thông tin học
19) Xem: P. Sorokin. Lịch sử không chờ đợi, nó đưa ra tối hậu thư, T/c: "Khoa học và
đời sống”(tiếng Nga), số 10/1989.
20) Từ điển Tiếng Việt: Trong Tân từ điển học, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1996, Hoàng
Phê chủ biên, tr. 920.
34
là khoa học nghiên cứu về lý luận, về công cụ, cách thức xử lý thông tin,
lưu trữ và khai thác thông tin, xét về mặt nghiệp vụ - kỹ thuật thông tin.
TTKH là một khái niệm đề cập đến thông tin ở bình diện nội dung
của thông tin, là góc độ xem xét tính khoa học của thông tin, tức là nghiên
cứu nội dung thông tin (xử lý nội dung của tin, xác định rõ bản chất của
tin, lưu chuyển các giá trị khoa học của tin). Như vậy không thể nói rằng,
TTKH là đối tượng của thông tin, mà TTKH là nội dung của thông tin.
Còn đối tượng của thông tin chính là diễn biến các sự kiện, các quá trình.
Theo quan điểm của chúng tôi thông tin bao gồm hai bộ phận hợp thành:
+ Bộ phận thứ nhất là bộ phận hình thức của thông tin, tức là công
cụ, phương tiện, phương pháp, cách khai thác thông tin, cách tổ chức tìm
tin. Đó là thông tin học và các hoạt động cùng với các công cụ truyền tin
gắn liền với lưu trữ và lưu chuyển tri thức. Đây chính là Thông tin học với
chức năng kỹ thuật - công nghệ và tổ chức của thông tin.
+ Bộ phận thứ hai là nội dung của thông tin. Đây là bộ phận chủ
yếu. Nó xác định nội dung thông tin: xác định giá trị của tin, trình độ, hàm
lượng tri thức của tin hay là hàm lượng khoa học của tin và khai thác tri
thức. Khi nói đến TTKH là người ta hay nhấn mạnh đến thu thập, khai
thác, xử lý thẩm định khoa học của sản phẩm (tất nhiên thẩm định khoa
học được thực hiện ở rất nhiều nơi, nhiều lần và nhất là trong quá trình sử
dụng, nhưng thẩm định TTKH là một khâu quan trọng đầu tiên), lưu
chuyển tri thức, sự truyền bá tri thức, chuyển giao, làm lan tỏa tri thức.
Đây như là phương diện xã hội của thông tin.
Đương nhiên, hoạt động thông tin thường là đan chéo và lồng chặt
giữa hai phương diện của thông tin. Chỉ nói về TTKH thì cũng có các tầng
nấc của nó, có các hình thức trực tiếp và gián tiếp làm TTKH. Thí dụ như
thuần tuý phân loại danh mục các tài liệu đã rõ ràng về nội dung là TTKH
có tính gián tiếp, nó chủ yếu là phục vụ giản đơn như cho mượn sách, vào
sổ sách tư liệu; còn làm các công việc như tìm kiếm tin, xác định nội dung
tin, dịch thuật, biên tập, tổng hợp tin, bình thuật tin và đính chính thông tin
35
v.v... là làm TTKH một cách trực tiếp. Điều này cũng phù hợp với quan
niệm của C. Mác về phân loại sản xuất trực tiếp và sản xuất có tính chất
gián tiếp.
Liên quan đến TTKH là khái niệm hoạt động TTKH. Trong mối
liên hệ và so sánh, khu biệt với nhau giữa hai khái niệm này thì có thể xác
định như sau:
TTKH, xét theo nghĩa rộng là đồng nhất với hoạt động TTKH. Bởi
vì, trong quá trình tiến hành TTKH là phải có sự tổ chức thông tin, tổ chức
tìm tin và sử dụng tin, lưu trữ tin, phục vụ đối tượng dùng tin. Đi kèm với
điều đó là phải có con người, có bộ máy, đòi hỏi phương tiện tổ chức và
phương tiện tài chính, vật chất để thực hiện thông tin. Còn theo nghĩa hẹp
thì TTKH là phạm trù hẹp hơn phạm trù hoạt động TTKH. Nói cách khác
hoạt động TTKH là bao gồm TTKH và các điều kiện đảm bảo cho nó vận
hành, thực hiện. TTKH thường được hiểu chỉ là các loại hoạt động thông
tin phục vụ cho khoa học. TTKH là bộ phận cơ bản của hoạt động TTKH.
Trên một phương diện, nếu xét theo quan hệ nội dung và hình thức
thì: hoạt động khoa học là nội dung và TTKH là hình thức thể hiện. Phần
nội dung là sáng tạo tri thức, còn phần hình thức thể hiện kết quả nghiên
cứu các sản phẩm khoa học được biểu hiện, được công bố qua sách báo,
ấn phẩm, công trình v.v... Đây chính là TTKH (báo tin, báo cáo, thông
báo kết quả nghiên cứu sáng tạo v.v..).
Xét trên phương diện khác, hoạt động khoa học dưới góc độ sáng
tạo bao gồm ba khâu cơ bản: khâu thứ nhất, hoạt động chuẩn bị tin, tìm tư
liệu, dữ liệu, tài liệu, phân tích sơ bộ về tài liệu phục vụ cho nghiên cứu;
khâu thứ hai, nghiên cứu khoa học, tức là lĩnh vực trực tiếp sáng tạo ra tri
thức mới, đây là lĩnh vực chủ yếu của hoạt động khoa học. Nó bao gồm từ
sáng chế, thử nghiệm, ứng dụng và sản xuất thử (áp dụng vào mô hình
kinh tế - xã hội cụ thể); khâu thứ ba, phổ biến kết quả của khâu thứ hai,
đưa vào đời sống xã hội, dưới các hình thức và các điều kiện cụ thể, đưa
các kết quả nghiên cứu khoa học vào đời sống hoạt động khoa học như
36
công bố trên báo chí, xuất bản phẩm và tuyên truyền ứng dụng v.v...
Trong đó, khâu thứ nhất và khâu thứ ba của quy trình nêu trên là hoạt
động TTKH, còn khâu thứ hai là nghiên cứu khoa học.
Sự phân biệt như vậy chỉ có ý nghĩa tương đối, giống như trong
kinh tế, chu trình tái sản xuất xã hội bao gồm sản xuất và lưu thông sản
phẩm (hàng hóa). Tương tự như vậy, hoạt động khoa học cũng bao gồm 2
loại chức năng: sản xuất khoa học, tức là sáng tạo, phát minh, tạo ra sản
phẩm khoa học và lưu hành sản phẩm khoa học. TTKH chính là lưu hành
sản phẩm khoa học. Thực ra, quá trình hoạt động TTKH ở một chừng mực
nhất định cũng có tính nghiên cứu khoa học. Bởi vì, để phân loại tính chất
của một tư liệu đòi hỏi phải nghiên cứu, so sánh, phải có kiến thức nhất
định nào đó mới có thể thẩm định tri thức của một công trình hay giá trị tri
thức của tư liệu, sáng chế, phát minh. Ngược lại, chính trong quá trình
sáng tạo là phải đồng thời làm thông tin. Không chỉ thông tin mở đầu, đi
trước cho việc nghiên cứu mà trong quá trình nghiên cứu cũng phải có
những thông tin mới. Bản thân việc nghiên cứu giỏi cũng là đã có thông
tin tốt. Những người nghiên cứu giỏi chính là những người làm thông tin
giỏi nhất. Họ biết rằng cái gì cần và cái gì không cần, cần nghiên cứu như
thế nào, đó chính là nhà nghiên cứu giỏi xử lý thông tin, đồng thời biết
cách khai thác sử dụng thông tin. Bởi vì, bảo quản tư liệu cho nghiên cứu
là bảo vệ chính điều kiện nghiên cứu.
Cũng cần lưu ý là, không chỉ có thông tin phục vụ cho nghiên cứu
khoa học mới là TTKH, mà cả những xử lý khoa học về thông tin để ứng
dụng lý luận khoa học và thực tiễn phục vụ cho đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng, sức khỏe, môi trường v.v... đều là
TTKH . Như vậy, TTKH không chỉ là phục vụ cho khâu sáng tạo, mà trước
hết TTKH là thẩm định, công bố, phổ biến kết quả nghiên cứu sáng tạo để
áp dụng vào cuộc sống.
TTKH là thông tin mang tính xã hội, nhưng TTKH không phải là
thông tin phổ thông, đại chúng. Nhiều khi rất khó phân biệt TTKH với
37
thông tin đại chúng. Ví dụ, tin tức trên các phương tiện thông tin đại
chúng là thông tin, nhưng có phải là TTKH không? Tin tức thời sự chính
trị - xã hội có nằm trong phạm trù TTKH không? Cắt nghĩa vấn đề này rất
phức tạp và khó khăn. Ở đây, cần có một nguyên tắc phân định như sau:
TTKH là thông tin có nội dung xử lý, thẩm định về nội dung khoa học.
Các thông tin có cơ sở đảm bảo độ tin cậy cao nếu có khâu xử lý, thẩm
định, tức là bao hàm nội dung TTKH. Các thông tin đại chúng nói chung
mới chỉ là những cứ liệu ban đầu và nhiều khi hỗn loạn, về một sự kiện có
thể có các tin khác nhau. Có tin là đúng đắn, có tin sai lệch. Điều đó là tất
nhiên. Chỉ thông qua thẩm định, xác định theo những cách thức nhất định,
mới rõ được mức độ chính xác, giá trị của từng thông tin.
Ở góc độ này thì TTKH là một nội dung cấu thành của nghiên cứu
khoa học. Trong thực tế, bất cứ một ai khi tiến hành nghiên cứu một đề tài
nào cũng đều phải làm công việc TTKH trước khi bắt tay vào nghiên cứu
cái mới, tức là phải xem đề tài đó đã được nghiên cứu chưa và đã được
nghiên cứu như thế nào, kết quả ra sao, có cần tiếp tục nghiên cứu hay
phải tiếp cận theo hướng khác, khía cạnh khác. Trong quá trình nghiên
cứu, rất cần phải làm TTKH để bổ sung kiến thức và dữ liệu cho nghiên
cứu, nhờ TTKH mà phát hiện ra nhu cầu mới, đề tài mới cho nghiên cứu
hay sáng tạo, gợi ra ý tưởng cho nghiên cứu. Như vậy trong trường hợp
này TTKH là một nội dung, một bộ phận cấu thành hữu cơ của nghiên cứu
khoa học.
Theo nghĩa rộng, TTKH là nói đến khai thác chất xám (sự tinh chiết
chất xám), giá trị khoa học trong thông tin nói chung. Nó phải được phân
biệt với TTKH theo nghĩa hẹp, sự khai thác giá trị khoa học và phục vụ
nghiên cứu có tính tổ chức, tính chuyên nghiệp, chỉ là hoạt động thông tin
gắn với nghiên cứu và truyền bá khoa học.
TTKH và thông tin đại chúng là hai phương diện đề cập khác nhau
của thông tin, nói chung thông tin đại chúng cũng hàm chứa các giá trị
khoa học (tri thức). Tuy nhiên, thông tin đại chúng chủ yếu chỉ mang ý
38
nghĩa thông báo vấn đề xã hội, thông báo xã hội. Có những loại thông tin
chỉ mang tính tuyên truyền, thông báo, có thông tin chỉ có ý nghĩa giải trí
hay thuần tuý là quảng cáo v.v...
Thông tin đại chúng và TTKH có sự khác biệt. Bản chất cơ bản của
thông tin là mang ý nghĩa khoa học, mang nội dung khoa học. Nó phản
ánh, là sự khái quát hiện thực đời sống tự nhiên hay xã hội nhất định nào
đó. Tuy nhiên, tin hay thông tin nhiều khi chỉ mới là phản ánh mang tính
cảm tính, mang tính hình thức bên ngoài về sự vật hiện tượng khách quan,
các tin rời rạc chưa được coi là đúng, là chính xác, là bản chất. Thí dụ, tin
thời sự về tác hại của các cơn bão đổ vào Miền Trung tháng 9 và 10/09,
gây thiệt hại nặng nề cho một số nơi như Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình
Định, Đà Nẵng. Đặc biệt là cơn bão số 9 (tháng 10/2009) gây lũ lụt khủng
khiếp ở Phú Yên. Có ý kiến cho là do thiên tai bất ngờ, chúng ta bất khả
kháng, người dân không kịp đối phó nên nhiều người bị chết vì bão lũ
(khoảng 90 người) và rất nhiều tài sản của dân bị lũ cuốn trôi. Đấy là
những thảm hoạ kinh hoàng. Ý kiến khác lại cho rằng do khi nước lũ đang
ào ạt đổ mạnh thì đồng thời các nhà máy điện trên sông Ba Hạ và sông
Hinh cũng buộc phải xả nước hồ chứa, vì mức nước ở hồ thuỷ điện đã
vượt quá mức an toàn, nếu vỡ đập thì cực kỳ nguy hiểm cho hạ lưu. Việc
xả lũ đó đã làm cho hạ lưu bị lũ lụt tăng cao lên với mức độ khủng khiếp
hơn. Nếu không có việc xả lũ của hồ thuỷ điện thì mức độ ngập lụt ở hạ
lưu được giảm bớt. Có ý kiến bào chữa cho việc xả lũ, rằng nơi không có
nhà máy điện xả lũ thì vẫn có lũ lụt! (Hoàng Trung Hải). Cũng có ý kiến
cho rằng, do hạn chế về khả năng dự báo bão và chuẩn bị chống bão chưa
tốt, trong đó có việc chủ động xả bớt nước ở các hồ chứa của các nhà máy
điện, tuyên truyền ý thức đầy đủ cho người dân và chuẩn bị ứng phó cao
nhất và hợp lý nhất của Nhà nước và toàn xã hội, của cả nước cho mọi đối
tượng vùng nguy cơ bị nạn, trước hết là những người yếu thế nhất. Ví dụ
vừa nêu nói lên rằng chỉ dựa vào một ý kiến thì chưa thoả đáng. Kết luận
cho ví dụ vừa nêu phải là: thiên tai là ngoài ý muốn nhưng vẫn có thể chủ
động phòng tránh và hạn chế, mức độ hạn chế thiệt hại hay tránh được là
39
phụ thuộc trước hết vào dự báo thiên tai, các phương án chủ động và hợp
lý nhất (thông báo tin bão kịp thời, điều tiết các hồ chứa nước của các hồ
thuỷ điện, di rời dân ra khỏi nơi nguy hiểm, chằng giữ nhà cửa và bảo vệ
các tài sản, chuẩn bị lực lượng cứu hộ v.v...) để tránh hay hạn chế sự tàn
phá của thiên tai, cứu trợ kịp thời cho người dân khi thiên tai xảy ra.
Phương án lâu dài là cần phải xem lại qui hoạch và có thể điều chỉnh nếu
cần. Phải đi sâu phân tích bản chất của các hiện tượng, phải có sự phân
tích khái quát và xâu chuỗi các tin để tìm ra tính quy luật của các hiện
tượng và sự vật từ các tin đơn lẻ, chú trọng đi sâu vào thông tin mang tính
giải thích bản chất của hiện tượng. Vì vậy TTKH gắn với nhận thức bản
chất và mang tính lựa chọn. TTKH chính là nghiên cứu tin, giúp cho
người ta nắm được bản chất của vấn đề.
Phải qua các hoạt động mang tính TTKH thì mới chọn lọc được từ các
thông tin đại chúng, mới có thể xác định được tính chân lý của thông tin.
TTKH là nội dung của thông tin nói chung, nó là sự thẩm định, xử
lý, thanh lọc thông tin, phân tích để phục vụ cho việc tìm kiếm, khám phá
bản chất sự vật, hiện tượng. Theo nghĩa hẹp, TTKH là một loại hình thông
tin mang tính chuyên nghiệp, mang tính nghiên cứu được phân biệt với
các loại hình thông tin mang tính thời sự, rao vặt, giải trí. Vì thế TTKH có
chức năng - nhiệm vụ như là một phần của chức năng - nhiệm vụ hoạt
động khoa học.
Thông qua TTKH để giúp cho việc lựa chọn tri thức, các thành tựu
khoa học và kinh nghiệm của nhân loại trải qua nhiều thế hệ được tích luỹ
lại. Trong xã hội hiện đại, nhiệm vụ TTKH chủ yếu được đảm nhiệm bởi
các cơ quan tổ chức, cá nhân hoạt động chuyên nghiệp về thông tin. Các
tổ chức và cá nhân chuyên nghiệp làm chức năng TTKH chỉ là đại diện, là
tiêu biểu và là lực lượng chủ yếu của TTKH. Cần tách bạch TTKH theo
nghĩa rộng với TTKH theo nghĩa hẹp. Bản thân nội hàm của khái niệm
TTKH là rất rộng, nó bao hàm những hoạt động thông tin mang ý nghĩa
xử lý tin (khoa học) nhưng không phải là TTKH chuyên nghiệp. Chẳng
40
hạn, các đài phát thanh và truyền hình không phải là những cơ quan
chuyên nghiệp về TTKH nhưng trong nội dung hoạt động của họ, trong
các nội dung thông tin của họ đều có nội dung TTKH. Vì vậy, khi nói đến
các TTKH chúng ta không cần thiết phân biệt theo hình thức tổ chức
TTKH mà chủ yếu là nói về TTKH theo bản chất của nó tức là có sự thẩm
định giá trị khoa học của tin và đưa tin, sử dụng tin.
Ngoài thông tin đặc thù phục vụ trực tiếp cho hoạt động khoa học,
trên thực tế còn có các thông tin báo chí, sách, truyền thanh và truyền hình,
băng từ, đĩa CD ROM v.v… và thậm chí cả trong dân gian, tức là có các
loại hình thông tin phổ thông, đại chúng. Các hình thức thông tin như vậy
vẫn hàm chứa những kiến thức khoa học, có dung lượng giá trị khoa học
nhất định (với nhiều cấp độ rất khác nhau). Nó thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Đều là sản phẩm trí tuệ, những đúc kết từ thực tiễn cuộc sống đa
dạng, mọi mặt hàng ngày. Nhưng chỉ ở dạng đưa tin, chưa đi sâu phân tích
chuyên ngành.
+ Có một số chương trình mang tính khoa học phổ thông, những
thông tin đó chủ yếu là phổ biến kiến thức khoa học.
Như vậy, những hình thức này đều có nội dung khoa học, có thể
không có tổ chức chuyên nghiệp để xử lý nội dung khoa học, không thuộc
về phạm trù hoạt động TTKH chuyên nghiệp, nhưng thực ra đó là những
thông tin ít nhiều đều có việc xử lý và phổ biến (một cách tự nhiên) tri
thức khoa học, mặc dù ở đấy chẳng ai nghĩ đến có TTKH. Ở đây khái
niệm TTKH lại rộng hơn khái niệm hoạt động khoa học trong thực tiễn.
Như vậy theo nghĩa rộng nhất, TTKH là tất cả mọi thông tin có yếu
tố lựa chọn và thẩm định giá trị khoa học về nội dung tin. Vì thế hàm
lượng nội dung khoa học của các thông tin có được là nhờ TTKH phát
hiện và xử lý (có tính chuyên nghiệp hoặc không phải hoạt động chuyên
nghiệp về thông tin).
TTKH được định hình ở nguồn tin và người tổ chức xử lý cung cấp,
phục vụ tin. Vì thế cũng có quan niệm coi TTKH là dịch vụ khoa học và
41
nằm ngoài hoạt động khoa học, chứ không nằm trong khái niệm hoạt động
nghiên cứu khoa học. Quan niệm như vậy là sai lầm vì: thứ nhất, không
thấy được rằng TTKH là một nội dung, một khâu của quá trình hoạt động
khoa học; thứ hai, là chia tách máy móc thông tin với nghiên cứu. Nghiên
cứu luôn luôn dựa vào TTKH, gắn liền với thông tin và có lúc song hành
với thông tin, với sự giúp đỡ, mách bảo của thông tin. Bản thân người
nghiên cứu đồng thời cũng là người làm tin, làm thông tin cho chính mình.
TTKH là một hình thái ý thức xã hội, là hoạt động mang tính xã hội,
song không có nghĩa là nó chỉ phản ánh lĩnh vực xã hội theo nghĩa hẹp,
mà nó bao quát toàn bộ từ lĩnh vực tự nhiên đến lĩnh vực xã hội, từ sản
xuất vật chất đến sản xuất tinh thần, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến
trúc, từ con người sinh học đến con người xã hội, từ con người cá nhân và
cá thể đến con người tập thể và cộng đồng, xã hội nói chung, từ con người
kinh tế man dại đến con người kinh tế tri thức, từ xã hội cổ sơ đến xã hội
công nghiệp, đến xã hội hậu công nghiệp, hay xã hội thông tin, từ xã hội
kinh tế sang xã hội hậu kinh tế (hoặc phi kinh tế).
Khái niệm TTKH gắn liền với truyền bá khoa học. Theo nghĩa đó
giáo dục và đào tạo cũng tương đồng với phạm trù TTKH. Bởi vì khi thầy
truyền đạt kiến thức cho trò thì thầy luôn luôn phải xử lý kiến thức và
thông tin, truyền bá khoa học cho học sinh. Đấy là công việc mang tính
TTKH đích thực.
Khái niệm TTKH gắn liền với khái niệm nhận thức, mà nhận thức
lại chính là nội dung chủ yếu của hoạt động tri thức. TTKH (nhận thức)
chính là thu thập thông tin, so sánh thông tin, đưa thông tin (tri thức) vào
hệ thống tri giác và hệ thống tri thức. Vì thế khái niệm xã hội thông tin
cũng tương đồng với khái niệm xã hội tri thức. Có một đặc điểm rất quan
trọng là xã hội thông tin, xã hội tri thức là đặc trưng chủ yếu của xã hội đã
đạt được trình độ khoa học - công nghệ, giáo dục, văn hóa, kinh tế ở trình
độ cao, trình độ mà Phương Tây gọi là xã hội hậu công nghiệp. Thậm chí
có một số nhà nghiên cứu còn gọi là xã hội hậu kinh tế, hay xã hội phi
42
kinh tế, tức là xã hội không phải coi kinh tế là trọng tâm, mà coi các giá trị
tinh thần, nhân văn, nhận thức được đưa lên hàng đầu. TTKH như là một
thành tố của nhận thức và phát triển, mà vai trò chức năng của nó ngày
càng tăng lên trong xã hội thông tin hay xã hội tri thức, xã hội hậu kinh tế.
Vì thế khái niệm thông tin và khái niệm nhận thức, xã hội thông tin và xã
hội tri thức là song hành với nhau, thêm vào đó, khái niệm TTKH đi liền
với khái niệm truyền bá tri thức.
TTKH luôn luôn có mặt cùng với việc sáng tạo và sử dụng tri thức
khoa học. Tuy nhiên, TTKH chỉ trở thành một lĩnh vực hay một ngành
chuyên biệt khi xuất hiện in ấn và lưu giữ thông tin bởi các kho sách, tủ
sách của hệ thống các thư viện và được phát triển mạnh mẽ gấp bội bởi
công nghệ thông tin. TTKH trở thành một bộ phận quan trọng, có tính độc
lập nhất định khi mà lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ và lưu hành tri thức
được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan chuyên môn như thư viện,
lưu trữ khoa học, phổ biến thông tin. Cũng có thể nói TTKH định hình rõ
nét và hoàn chỉnh khi ra đời ngành Thông tin học - khoa học xử lý, lưu
trữ, nghiên cứu và truyền bá tri thức. Hệ thống các cơ quan thư viện, thông
tin (bao gồm lưu trữ) là "trái tim, mạch máu" của TTKH.
TTKH chuyên nghiệp là hoạt động có tổ chức, được định hình ở
một cơ cấu hoạt động thông tin gắn với tổ chức khoa học hoặc một công
việc có tính chất khoa học và trí tuệ. Nó có những cán bộ khoa học với
trình độ nhất định phù hợp với các yêu cầu chuyên môn cụ thể.
Đặc trưng cốt lõi nhất của TTKH chuyên nghiệp là việc có chủ
định, có sự tự giác xử lý nội dung tin, tìm ra giá trị của thông tin. Thí dụ,
bàn về khái niệm thị trường, có thể có rất nhiều tin, nhiều bài, nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến, nhưng tuyển chọn làm tài liệu để lưu trữ và
phục vụ bạn đọc thì chỉ nên lựa chọn một số tin, bài có giá trị tiêu biểu và
mang tính đại diện, đồng thời phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Điều
này đòi hỏi trình độ chuyên môn nhất định của cán bộ TTKH, nhiều khi
đòi hỏi vừa có tính chuyên môn sâu, lại phải có ngoại ngữ và có kiến thức
43
nhất định về thông tin học, hơn nữa công việc đó còn đòi hỏi phải có sự
khách quan khi lựa chọn tin. Xử lý tin là mấu chốt nhất của TTKH. Xác
định điều này để thấy rằng TTKH khác với lưu kho tư liệu hay lưu chuyển
tư liệu, mà TTKH trước hết là dò tin, nắm tin, khai thác, xử lý nguồn tin,
bình thuật và giới thiệu tin.
Cơ sở vật chất chủ yếu của TTKH chuyên nghiệp là nguồn tư liệu
khoa học. Vì vậy các thư viện chính là những nơi chủ yếu lưu giữ thông
tin và là bộ mặt, là cốt vật chất của TTKH nói riêng và tiềm lực khoa học
của một cơ quan khoa học nói chung. Đó là hình thức cơ bản của TTKH.
Tuy nhiên, để cho nguồn lực đó “vận động, sống động” thì lại phụ thuộc
rất nhiều vào TTKH.
Kết luận: TTKH là hoạt động khai thác và xử lý (bao gồm cả dịch
thuật, biên tập, chỉnh lý, bình thuật, giới thiệu), thẩm định nội dung khoa
học của sản phẩm khoa học đã được công bố để đưa vào phục vụ cho
nghiên cứu, hay phục vụ cho đào tạo, cho việc ứng dụng vào kinh tế và xã
hội nói chung.
1.2. VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. TTKH tạo cơ sở dữ liệu khoa học và thực tiễn cho việc
hoạch định chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch và các giải
pháp phát triển kinh tế - xã hội
Sự phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới trong suốt thế kỷ XX và
nhất là trong vòng hơn 50 năm qua đã chứng minh rằng, để phát triển kinh
tế - xã hội hiệu quả đòi hỏi phải có sự chủ động tự giác của con người, của
cộng đồng, của xã hội. Nói cách khác là sự phát triển phải được điều tiết
trên cơ sở nhu cầu thị trường, xã hội.
Muốn có được điều đó, tức là có các chủ trương, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội hợp lý thì phải có cứ liệu cho dự báo kinh tế dài hạn
cũng như các kế hoạch phát triển. Vai trò quan trọng của TTKH là chuẩn
bị các cứ liệu, số liệu, tài liệu, ý kiến về khoa học - kỹ thuật và công nghệ,
44
về kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng, về đối nội và đối ngoại, về
văn hóa xã hội v.v… về rất nhiều lĩnh vực đa dạng và các ngành khác
nhau, từ cơ sở cho đến trung ương, trong nước và quốc tế. Các TTKH, với
ý nghĩa là tin tức, dữ liệu được xử lý, thẩm định ở mức độ nhất định và có
độ tin cậy sẽ là các số liệu hay dữ liệu để cho các cán bộ lập kế hoạch phát
triển tham khảo. Do sự bùng nổ của thông tin nên việc xử lý thông tin có ý
nghĩa quyết định đối với TTKH. Chỉ có xử lý tốt các dữ liệu mới tạo lập
được các dữ liệu khoa học nghiêm túc.
TTKH ngày càng đóng vai trò tích cực hơn đối với quá trình phát
triển kinh tế. Nó như là một yếu tố tiên phong để chuyển hóa khoa học
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. TTKH không phải là khâu gián tiếp,
tách rời với các quá trình sản xuất, các quá trình kinh tế mà TTKH gắn liền
với các hoạt động kinh tế. Nó như là một yếu tố bên trong, thiếu nó thì các
quy trình, các quá trình phát triển kinh tế không thể vận hành. Bởi vì tiền
đề đầu tiên của bất cứ hành vi kinh tế nào đều phải có các số liệu, các căn
cứ khoa học do TTKH cung cấp. Chẳng hạn, để sản xuất một sản phẩm
máy tính thì phải xét xem nhu cầu, ai đang hoặc sẽ tham gia cung cấp, loại
thiết bị nào sẽ xuất hiện v.v... Việc đó phải nhờ đến TTKH, nhờ các thông
tin về nhu cầu mà nhà sản xuất sẽ có phương án dự báo, lập kế hoạch dài
hạn, kế hoạch ngắn hạn cũng như các kế hoạch triển khai tác nghiệp.
Mọi hoạt động kinh tế dù là cấp siêu vĩ mô, vĩ mô, trung mô, vi mô,
mini, hay nanô đều cần có thông tin cập nhật. Các dữ liệu khoa học phản
ánh nhu cầu, bao gồm nhu cầu dài hạn, nhu cầu tạm thời v.v... đều cần
được nghiên cứu đầy đủ. Ở các nước kinh tế phát triển đều có các cơ quan
nghiên cứu như viện hay trung tâm nghiên cứu để nắm bắt nhu cầu. Trong
điều kiện kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch việc nắm nhu cầu đều là
điều kiện tiền đề để xây dựng các kế hoạch, đảm bảo cân đối tổng hợp.
Thí dụ, đầu năm 2007, giá cà phê cao gấp 2 lần so với 3 năm trước đây
nhưng khoảng 7 - 8 năm trước, nhiều nhà trồng cà phê ở Tây Nguyên đã
đốn chặt cây cà phê để trồng thứ khác vì giá cà phê xuống quá thấp, giỏi
lắm chỉ đủ chi phí chăm bón. Gần đây nông dân một số nơi ở Nam Bộ lại
45
chặt bỏ cây ăn quả để trồng lúa. Vậy nhà nước nên khuyến khích nông dân
mở rộng diện tích trồng cây gì? Hiện tượng đầu tư phong trào đã từng diễn
ra với cà phê, mía đường, nuôi tôm, cá basa v.v... Đó là do thông tin chưa
đầy đủ, thiếu luận chứng khoa học, thông tin chưa thực sự là TTKH. Nếu
TTKH dự báo được xu hướng của nhu cầu, dự đoán được xu hướng và
tính quy luật của chu kỳ tăng giảm giá từng mặt hàng, phân tích được khả
năng cung ứng, nếu thu thập và xử lý tốt các dữ liệu khoa học thì sẽ giúp
cho mọi hoạt động kinh tế ngay từ khâu đề ra chủ trương, chính sách như
các kế hoạch sản xuất, kinh doanh cụ thể, sẽ đảm bảo tính hiệu quả.
Quy trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho sự phát triển kinh
tế -xã hội bao gồm những bước chủ yếu sau:
- Tập hợp tin ("quét tin") tức là việc thu thập một cách bao quát
mang tính điểm tin, tìm đầu tin, lên danh mục các bài và hệ thống sơ bộ về
tin có liên quan đến lĩnh vực kinh tế - xã hội. Công việc này tưởng như
đơn giản, nhưng đòi hỏi tư duy kinh tế - xã hội và biết cách phong tỏa
nguồn tin, gọi tin.
- Phân loại các tin gồm những bài báo, công trình khoa học đã công
bố các tài liệu có nội dung khoa học gắn với kinh tế. Nhiệm vụ đặt ra ở
đây là xác lập hệ tiêu chí nhất định để phân loại tư liệu, tài liệu, xếp đặt
các tin. Công tác TTKH sẽ giúp các nhà nghiên cứu, những người sử dụng
tin có được những kỹ thuật cần thiết để nắm thông tin cần thiết.
- Phân tích tin: Đây là một yêu cầu cao của thông tin nói chung và
thông tin kinh tế nói riêng. Các cơ quan, đơn vị, cá nhân có chức năng làm
thông tin, dù trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho sự phát triển kinh tế thì
cuối cùng đều phải phân tích, thẩm định nội dung thông tin. Thí dụ, cuối
năm 2006 trên thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ trong vòng 1 năm chỉ
số VNIndex tăng lên 500 điểm (104%), từ 305,28 điểm (31/12/2005) lên
809,86 điểm (18/12/2006) 21). Người làm thông tin phải thẩm định con số
21) Theo TS. Lê Văn Châu: Những vấn đề cần quan tâm đối với thị trường chứng khoán
nước ta, Báo Nhân dân ngày 15/1/2007, tr. 8.
46
đó có chính xác không? Phải có phương thức nhờ các chuyên gia thẩm
định, sử dụng các tài liệu khác để so sánh, có thể trước hết là dựa vào tài
liệu của Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Chỉ một con số đó cũng đã nói
lên nhiều khía cạnh kinh tế: một thị trường vốn rất to lớn đã mở ra, các
nhà đầu tư rất đa dạng và linh hoạt, có thể thu hút vốn đầu tư lớn; nền kinh
tế đã năng động hẳn lên; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang có vấn
đề (định giá thấp tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa) nên mới làm cho
giá cả cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tăng vọt. Tuy nhiên, cuối năm
2007 thị trường chứng khoán bắt đầu có dấu hiệu giảm sút và năm 2008
rơi vào tình trang lao đao, có lúc chỉ số VNIndex xuống dưới 300 điểm, và
năm 2009 đã có sự phục hồi trở lại nhưng rất yếu, đến đầu năm 2010 mới
vượt qua được mốc 500 điểm và khó có khả năng đột biến tăng dài như
thời kỳ 2006 - đầu năm 2007. Do không xử lý được nguyên nhân tăng
giảm nên nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ đã bị thiệt hại nặng. Ngay cả VTV1, vào
lúc chứng khoán bùng nổ cuối năm 2006, đã quảng cáo rùm beng về cơ
hội vụt lên giàu có nhờ mua chứng khoán, chắc chắn đã gây nên tác động
tâm lý cho không ít người lao động và dẫn đến hành động thiếu cân nhắc
một cách khoa học. Nhưng bên cạnh đó, có một số người giỏi nắm thông
tin và phân tích thông tin nên đã hành động đúng, họ nhanh chóng giàu lên
nhờ tham gia thị trường chứng khoán, chủ yếu là các đại gia. Ở đây ta thấy
rõ được vai trò của phân tích sự kiện kinh tế và dự báo kinh tế - xã hội. C.
Mác đã chỉ ra rằng, chứng khoán là tư bản giả (vốn ảo), nghĩa là nó không
làm tăng năng lực sản xuất tương ứng với tổng giá trị vốn chứng khoán,
với số tiền chu chuyển trên các sàn giao dịch chứng khoán, mà chủ yếu chỉ
có ý nghĩa phân phối lợi ích, dịch chuyển vốn giữa những người sở hữu
thông qua biến động giá cả cổ phiếu (tăng hoặc giảm). Khi mà giá cả cổ
phiếu trở về thăng bằng thì cũng triệt tiêu phần ảo. Ở đây đòi hỏi phải có
sự phân tích chuyên môn cao về những hiện tượng như vậy.
- Khâu thẩm định nội dung tin để đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu
cũng như để phục vụ cho các nhu cầu cụ thể trong nghiên cứu nói chung
và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng là rất quan trọng. Đó cũng là một
47
công việc đồng thời và song song với quá trình phân loại tin. Các tin tức
kinh tế mang tính thời sự về hiệu quả không chỉ gồm các thông tin mang
tính thị trường mà những kiến thức, những giá trị khoa học (chỉ có thể đưa
lại hiệu quả lâu dài) đều có ý nghĩa kinh tế. Vì thế, khi thẩm định giá trị
của chúng cũng gặp những khó khăn. Không phải các giá trị khoa học nào
cũng có thể nhận thức được ngay, bởi nó phụ thuộc vào trình độ của người
xử lý, thẩm định thông tin và lưu giữ thông tin.
- TTKH có vai trò lưu trữ tư liệu khoa học. Chức năng thu thập lưu
trữ kiến thức, tư liệu cho hoạt động kinh tế là chức năng trung tâm của xử
lý thông tin phục vụ cho khoa học kinh tế và phát triển.
Vai trò này thuộc về hệ thống các thư viện, kho lưu trữ tư liệu, cơ
sở dữ liệu cùng với bộ máy tổ chức cán bộ tương ứng. Trước đây lưu trữ
chỉ có thể bằng tư liệu in ấn, sách báo và băng từ, phim ảnh và cả hiện vật.
Ngày nay, nhờ cách mạng thông tin, việc lưu trữ cũng được cách mạng
hóa. Đó là lưu trữ nhờ công nghệ kỹ thuật số, không chỉ lưu trữ bằng các
kho sách khổng lồ, mà còn lưu trữ bằng các thư viện số, thư viện ảo.
Lưu trữ cung cấp tư liệu, tài liệu cho nghiên cứu lý luận, xử lý
thống kê, đồng thời tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2. TTKH góp phần hình thành tư duy kinh tế một cách khoa học
Tư duy kinh tế là hình thức phát triển cao của hoạt động sáng tạo,
hoạt động kinh tế của con người. Đó là hình thức của nhận thức nhưng
được áp dụng vào lĩnh vực kinh tế. Tư duy kinh tế bao gồm từ khâu giản
đơn là nhận thức một số khái niệm đơn giản về lợi ích của những hoạt
động trực tiếp cho đến hình thức cao là nắm được tính quy luật, quy luật
của sự vận động kinh tế, hiểu biết được hiện tượng và bản chất của các
quá trình kinh tế, dự báo xu hướng vận động, đề ra các chương trình kế
hoạch cho hoạt động kinh tế.
Tư duy kinh tế được hình thành từ thấp đến cao, từ những khái niệm
đơn giản đến hệ thống phạm trù, quy luật phức tạp của kinh tế. Trên
48
phương diện nhận thức, có thể chia ra hai con đường: con đường thứ nhất,
nhận thức tự phát, qua kinh nghiệm rồi đến nhận thức khoa học; con
đường thứ hai là nhận thức tự giác, thông qua con đường được đào tạo,
được cập nhật kiến thức một cách chủ động để nắm tri thức. TTKH có vai
trò hình thành tư duy kinh tế cho con người là bằng con đường nhận thức
tự giác. Có thể một người nào đó, trẻ tuổi, chẳng hạn như sinh viên, nhờ
qua nhà trường và các phương tiện TTKH, có thể nắm được kiến thức nhất
định mà nhân loại đã tích lũy, nhiều hơn rất nhiều so với một người tự
học, mò mẫm qua kinh nghiệm.
Các bước, các trình độ hình thành tư duy kinh tế là: tư duy triết học,
tư duy xã hội, tư duy kinh tế chính trị, tư duy kinh tế ứng dụng, tư duy
nhân văn. Tư duy nhân văn kinh tế là làm kinh tế cho ai, vì ai. Một số nhà
tài phiệt kinh tế, giàu có mặc dù trong kinh doanh thì rất nghiệt ngã,
nhưng về mặt xã hội thì lại là những nhà từ thiện lớn. Họ làm giàu rồi
dành phần lớn tài sản cá nhân để phục vụ cho mục đích từ thiện. Chẳng
hạn như Bill Gates ở Mỹ, một số doanh nhân Việt Nam hiện nay cũng đã
và đang có ý thức đó. Trình độ cao hơn của tư duy nhân văn kinh tế là:
mục đích hoạt động kinh tế của cá nhân không mâu thuẫn với lợi ích của
tập thể, của cộng đồng, của xã hội cả trước mắt và lâu dài, hoạt động kinh
tế của cá nhân còn nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Vì thế, nhân đạo hóa
kinh tế là một nội dung của tư duy kinh tế hiện đại.
Tư duy kinh tế được hình thành thông qua các thứ bậc khác nhau
- Tư duy triết học: tức là cách nhìn nhận thế giới, là phương pháp
biện chứng trong quan niệm về phát triển và phương pháp duy vật lịch sử
trong xem xét xã hội loài người. Khi vận dụng vào phát triển kinh tế, nó
tạo ra nền tảng tư duy ban đầu, từ cách nhìn nhận tổng quát cho đến triết
lý hành động trong hoạt động kinh tế. Bất cứ một hoạt động kinh tế nào
cũng là hiện tượng xã hội, là chọn lựa giải pháp lợi ích về kết hợp các yếu
tố tự nhiên và xã hội sao cho hiệu quả. Tư duy triết học chỉ mới tạo ra định
hướng lợi ích, cách nhìn nhân sinh cho hành vi của mình.
49
- Tư duy triết học xã hội là tư duy về sử dụng lực lượng xã hội để
mưu lợi ích kinh tế. Bất cứ cá thể hay tập thể nào cũng đều có một tư duy
triết học xã hội là hình thức cụ thể hơn của tư duy triết học biện chứng và
lịch sử đối với phát triển kinh tế.
- Tư duy kinh tế chính trị: hình thành sự nhận thức tổng quát về
phát triển kinh tế, tương tác giữa chế độ kinh tế với chế độ sở hữu, mối
quan hệ giữa các yếu tố hạ tầng kinh tế với thượng tầng kiến trúc, nghiên
cứu chế độ phân phối lợi ích, tính quy luật chung sự vận động của nền
kinh tế v.v....
- Tư duy kinh tế ứng dụng: tư duy có được từ các hình thức và trình
độ tư duy ở trên tích hợp lại. Có thể thông qua con đường tự phát, tự nhận
thức. Trường hợp "Thần đèn" Nguyễn Cẩm Lũy, một người vốn xuất thân
từ nông dân chuyển qua làm xây dựng, tự sáng tạo ra phương pháp di dời
công trình kiến trúc nhỏ từ vị trí này sang vị trí khác mà vẫn nguyên dạng.
Đó là nhờ quan sát, đúc kết dân gian. Dân gian đã từng gánh nhà (gỗ, tre),
di chuyển đồ vật nặng bằng thủ công (kéo pháo ở mặt trận Điện Biên Phủ
cũng là một ví dụ). Qua tích lũy dần dần, tư duy của ông Nguyễn Cẩm
Luỹ chuyển hóa thành tư duy hệ thống. Ngược lại, nói chung là ở các nền
kinh tế và khoa học phát triển thì tư duy kinh tế được hình thành theo trình
tự từ tư duy cơ bản đến tư duy ứng dụng, từ nhận thức trừu tượng đến
nhận thức cụ thể. Và đương nhiên là có quá trình ngược lại, giống như
trường hợp ông Nguyễn Cẩm Lũy, cuối cùng ông cũng phải dựa vào tính
toán kỹ thuật: lực đẩy và kéo, bàn trượt v.v..., phải viện đến hoa khọc hay
tư duy khoa học, nhưng diễn ra một cách tự phát và trải qua giai đoạn kinh
nghiệm chủ nghĩa. “Thần đèn” phía Bắc là ông Đỗ Quốc Khánh đi sau
“Thần đèn” phía Nam Nguyễn Cẩm Luỹ nhưng lại dựa trước hết vào khoa
học, vào nguyên lý thuỷ động lực để tính toán một cách căn cơ khoa học
việc di chuyển vật nặng (toà nhà) sẽ chắc chắn thành công hơn. Điều này
nói lên vai trò của tính khoa học tự giác, với sự tiền phong mách bảo của
thông tin thực tiễn.
50
Tư duy kinh tế phải đạt đến trình độ nhận thức lý luận và áp dụng
vào trong hoạt động thực tiễn. Một đất nước muốn phát triển, muốn có
một nền kinh tế phát triển, tất yếu phải dựa vào một tư duy kinh tế mạnh.
Tư duy đó thường do một cá nhân hay một nhóm nhỏ đề xướng, sáng tạo
nên và được phổ cập, nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Và để có được tư
duy kinh tế mạnh, chắc chắn, không thể phủ nhận vai trò của TTKH. Cuối
những năm 1980, chúng ta đã hình thành hệ quan điểm tư duy kinh tế
XHCN mới, trong đó có quan niệm về quan hệ kinh tế thế giới, toàn cầu
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới. Nhờ những thông tin về cải cách
kinh tế của Trung Quốc, của các nước công nghiệp mới (NICs) như: Hàn
Quốc, Xingapo, Thái Lan, Malaixia hay khu vực phát triển kinh tế mới
như: Đài Loan, Hồng Kông của Trung Quốc, chúng ta đã đẩy lùi được tư
tưởng lo ngại, bảo thủ. Từ đó chúng ta mạnh dạn mở cửa, thu hút đầu tư
nước ngoài và phát triển mạnh các quan hệ kinh tế đa nguyên.
Như vậy, TTKH bao gồm có thông tin kinh tế, là một nhân tố trực
tiếp của lực lượng sản xuất hiện đại. TTKH không còn là kết quả thụ động
của nghiên cứu khoa học mà đã trở thành yếu tố tiên phong của khoa học
với vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Vai trò của khoa học tự nhiên và công nghệ thường dễ được thừa
nhận, vì kết quả áp dụng được định lượng ngay sau nghiên cứu triển khai,
được luận chứng hiệu quả kinh tế. Còn trong khoa học xã hội và nhân văn
thì nhiều khi không luận chứng được một cách định lượng các hiệu quả
kinh tế của các giải pháp nghiên cứu đã đưa ra. Đó là do đặc điểm một số
điều kiện áp dụng đụng chạm đến tính tổng hợp, trước hết là tư duy rồi
đến tính vĩ mô chính trị - kinh tế - xã hội, đến nền tảng chế độ kinh tế xã
hội. Chẳng hạn, kết quả nghiên cứu của C. Mác ở tập I Bộ "Tư bản" đã
khẳng định: bóc lột giá trị thặng dư là mục đích của sản xuất tư bản chủ
nghĩa, muốn thay đổi nền sản xuất đó thì phải làm cách mạng xã hội. Kết
luận đó lập tức được giai cấp công nhân và những trí thức tiến bộ ủng hộ,
song không dễ gì thực hiện ngay được việc xóa bỏ chế độ làm thuê tư bản
chủ nghĩa, mà phải trải qua rất nhiều những biện pháp, bước đi và các hình
51
thức khác nhau, qua nhiều trăm năm. Giá trị công phá của nó là vô cùng
lớn, nhưng khi tập I Bộ "Tư bản" đã được xuất bản mà vẫn không có dư
luận khoa học và truyền thông lên tiếng. Để thực hiện mục tiêu đó phải có
thông tin tuyên truyền, bình luận. Lúc bấy giờ các nhà lý luận tư sản
không chịu lên tiếng, vậy cho nên, Ph. Ăngghen đã phải viết bài giới thiệu,
bình luận. Sau đó Bộ "Tư bản" mới được hưởng ứng, mới có tiếng vang và
làm đảo lộn tư duy xã hội.
Tuy khoa học xã hội, TTKH xã hội thường có tác động, ảnh hưởng
chậm, theo đường vòng nhưng cũng không ít trường hợp TTKH có tác
động tức thì và nhanh chóng. Khi chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà
nước phù hợp với nhu cầu khách quan, được thông báo kịp thời, đã nhanh
chóng phát huy tác dụng, có sức công phá mạnh mẽ, tạo bước phát triển
nhảy vọt mang tính cách mạng, chẳng hạn như các chủ trương đổi mới
kinh tế và xã hội của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986). Hay
như mới đây, chủ trương của Đại hội X cho phép đảng viên làm giàu
không hạn chế (trong khuôn khổ pháp luật), đã kích thích các đầu tư tư
nhân mạnh mẽ hơn.
1.2.3. TTKH khởi nguồn cho tư duy sáng tạo cái mới nói chung
và cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng
TTKH có một vai trò trực tiếp đáng kể đối với hoạt động sáng tạo.
Thông qua những dữ liệu có được, người làm chủ thông tin sẽ bật ra
những ý tưởng mới. Nói đến sáng tạo tức là nói đến tác động làm xuất
hiện cái mới. Trong kinh tế - xã hội cũng vậy, TTKH có ý nghĩa to lớn đối
với những đề xuất, gợi ý cho những ý tưởng để đưa ra các giải pháp phát
triển mới. Thí dụ, thông tin về những nhân tố mới, mang tính "phá rào"
bảo thủ và trì trệ của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong thời kỳ kinh
tế cũ ở Việt Nam, đầu những năm 1980, khi có thông tin Xí nghiệp liên
hiệp đánh cá Vũng Tầu - Côn Đảo vào đầu năm 1981 đã áp dụng chế độ
khoán đánh bắt hải sản cho các đội tàu (Báo Nhân dân 26/1/1981), đã gợi
ra một hướng mới trong tư duy kinh tế. Cùng với những thông tin khác từ
52
thực tiễn mang tính khởi nguồn đổi mới khác, đã làm nẩy nở một hướng
quản lý kinh tế kiểu mới là khoán cục bộ. Đó là chế độ khoán nội bộ
doanh nghiệp. Sau đó dần dần hình thành nên quan điểm mới, mang tính
tổng thể trong sản xuất công nghiệp, chế độ 3 kế hoạch ra đời (kế hoạch
pháp lệnh, kế hoạch thỏa thuận và kế hoạch phụ của doanh nghiệp), rồi
khoán hộ trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương
Đảng khóa IV (1981). Ngay như mới đây, nhờ có thông tin về TTKH
được xử lý kịp thời, các nhà lãnh đạo và quản lý Nhà nước Việt Nam đã
nhanh chóng đề ra và thực hiện những giải pháp kinh tế - xã hội hợp lý để
vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới. Đầu năm 2008,
Chính phủ đã thực hiện điều chỉnh thị trường tài chính - tiền tệ để chống
lạm phát, điều chỉnh đầu tư và tiêu dùng, tức là chống phát triển nóng.
Nhưng từ đầu năm 2009, Chính phủ lại phải nhanh chóng đưa ra các giải
pháp kích cầu (chống sự phát triển nguội lạnh - trì trệ), với gói kích cầu
khoảng 1 tỷ USD, vì nhận thấy kinh tế thế giới có dấu hiệu suy thoái nặng
nề, làm giảm đầu tư và xuất khẩu. Nhờ vậy, vào cuối năm 2009, kinh tế
nước ta có thể được coi là đã ra khỏi suy thoái sớm hơn so với nhiều nền
kinh tế khác trên thế giới. Đầu tư tuy bị ảnh hưởng nhưng vẫn tăng 15,3%,
đạt 7,042 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu tuy bị giảm 9,7% so với năm
2008 nhưng vẫn đạt 56,584 tỷ USD, thất nghiệp 2,9% trong hoàn cảnh
kinh tế khó khăn như vậy vẫn có thể chấp nhận được, lạm phát 6,52%, tỷ
lệ hộ nghèo 13,4%, đời sống người dân tương đối được đảm bảo và được
quan tâm hơn. GDP năm 2009 tăng 5,32%. Nhiều đại diện của các quốc
gia và các tổ chức quốc tế đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam
trong điều hành kinh tế trong hai năm 2008 và 2009.
TTKH đóng vai trò dẫn dắt tư duy sáng tạo. Mọi sáng kiến phát
minh đều phải dựa trên các thông tin, dữ kiện đã có. Do vậy, nguồn thông
tin về TTKH phong phú, chính xác sẽ là chất xúc tác, là ngọn nguồn của
sáng tạo và phát triển.
Ở Việt Nam, TTKH nói chung đã có tác động tích cực đối với tư
duy xã hội, trong đó ảnh hưởng rộng đối với sự phát triển kinh tế. Tính
53
sáng tạo của tư duy khoa học có ảnh hưởng rất lớn, khởi đầu cho các ý
tưởng mới, sáng tạo, đột phá.
Trong lĩnh vực kinh tế, TTKH cũng là tiền đề để phân tích, tổng kết
thực tiễn kinh tế. Ở đây, TTKH luôn đóng vai trò tiền đề, vai trò mở
đường cho tư duy kinh tế. Không có thông tin thì không có tư duy. Vì vậy,
quy mô và trình độ phát triển của TTKH tác động trực tiếp đến tư duy
kinh tế. Trong xã hội tiền tư bản, ngay cả trong CNTB thời kỳ trước cách
mạng thông tin, thì tính chất manh mún của tư duy kinh tế là khá phổ biến.
Song, khi có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, tốc độ tư duy, trong đó
tư duy kinh tế là trung tâm đã có bước thay đổi mang tính đột phá. Ở Việt
Nam tư duy kinh tế bao cấp, đơn nguyên trong những năm xây dựng
CNXH cho đến khoảng 1985-1986 đã phải nhường chỗ cho tư duy kinh tế
đa nguyên thị trường. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng có lẽ: thứ nhất, là
từ thực trạng khó khăn của nền kinh tế nước ta đầu những năm 1980 đã
tạo á
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.pdf