Báo cáo Tìm hiểu một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây

Tài liệu Báo cáo Tìm hiểu một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Một số Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Qua 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đến nay nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé. Muốn đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh tất yếu phải đẩy tới bước mới CNH - HĐH. Công nghiệp hoá là thực chất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong GDP mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân , tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh , đạt hiệu quả cao và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đố...

doc64 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 953 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tìm hiểu một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Một số Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Qua 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đến nay nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé. Muốn đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh tất yếu phải đẩy tới bước mới CNH - HĐH. Công nghiệp hoá là thực chất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong GDP mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân , tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh , đạt hiệu quả cao và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, xuất khẩu hàng hoá đang trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngoại tệ. Với ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu, chúng ta có thể mua sắm các loại hàng hoá cần thiết từ các nước trên thế giới nhằm phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng như thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của nước ta (ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu ). Từ đó đến nay, vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang trở thành một vấn đề được nhiều người quan tâm với mục đích tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có hiệu quả. Bởi vì, thực tiễn hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam cho thấy, bên cạnh một số thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang gặp không ít những khó khăn trong hoạt động này. Qua thời gian học tập tại trường, với sự hiểu biết của mình cùng với sự giúp đỡ của thầy cô giáo, em đã nghiên cứu đề tài ² Một số Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây". Nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Xuất Nhập khẩu Hà Tây Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu ở Công ty XNK Hà Tây. Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn. Với cơ sở số liệu minh họa được lấy tại Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tế, từ đó rút ra những ý kiến nhận xét và đề xuất các giải pháp. Cuối cùng, em chân thành cảm ơn Thầy giáo - TS NGUYỄN CẢNH LỊCH trường ĐHTM đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài trên. Hà nội ngày 10 tháng 5 năm 2001. Sinh viên. PHẠM THÀNH HẢI CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I. XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá 1.1. Khái niệm: Từ sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế có thể nói: Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt. Hoạt động xuất khẩu là m ột mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hoá của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình trao đổi hàng hoá (bán hàng), đó là quá trình thực hiện giá trị hàng hoá của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý. 1.2. Đặc điểm: Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, giữa hai loại khách hàng này có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục tập quán. . . Điều này sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần phải có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng hoá phù hợp. Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng buộc hơn. Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả. Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp đồng. . . đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia. 2. 1. Đối với nền kinh tế quốc dân Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trong trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu cuả họ cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ. Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế: - Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ qui mô. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó. + Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới. + Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần. - Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng ttriệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế. . . phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 2. 2. Đối với doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tao ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia xẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của công ty. Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia. II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP HIỆN NAY Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu...Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau: 1. Xuất khẩu trực tiếp. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến). Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, dây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá. 2. Xuất khẩu uỷ thác. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này, hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh. 3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế. Gia công quốc tế đó là một hoạt động mà một bên - gọi là bên đặt hàng - giao nguyên vật liệu , có khi cả máy móc , thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi kà bên nhận gia công . Để xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng . Hàng hoá sau khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công .Bên nhận gia công được trả tiền công . Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gội là gia công quốc tế. Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được khoản tiền thù lao gia công. Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thoả thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm. 4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu. Theo hình thức này, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với trị giá của lô hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất khẩu này để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. 5. Hoạt động xuất khẩu theo Nghị định thư. Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường là hàng trả nợ được thực hiện theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như: Khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. 6. Một số loại hình xuất khẩu khác. Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới dây cũng được coi là xuất khẩu hàng hoá: 6.1. Tạm nhập tái xuất Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến. Đối với những hàng hoá nhập nhẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không dược coi là hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất. Thời gian hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở Việt Nam là 60 ngày. 6.2. Chuyển khẩu hàng hoá Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. 6.3. Quá cảnh hàng hoá Hàng hoá của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu có đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập. III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC TA Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vì những nhân tố này thường xuyên làm ảnh hưởng đến các kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khâu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng trong nước. 1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp. Các nhân tố đó là: - Chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại, mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân theo và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu cuả thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương. Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu.. Bởi vì, việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho quốc gia, chẳng hạn như việc xuất khẩu hàng hoá quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích văn hoá, các sản phẩm là vũ khí... - Tỷ giá hối đoái hiện hành: Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm đến yếu tố này vì nó liên quan đến việc thu đổi ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu. Để có biết được tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp phải được cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện hành của nhà nước và theo dõi biến động của nó từng ngày. - Khả năng sản xuất hàng xuất khẩu của từng nước: Khả năng này đảm bảo nguồn hàng cho cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được sản xuất với khối lượng, chất lượng quy cách, mẫu mã, có phù hợp với thị trường nước ngoài hay không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các mặt hàng khi doanh nghiệp đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế. Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng tạo ra được nhiều loại mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình thức mẫu mã đảm bảo thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khả năng sản xuất trong nước yếu kém, với chúng loại mặt hàng đơn điệu, thô sơ, sẽ hạn chễ rất lớn khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Hiện nay, ở nước ta năng lực sản xuất hàng sản xuất hàng xuất khẩu còn thấp kém, mặt hàng xuất khẩu còn đơn sơ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một khó khăn cho các doanh nghiệp ngoại thương khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. - Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Cạnh tranh một mặt có tác động thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó cũng chèn ép và “ dìm chết” các doanh nghiệp yếu kém. Mức độ cạnh tranh ở đây biểu hiện số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc cùng mặt hàng có thể thay thế nhau. Hiện nay, nhà nước có chủ trương khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu đã dẫn đến sự bùng nổ số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, do đó đôi khi dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Đây là một thách thức cho các doanh nghiệp ngoại thương hiện nay. - Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước: Đây là nhân tố thuộc về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu. Nó bao gồm phát triển của hệ thống giao thông vận tải, trình độ phát của hệ thống thông tin liên lạc. Các nhân tố này có thể tăng cường hoặc hạn chế năng lực giao dịch, mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, tăng cường hoặc hạn chế các dịch vụ vận chuyển hàng hoá xuất của doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu biết về nó. 1.2. Nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp. Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Có thể kể đến các nhân tố sau: - Trình độ năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp: Đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình. - Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh trong doanh nghiệp: Cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công việc của quá trình xuất hàng hoá. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. - Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .Nếu chiến lược kinh doanh không phù hợp làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ dẫn đến phá sản còn phù hợp (đúng hướng) sẽ phát triển tốt. 1.3 Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý. Vị trí địa lý cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên là những cái mà tự nhiên ban cho, thông qua đó các nước khai thác tiềm năng của nó để phục vụ xuất khẩu. Nguồn tài nguyên thiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng , quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia. Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí đị lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế , hoặc thuúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như du lịch , vận tải , ngân hàng… 2. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng ngoài nước. Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Có thể kể đến các nhân tố sau: - Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu: Có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất. Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: Nó biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm các quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Đặc điểm và sự thay đổi về văn hoá- xã hội của thị trường xuất khẩu: Có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. - Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: Sẽ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và sức mua của khách hàng. Chính sách thương mại của các quốc gia có thị trường xuất của doanh nghiệp: Có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đó. Một quôc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược laị, một quốc gia có chính sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện xuất khẩu sang thị trường này. Mức độ cạnh tranh quốc tế: Biểu hiện ở sức ép từ phía các doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị trường xuất khẩu nhất định. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình. 3. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới. Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tễ- xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát , thất nghiệp hay tăng truởng về suy thoái kinh tế...của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ta. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY I. Tổng quan về Công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. - Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây được thành lập ngày 01/12/1992 theo Quyết định số 471-QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây. Trạm thu mua hàng xuất khẩu đặt tại các tỉnh, huyện. - Công ty được cấp giấp phép đăng ký kinh doanh số 104356 ngày 11 tháng 12 năm 1993. Và có giấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2.06.1.002 ngày 23 tháng 3 năm 1993 của Bộ Thương mại. - Ngày 20/11/1991 theo Quyết định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành theo quy chế về việc "Thành lập và giải thể Doanh nghiệp Nhà nước" - Công ty chuyển giao các đơn vị hạch toán độc lập sang các cơ sở chuyên ngành quản lý. - Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc UBND tỉnh Hà Tây hạch toán kinh doanh độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại hai Ngân hàng Công thương Hà Tây và Ngân hàng ngoại thương Việt nam. - Tên gọi: Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây . - Tên giao dịch quốc tế : HA TAY IMPORT- EXPORT COMPANY (UNIMEX HATAY) - Trụ sở chính: 16A Trần Đăng Ninh - Thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà Tây. - Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đặt dưới sự quản lý của nhà nước, cấp trên trực tiếp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty chịu trách nhiệm vật chất về những cam kết của mình với những hợp đồng đã ký với các bên và ngược lại. Công ty thực hiện hạch toán kinh tế trên cơ sở tuân thủ các chủ trương chính sách, pháp luật và các quy định quản lý về Nhà nước và địa phương tôn trọng và đảm bảo quyền lợi vật chất, tinh thần, các chính sách đối với người lao động ở trong đơn vị và làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và Tỉnh. 2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. * Chức năng hoạt động của Công ty. - Trực tiếp xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thổ, thủy hải sản, thực phẩm chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiểu thủ công nghiệp do Công ty thu mua, gia công chế biến hoặc do liên doanh, liên kết tạo ra. - Trực tiếp nhập khẩu và nhận ủy thác nhập khẩu các mặt hàng công cụ sản xuất, vật tư, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng kể cả chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất. - Tổ chức sản xuất, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài để sản xuất chế biến hàng xuất nhập khẩu và hàng tiêu dùng. * Nhiệm vụ của Công ty: - Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp ráp theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Sở Thương mại Hà Tây . - Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, đổi mới trang thiết bị, tổ chức tiếp thị tốt để nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. - Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. - Thực hiện báo cáo theo ngành và chịu sự thanh tra của pháp luật. - Tổ chức tốt bộ máy doanh nghiệp, quản lý toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên chức theo pháp luật, chính sách của Nhà nước và sự phân cấp quản lý của Sở Thương mại để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Công ty. Chăm lo đời sống, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc, thực hiện phân phối công bằng. Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính trị và an toàn xã hội trong phạm vi quản lý của Công ty theo quy định của pháp luật. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty. Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây gồm có 169 cán bộ công nhân viên được biên chế thành 04 phòng ban và 02 chi nhánh.Các phòng quản lý chức năng có 01 trưởng phòng và 01 đến 02 phó. Một số cán bộ, nghiệp vụ chuyên môn. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CÔNG TY SƠ ĐỒ 1 Chú thích : Quan hệ chỉ đạo trực tiếp Quan hệ phối hợp Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do UBND Tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm. Giám đốc quản lý và điều hành Công ty theo chế độ 01 thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Sở Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của Công ty. Giúp đỡ công việc cho Giám đốc Công ty có 03 Phó Giám đốc Công ty. Phó Giám đốc Công ty do Giám đốc Công ty lựa chọn và đề nghị Giám đốc Sở Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, có trách nhiệm giúp Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê thông tin kinh tế, báo cáo kết quả hoạt động của Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước. Công ty được tổ chức theo bộ máy quản lý chức năng và mạng lưới kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ của một Công ty Xuất nhập khẩu. Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng do Giám đốc quy định cụ thể: * Phòng kinh doanh: + Nghiên cứu và nắm bắt tình hình thông tin thị trường trong nước và nhu cầu mặt hàng,về nguồn hàng,tình hình sản suất,giá cả và các biến động. + Xác nhận kế hoạch kinh doanh hàng năm,6 tháng,đề suất các phương án kinh doanh,liên doanh liên kết tiêu thụ hàng hóa và phối hợp thực hiện các phương án đó sau khi đã được Công ty phê duyệt. + Giúp Giám đốc tỗ chức xây dựng kế hoạch xuất - nhập khẩu,các kế hoạch thâm nhập thị trường mới,mở rộng thị trường truyền thống. * Phòng Tổ chức hành chính: - Giúp Giám đốc trong công tác tổ chức hoạt động hành chính, quản lí tài sản và nhân sự, tiền lương. Phối hợp với các phòng chức năng để quản lí và điều hành hoạt động của Công ty theo đúng định hướng và kế hoạch. + Xây dựng phương án bố trí sắp xếp cán bộ viên chức toàn công ty và các đơn vị . + Làm công tác khác về tổ chức: quản lý hồ sơ cán bộ ,làm thủ tục về tiếp nhận , nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ. Tham mưu qiúp giám đốc về công tác hành chính quản trị cụ thể: + Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự cơ quan + Làm tốt văn thư,lưu trữ , quản lý dấu công ty , dấu chức danh. + Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác điều hành hàng ngày. + Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan. * Phòng Kế toán tài vụ : Thực hiện theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh và báo cáo tình hình tài chính và các nghiệp vụ tài chính kế toán khác. Chịu trách nhiệm quản lý vốn, tài sản, hàng hoá, giám sát thu chi tại Công ty. - Phối hợp với phòng kế hoạch tổng hợp xây xây dựng kế hoạch tài chính toàn công ty và kế hoạch từng đợn vị thành viên . - Các phương án kinh doanh đã được Giám đốc duyệt trong thời hạn 3 ngày phải đáp ứng vốn để các đơn vị thực hiện hợp đồng ( hồ sơ vay vốn do các đơn vị chuẩn bị). Thanh toán tiền hàng với bạn hàng trong nước và nước ngoài. Giám sát sử dụng vốn của các đơn vị đôn đốc thu hồi vốn, lãi tiền vay. Lựa chọn phương pháp hạch toán phù hợp và hướng dẫn kế toán các đơn vị trong công tác hạnh toán. Chấp hành nghiêm chế độ báo cáo kế toán, thống kê chế độ báo cáo về thuế, kịp thời, chính xác đúng quy định. - Kế toán trưởng , từng quý báo cáo ban Giám đốc tình hình quản lý sử dụng vốn các khoản công nợ trong hạn, đến hạn và nợ quá hạn, đề xuất biện pháp sử lý. Thời gian báo cáo trong vòng 5 ngày của tháng đầu quý báo cáo tình hình quý trước. Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và đề xuất Giám đốc khen thưởng. Kế toán trưởng liên đới chịu trách nhiệm khi để các đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, làm thất thoát vốn. Hệ thống sổ sách, công tác hạch toán kế toán, phân phối lợi nhuận của Công ty thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và theo pháp lệnh kế toán. Việc phân tích hoạt động kinh tế tài chính của Công ty được thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành. * Phòng Kế hoạch thị trường : - Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển sản xuất kinh doanh dài hạn (5- 10 năm) của toàn công ty. Tổng hợp kế hoạch định hướng quý năm của các đơn vị trực tiếp kinh doanh. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế toán tài chính giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị thành viên. Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh, đề xuất ý kiến với Giám đốc. Thời gian kiểm tra, thẩm định để trình kế hoạch không quá 2 ngày, kể từ khi nhận được hợp đồng và phương án các đơn vị gửi đến. Chịu trách nhiệm liên đới khi để xẩy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất thoát vốn do yếu tố chủ quan gây ra. Phòng Nvụ Mây tre: - Phòngnghiệp vụ mây tre có nhiệm vụ thu mua, tìm kiếm nguồn hàng các mặt hàng truyền thống như mây tre , hàng thủ công mỹ nghệ ... - Tổ chức giới thiệu các mặt hàng ra nước ngoài, mở rộng hợp tác kinh doanh với các bạn hàng và khách hàng. - Hợp tác chặt chẽ với các phòng ban khác có liên quan về thu mua tiêu thụ các sản phẩm mà công ty kinh doanh * Văn phòng đại diện ở các Tỉnh : - Giúp Giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp đặc biệt trưởng văn phòng đại diện được Giám đốc uỷ nhiệm ký một số văn bản của Công ty. Tổ chức xuất nhập khẩu hàng hóa do tự khai thác được thị trường đảm bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của nhà nước, của địa phương nơi đặt văn phòng đại diện. II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY 1.Mặt hàng kinh doanh của Công ty : Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây là một Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp bao gồm hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc đáp ứng nhu cầu khác nhau của sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó, Công ty còn thực hiện các dịch vụ gia công sản xuất, tái sản xuất hàng hóa, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, chuyển khẩu. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu của Công ty gồm: * Về xuất khẩu: Công ty trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng sau: - Phòng KD I : Thảm cói, Len, Đồ gỗ mỹ nghệ, Dép xốp.. - Phòng KD II: Chè, Ván tre ép, Gỗ trang trí nội thất, .. - Phòng KD III : Hoa quả, Tơ tằm, Sợi tẩy, Quần áo sợi.. - Xí nghiệp T3 : Gia vị, May thêu, Thảm cói.. Trạm Chương Mỹ : Mây tre.. - Trạm Thường tín : Hoa quả , đường kính.. - Chi nhánh TPHCM : Da trâu bò thuộc, Mành trúc.. - Phòng Mây tre : Mây tre.. - Phòng kế hoạch: Quần áo len.. - Chi nhánh Lạng sơn: Hoa quả.. * Về nhập khẩu: Công ty trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng sau: + Hàng tiêu dùng: Sợi Acrylic, Bếp nướng, các thiết bị điện, xe gắn máy, xe hơi, vải, thực phẩm ... + Hàng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất: phân bón, xăng dầu, hóa chất, hạt nhựa, phụ tùng ô tô, máy nông ngư nghiệp ... Từ mặt hàng kinh doanh của Công ty ta biết được chiến lược kinh doanh của Công ty là đa dạng hóa. Tuy nhiên, những mặt hàng mà Công ty chú trọng nhất trong xuất khẩu vẫn là hàng nông, lâm, thổ sản. Đây là mặt hàng truyền thống của Công ty, có nguồn cung ứng khá phong phú và dồi dào ở trong nước, phù hợp với điều kiện sản xuất ở nước ta. Về nhập khẩu, Công ty tập trung nhiều nhất vào mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Đây là những mặt hàng mà năng lực sản xuất ở trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là nhu cầu ở các tỉnh phía Bắc. Nhìn chung, những mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đều thuộc diện khuyến khích và ưu đãi của Nhà nước. Đây cũng là những mặt hàng kinh doanh chủ lực của phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Đối với Công ty, vấn đề đặt ra là phải tìm được nguồn hàng có chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng. 2. Vốn kinh doanh, khả năng huy động và sử dụng vốn của công ty Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một đơn vị Nhà nước.Vì vậy một mặt Công ty chịu sự quản lý về tổ chức, mặt khác được nhận vốn kinh doanh do Nhà nước cấp và Công ty còn có thể nhận được một lượng vốn nhất định từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết. Đây có thể nói là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho Công ty hoạt động. Công ty phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Khi mới thành lập, vốn đăng ký kinh doanh một phần là do Nhà nước cấp, một phần là do Công ty tự trang trải. Công ty có thể khai thác các nguồn vốn khác như vay Ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác, vay các cá nhân hoặc từ lãi để lại của Công ty để mở rộng và phát triển kinh doanh của mình. Hiện nay, việc huy động vốn của công ty đang gặp phải một số khó khăn nhất định, vì vậy công ty cần phải có các biện pháp huy động và sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Trong các năm qua, nhờ có sự cố gắng vợt bậc về huy động vốn của các cán bộ công nhân viên, tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng được tăng lên. Bảng 1: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu của nó Đơn vị: VND Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 99/98 2000/99 Vốn % Vốn % Vốn % S.tiền T.T% S.tiền T.T % Vốn CĐ Vốn LĐ 5.977.748.122 6.040.737.418 49,7 50,3 6.817.748.759 18.523.398.891 26,71 73,29 7.140.451.041 19.421.355.309 24,4 75,6 839.990.637 12.482.661.473 114 306 322.703.282 879.957.508 104 104 Cộng 12.018.485.540 100 25.341.147.650 100 26.561.806.410 100 13.322.662 210 1.220.659 104 ( Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây ) Qua bảng tổng kết vốn của công ty qua các năm ta thấy đều tăng .Năm 1998 vốn kinh doanh của công ty là 12.018.485.000 đồng.Trong thời gian này, Công ty luôn có xu hướng là tăng tỷ trọng vốn lưu động và giảm tỷ trọng vốn cố định. Năm 1999, Công ty đã đạt được một thành công lớn là lượng vốn kinh doanh huy động được tăng lên một mức tuyệt đối là hơn 13 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm trước, trong đó chủ yếu là vốn huy động được từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty và các tổ chức tín dụng tăng lên. Tuy nhiên trong thời gian này tỷ trọng vốn cố định lại có sự tăng lên. Năm 2000 công ty đã tăng được vốn lên 26.516.806.410 đồng.Tăng lên mức tuyệt đối hơn 1 tỷ đồng , tương ứng với 1,04 lần so với năm 1999. Nguyên nhân trong thời gian này khả năng huy động vốn của công ty bị chững lại,không huy động được.Tỷ lệ vốn cố định năm 1998 là 5.977.748.122 đồng chiếm 49,7% nhưng đến năm 1999 tỷ lệ vốn cố định giảm là 26,71% .Nhưng đến năm 2000 vốn cố định của công ty có xu hướng tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng số vốn kinh doanh . 3. Các khách hàng của công ty. Trên cơ sở sự nỗ lực của mình, qua hơn sáu năm hoạt động đến nay Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã có quan hệ với rất nhiều khách hàng, bạn hàng trong và ngoài nước. Khách hàng trong nước của Công ty có rất nhiều loại: khách hàng mua lẻ, khách hàng mua buôn... chủ yếu tập trung ở một số nơi như Hà nội, Hải Dương, Thành Phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh. . . Khách hàng nước ngoài của Công ty là Ba lan, Hồng Kông, Nga, Nhật, Đài Loan. . . Với bạn hàng nước ngoài, Công ty đã quan hệ với rất nhiều bạn hàng ở Trung Quốc, Thái Lan... Mối quan hệ trong kinh doanh của công ty với các khách hàng luôn ổn định giúp đỡ nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình 4. Nguồn nhân lực của Công ty Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là 169 người. Trong đó trình độ Đại học có 32 ngời chiếm 18,93%, trình độ trung cấp có54 ngời chiếm 31,95%, lao động phổ thông 83 ngời chiếm 41,11%.Đây là một đội ngũ bao gồm những ngời có trình độ đại học, những kỹ thuật viên lành nghề. Đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, nhiệt tình có trình độ chuyên môn tốt và có tinh thần trách nhiệm cao đối với Công ty. 5. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 5. 1. Các kết quả chung Với sự cố gắng không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong thời gian qua, Công ty đã đạt đợc kết quả nh sau: Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Đơn vị: 1000VND 1998 1999 2000 99/98 2000/99 Stiền TT % Stiền TT % I. Tổng DT 165.118.984 186.947.427 286.390.333 21.828.443 112 99.342.906 173 II Tổng CP 162.484.129 183.437.196 282.010.881 20.963.065 112 98.573.685 154 1.GVHB 159.817.872 180.326.308 271.326.411 20.508.426 113 90.990.003 150 2.Các loại thuế 1.586.428 1.675.208 9.828.361 98.780 106 8.152.901 586 3.CPBH,CPQL 1.079.829 1.435.679 2.756.361 355.850 140 1.320.662 191 III.LN thực hiện 2.634.855 3.510.232 4.379.482 875.377 134 869.250 124 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty) Nhìn vào bảng trên ta thấy hoạt động kinh doanh của Công ty trong các năm từ 1998 đến 2000 đều có hiệu quả cao. Trong thời gian hoạt động, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty vẫn liên tục tăng lên. Năm 1999, doanh thu của Công ty tăng lên một mức vượt bậc, gấp 1,12 lần năm 1998, tương ứng với số tuyệt đối là 21.828.443.000 đồng. Bên cạnh việc tăng doanh thu từ xuất khẩu Công ty đã tiến hành đầu tư và mở rộng thị trường trong nước, do đó doanh thu từ hoạt động ngoại thương cũng tăng lên. Năm 2000 so với năm 1999 tăng lên 1,53 lần tương ứng với 99.342.906.000 đồng Trong các năm từ 1998 đến 2000, doanh thu qua các năm của Công ty tăng lên khoảng 121 tỷ đồng và lợi nhuận tương ứng cũng tăng lên từ 2,6 đến 4,3 tỷ đồng (năm 1998 lợi nhuận thực hiện là gần 2,6 tỷ đồng nhưng đến năm 2000 thì lợi nhuận đạt được ở mức hơn 4 tỷ đồng). Như vậy, trong khoảng thời gian 3 năm từ 1998 đến 2000 doanh thu của Công ty đã tăng lên 1,7 lần (từ 165 tỷ năm 1998 lên 286 tỷ năm 2000), lợi nhuận của Công ty đã tăng lên 1,65 lần (từ 2,6 tỷ năm 1998 lên 4,3 tỷ năm 2000). Điều này nói lên rằng hoạt động kinh doanh của Công ty đang có xu hướng khả quan đáng mừng. 5. 2. Một số kết quả từ hoạt động xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chính của Công ty. Trong thời gian qua, kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã đạt đợc một số kết quả sau: Bảng 3: Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Đơnvị: USD S tt Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 99/98 2000/99 st TT st TT 1 Kim ngạch NK 5.184.658 6.234.399 5.877.379 1.049.741 120% -375.020 92,27% 2 Kim ngạch NK 8.071.270 9.739.879 15.393.595 1.722.609 120% 5.653.716 158% 3 Tổng kim ngạch XNK 13.255.928 15.974.000 21.216.975 2.718.072 120% 5.242.975 132% (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh XNK của công ty XNK Hà Tây ) Nhìn chung, trong các năm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu của Công ty đều tăng lên: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000 đã tăng lên 1,6 lần so với 1998; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng lên 1,9 lần, kim ngạch nhập khẩu tăng lên 1,1 lần. Như vậy kim ngạch xuất tăng lên rất nhanh từ 8.071.270 USD năm 1998 lên 15.393.595 USD năm 2000, đặc biệt là trong hai năm 1998 và 1999 kim ngạch nhập khẩu tăng lên nhanh hơn rất nhiều. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh như vậy vì trong thời gian này Công ty đã chú trọng đầu tư vào các mặt hàng truyền thống như mây tre, tơ tằm, hoa quả khô... III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của công ty góp phần tạo lên sức mạnh trong kinh doanh của Công ty. Qua thời gian xem xét hoạt động xuất khẩu của Công ty có thể thấy một số vấn đề sau: 1. Vị trí hoạt động xuất khẩu của công ty trong 3năm 98-200 Nếu xem xét hoạt động xuất khẩu của công ty so với toàn bộ hoạt động xuất khẩu của đất nước ta có thể thấy: quy mô kinh doanh của công ty còn nhỏ bé nên tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng doanh thu xuất khẩu của cả nước . Bảng 4: Tình hình xuất khẩu của công ty và xuất khẩu của cả nước Đơn vị: USD Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu KNXK % KNXK % KNXK % Công ty 8.071.270 0,009 9.739.879 0,104 15.393.595 0,133 Cả nước 885000000 100 9.356.000.000 100 11.504.000.000 100 Như vậy, tỷ trọng giá trị xuất khẩu của công ty giai đoạn 1998 - 2000 so với giá trị xuất khẩu của cả nước có xu hướng tăng lên cùng với sự tăng lên của giá trị hoạt động xuất khẩu của cả nước. Điều này rất phù hợp với chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước ta hiện nay. Nếu xem xét doanh thu từ hoạt động xuất khẩu trên tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty ta thấy: Bảng 5: Tổng doanh thu và doanh thu xuất khẩu của công ty Đơn vị: VND Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99 Chỉ tiêu Trị giá % Trị giá % Trị giá % Stiền TT % Stiền TT % DT XK 104.321.436 63 135.458.320 72,5 210.858.327 73,4 31.136.884 129 85.400.007 155 Tổng DT 165.118.984 100 186.947.427 100 286.390.333 100 21.828.443 112 99.342.906 173 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty XNK Hà Tây) Năm 1998, phần lớn doanh thu của Công ty là thu được từ hoạt động xuất khẩu (doanh thu xuất khẩu chiếm 63%). Nhưng tỷ lệ này sang các năm sau tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng doanh thu . Cụ thể là năm 1999 doanh thu xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 72,5% tổng doanh thu của công ty và các năm 2000 tỷ lệ này tăng lên nhưng vẫn chỉ ở mức 73,4% trên tổng doanh thu. Nguyên nhân là do công ty đã biết chú trọng vào các mặt hàng truyền thống như mây tre hàg thủ công mỹ nghệ ... Năm 1999 tăng 1,29 lần tương ứng với 31.136.884 đồng. Sang năm 2000 so với năm 1999 tăng 1,55 lần tương ứng với 75.400.005 đồng. Điều đó chứng tỏ hoạt động của công ty ngày càng phát triển . Nếu xem xét lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu trên tổng lợi nhuận của công ty thì: Bảng 6: Tổng lợi nhuận và lợi nhuận từ xuất khẩu của công ty XNK Hà Tây Đơn vị: 1000VND Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99 Chỉ tiêu Trị giá % Trị giá % Trị giá % Stiền TT % Stiền TT % LN XK 1.886.411 69 2.701.845 77 3.581.016 81 815.434 143 879.171 132 Tổng LN 2.634.855 100 3.510.232 100 4.379.482 100 875.377 133 869.610 124 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty XNK Hà TâY) Như vậy, trong các năm từ 1998 đến 2000 lợi nhuận của công ty liên tục tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng lợi nhuận. Năm 1999 so với năm 1998 tăng 1,5 lần tương ứng với 815.434.000 đồng. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 1,29 lần tương ứng với 879.171.000 đồng. Lợi nhuận xuất khẩu của công ty chiếm tỉ lệ lớn trong tỏng lợi nhuận của công ty . Qua các năm lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, năm 2000 đạt ở mức cao nhất là 3.581.016.000 đồng chiếm 81% của tổng lợi nhuận. So với năm 1998 tăng 1,89% mức tuyệt đối là 1.694.605.000 đồng. 2. Nguồn hàng xuất khẩu của công ty. 2. 1. Nguồn hàng xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của công ty. Vì vậy việc tổ chức thu mua tạo nguồn là một vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay công ty tổ chức thu mua hàng xuất khẩu từ các địa phơng, các cơ sở sản xuất nằm rải rác trên cả nớc. Việc mở rộng được thị trường thu mua của công ty trong thời gian qua là kết quả đáng mừng và nó sẽ giúp cho công tác thu mua tạo nguồn hàng đạt kết quả cao nếu công ty biết khai thác một cách triệt để. Địa bàn thu mua tạo nguồn của công ty được phân bố theo các chi nhánh trực thuộc: - Tại khu vực phía bắc: do ba chi nhánh Lạng Sơn, Chương Mỹ, Hà Đông tổ chức. Các mặt hàng chủ yếu là hàng mây tre đan, rau quả, thảm len ,thảm cói.... - Tại khu vực Nam Bộ: do chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức. Các mặt hàng nhẹ da thuộc, mành trúc,... Ngoài ra công ty còn tổ chức thu mua trực tiếp từ các cơ sở sản xuất chế biến, chủ yếu là các mặt hàng như gốm sứ, hàng may mặc, nhãn, vải khô. . . được sản xuất tại các khu vực Miền Bắc. Như vậy, hàng hoá thu mua phục vụ cho xuất khẩu của công ty ở các tỉnh khu vực phía Bắc chiếm một tỷ lệ lớn, đây cũng là điều kiện thuận lợi về địa hình cho hoạt động xuất khẩu của Công ty vì thị trường xuất khẩu của công ty chủ yếu là Ba lan... Tuy nhiên, tại các khu vực miền Nam, Công ty cũng đã tiến hành thu gom được một lượng hàng hoá xuát khẩu tương đối lớn. Việc tổ chức thu mua tạo nguồn của công ty đợc phản ánh qua sơ đồ Sơ đồ 2: Hàng hoá từ các hộ gia đình sản xuất có thể được thu gom qua các nhà buôn nhỏ địa phương, các chi nhánh của Công ty rồi về Công ty; hoặc có thể được đưa trực tiếp về công ty. Hàng hoá từ các cơ sở sản xuất chế biến cũng có thể được đa trực tiếp về Công ty không qua khâu trung gian. Có thể nói việc thua mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu của Công ty được thực hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau: 2. 2. Các hình thức tạo nguồn. Thời gian qua việc thu gom hàng hoá ở các nguồn hàng của công ty được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau: 2. 2. 1 Thu mua tạo nguồn theo hợp đồng Đây là hình thức thu mua chủ yếu của công ty, nó chiếm gần 80% giá trị hàng mua. Công ty dựa trên yêu cầu của các đơn hàng từ phía khách hàng nước ngoài để đưa ra các điều kiện phù hợp với hợp đồng thu mua về chất lượng, số lượng, mẫu mã, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn giao hàng. Sau khi cả hai bên công ty và người cung ứng đã thoả thuận song thì tiến hành ký kết hợp đồng. Thông thường công ty sẽ trả tiền cho người bán sau khi nhận đợc hàng hoá theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Trong những trờng hợp ký kết các hợp đồng lớn với các cơ sở sản xuất cung ứng đáng tin cậy đã có quan hệ truyền thống với công ty thì công ty ứng trớc một phần tiền cho họ và thường giữ lại trên 20% giá trị hợp đồng và sẽ được thanh toán khi kết thúc hợp đồng. 2. 2. 2. Thu mua tạo nguồn không theo hợp đồng. Hình thức này được công ty áp dụng đối với việc mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường, hàng hoá của các hộ gia đình với khối lượng nhỏ, phân tán nó có tác dụng bổ sung cho các nguồn hàng khác cha đủ về số lượng. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là chất lượng hàng mua không đồng đều và thường ở mức thấp. Ngoài ra, công ty cũng áp dụng các hình thức thu mua tạo nguồn hàng khác nhưng với số lợng nhỏ, không thường xuyên, chỉ chiếm một tỷ lệ khoảng 2, 5% trong tổng giá trị thu mua của công ty chẳng hạn như hình thức thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng, theo phương thức hàng đổi hàng. Hoạt động xuất khẩu của xuất nhập khẩu Hà Tây chủ yếu là thị trường Ba Lan, mặc dù các năm 99, 2000 mặt hàng xuất khẩu của công ty đã lên tới trên 14 mặt hàng. Việc xuất khẩu nhiều mặt hàng này có ảnh hưởng không ít đến công tác thu mua, tuy đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường nhưng khó khăn cho việc hoạch định chiến lợc thu mua kế hoạch mặt hàng. Vì mỗi mặt hàng có những đặc tính hàng hoá riêng nên việc tổ chức thu mua phải có nghiệp vụ phù hợp. Trong cơ chế thị trường hiện nay các hình thức mua hàng tạo nguồn cho xuất khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cung cầu cụ thể mà công ty có thể áp dụng các hình thức và biện pháp khác nhau sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 3. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu thị trường . Thị trường xuất khẩu của công ty trong thời gian qua bị bó hẹp ở thị trường Ba lan. Đây là thị trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu vì Ba lan là thị trường lớn nhất trong khu vực đồng thời cũng là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường này có nhu cầu đa dạng về hàng hoá được công ty khai thác một cách triệt để nhất. Ngoài ra, công ty cũng đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước khác trong khu vực và thế giới như: Hồng kông, liên bang Nga. . . đây cũng là những thị trường đầy triển vọng của công ty. Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu theo cơ cấu thị trường của công ty Đơn vị: USD Stt Thị trường xuất khẩu 1998 1999 2000 Trị giá % Trị giá % Trị giá % 1 Ba lan 1.936.231 23,98 2.363.471 24,26 4.783.010 31,07 2 Đài loan 1.325.871 16,42 1.637.583 16,81 2.781.236 18,06 3 LB Nga 1.237.286 15,32 1.507.210 15,47 2.470.140 16,04 4 Bungary 1.156.972 14,33 1.398.208 14,35 1.947.310 12,65 5 Đức 973.872 12,06 1.261.872 12,95 1.780.016 11,56 6 Tiệp 876.346 10,85 998.178 10,24 1.373.879 8,92 7 Hungary 321.678 3,98 421.536 4,32 847.213 5,5 8 Hồng kông 225.387 2,79 130.789 1,34 298.179 1,93 9 Các TT khác 17627 0,21 21032 0,21 112.612 0,73 Cộng 8.071.270 100 9.739.879 100 15.393.595 100 (Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty XNK Hà Tây) Năm 1998, thị trường Ba lan đã chiếm tới gần 23,98% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, tiếp đó là đến các thị trường Đài loan (16, 42%), Liên Bang Nga (15,32%). . . Sang năm 1999, ngoài các thị trường truyền thống công ty đã mở rộng thị trường sang một số nước chẳng hạn Hồng kông, Lào. . . Trong các năm cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của công ty cũng có sự thay đổi: Năm 1999, xuất khẩu sang thị trường Ba lan đã tăng lên rõ rệt về tỷ lệ phần trăm 24,26%. Đến năm 2000, do nhu cầu trên các thị trường Bungary, Tiệp có sự thay đổi đã làm cho kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này giảm sút khá mạnh. Mục tiêu năm 2001 Công ty lấy lại các thị trường này và tiếp tục mở rộng thị trường sang các khu vực khác. 4. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu thị trường . Mặt hàng xuất khẩu của công ty là những mặt hàng nông, lâm sản , thủ công mỹ nghệ ,hàng may mặc....Đặc điểm của nguồn hàng này là phân bố rời rạc , chất lượng không ổn định , so với tiêu chuẩn còn thấp hơn các nớc cạnh tranh rất nhiều.Vì vậy để hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì việc nghiên cứu tạo nguồn và cân đối các mặt hàng là rất quan trọng trong việc tạo ra được nguồn hàng ổn định, chất lượng đồng đều hơn. Bảng 8: Tình hình xuất khẩu theo cơ cấumặt hàng năm 1998-2000 Đơn vị: USD TT Tên hàng Trị giá So sánh 1998 1999 2000 99/98 2000/99 S.tiền TT % S.tiền TT % 1 Hàng mây tre 2.426.053 2.595.447 2.631.938 169.394 106 36.491 101 2 Gỗ mỹ nghệ 473.038 20.383 678.321 -452.700 4,3 657.938 332 3 Hoa quả khô 18.786 130.146 874.583 111.360 629,7 744.437 672 4 Tơ tằm 1.136.189 2.553.300 2.346.381 1.417.111 224 -206.919 91,89 5 Da thuộc 2.303.212 2.210.098 2.341.578 -93.114 95,95 131.480 105 6 Mành trúc 181.800 181.695 266.321 -105 99,94 84.626 146 7 Hoaquả tươi 47.476 121.142 2.837.189 73.666 259 2.716.047 234 8 Thảm len 837.296 591.785 1.323.833 -245.511 70,67 732.048 223 9 Thảm cói 746.370 132.883 281.346 -713.687 18,80 148.463 211 10 Thảm đay 82.760 232.695 687.326 149.935 281 454.631 295 11 Quầnáodệt 524.850 378.457 -146.393 72,1 12 Chè khô 143.251 572.382 429.131 399 13 Vánốp pơmu 411.869 37,37 14 Đường kính 457.879 33,61 Cộng 8.071.270 9.739.879 15.393.595 2.718.072 120 5.242.975 132 Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1998 của công ty là 8.071.270 USD chiếm gần 63% tổng doanh thu .Đây là kết quả đáng mừng đối với một công ty vừa tham gia xuất khẩu được mấy năm .Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty nông, lâm sản , thủ công mỹ nghệ ,hàng may mặc.. (chiếm gần 23,98% tổng kim ngạch xuất khẩu).Mà đặc điểm của các mặt hàng này chỉ qua sơ chế , không phải là những hàng hoá có trình độ sản xuất cao .Tuy nhiên với 10 mặt hàng công ty đã phần nào khẳng định vị trí của mình. Sang năm 1999 tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty khá phát triển , mặt hàng kinh doanh cũng đa dạng và phong phú hơn .Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty có tiến bộ rõ rệt, xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước .Công ty đã mở rộng thêm 2 mặt hàng là quần áo dệt kim, chè khô.Nhưng với mức doanh thu hơn 186 tỷ đồng thì kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 72,5% tổng doanh thu.Điều đó chứng tỏ ngoài hoạt động xuất khẩu, công ty đã mở rộng các hình thức hoạt động khác và có kết quả. Điều này hoàn toàn hợp lý vì do các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng tăng nên mức độ cạnh tranh ngày càng cao. Đến năm 2000, ngoài các mặt hàng truyền thống công ty đã mở rộng thêm các mặt hàng khác như đường kính , ván ốp pơmu. Công ty đã biết tận dụng khả năng của mình thu mua các mặt hàng khác để phát huy hết khả năng xuất khẩu của mình Xét về khả năng xuất khẩu, từ năm 1998-2000 công ty đầu tư mở rộng các mặt hàng kinh doanh như che ,quần áo, đường kính ,ván ốp pơmu Tổng kim ngạch xuất khẩu từ năm 1998 là 8.071.270 USD đến năm 2000 là 15.393.595 USD tăng 1,9% với số tuyệt đối là 7.322.325 USD. Có thể nói mặt hàng và giá trị xuất khẩu của công ty đã từng bước phát triển rõ rệt, tuy nhiên tính cạnh tranh của các mặt hàng vẫn chưa cao .Vì vậy để nâng cao sức cạnh trang cho sản phẩm của mình, công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường . Mục tiêu năm 2001của công ty là tiếp tục mở rộng thị trường , mặt hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. 5. Phân tích tình hình xuất khẩu theo hình thức xuất khấu. Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty XNK Hà Tây có chủ trương tận dụng mọi khả năng hiện có để thực hiên đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu nhằm tăng thu nhập cho Công ty. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu của Công ty chủ yếu diễn ra theo hai hình thức: Xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu của Công ty theo hình thức xuất khẩu Đơn vị: USD Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99 Chỉ tiêu Trị giá % Trị giá % Trị giá % Stiền TT % Stiền TT % XK trực tiếp 6.130.617 75,95 7.980.671 81,93 13.071.610 89,41 1.850.054 130 5.089.939 163 XK uỷ thác 1.940.653 24,04 1.759.208 18,07 2.321.985 10,59 -181.445 90,6 562.777 131 Tổng 8.071.270 100 9.739.879 100 15.393.595 100 1.722.609 120 5.653.716 158 (Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty XNK Hà Tây) Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu trực tiếp luôn luôn giữ vị trí then chốt. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu trực tiếp chiếm tới 75,95% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1999,2000 xuất khẩu trực tiếp đã giữ một vị trí rất cao, chiếm trên 80% trị giá xuất khẩu của Công ty.Cụ thể năm 1999 là 81,93% và năm 2000 là 84,91%. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi vì chủ trương của công ty là ưu tiên cho việc tự bỏ vốn cho kinh doanh để thu đợc hiệu quả cao. Ngoài ra công ty có thể tận dụng các khả năng như con người, danh nghĩa của Công ty để làm các dịch vụ thương mại. Với chủ trương này Công ty đã chủ động huy động vốn tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng để xuất khẩu. Tuy vậy tình hình thị trường luôn biến động theo hướng bất lợi cho Công ty, nên những cố gắng của Công ty chỉ phần nào đạt được những kết quả nhất định nhưng khiêm tốn. 6. Một số vấn đề khác trong hoạt động xuất khẩu của công ty. Do đặc điểm mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, hình thức xuất khẩu, nguồn hàng xuất khẩu của công ty đã dẫn đến một số đặc điểm khác liên quan đến hoạt động xuất khẩu của công ty như: - Về hoạt động đóng gói, bao bì hàng hoá cho xuất khẩu: nhìn chung công ty không phải trực tiếp thực hiện khâu này mà phần lờn là do các cơ sở cung cấp thực hiện. Chẳng hạn đối với mặt hàng mây tre... được các cơ sở đóng gói thành từng thùng 50 kg đựng trong túi nilon; đối với hoa quả thì đóng thành từng thùng, từng bao. - Về điều kiện cơ sở giao hàng: do thị trờng xuất khẩu của công ty phần lớn là thị trờng Ba lan nên trong thời gian qua công ty thờng áp dụng điều kiện FOB (Free on Board - Incoterms 1990). Theo hình thức này, công ty phải đa hàng tới địa điểm giao hàng tại cửa khẩu bằng đờng biển hoặc đờng bộ, Công ty phải làm các thủ tục xuất khẩu trớc khi đa hàng tới điạ điểm giao hàng và trước khi hoàn tất việc giao hàng công ty phải chịu mọi chi phí có liên quan. Về thanh toán:công ty và phía khách hàng thường áp dụng phương thức chứng từ L/C đối với các hợp đồng lớn và phương thức trao tay đối với việc mua bán tại chợ biên giới với khối lượng nhỏ. Đối với thanh toán theo phương thức L/C công ty phải lập bộ chứng từ bao gồm: hoá đơn thương mại, vận đơn vận tải, giấy giám định kiểm nghiệm hàng hoá... III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY 1. Những thành tựu đạt được. Với sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên và ban lãnh đạo của công ty, mặc dù gặp nhiều khó khăn song công ty cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định, đó là: Thứ nhất, trong 3 năm qua hoạt động, năm nào Công ty cũng bù đắp được chi phí và có lãi, đảm bảo và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra của công ty. Các năm 1998, 1999 ,2000 kim ngạch xuất khẩu của Công ty từng bước phát triển và thu được mức lợi nhuận cao nhất và tiếp tục đầu tư thêm vào vốn kinh doanh của mình. Kim ngạch xuất khẩu năm 1998 là 8.071.270 USD và năm 1999 là 9.739.879 USD và đến năm 2000 là 15.393.595 USD. Năm 1999 so với năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt 120% so năm 1998 .Đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 158% so với năm 1999, điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty ngày càng phát triển. Sang các năm sau,Công ty đã khắc phục được khó khăn của các năm trước, vì vậy lợi nhuận thu được của Công ty đã đạt được một mức khá cao (hơn 4 tỷ đồng năm 2000) Không những kinh doanh có hiệu quả mà công ty đã nộp ngân sách đầy đủ, năm sau cao hơn năm trước. Năm 1998 công ty đã nộp ngân sách 1.586.428.000 đồng , đến năm 2000 công ty đã nộp ngân sách 9.828.109.000 đồng tăng 16,14% tương ứng với 8.259.681.000 đồng. Đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Thứ hai, qua thời gian hoạt động không dài nhưng Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã từng bước tạo lập uy tín trong kinh doanh. Hiện nay tên tuổi của Công ty mặc dù chưa phải là nổi tiếng nhưng với bạn hàng và khách hàng trong nước công ty đã tạo được uy tín trong kinh doanh ở một số tỉnh , thành phố như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Lạng Sơn... Đối với quan hệ kinh doanh thương mại quốc tế, Công ty đã tạo được niềm tin với các khách hàng như Ba lan, Liên Bang Nga,Đài loan. .. Điều đó đã giúp công ty mở rộng thêm một số thị trường mới như Hồng Kông ,tìm kiếm khách hàng và bạn hàng mới Mặc dù thời gian tham gia hoạt động kinh doanh chưa phải là dài nhưng Công ty đã từng bước khẳng định sự vững vàng của mình trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu . Qua quá trình hoạt động, Công ty cũng đã rút ra đợc nhiều bài học kinh nghiệm quý báu: 2. Hạn chế. Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là: Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu rất nhiều mặt hàng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại cuả từng mặt hàng là rất thấp. Công ty cũng chưa xây dựng đợc kế hoạch kinh doanh cho việc thực hiện, do vậy giữa việc đề ra kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách quá xa. Nó đã dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty hiện nay chủ yếu dựa vào các phi vụ mang tính bị động và thất thường. Thứ hai, khả năng về tài chính và khả năng huy động vốn kinh doanh của Công ty còn yếu. Trong khi đó Công ty lại phải phân bổ vốn cho quá nhiều các mặt hàng nên hiệu quả đạt được còn thấp. Chính do khả năng còn hạn hẹp về vốn kinh doanh đã hạn chế hoạt động mang tính xúc tiến của Công ty nhằm tìm kiếm thị trường, khách hàng. Do vậy, trong thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất nhỏ lẻ, ngồi chờ khách hàng nên hiệu quả cha cao. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu của Công ty còn yếu, biểu hiện ở thị trường xuất khẩu còn hạn hẹp, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao (do nguồn hàng xuất khẩu của Công ty được thu gom từ nhiều nơi, không đồng bộ). Bên cạnh đó, Công ty cũng chưa có biên pháp cụ thể nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực. Thứ tư, Công tác nghiên cứu thị trường của công ty còn yếu, công ty chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu thị trường một cách triệt để đúng hướng. Chỉ ngừng lại ở việc giới thiệu các mặt hàng ra nước ngoài, do đó hiểu quả kinh doanh chưa cao. Như vậy, thời gian qua bên cạnh những thành tựu nhất định Công ty cũng bộc lộ những hạn chế của mình. Điều quan trọng là Công ty đã nhận thấy rõ những hạn chế đó và đang tìm cách khắc phục. Hy vọng trong thời gian tới Công ty sẽ có những kết quả đáng mừng. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 1. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây 1. 1. Thuận lợi Việc đánh giá đúng những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đang có được là: Thứ nhất, Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng; nắm bắt và đánh giá tình hình thị trường một cách nhanh chóng, chính xác. Thứ hai, thị trường xuất khẩu chính của Công ty (thị trường Đông Âu..) là một thị trường có tiềm năng lớn về nhu cầu tiêu thụ và là thị trường có nhiều điều kiện thuận lợi cho Công ty thâm nhập sâu hơn. Hiện nay, thị trường Đông Âu không chỉ tiêu thụ cao su thiên nhiên, hoa quả mà còn tiêu thụ nhiều mặt hàng khác của Việt nam như gạo, thuỷ sản, một số sản phẩm nông sản khác... 1. 2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây cũng đang gặp phải một số khó khăn, đó là: Thứ nhất, là khó khăn về vốn kinh doanh: Hiện nay, vốn kinh doanh của Công ty đang rất eo hẹp, trong khi đó việc huy dộng vốn cũng gặp phải nhiều khó khăn. Chúng ta đã biết nguồn vốn của Công ty bao gồm: nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tự bổ sung và nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp rất nhỏ, được cấp khi mới thành lập Công ty, còn vốn chủ yếu là đi vay. Do vậy, khi vay vốn Công ty phải có sự cân nhắc giữa hiệu quả đồng vốn vay và chi phí (lãi suất) phải trả cho đồng vốn đó. Chính điều này đã cản trở Công ty trong việc huy động vốn. Bởi vì hiện nay hiệu quả kinh doanh nhiều mặt hàng rất thấp, không đủ trả chi phí vay cho các khoản tiền tín dụng. Công ty cũng không thể hy vọng các khoản tín dụng từ phía khách hàng hoặc người cung cấp. Thứ hai, là sức ép về cạnh tranh: Hiện nay, trong cơ chế thị trường, với chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã chịu một sức ép cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp, các đơn vị cạnh tranh cùng tham gia hoạt động như Công ty. Do vậy, việc chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ sản phẩm là rất bất lợi cho Công ty, một đơn vị có quy mô kinh doanh nhỏ, vốn ít. Vì vậy, để nâng cao sức cạnh tranh, Công ty cần phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu từ khâu thu gom. Thứ ba, Ngoài thị trường xuất khẩu chính của công ty như Ba lan... chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động xuất khẩu của công ty , còn các thị trường khác chiếm một tỷ lệ nhỏ. Do đó thị trường xuất khẩu của công ty còn hạn hẹp chưa khai thác, mở rộng thị trường mới. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY 1. Các biện pháp về phía công ty Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây cho thấy cần thiết phải có các biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Mục đích của việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu không nằm ngoài việc đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu cả về tuyệt đối, tương đối và hiệu quả kinh tế - xã hội khác, cũng như ngày một nâng cao uy tín và vị thế của Công ty trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được các mục đích đó, việc đề ra và thực hiện đồng bộ các biện pháp thúc đẩy là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động xuất khẩu của Công ty hiện tại và tương lai. Hiện nay, khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của Công ty có lẽ vẫn là khách hàng, thị trường. Vì vậy, các biện pháp đưa ra chủ yếu tập trung theo hướng này. Tuy nhiên, vì là một đơn vị ngoại thương với tư cách là 1 trung gian thương mại nên việc thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu cũng cần được quan tâm. 1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình hình thị trường luôn luôn biến động đã tạo ra các cơ hội, cũng như những rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều này lại càng được khẳng định đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, vì phạm vi thị trường vượt khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vây, các doanh nghiệp ngày nay không thể không thường xuyên nghiên cứu- tiếp cận thị trường và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Qua thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây cho ta thấy, Công ty hình như còn rất bị động trước những biến đổi của thị trường xuất khẩu. Chẳng hạn như năm 1999, thị trường Hồng Kông và Liên Bang Nga có nhiều biến động, nhu cầu của người tiêu dùng có sự thay đổi; vì không có những phản ứng kịp thời trước những thay đổi đó nên trong thời gian này việc xuất khẩu của Công ty sang các thị trường này gặp rất nhiều khó khăn .Do đó, trong thời gian tới Công ty nên quan tâm hơn nữa đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Các công việc có thể được thực hiện là: - Khẩn trương hình thành một nhóm ( hay phòng ban) chuyên nghiên cứu thị trường xuất khẩu với các nhân viên am hiểu về marketing xuất khẩu. - Tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như phòng Thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại, Đài phát thanh và truyền hình, các viện nghiên cứu về các nước và Châu lục, các đại sứ quán của Việt Nam tại nước ngoài. - Có thể lập các văn phòng đại diện tại các thị trường xuất khẩu mà công tky cho là có triển vọng và thuận lợi để thu thập các thông tin cập nhật tại các thị trường đó. Chẳng hạn như Công ty nên lập các văn phòng đại diện tại Ba lan, Hồng Kông, Liên Bang Nga ... Mục đích của các biện pháp này là để nắm được các thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu của Công ty để tìm ra các cơ hội phù hợp với công ty. Chính nhờ các biện pháp này Công ty có thể nắm bắt nhanh, kịp thời, chính xác tình hình các thị trường xuất khẩu nhất định để qua đó tìm ra các cơ hội tốt nhất cho công ty. 1.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty còn rất yếu. Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài; chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt. - Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của Công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà công đưa ra để đáng giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của Công tytrên mỗi loại thị trường. - Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, Công ty xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật Marketing MIX - Sử dụng các khả năng của Công tyđể thực hiện Marketing MiX SƠ ĐỒ 3 : MÔ HÌNH MARKETING XUẤT KHẨU Lựa chọn kế hoạch chiến lược xuất khẩu Đánh giá cơ hội thị trường 1. Đánh giá thị trường tiềm năng 2. Ước tính lượng bán ra tiềm năng 3. Phân loại thị trường Triển khai các kế hoạch, chiến lược Marrketing xuất khẩu 1. Đề ra mục tiêu xuất khẩu 2. Kế hoạch hoá Marketing MIX Sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến. Xác lập chiến lược xuất khẩu, các hoạt động: 1. Dự kiến bán ra 2. Ngân sách cho việc bán 3. Giấy phép bán 4. Danh mục hàng hoá bán 5. Kiểm kê các bản kiểm kê 6. Nhu cầu nhân lực 7. Ngân sách cho khuếch trương 8. Quỹ tài chính 9. Quỹ lợi nhuận Chiến lược Marketing xuất khẩu Dòng thông tin Phản hồi Thị trường xuất khẩu Trong 4 nhân tố của Makerting Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến ở công ty, vấn đề đáng nói nhất là các chính sách về xúc tiến khuếch trương . Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác này vì nó tác động rất lớn hành vi của người mua( người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng( bao gồm cả người trung gian ) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng của Công ty. Các hình thức xúc tiến bán hàng Công ty nên áp dụng là gửi Cataloge ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài . Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua các bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết và hình dáng, chất lượng hương vị của hàng hoá. . . . Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong nước và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của Công ty sẽ tăng lên . Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài Công ty phải chọn địa điểm và hình thức bố trí phù hợp nhằm thu hút được nhiều nhất lượng khách hàng. 1.3.Tạo lập được các nguồn hàng xuất khẩu ổn định, phù hợp, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu Nguồn hàng cho xuất khẩu khi là quyết định cho sự thành công của các doanh nghiệp ngoại thương. Đặc biệt nó có ý nghĩa quan trọng khi doanh nghiệp chưa tạo lập được các nguồn hàng ổn định. Chính vì vây, một mặt Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây phải thường xuyên quan tâm đến các biện pháp mở mang thị trường, tìm kiếm khách hàng, mặt khác Công ty cũng phải chú ý đến các biện pháp nhằm từng bước tạo lập nguồn hàng cho xuất khẩu của Công ty. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty thời gian qua cho thấy nguồn hàng xuất khẩu của Công ty còn bấp bênh, thiếu ổn định dẫn đến chất lượng hàng hoá thu gom nhiều khi khó khăn...Nguyên nhân là do Công ty chưa có nguồn hàng truyền thống đảm bảo cung cấp khối lượng hàng hoá đủ lớn với chất lượng đồng bộ. Do đó, trong thời gian tới Công ty nên quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn . Công ty nên áp dụng một số biện pháp sau để từng bước tạo lập các nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu: - Cần duy trì quan hệ bởi vì các nguồn hàng đã có: để thực hiện ý đồ này, Công typhải thường xuyên quan hệ với các nguồn hàng đã có cả về phương diện hợp đồng mua bán, cả trên cơ sở thân thiện. - Trong quan hệ hợp đồng mua bán, Công ty cần giữ chữ tín với các đơn vị chào hàng bằng cách không ép giá và thanh toán sòng phẳng . - Trong quan hệ thân thiện, các cán bộ thu mua nên có những thái độ và hành động làm hài lòng các đơn vị chào hàng. - Tích cực tìm kiếm các nguồn hàng mới, đây là biện pháp đa dạng hoá nguồn hàng . Biện pháp này có tác dụng rất lớn nó cho phép Công tytìm được nguồn hàng có lợi. Vì vậy, Công tycần chủ động giao dịch- tiếp xúc phát hiện ra, có thể hỗ trợ vốn cho các nguồn hàng mới đang gặp khó khăn, tăng cường thu thập thông tin về các nguồn có liên quan. - Từng bước tạo lập các nguồn hàng truyền thống: Công ty nên lựa chọn một vài nguồn hàng lớn và có uy tín, sau đó tích cực củng cố mối quan hệ với các nguồn hang này bằng cách thường xuyên mua hàng của họ, duy tốt mối quan hệ tình cảm, giúp đỡ họ khi có khả năng và họ cần. 1.4. Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Hiện nay, Công ty vẫn theo đuổi chủ trương đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu để tạn dụng các cơ hội của thị trường khi cần thiết. Theo ý tôi, Công ty nên tập trung vào vài mặt hàng có triển vọng nhất và quyết tâm theo đuổi ý đồ này thì hơn. Bởi vì thực tế trong thời gian qua Công ty đã xuất khẩu tương đối nhiều mặt hàng nhưng lại không đạt về chỉ tiêu khối lượng mà chất lượng của từng mặt hàng nên hiệu quả đạt được chưa cao hơn. Hơn nữa, với khả năng tài chính như hiện nay thì việc ôm đồm quá nhiều mặt hàng là vượt quá khả năng. Vả lại, nhiều khi lo quá sa đà vào nhiều mặt hàng dẫn đến việc phân bố các nguồn lực cho từng mặt hàng không đủ mạnh làm cho không mặt hàng nào đem lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì những lý do này mà việc tập trung vào những mặt hàng có thế mạnh là rất cần thiết cho công ty. Sau khi Công ty đã có thế lực đủ mạnh thì việc thực hiện chiến lược đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu cũng chưa muộn. Các mặt hàng Công ty nên tập trung vào đó là mây tre, nhãn quả khô, hải sản, cao su, hạt tiêu. Với các mặt hàng này Công ty nên tập trung cho việc thu mua, tổ chức bảo quản, chế biến để nó trở thành những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế và có giá trị kinh tế cao. Để thực hiện được ý đồ naỳ, Công ty nên thu thập thông tin về tình hình xuất khẩu của Việt Nam để biết được mặt hàng nào là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mặt hàng nào còn ít được xuất khẩu, mặt hàng nào chưa được xuất khẩu. Đồng thời Công tycũng cần có thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu như mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường xuất khẩu nào, khối lượng xuất khẩu và khả năng xuất khẩu dự đoán, mặt hàng nào có nhu cầu nhưng ít được xuất khẩu. . . tình hình cạnh tranh và khả năng tham gia. Qua sự phân tích này, Công ty sẽ phán đoán được tình hình và sự tiến triển của các mặt hàng xuất khẩu, qua đó tìm ra cho mình mặt hàng xuất khẩu phù hợp để lập kế hoạch xuất khẩu và thực hiện kế hoạch này. 1.5. Đa dạng hoá các tình hình xuất khẩu của công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu của Công tycho phép công ty tận dụng được khả năng về con người, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thờinó cũng cho phép Công ty mở rộng các mối quan hệ, đặc biệt là các mối quan hệ với các bạn hàng và khách hàng. Thời gian qua, Công ty mới thực hiện được hai loại hình xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. Thời gian tới, Công ty nên tích cực mở rông thêm các loại hình xuaat khẩu của mình bằng cách: - Mở rộng quan hệ với các đơn vị có nhu cầu về uỷ thác xuất khẩu . Công ty nên chủ động giới thiệu với các doanh nghiệp mà Công ty thấy họ có nhu cầu thuê uỷ thác về khả năng làm dịch vụ này của công ty. - Chủ động bỏ vốn vào kinh doanh, tích cực tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng. - Tích cự quan hệ với các cơ quan trong chính phủ để nắm các thông tin về xuất khẩu theo nghị định thư. Qua đó Công tycó thể đệ đơn xin chính phủ cho Công tythực hiện theo hình thức xuất khẩu này. - Tích cực kết hợp trao đổi buôn bán hai chiều nếu thấy cần thiết - Công ty nên tìm hiểu về các nghiệp vụ gia công xuất khẩu và tích cực quan hệ với các cơ sở làm gia công trong nước đồng thời mở rộng quan hệ với các bạn hàng nước ngoài, khi cần thiết có thể gợi ý và ddungsra làm trung gian cho khách hàng uỷ thác và các đơn vị nhận uỷ thác Tuy nhiên, cần chú ý rằng Công ty không nên đi quá sâu vào nhiều hình thức xuất khẩu mà trước hết chỉ nên chủ động trong hình thức xuất khẩu tự doanh, các hình thức khác chỉ là tận dụng những điều kiện thuận lợi có thể có. 1.6. Không ngừng nâng cao uy tín của công ty Về nâng cao uy tín của Công ty có thể trực tiếp liên quan đến việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hoặc cũng có thể tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hiện nay, có rât nhiều các hoạt động để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp . Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức nào là rất quan trọng đảm bảo phù hợp với khả năng hiện tại của Công ty. Sau đây là một số biện pháp Công ty nên áp dụng nhằm nâng cao uy tín của mình trong hoạt động xuất khẩu: - Thực hiện tốt và đầy đủ các cam kết đã thoả thuận trong các hợp đồng xuất khẩu. Hiện nay có một vấn đề là Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây thường ít quan tâm đến những hiêụ ứng sau khi bán hàng. Vì vậy, nhiều khi Công ty không quan tâm đến việc làm tốt và đầy đủ các cam kết trong hợp đồng . Ta đã biết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình trong đó nhà xuất khẩu cung cấp một loại hàng hoá dịch vụ, nào đó cho nước ngoài theo đúng những điều đã quy định trong hợp đồng Nói chung, khách hàng sẽ rất hài lòng khi họ nhận được hàng hoá có chất lượng đúng nhu cầu có khối lượng như đã thoả thuận . Ngoài ra, nếu có các điều kiện khác được thuận lợi thì các làm cho khách hàng hài lòng thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, Công ty nên quan tâm đên các vấn đề sau: + Chuẩn bị hàng hoá đúng chất lượng và khối lượng quy định . Để thực hiện yêu cầu này, Công tynhất thiết phải am hiểu hàng hoá, chọn được nguồn hàng có uy tín + Có kế hoạch thu gom hàng hoá, vận chuyển hàng hoá hợp lý: Công ty nên đề ra kế hoạch về thời gian thu gom và vận chuyển hàng hoá phù hợp. Điều đó có nghĩa là Công ty phải căn cứ vào thời gian thực hiện hợp đồng đã ký kết với khách nước ngoài để lên kế hoạch thu mua va chuẩn bị hàng hoá. - Công ty nên quan tâm hơn nữa đến “bộ mặt" của công ty: Hiện nay, các phòng làm việc của Công ty nhất là phòng mây tre còn chưa được khang trang và đẹp, Vì vậy, Công ty sớm có kế hoạch trang trí lại phòng làm việc của Công ty để tăng thêm uy tín của Công ty bởi vì khách hàng sẽ để ý đến cả vấn đề này trong quan hệ với công ty. 1.7. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Ngoài các biện pháp huy động vốn hiện có, Công ty có thể huy động vốn bằng các cách sau: - Doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong nước những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hàng liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vn và sử dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Có thể nói, liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì phần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện, - Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng: Cụ thể là với một số trường hợp xuất khẩu, Công ty nên yêu cầu người mua ( Người nhập khẩu) ứng trước 1 phần toàn bộ giá trị hợp đồng và Công tycó thể sử dụng số tiền ứng trước đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đối với những trường hợp đồng có giá trị lớn, vượt quá khả năng của Công ty thì Công ty nên áp dụng hình thức này hoặc có thể thực hiện hợp động bằng cách mời một số nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận Như vậy, vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi vì có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Vì vậy, Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh chóng vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở hâu này mà lại thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra. 1.8. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ xuất nhập khẩu. Trình độ cán bộ công nhân viên trong Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một trong những nguồn lực cơ bản của công ty. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công tycó tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Vì vậy, để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công typhải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra, Công ty cũng cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ công nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý sẽ khuyến khích được cán bộ nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thu nhập và thực hiện nhiệm vụ. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. 2. Một số kiến nghị với Nhà nước. Để khuyến khích hoạt động sản xuất và xuất khẩu, để nâng cao uy tín hàng hoá Việt Nam trên thị trường Quốc tế, để kim ngạch xuất khẩu là phần đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, chính phủ cần quan tâm đến một số giải pháp sau: 2.1. Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô Sự ổn định kinh tế vĩ mô trước hết phải hiểu là sự ổn định về các chính sách tài chính, thương mại, đầu tư, tiền tệ. Đó cũng là một trong những điều kiện tạo sự ổn định và quan tâm cho các nhà đầu tư, các công ty. Vì vậy Nhà nước cần: - Ổn định tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền: điều này sẽ thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được xuất khẩu. Sự điều tiết này sẽ làm hạn chế hay tạo cơ hội tham gia hoạt động xuất khẩu của Công tyđến chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, thị trường kinh doanh của công ty. - Duy trì và ổn định chế độ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, có sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt, gắn nước ta với kinh tế và thị trường thế giới, thể hiện trong cả sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý. Do vậy, phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu vừa coi trọng thị trường trong nước với nhiều thành phần kinh tế khác là 1 vấn đề cần quan tâm hiện nay. 2. 2. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản hơn thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường. Những quy định về xuất khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của Nhà nước phải được đổi mới và hoàn thiện . Cụ thể là: - Hệ thống các văn bản pháp lý: các quy định phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công tyliên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng rào nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. - Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với điều biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi có không ít những thiếu sót và nhược điểm càn khắc phục. 2.3. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu - Đầu tư vốn công nghệ cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu . Hiện nay, hàng xuất khẩu chủ yếu của chúng ta chủ yếu là hàng thô, hàng qua sơ chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xuất khâu thì Nhà nước cần khuyến khích đầu tư khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị kinh tế tạo ra nguồn hàng phong phú và đa dạng đảm bảo cho xuất khẩu, cần tập trung tiếp thu chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chú ý hạn chế các công nghệ sản xuất gây tốn năng lượng nguyên liệu và gây ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. - Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất. 2.4. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế Nhà nước chủ động đa dạng hoá hình thức hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Tạo điều kiện, để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường với khách hàng, bạn hàng một cách tốt nhất. KẾT LUẬN Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu khảo sát thị trường và định hướng cho hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Từ những đánh giá về hoạt động kinh doanh ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của Công ty và nhất là kinh doanh xuất khẩu đang từng bước được hoàn thiện tốt hơn, phù hợp với tình hình thị trường và khả năng cung ứng của công ty. Tuy nhiên, Công ty còn gặp phải rất nhiều khó khăn do nhu cầu khắt khe của thị trường ngày càng cao. Để đạt mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài Công ty nên có chiến lược kinh doanh dài hạn, nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nghiên cứu khả năng về nguồn hàng để có các quyết định chính xác kịp thời, đồng thời phải có các chính sách Marrketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu của đề tài đề cập đến một trong những hoạt động chính của Công ty đó là hoạt động xuất khẩu. Với hệ thống kiến thức được trang bị ở trường cùng với việc tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây trong thời gian thực tập, tôi xin đưa ra một số kiến nghị đã trình bày ở trên, với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Hy vọng trong thời gian tới Công ty sẽ đứng vững và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Một số Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây.doc
Tài liệu liên quan