Tài liệu Báo cáo Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam: Ministry of Agriculture & Rural Development
Báo cáo tiến độ của dự án CARD
004/05VIE
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông
hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
MS13: Báo cáo tổng kết
Tháng tư năm 2010
Mục lục
1. THÔNG TIN VỀ CÁC ĐỐI TÁC:........................................................................................... 3
2. TÓM TẮT DỰ ÁN :................................................................................................................... 4
3. TÓM TẮT KẾ HOẠCH: .......................................................................................................... 4
4. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN: ..................................................................... 5
5. TIẾN ĐỘ CỦA DỰ ÁN TÍNH ĐẾN NGÀY BÁO CÁO :..................................................... 6
6. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN.............................................................................17
7. MỘT SỐ VÁN ĐỀ VỀ TÍNH THỰC THI VÀ BỀN VỮN...
19 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ministry of Agriculture & Rural Development
Báo cáo tiến độ của dự án CARD
004/05VIE
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông
hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
MS13: Báo cáo tổng kết
Tháng tư năm 2010
Mục lục
1. THÔNG TIN VỀ CÁC ĐỐI TÁC:........................................................................................... 3
2. TÓM TẮT DỰ ÁN :................................................................................................................... 4
3. TÓM TẮT KẾ HOẠCH: .......................................................................................................... 4
4. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN: ..................................................................... 5
5. TIẾN ĐỘ CỦA DỰ ÁN TÍNH ĐẾN NGÀY BÁO CÁO :..................................................... 6
6. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN.............................................................................17
7. MỘT SỐ VÁN ĐỀ VỀ TÍNH THỰC THI VÀ BỀN VỮNG ..............................................17
1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nong hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
Các đối tác tham gia phía Việt Nam Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông
Lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía VN TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía Australia The University of Queensland/Victorian Department of
Primary Industry/South Australian Research and
Development Institute/University of Sydney
Tên các cán bộ tham gia dự án phía
Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony
Fahy, Dr Trish Holyoake
Ngày bắt đầu 1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định ban
đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa đổi) tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo tháng 04 năm 2006 – tháng 04 năm 2010
Các địa chỉ liên lạc:
Phía Australia: Trưởng dự án
Tên Dr Darren Trott Telephone:
Chức vụ Associate Professor
Veterinary Microbiology
Fax:
Cơ quan School of Veterinary Science The University of Qld
*Now at the School of Animal and Veterinary
Sciences
The University of Adelaide
Email:
darren.trott@adelaide
.edu.au
Phía Australia: Quản lý hành chính
Tên Melissa Anderson Telephone: 61 7 33652651
Chức vụ Trưởng văn phòng các dự án
nghiên cứu
Fax: 61 7 33651188
Cơ quan Trường Tài nguyên đất và thức
ăn, Đại học Tổng hợp Queensland
Email: m.anderson@uq.edu.au
Phía Việt Nam
Tên TS. Đỗ Ngọc Thuý Telephone: 84 4 8693923
Chức vụ Nghiên cứu viên Fax: 84 4 8694082
Cơ quan NIVR Email: dongocthuy73@yahoo.com
2. Tóm tắt dự án:
Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi các giống lợn như lợn Móng
Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các
điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất
lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho
các chương trình giống thuần và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể
cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín
từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại
và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương
trình cải tiến liên tục này (CIP) sẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho
các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua
phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những
người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể
thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể áp dụng được thành công trong thực tế.
3. Tóm tắt kế hoạch:
Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các
trại; 3. Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông
hộ; 5. Theo dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận.
Dự án đã bắt đầu với việc 6 cán bộ phía Việt nam được lựa chọn tham gia tập huấn với trình
độ cao ở Australia – những người sau đó sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện
dự án, dưới sự hướn dẫn của các chuyên gia Australia và Việt nam. Sau quá trình điều tra 200
trại kết thúc ở 4 tỉnh và 1 cuộc hội thảo để đưa ra các phương thức hoạt động chính cho dự án,
một quyết định đã được đưa ra là tập trung vào chăn nuôi lợn Móng cái (hơn là nái ngoại hay
lai) và đưa các lợn hậu bị cao sản vào nuôi, cùng với thời gian về kế hoạch thực hiện các tiến
bộ kỹ thuật thiết thực, tập huấn cho nông dân.
Các sáng kiến của dự án đã dẫn tới những hiệu quả hữu hình về cách thu nhận kiến thức và kỹ
năng của nông dân, và ở một mức độ nhất định nào đó, đã tăng năng suất chăn nuôi và các lợi
ích tổng hợp, bao gồm:
- Các thay đổi chính về chuồng trại, thông thoáng gió, khống chế nhiệt độ và ẩm độ
- Đưa vacxin E. coli do NIVR sản xất vào sử dụng, cũng như là các hộp ủ ấm nhằm
nâng cao sức khỏe và phát triển của đàn lợn trong giai đoạn theo mẹ, giảm tỷ lệ tiêu
chảy
- Ghi chép các theo dõi một cách chính xác, tăng nhận thức về vấn đề bệnh tật, chiến
lược sử dụng thuốc khống chế tiêu chảy và bệnh ghẻ
- Thành lập các câu lạc bộ nông dân, ngay sau khi có quyết định về việc tập trung tập
huấn cho các nông hộ mô hình, hơn là tập huấn cho các thú y viên.
Dự án đã lên đến cao trào với việc xây dựng bộ đĩa tập huấn DVD, trong đó các nông dân từ
mỗi câu lạc bộ đượcsắp xếp và thực hiện các cảnh quay trong 9 chương bao gồm các nội dung
chính trong các phương pháp thực hiện của dự án. Các nông dân thành công đã thực hành các
hướng dẫn từ dự án để đạt được sức chăn nuôi là 16-22 lợn bán ra/nái/năm và thu lợi: tỷ suất
giá là 2.2-2.5 so với 1.1 ở các trại đối chứng. Sau khi dự án hoàn thành, một số tiền tài trợ tiếp
tục sẽ được phân bổ để mở rộng mô hình này sang các tỉnh lân cận, cũng như sang cả các
nước Lào và Cambodia.
4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án:
Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt
Nam đã không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn
giữ chăn nuôi theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc
chăn nuôi được mở rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc biệt là ở giai đoạn lợn
con còn đang bú mẹ, do vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt
hại đáng kể cho lợn ở giai đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết
hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo
tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồng lợn
đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được
sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với
rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi
lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam cũng là nguồn cải thiện thu nhập
đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở do lợi nhuận thu được là
rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng trong chăn nuôi và
quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm thu được từ
dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Việt Nam
hiện đang phải đối mặt là:
• Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày
• Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán
ra/nái/năm để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được
• Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản
• Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả năng tiêu thụ thức ăn của
lợn
• Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng
• Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và
nguyên nhân gây chết
• Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác
dụng phòng bệnh của vacxin
• Thiếu chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân
• Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học
Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi
lợn, cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn
nuôi, thú y, chuồng trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các
ưu tiên nghiên cứu. Một ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là
nuôi <10-15 lợn nái) và các trại thương phẩm nhỏ (30-100 nái) ở từng tỉnh sẽ được lựa chọn
để tham gia vào quá trình điều tra và đánh giá – các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chăn nuôi,
trình độ của người chăn nuôi và các điều kiện chăn nuôi tại các trại. Trước khi triển khai điều
tra, các nhà khoa học phía Việt Nam sẽ được tập huấn để tổ chức các chuyến kiểm tra thực địa
và phòng vấn nông hộ, thu thập số liệu về sức sản xuất và các điều kiện về trang thiết bị khác.
Tiếp theo các cuộc điều tra ở các trại đã được chọn lựa tại 3 tỉnh, 1 cuộc hội thảo sẽ
đựoc tổ chức tại Trường Đại học Nông lâm Huế để xác định các yếu tố rủi ro chính có ảnh
hưởng đến năng suát chăn nuôi lợn. Những ưu tiên nghiên cứu sẽ được xác lập cho việc cải
tiến quản lý, các kỹ thuật chăn nuôi và chuồng trại tại các nông hộ. Điều này sẽ có dẫn đến kết
quả là việc phát triển các mô hình chuồng nuôi thích hợp cho chăn nuôi lợn (với những cải
tiến phù hợp), cũng như là các kỹ thuật chăn nuôi và quản lý. Một khi mà các mô hình này
được đánh giá thông qua, hàng loạt các chuyến đi thực địa sẽ được triển khai ở các huyện mà
các cán bộ khuyến nông và thú y địa phương là những người đã được đào tạo sẽ tham gia tích
cực. Các nông dân dã được lựa chọn sẽ được mời tham dự các lớp tập huấn “Tập huấn cho
giáo viên” ở mỗi vùng. Các buổi hội thảo về chăn nuôi lợn từ sinh sản đến khi bán ra thị
trường cũng sẽ được tiến hành để đáp ứng được các yêu cầu và các hệ thống chăn nuôi theo
đó.
Rất nhiều nông hộ nghèo hiện nay vẫn nuôi các giống lợn nội với ý định lai chúng với
các giống lợn ngoại để tăng khá năng phát triển và năng suất ở đàn con F1. Tuy nhiên, các
giống lợn nội nuôi tại các nông hộ hiện tại có năng suất rất kém. Trong số 3 dòng lợn thuần
chủng chính, giống lợn Móng Cái có năng suất cao hơn cả. Giống lợn Móng Cái có năng suất
cao đã được tiến hành lai với lợn Bắc Giang cho đàn con trung bình là 13-14 con/lứa đẻ (so
với các giống lợn nội khác chỉ đạt 8-9 con) và tốc độ tăng trọng bình quân đạt 350-400 g/ngày
(các giống khác 200-250 g/ngày). Kết quả này đã bộc lộ rõ các ưu việt của giống lợn Móng
Cái. Nếu thay thế được đàn lợn nội bằng lợn Móng Cái thuần chủng có năng suất và chất
lượng cao sẽ tạo thành các vùng hạt nhân về lợn Móng Cái thuần chủng cho vùng Duyên hải
miền Trung. Các con nái hậu bị thuần chủng sẽ được tăng lên về số lượng và sẽ được bán cho
các hộ chăn nuôi nhỏ khác trong chương trình lai với lợn đực ngoại. Các công thức lai trong
đàn F1 sẽ cho tốc độ phát triển tốt hơn các giống nội hiện đang nuôi, nhưng lại thích nghi hơn
với các điều kiện môi trường của địa phương so với các giống lợn ngoại. Ngoài ra, chương
trình này còn góp phần bảo tồn nguồn gen lợn Móng Cái thuần chủng tại khu vực Duyên hải
Miền Trung.
5. Tiến độ của dự án tính đến ngày báo cáo:
5.1. Tóm tắt các công việc đã được thực hiện:
Mục tiêu 1: Tập huấn cho các cán bộ chủ chốt
Kết quả 1.1: Chương trình tập huấn cho các cán bộ phía Việt nam.
Theo sau chuyến công tác tới Australia của đoàn các cán bộ đại diện phía Việt Nam vào đầu
năm 2006 (để khảo sát các thực trạng chăn nuôi lợn tại Australia và lập kế hoạch cho chương
trình tập huấn chi tiết), 6 cán bộ nghiên cứu Việt Nam có năng lực đã được chọn lựa sang học
tập tại Australia trong 1 chương trình tập huấn tập trung trong 2 tháng vào tháng 6 và tháng 7
năm 2006, về các khía cạnh của thú y, chăn nuôi và dịch tễ (chi tiết trong các báo cáo MS2 và
MS3). Mục tiêu chung của chương trình tập huấn này là nhằm tạo điều kiện cho mỗi thành
viên tham gia tập huấn phát triển khả năng để có thể tiến hành 1 cách độc lập các nhận xét,
đánh giá về trại lợn (tập trung chủ yếu vào dinh dưỡng, chăn nuôi, chuồng trại, thú y và quản
lý) để nhận ra các điểm chưa hợp lý, nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Những người này
đã vượt qua được bài đánh giá kiểm tra cuối cùng của khóa học và đều đã được nhận chứng
chỉ tập huấn từ trường UQ.
Kết quả chính của sáng kiến tập huấn ở mức độ cao này là việc xây dựng một bộ câu hỏi chi
tiết (được thiết kế và xây dựng bởi chính các nhà khoa học phía Việt nam trong quá trình tham
gia học môn dịch tễ), để được sử dụng tại Việt Nam cho các khảo sát thực địa về các nông hộ
chăn nuôi nhỏ. Các nhà khoa học phía Việt Nam, sau đó sẽ phát triển các kỹ năng và các hiểu
biết về kỹ thuật của mình để tiến hành các kiểm tra, đánh giá tại các trại sẽ tham gia vào toàn
bộ dự án sau này và tạo thành hạt nhân của vùng giống ven biển miền Trung. Chính chương
trình tập huấn đã tạo ra mối quan hệ sâu săc giữa 3 cơ quan tham gia dự án phía Việt Nam
(hợp tác giữa 2 cơ quan nhà nước và 1 trường Đại học) và các đối tác phía Australia – sau đó
đã hình thành nền tảng cho các hợp tác nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện dự án.
Những người được tập huấn đã có những đóng góp đáng kể cho các sáng kiến của dự án và
các tiến độ thưc hiện, trên cả 2 lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao. Các kết quả chi tiết trình
bày trong MS3 và MS12 là ý tưởng thiết kế chuồng nuôi phù hợp cho lợn Móng Cái được tạo
nên bởi Mr. Bien (NIAH), quy trình mổ khám để xác định nguyên nhân gây bệnh của Mr.
Tuan (NIVR), xây dựng và dịch các hướng dẫn cho việc sử dụng các loại thuốc của Ms. Cam
(NIAH), và đề cương nghiên cứu chi tiết nhằm khống chế các điều kiện môi trường tại các trại
đối chứng và mô hình của Dr. Duyet (HUAF).
Có thêm hai nhà khoa học trẻ phía Việt Nam – những người được nhận tập huấn ngay trong
nước trong quá trình thực hiện dự án và 1 trong số này (Mr. Ho Ngoc Phuong), sau đó đã
được chọn đi đào tạo Thạc sĩ tại ĐH Utrecht.
Kết quả 1.2: Bộ câu hỏi điều tra và đánh giá tại trại
Một bộ câu hỏi điều tra đã được chính những cán bộ phía Việt Nam tham gia tập huấn tại
Australia và đã được các nhà khoa học Australia chỉnh sửa (tháng 7-9 năm 2006), và đã được
chuyển sang dạng trực tuyến có khả năng cập nhật thêm các hình ảnh, đã được 1 chuyên gia
về công nghệ thông tin tại trường UQ giúp đỡ xây dựng và hoàn thành (2006-2007). Một
mạng dữ liệu hoàn chỉnh có thể được truy cập tại địa chỉ URL:
. Tên truy cập (AUSAIDCARD) và mật khẩu (pigproject) đã
được kiến tạo cho các thành viên của ban quản lý dự án CARD có thể tiếp cận và xem xét các
dữ liệu, nhưng không thể làm thay đổi các báo cáo theo dõi. Hệ thống dữ liệu và câu hỏi điều
tra này, sau đó đã được cải tiến rất nhiều trong suốt quá trình thực hiện dự án, bao gồm như:
dạng ngắn gọn hơn (hàng tháng) so với dạng đầy đủ và dài hơn (hàng năm), dạng tiếng Việt
và tiếng Anh, bao gồm cả các mã hóa ID đối với các trại dựa trên các dữ liệu về tỉnh để có thể
dễ dàng mở rộng tới các tỉnh khác, cách nhập các thông tin về vị trí địa lý (kinh, vĩ độ) cho
các đánh giá, phân tích về dịch tễ sau này. Website có cả chức năng hướng dẫn cho việc dạy
và đánh giá các trại trên cơ sở khả năng của họ để có thẻ đánh giá chính xác các hạn chế đối
với lợi ích chăn nuôi, cũng như tiềm năng thông tin của mỗi trại, kể cả các trại được chọn làm
mô hình cho các sáng kiến tập huấn trong tương lai. Do một số yếu tố như khó khăn trong
việc cập nhập hoặc do tốc độ truy cập chậm từ phía Việt nam, một số lỗi mã hóa trong quá
trình xây dựng, nên website này vẫn chưa được khai thác và sử dụng hết công suất từ các cán
bộ phía Việt Nam trong quá trình thực hiện dự án. Thay vì đó, các số liệu được nhập vào các
chương trình như Excel, Access hoặc SPSS đã chưa được phân tích trong dự án này, nhưng
rất có khả năng sẽ được sử dụng trong thời gian tới với các sáng kiến và tư vấn đúng mức của
1 người có chuyên môn về dịch tễ học. Các số liệu điều tra thu được tại thời điểm bắt đầu và
kết thúc dự án, cùng với các đánh giá kiểm tra trong vài năm đã được nhập vào hệ thống, cùng
với các ảnh chụp của các trại mô hình và danh mục các kiểm tra đánh giá.
Bất chấp những khó khăn này, SPSS đã được sử dụng để phân tích các số liệu thu thập được
theo sau cuộc khảo sát cơ bản (các báo cáo MS4 và MS5). Số lượng các lợn nái dao động từ
khoảng 1 đến 20 con, với số trung bình là 3.5 và 84% số hộ chăn nuôi lợn Móng Cái. Có 93%
số hộ nuôi ít hơn 11 nái (dao động từ 1-10) và 89% nuôi ít hơn 6 nái (dao động từ 1-5). Các số
liệu chính về nhân khẩu là 98.4%, 80%, 35% và 7% số nông dân có trình độ tương ứng về tiểu
học, trên tiểu học, trung học cơ sở và trên trung học cơ sở, nhưng trình độ văn hóa không có
liên quan tới số lợn nái được nuôi. Điều thú vị là tất cả các họ đều có trên 5 năm kinh nghiệm
chăn nuôi lợn và 89% có trên 10 năm kinh nghiệm. Số lợn con trung bình sinh ra và sống sót
là 12.04 + 1.63, với lợn Móng Cái trung bình là 12.61 và lợn nhập ngoại là 9.95. Số con chết
khi sinh (bao gồm cả số chết ngay khi mới sinh ra do lợn mẹ đè bẹp) trung bình là 15.9%
(13.7% đối với lợn Móng Cái và 32.8% đối với lợn ngoại). Lợn Móng Cái được đánh giá là
các con nái mẹ tốt và ít khi cần phải đòi hỏi cần phải có chuồng đẻ riêng. Hơn 80% số đàn đã
được báo cáo là có mắc tiêu chảy với 12.2% số đàn có >55% số lợn con trong đàn bị tiêu
chảy. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tiêu chảy bao gồm chuồng trại nghèo nàn, không có
khả năng khống chế về nhiệt độ, không tiêm vacxin phòng E. coli, hệ thống quản lý kém, vân
đề vệ sinh, bao gồm cả việc rửa ráy khu làm ấm cho lợn con hang ngày. Các hạn chế chính
đối với chăn nuôi bao gồm: dinh dưỡng và mức độ cho ăn thức ăn nói chung (hạn chế việc
cho ăn bổ xung lib cho lợn nái), chuồng trại và mức độ thông thoáng gió, thiếu nơi có thể tạo
cho các con lợn đực tăng mức độ kích thích, thiếu các hệ thống ghi chép số liệu tại trại nên
không thể xác định được 1 cách chính xác số lợn con sinh ra trung bình/nái/năm.
Theo sau cuộc hội thảo diễn ra tại Huế vào tháng 9/2006 và việc hoàn thành các điều tra và
phân tích về các trại vào 9/2006-1/2007 tại các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế
và Bình Định, một quyết định lớn đã được đưa ra, đó là việc tập trung vào nuôi lợn Móng Cái,
hơn là lợn ngoại hay lợn lai do điều kiện chăn nuôi lợn Móng cái không đòi hỏi phải đầu tư
chuồng nuôi đắt tiền. Nông dân cũng có thể tiến hành cho lợn thụ tinh nhân tạo với tinh của
lợn đực ngoại để tạo thành các đàn lai F1 với tốc độ phát triển nhanh để cho thịt, hoặc phối
với tinh của lợn Móng Cái thuần chủng trong các chương trình giống tại địa phương.
Một quyết định thứ hai đã được đưa ra, dó là việc tập trung vào xây dựng các trại mô hình, chỉ
ở hai tỉnh là Thừa Thiên Huế và Quảng trị do có vị trí địa lý gần nhau, và vì vậy cũng se giảm
được chi phí đi lại. Một danh sách các việc ưu tiên cần làm đã được đưa ra để bắt đầu cho
toàn bộ quy trình áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào các trại đã được lựa chọn để nâng cấp lên
thành các trại mô hình. Các việc này bao gồm: 1) Thay đổi và giới thiệu tới các nông hộ cách
thức cải tiến chuồng nuôi để tăng độ thông thoáng gió, khống chế nhiệt độ và vệ sinh chuồng
nuôi; 2) thay đổi và chấp nhận kiểu thiết kế chuồng nuôi lợn đẻ mới (Lợn Móng Cái không
cần chuồng đẻ cho dù rằng cũng cần tạo cho chúng các nguyên liệu lót ổ đẻ; 3) Chuồng nuôi
tập trung tất cả các lợn nái cạn sữa trong chuồng vỗ béo hoặc bán vỗ béo; 4) Viết, hoàn chỉnh,
kiểm tra các báo cáo được sử dụng định kỳ tại trại; 5) Xây dựng và phổ biến cách phối hợp
cám ăn cho lợn trong trường hợp dùng các thức ăn tận dụng tại địa phương, có chế độ cho ăn
và uống tự do; 6) Phương cách để xác định nhiệt độ phù hợp và cách phối tinh nhân tạo phù
hợp; 7) Quy trình tiêm phòng và sử dụng vacxin E. coli; 8) Thanh toán bệnh ghẻ; 9) Hoàn
thành việc đưa vào nuôi giống lợn Móng Cái đã được cải tiến; 10) Tiến hành nghiên cứu chẩn
đoán các nguyên nhân tiêu chảy trước cai sữa; 11) Giới thiệu thẻ lợn nái; và 12) Khuyến cáo
nông dân xây dựng chuồng nuôi lợn kiểu mới (thay vì nâng cấp chuồng cũ) bởi vì chính các
thành viên đã được tham gia tập huấn phía Việt Nam đã biết cách làm thay đổi những điểm
yếu của chuồng nuôi nhằm phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Một số đặc điểm chính của thiết kế chuồng nuôi kiểu mới bao gồm:
• Mái lợp bằng ngói hoặc fibro với hệ thống mái phụ nhằm làm tăng mức độ lưu thông
không khí, đặc biệt là vào mùa hè. Ngoài ra, các vật liệu rẻ hơn cũng có thể dùng để
làm mái như mái tôn (nhưng phải được làm mát vào mùa hè như là được phủ lên bằng
một loại dây leo) hoặc rơm.
• Có độ thông thoáng đầy đủ qua chuồng
• Sàn dốc, đảm bảo thoát nước thải, dễ dàng dọn rửa và thu dọn chất thải, tránh nền
chuồng bằng xi măng bị ướt
• Có nơi ủ ấm sạch, khô ráo cho lợn con, đảm bảo nhiệt độ 30-32o C.
• Máng ăn khô ráo cho lợn nái có chửa
• Có vùng chất thải tách biệt với kích cỡ giới hạn thông qua thành chuồng mở phù hợp
với độ cao của lợn (một trong các lỗi thường gặp trong thiết kế chuồng nuôi tại Việt
Nam)
Mục tiêu 2: Lựa chọn các nông hộ
Kết quả 2.1. Lựa chọn các nông hộ chăn nuôi nhỏ
Sau khi tiến hành phân tích các kết quả điều tra, chúng tôi đã tiến hành chọn 30 trại tốt nhất ở
Quảng Trị và 24 trại tại Thừa Thiên Huế để có thể tiến cử cho việc xây dựng thành các trại
mô hình. Các tiêu chí bao gồm: khả năng lĩnh hội của người chủ nông hộ và gia đình của họ
trong việc tham gia tập huấn và khả năng đầu tư tới 50% số tiền xây dựng cơ sở vật chất cho
chuồng nuôi và đàn giống, phần còn lại sẽ do dự án hỗ trợ. Trong quá trình thực hiện dự án,
mỗi nông hộ này đã được nhận các tập huấn cơ bản từ các nhà khoa học phía Việt nam và đã
áp dụng các kiến thức học được như đã được chứng kiến trong các chuyến công tác của các
nhà khoa học Australia (khoảng 3-4 lần/năm). Theo sau những động viên khích lệ từ các nhà
khoa học Việt nam và các chuyên công tác tới trại của các thành viên thực hiện dự án phía
Australia, các cải tiến liên tục đã được tiến hành ở các trại mô hình (một số được hỗ trợ từ dự
án, nhưng phần lớn là do nông dân tự trang trải). Từng bước một, những người nông dân đã
chấp thuận những lời khuyến cáo trong suốt quá trình thực hiện dự án, tuy nhiên, đối với một
số can thiệp chính thì cũng cần phải được nhắc nhở liên tục cho nông dân. Một ví dụ bình
thường nhất là về việc thông thoáng gió của chuồng nuôi, với các nông dân, họ thường không
mở các rèm che ở 2 bên thành chuồng khi thời tiết nóng bởi vì họ đã không nhận ra rằng các
tác động về nhiệt độ cao sẽ có ảnh hưởng tới lợn nái, đặc biệt là trong giao đoạn cuối của quá
trình mang thai và cho con bú. Ngược lại, trong mùa đông, nông dân lại không nhận ra ảnh
hưởng của gió lùa đối với lợn (kiểu chuồng nuôi cũ thường có các lỗ thông thoáng ở thành
chuồng)
Kết quả 2.2 Cải tiến chuồng nuôi ở một số hộ đã được lựa chọn (cho lợn con trước và sau cai
sữa và lợn nái
Cải tiến chuồng trại bao gồm việc khuyến cáo không nên xây dựng chuồng nuôi lợn liền kề
ngay sát cạnh nhà ở, mà nên chọn một ví trí và hướng chuồng nuôi phù hợp, hoặc tiến hành
nâng cấp chuồng nuôi hiện đang có. Ví dụ, ở tỉnh Quảng Trị, 9 nông hộ đã xây dựng chuồng
nuôi mới theo thiết kế đặc trưng của Mr. Bien và 21 hộ còn lại cũng đã tiến hành nâng cấp
bằng cách như nâng mái, tạo mái phụ, tăng độ thông thoáng gió với các rèm che phù hợp, lắp
đặt vòi nước uống tự động, cải tiến sàn chuồng, cải tiến chuồng nuôi lợn nái, hệ thống nước
thải. Một vài hộ đã xây dựng hệ thống quản lý và chứa chất thải và xử lý với chế phẩm EM
(một loại chế phẩm có lợi thúc đẩy cho quá trình xử lý chất thải), với 10 hộ đã lắp đặt hệ
thống biogas mới phục vụ cho nấu ăn và thắp sáng.
Các lợi ích phải kể đến lớn nhất chính là thông qua việc đưa vào sử dụng các hộp ủ ấm (80cm
x 70cm x 60cm) cho lợn con đang bú sữa mẹ và việc đưa vacxin E. coli của NIVR vào sử
dụng ở các trại mô hình. Các hộp ủ ấm đã được đưa vào sử dụng đầu tiên tại tỉnh Quảng Trị
vào mùa đông năm 2007/2008 – một mùa đông lạnh bất thường. 30 hộ ủ đã được dự án tài trợ,
còn 18 hộp đã được các nông hộ tự trang trải. Điều này đã chứng minh 1 vấn đề rằng nông
dân sẽ không làm theo các lời khuyến cáo ngay lập tức, trừ khi họ đã được tận mắt chứng kiến
hiệu quả của việc áp dụng các sáng kiến cải tiến mới.
Bảng 1: Đầu tư về tài chính được thực hiện tại các trại mô hình ở 3 xã của tỉnh Quảng
Trị
Mục Số lượng
Số gia đình tham gia vào dự án 30
Số gia đình xây dựng chuồng mới 9
Số ô chuồng lợn xây mới 106
Số ô chuồng đã có được tiến hành nâng cấp hoặc sửa
chữa
21
Số gia đình xây dựng hệ thống biogas mới 7
Số hộp ủ ấm được dự án hỗ trợ 30
Số hộp ủ ấm các gia đình tự làm 18
Mục tiêu 3: Áp dụng các thực hành tốt nhất
Kết quả 3.1. và 3.2: Tài liệu tập huấn, hội thảo và các sáng kiến tập huấn khác
Các tài liệu và các hỗ trợ cho tập huấn của 6 nhà khoa học phía Việt nam tại Australia đã được
nộp cùng với báo cáo MS3. Mục tiêu chính của dự án 004/05VIE là sau đó sẽ tiến hành tập
huấn lại cho các thú y viên xã, huyện – những người mà sau đó sẽ tiến hành truyền đạt trực
tiếp các kiến thức thu nhận được của mình cho chính những người nông dân trong địa
phương, trong khi đội dự án vấn tiếp tục tiến hành làm việc với các nông hộ mô hình do
những đầu tư về tài chính được tiến hành tại các trại này. Mô hình này, sau đó đã phải dừng
lại vào năm 2008 do các thú y viên được lựa chọn cho kiểu tập huấn này đã thể hiện là có ít
mối quan tâm, say mê trong việc phát triển các kỹ năng của họ, có lẽ là do họ đã không nhìn
thấy bất kỳ một nguồn thu hay hỗ trợ tài chính nào cho chính bản thân họ.
Các phương tiện tập huấn cho các nông hộ (như được trình bày trong báo cáo MS8), bao gồm:
1) Một khóa học cơ bản do mỗi cơ quan tự tổ chức vào năm 2007 (bài giảng, thảo luận trong
toàn nhóm đối với các trại đã được chọn lựa ở mỗi tỉnh); 2) Các chuyến thăm quan thực địa và
tập huấn trên thực tế cho các trại đã được chọn lựa do các chuyên gia Australia và Việt Nam
tổ chức từ 20007-2009; 3) Hình thức tập huấn nông dân truyền đạt cho nông dân thông qua
việc thành lập các câu lạc bộ nông dân vào 2008-2010 (được trình bày trong MS8 và MS10,
và được thảo luận ở Mục tiêu 6); 4) Xây dựng bộ đĩa DVD vào cuối 2009/đầu 2010 mà trong
đó, các thành viên của các câu lạc bộ nông dân, thông qua các cuộc Hội thảo được hỗ trợ bởi
các nhà khoa học Australia và Việt Nam, đã phát triển thành các chương về chăn nuôi lợn,
trong đó có đề cập đến các can thiệp đã thành công của dự án.
Mỗi sáng kiến tập huấn này đều đã thu được những kết quả khác nhau. Điều quan trọng là
thông qua những khóa tập huấn như vậy thì mới có thể nhìn nhận được những việc đã làm và
chưa làm được, cũng như là các cán bộ phía Việt nam cũng sẽ tạo dựng được các mối quan hệ
tốt với nông dân nhờ vào việc tạo dựng lòng tin, đồng thời đội quản lý dự án phía Australia
cũng sẽ xây dựng được cách thức tiến hành tiếp theo của dự án, đó là các hoạt động nông dân
tập huấn cho nông dân.
Khóa học tập huấn cơ bản (2 ngày lý thuyết) bao gồm các nội dung về chuồng trại, giống,
dinh dưỡng và phóng chống bệnh. Các thực hành tại trại là rất hữu ích cho việc giới thiệu với
các nông hộ mô hình, mà chính bản thân họ sẽ không thể thực hiện được những cải thiện về
kiến thức, kỹ năng và lợi ích của các nông hộ nhỏ.
Các hoạt động tập huấn diễn ra ngay tại trại do các cán bộ phía Australia và Việt Nam tiến
hành đã bao gồm các nội dung như quản lý và theo dõi các ghi chép, hiệu quả của việc sử
dụng hộp ủ ấm đối với sức khỏe đàn lợn, chuồng nuôi và các điều kiện môi trường, dinh
dưỡng, thức ăn, phòng và chống bệnh. Mỗi thành viên tham dự đã được nhận Chứng chỉ
(tương đương với trình độ tập huấn ở Mức 4). Các hoạt động thực hành tập huấn này đã thực
sự thành công trong việc phát triển mô hình CIP, được xây dựng nên từ chính các bài thực
hành, nhưng cũng đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và cố gắng từ cả các đối tác Australia và Việt
Nam, và kể cả các vấn đề đã được phát hiện ra trong các chuyến công tác ngắn hạn tại cùng
một trại để tìm ra cùng các vấn đề (ví dụ như thông thoáng gió không đủ) hơn là để phó mặc
cho nông dân tự phát hiện ra các khiếm khuyết và tiến hành thay đổi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, ý tưởng thành lập các câu lạc bộ nông dân tại tỉnh Quảng Trị từ ý
tưởng của Mr. Duyen (NIAH) vào tháng 11 năm 2008 đã có các tác động tích cực đối với việc
học hỏi các kỹ năng và kiến thức từ các nông hộ mô hình. Sau đó, các nhà khoa học phía
Australia cũng đã ghi nhận được những chuyển biến đáng kể trong những người nông dân về
bệnh tật, quản lý và chăn nuôi lợn nái, lợn con, thông thoáng gió và vệ sinh trong các chuyến
công tác thực địa, và những người nông dân ở tỉnh Quảng Trị đã vượt xa những nông hộ ở
Thừa Thiên Huế. Những thành công của việc xây dựng các câu lạc bộ này đã làm cho những
người thực hiện dự án cân nhắc về một ý tưởng về việc sẽ xây dựng một băng video tập huấn,
mà trong đó chính những người nông dân sẽ tự trình bày trong các chương (tập trung chủ yếu
vào các can thiệp của dự án) trên cơ sở các kinh nghiệm đã được hướng dẫn từ các cán bộ
Việt Nam và Australia.
Cuốn băng DVD của dự án đã được 1 sinh viên chuyên ngành UQ (Ms. Tarni Cooper) điều
hành thực hiện. Ms. Tarni là người tình nguyện cho dự án trong vòng 4 năm qua trong các dịp
nghỉ hè (tháng 11-tháng 2) và đã có công đóng góp rất nhiều vào việc làm tăng chất lượng của
hệ thống dữ liệu trực tuyến về các đánh giá, kiểm tra tại trại, cũng như các đánh giá hàng
năm. Chị đã rất thành công trong việc đạt được các học bổng nghiên cứu có tính cạnh tranh
cao từ trường UQ trong năm 2009 để tiến hành các công việc quay/thu của bộ đĩa DVD, cũng
như là việc thực hiên nghiên cứu trong suốt năm 2010 như một tiểu luận tốt nghiệp của chị.
Việc xây dựng bộ đĩa DVD đã trải qua 4 giai đoạn: các khái niệm ban đầu (11/2009), nông
dân chuẩn bị, tập huấn và kịch bản (12/2009), quay film các chương (01/2010), sau đó là biên
tập lại (02/2010). Các chương của cuốn DVD gồm các nội dung về chuồng trại và thông
thoáng gió, vệ sinh và quản lý chất thải, hệ thống chăn nuôi kết hợp, các phối trộn thức ăn và
các nguồn thức ăn tại địa phương, theo dõi ghi chép số liệu, lựa chọn lợn hậu bị và phối
giống, chăm sóc lợn nái và lợn con, an toàn sinh học và các bệnh thường gặp ở lợn. Bộ đĩa đã
có tác dụng rất rõ rệt, làm phấn khích các câu lạc bộ nông dân ở Thừa Thiên Huế tiếp tục duy
trì trong năm 2010 và tạo ra một sự gắn kết mạnh mẽ, tính tự tin trong số các nông hộ. Bộ đĩa
này, sau đó đã được phân phát tới tận tay tất cả các nông hộ tham gia vào chương trình và
được được sử dụng tối đa trong các cuộc họp của câu lạc bộ. Đồng thời, cuốn băng cũng được
gửi tới các thú y viên địa phương ở Quảng trị và Thừa Thiên Huế, và hiện tại, đang được sử
dụng trong dự án phát triển chăn nuôi ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam.
Mục tiêu 4: Nhập đàn giống mới vào nuôi
Kết quả 4.1. Nhập đàn giống mới một cách an toàn vào các hợp tác xã tại Quang Tri và Thừa
Thiên Huế
Tại Thừa Thiên Huế: 125 lợn hậu bị thuần chủng Móng Cái cao sản (125 Móng Cái, 10 lợn
lai) đã được đưa vào nuôi tại các trại mô hình tại Thừa Thiên Huế từ đầu đến giữa năm 2007.
Tuy nhiên, không may là đã có 12.5% chết (chủ yếu do bệnh tụ huyết trùng do người nông
dân đã không tuân thủ đúng quy trình kiểm dịch). Toàn bộ số lợn hậu bị, sau đó đã được tiến
hành thụ tinh nhân tạo với tinh trùng lợn đực ngoại, tiến hành tiêm phòng vacxin E. coli do
NIVR cung cấp, các lợn hậu bị, sau đó đã mang thai lứa đầu tiên vào tháng 11/2007 (83 con
mang thai). Kích cỡ đàn trung bình đạt 7.6 lợn con/hậu bị và số trung bình cai sữa là 6.4 (lợn
hậu bị thường đẻ ít con hơn lợn nái đã đẻ vài lứa). Giá lợn cai sữa tại thời điểm bán là 47.000
VND/kg, trọng lượng trung bình của 1 lợn cai sữa lúc bán là 7 kg, do vậy tổng số tiến lãi (đã
trừ các chi phí khác) là khoảng 91,932,000 VND.
Vào năm 2008, bệnh dịch PRRS tấn công vào các tỉnh miền Trung Việt Nam và đã gây ra các
thiệt hại đáng kể đối với dự án, gây chết 32 lợn nái Móng Cái (nghi mắc PRRS) và 19 nái đã
bị tiêu hủy do có các biểu hiện của PRRS ở 5 xác thuộc Thừa Thiên Huế (đa số các nái hiện
đang trong lúa đẻ thứ 2 hoặc 3). Các nông hộ đã được trợ cấp thiệt hại với mức là 20.000
VND/kg lợn, nhưng điều đáng nói là trong thời gian khó khăn này, đã gây thiệt hại khoảng 45
lứa đẻ. Các nông dân thuộc các trại mô hình đã phải gánh chịu các thiệt hại này, sau đó, rất
may là giá lợn lại tăng cao (tới 70.000-80.000 VND/kg). Các hộp ủ ấm cho lợn con, sau đó
cũng đã phát huy tác dụng rất hiệu quả, đặc biệt trong suốt mùa lạnh, hiệu quả chăn nuôi đã
tăng lên rõ rệt với trung bình là 13.1 lợn con sinh ra và sống/nái, 11-12 lợn cai sữa và chỉ có
khoảng 3 lợn nái đã được phối mà không thành công.
Ở tỉnh Quảng Trị: Đã tiến hành chuyển 68 lợn hậ bị cao sản từ miền Bắc vào nuôi tại một số
nông hộ mà đã được lựa chọn vào năm 2007, nhưng sau đó đã bị trì hoãn cho tới ngày
1/5/2008 do đợt dịch bệnh DMD ở miền Trung Việt Nam, nhưng với một chi phí mà dự án
phải trả cao hơn nhiều do giá lợn tăng cao, cùng với các chi phí khác về thức ăn và chuồng
trại cho mục đích kiểm dịch. Tình hình lại càng xấu hơn do đợt dịch này lại trùng với đợt dịch
PRRS tại miền Trung Việt Nam. Nhưng cũng rất may là sau đó, tất cả các lợn Móng Cái
thuần chủng đã được tiêm vacxin phòng PRRS và FMD khi trong thời gian kiểm dịch, và sau
đó, đã nhanh chóng được đưa vào nuôi tại thời điểm mà rất nhiều lợn nái khác ở tỉnh Quảng
Trị bị chết hoặc bị tiêu hủy. Cuối năm 2009, số lợn nái trong khuôn khổ của dự án đã tăng tới
con số 172.
Sau những thất bại ban đầu này, giá lợn cai sữa đã đạt tới mức to 25,000-35,000 VND/kg vào
năm 2009 và chăn nuôi lợn Móng Cái đã được tiến hành một cách hiệu quả ở các trại mô hình
nhờ việc lưu giữ các theo dõi chăn nuôi một cách có hệ thống. Tuy nhiên, do các đợt dịch
bệnh vào năm 2008, cùng với cơn bão tấn công vào miền Trung Việt Nam năm 2009 – đã gây
ra những thiệt hại đáng kể về chuồng nuôi, làm giảm số đầu lợn nuôi, làm cho dự án bị chậm
lại 12 tháng và dự án đã xin kéo dài tới tháng 4 năm 2010 nhằm làm cho các mục tiêu 5 và 6
là có thể hoàn thành được.
Mục tiêu 5: Theo dõi lợi nhuận
Kết quả 5.1 Lợi nhuận và các báo cáo chăn nuôi
Trong năm 2009, do dịch PRRS được khống chế và giá lợn hơi ổn định, cùng với các kiến
thức và kỹ năng của người nông dân đã được nâng cao, họ đã có thể biết cách theo dõi để tính
toán một cách cụ thể và chính xác số lợn con bán ra/nái/năm. Hầu hết các gia đình đã bán lợn
nái vào lúc 6-8 tuần tuổi với giá là 25,000-30,000 VNĐ/kg. Khảo sát cuối cùng ở các trại
được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và các trại mô hình đã được hoàn thành vào tháng 12-
tháng 2 năm 2009. Thêm nữa, một danh sách các biện pháp ưu tiên cao cũng đã được đưa ra
cùng với các theo dõi dạng điện tử. So sánh với nhóm đối chứng, các trại trong dự án có số
lợn nái cao hơn (2.8-3.6 so với 1.8) và số con con sinh ra cũng nhiều hơn, thu nhập ổn định
hơn từ nguồn bán lợn. Đối với các trại đối chứng, hầu như là không có thể tính toán được
chính xác sức chăn nuôi, ngoài việc chỉ quan sát số lợn con ở các lứa tuổi vào thời điểm tiến
hành khảo sát do không có theo dõi nào được giữ lại tại các trại đối chứng và các câu trả lời
của họ về số lợn bán ra/nái/năm là thường chỉ là ước đoán và không chính xác. Các trại đối
chứng chỉ đáp ứng được 1-2 trong số 15 chỉ tiêu yêu cầu, trong khi các trại mô hình thì có số
tiêu chí đạt được rất cao, khoảng 9.3/15. Các trại mô hình tốt nhất ở Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế đạt được từ 16-22 lợn bán ra/nái/năm. Phần lớn số lợn con có trọng lượng đồng đều, có
tốc độ tăng trưởng tốt. Các con nái được cho ăn không đầy đủ với các biểu hiện của bệnh ghẻ
không có khả năng sinh sản tốt đã được thay thế bằng các lợn hậu bị Móng cái cao sản có tốc
độc sinh và cai sữa tốt. Ngoài ra, việc thành công trong vấn đề đưa biogas vào phục vụ nấu ăn,
ủ phân cùng với giun đất, loại bỏ chất thải, thực hành chăn nuôi xen kẽ, cũng như là các kiến
thức và kỹ năng thông qua các thành viên tích cực của câu lạc bộ nông dân đã tạo cho người
nông dân rất nhiều lợi ích hữu hình và làm tăng đáng kể nguồn lợi của họ. Nhóm những người
tham gia dự án đã tiến hành tính toán sơ bộ các nguồn lợi: phân tích giá cho người chăn nuôi
nhỏ nuôi khoảng 5 lợn nái, dựa trên cơ sở phỏng vấn nông dân trong chuyến công tác đánh giá
dự án vào tháng 4/2010 và đã kết luận rằng các biện pháp thực hiện của dự án đã làm tăng tỷ
suất lợi nhuận từ khoảng 1.1 đến khoảng 2.2-2.5. Các lợi ích trên hết vẫn là việc phòng bệnh
tiêu chảy trước cai sữa bằng cách sử dụng vacxin E. coli, điều trị lợn 3-5 ngày tuổi với 1 liều
toltrazuril để phòng cầu trùng (Baycox) và tạo ra nơi sạch, khô và ấm áp cho lợn con, thanh
toán bệnh ghẻ.
Kết quả 5.2. Điều tra chính xác về bệnh tật, đặc biệt tập trung vào tỷ lệ chết trước cai sữa
Các số liệu từ các kết quả nghiên cứu năm 2008 đã được trình bày tại Hội nghị Chăn nuôi thú
y Á-Úc tại Hà Nội. So sánh chuồng nuôi kiểu truyền thống với kiểu thiết kế mới được xây
dựng nên trong quá trình thực hiện dự án tại Thừa Thiên Huế, kết quả cho thấy số lợn con
sinh ra và sống tăng đáng kế (11.1±2.6 so với 9.5±1.5; P <0.01) và số lợn con cai sữa (9.3±1.1
so với 7.1±1.4; P <0.01). Ngoài ra, các lợn con được nuôi trong chuồng kiểu mới có tốc độ
tăng trưởng nhanh từ khi sinh đến khi cai sữa (126.3±19.5 g/ngày so với 107.4±15.4 g/ngày; P
< 0.05). Các tiến triển rõ rệt cũng thu được từ tỉnh Quảng Trị với việc đưa vào sử dụng hệ
thống chăn nuôi mới, bao gồm số sinh ra và sống (11.5 so với 10 con/đàn) và số cai sữa (10.5
so với. 9.5 con) và giảm đáng kể tỷ lệ chết trước cai sữa (2.1% so với 8.6%).
Các cuộc họp với các thú y xã và huyện vào tháng 11 năm 2009 đã cho thấy rằng tiêu chảy
trước cai sữa, ghẻ, tiêu chảy sau cai sữa và phù đầu là các bệnh thường gặp nhất ở các hộ chăn
nuôi lợn ở cả 2 tỉnh. Kết quả đạt được chính của dự án, đó là đã thanh toán được bệnh ghẻ ở
các trại mô hình bằng việc tiêm nhắc lại 2 lần với Ivemectin hoặc Moxidetin – thuốc được
cung cấp bởi dự án với tất cả các đàn.
Một nghiên cứu riêng đối với các bệnh tiêu chảy lợn con trước cai sữa được trình bày trong
báo cáo tổng kết của dự án 001/04VIE
Mục tiêu 6: Lợi ích bền vững
Kết quả 6.1. Thiết lập mạng lưới đào tạo, tập huấn
Việc hình thành các câu lạc bộ nông dân ở Quảng Trị vào năm 2008 và sau đó phát triển sang
Thừa Thiên Huế vào 2009/2010 đã góp phần hình thành nên hệ thống mạng lưới đào tạo, tập
huấn mạnh mẽ trong số các nông hộ. Mỗi câu lạc bộ nông dân sẽ tiến hành họp hàng tháng, có
khoảng 10-15 thành viên – sẽ đóng góp phí tham gia và có 1 người trưởng nhóm. Dự án cũng
đã hỗ trợ cho 1 tủ sách nhỏ gồm các tạp chí nông nghiệp, cung cấp các báo tường tập huấn
cho phòng họp. Trường UQ cũng đã tài trợ 1 khoản tiền trị giá $1000 để mua các thuốc điều
trị các bệnh của lợn cho mỗi câu lạc bộ sau khi có cơn bão nhiệt đới xảy ra ở miền Trung Việt
Nam vào 2009. Mỗi câu lạc bộ cũng thành lập các nguồn quỹ bảo hiểm, tuy nhiên, vẫn chưa
có nguồn cho các công việc đầu tư thêm cho tương lai như mở rộng chăn nuôi, mua thức ăn
dự trữ hay thuốc điều trị tại thời điểm đó. Các sáng kiến này chỉ được hình thành vào giai
đoạn cuối của dự án. Đồng thời, một vấn đề cấp bách cũng được đặt ra là việc duy trì các câu
lạc bộ này trong năm 2010, xây dựng các quy đinh, điều lệ cho việc thành lập và hoạt động
của các câu lạc bộ, và khuyến khích mở rộng. Hổ sơ xin thêm nguồn tài trợ của CARD cũng
đã được tiến hành thực hiện nhằm tiếp tục duy trì các mô hình hoạt động của các câu lạc bộ
nông dân trong năm 2010.
Kết quả 6.2. Hội thảo có tài trợ về vùng giống
Toàn bộ quá trình xây dựng bộ đĩa DVD đã được đánh giá là một thánh công tuyệt vời của
khóa tập huấn này, đặc biệt là do một vài nông hộ mới – những trại mà ban đầu chưa được
chọn lựa là các trại mô hình đã tham gia vào quá trình này và đã được hưởng lợi từ việc tham
gia học hỏi với các nông hộ khác trong dự án. Mỗi nông hộ thành công đã tiến hành hướng
dẫn, chia se cho những hàng xóm quanh mình những kiến thức và kỹ năng thu được trong quá
trình tham gia vào dự án.
Kết quả 6.3. Kết quả khảo sát lần 2
Đã được thảo luận kỹ trong phần kết quả 5.1
Kết quả 6.4 Hình thành tập hợp vùng giống
Tập hợp vùng giống đã không thể làm được trong quá trình thực hiện dự án. Tuy nhiên, các
câu lạc bộ nông dân hiện nay sẽ hình thành nên hạt nhân của vùng giống – là một vấn đề rõ
ràng đảm bảo tính bền vững (phần 7). Sẽ rất là có giá trị đối với việc các nông dân sẽ quan sát
mô hình đã làm được tại các trại mô hình (thực nghiệm), các kiến thức và kỹ năng cũng đã
được chính những người nông dân phát triển thêm.
5.3. Các lợi ích của các hộ chăn nuôi nhỏ:
Các hộ chăn nuôi nhỏ chính là những người đã được nhận những sự hỗ trợ sau từ dự án:
• 50% trợ cấp cho giá mua và đưa các lợn hậu bị Móng Cái cao sản vào nuôi
• Trợ giúp, khuyến cáo và trợ cấp cho việc xây dựng mới các chuồng nuôi Móng Cái
hoặc sửa chữa các chuồng đang có để phù hợp với việc chăn nuôi lợn hậu bị Móng Cái
(khu nuôi lợn nái đang trong thời gian nghỉ, cải tiến chuồng đẻ và các khu úm, tăng
thông thoáng gió, các hệ thống sưởi ấm và làm mát, hạn chế gió lùa, khu chất thải tách
biệt, hệ thống làm sạch chuồng nuôi để đảm bảo khô ráo nền chuồng và vệ sinh sạch
sẽ.
• Tập huấn cơ bản về chăm sóc và quản lý lợn nái Móng cái và các lợn con được sinh ra
từ các đàn lai
• Các chuyên gia Australia và Việt Nam tiến hành tập huấn ngay tại các nông hộ về
chăm sóc và quản lý lợn Móng cái, bao gồm các lời khuyến cáo, trợ giúp và xác định
các vấn đề về bệnh tật trong các chuyến thăm trại định kỳ.
• Thiết kế, thực hiện, đóng và nhận các hộp ủ (1 hộp/hộ) với những thành công ngay tức
thì tại cả 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
• Rút ngắn lại câu hỏi điều tra nhằm giúp trại đánh giá, nhìn nhận lại các việc đã làm
thành công trong chương trình CIP tại các trại mô hình
• Cung cấp miễn phí vacxin E. coli sản xuất trong nước cho việc phòng bệnh tiêu chảy
do E. coli trước cai sữa.
• Giảng giải và trợ giúp trong việc xử lý đúng cách chất thải, cung cấp và sử dụng chế
phẩm EM nhằm tăng hiệu quả xử lý chất thải. Lắp đặt hệ thống biogas ở một số trại
được chọn lựa. Xây dựng bộ câu hỏi để xác định các trở ngại trong việc làm cho nhiều
hộ xây dựng hệ thống biogas. Giúp đỡ thêm các trại trong xây dựng mô hình chăn nuôi
kết hợp với ao thả cá.
• Khuyến cáo và hướng dẫn việc sử dụng đúng quy trình dùng vacxin, kháng sinh đối
với các bệnh đường hô hấp và tiêu chảy, thuốc điều trị ký sinh trùng
• Điều trị và thanh toán bệnh ghẻ
• Đưa vào áp dụng hệ thống theo dõi ghi chép số liệu đơn giản và chính xác
• Cách xác định nhiệt đố đúng của chuồng nuôi, phối giống nhân tạo một cách tối ưu,
lựa chọn hậu bị và phối giống
• Cách tận dụng các thức ăn có sẵn tại địa phương với giá rẻ
• Áp dụng quy trình an toàn sinh học đơn gian như đảm bảo thời gian theo dõi cách ly
các lợn mới nhập đàn, dùng vôi bột để khử trùng ở lối vào của cửa chuồng lợn, xử lý
chất thải đúng cách
• Hướng dẫn thành lầm các câu lạc bộ nông dân, từ đó sẽ hướng dẫn thêm cho các hộ
khác trong vùng
• Tiếp tục sáng kiến nông dân tập huấn lại cho nông dân thông qua việc xây dựng bộ đĩa
DVD
• Trên tất cả, là sự tự tin của chính nông hộ để có thể vay/mượn tiền trong câu lạc bộ để
mở rộng phát triển chăn nuôi và thu lợi khi sau khi dự án kết thúc
• Kết quả là, các nông hộ của dự án đã và đang tiến hành nuôi nhiều lợn nái hơn, và
đang có xu hướng tiếp tục mở rộng trong thời gian tới.
5.4. Khả năng về đào tạo
Tập huấn cho các cán bộ phía Việt Nam: chương trình tập huấn thành công với 8 cán bộ phía
Việt Nam về những nội dung rất thiết thực cho chăn nuôi lợn nông hộ đã đạt được những hiệu
quả chính về lĩnh vực đào tạo. Hầu hết các cán bộ này, trước đó có chuyên môn sâu riêng về
từng lĩnh vực, nhưng chưa có cơ hội để “hội tụ tất cả các kiến thức này với nhau”
Việc áp dụng mô hình cải tiến liên tục: Một vấn đề lớn trong các dự án trước đây là những
khó khăn trong việc đánh giá năng suất chăn nuôi và các tiển triển làm được qua thời gian. Vì
vậy, chúng tôi muốn tránh lặp lại tình trạng này trong dự án hiện tại, đồng thời cũng muốn
tránh cho các nhà khoa học Australia phải giảng giải lặp lại cùng một vấn đề, mà người nông
dân thì lại không muốn tiếp thu một cách đầy đủ. Kinh nghiệm của chúng tôi với dự án CARD
trước đó là có một số các nông hộ không muốn sẵn lòng tiến hành các thay đổi như chúng tôi
đã góp y và chúng tôi lại tiếp tục quan sát thấy cùng các khiếm khuyết đó trong các chuyến
công tác tiếp theo, như vấn đề về thông thoáng gió và làm mát chuồng nuôi. Mô hình này đã
được phát triển phù hợp với chương trình áp dụng tiến bộ liên tục và tập trung chủ yếu vào 3
lĩnh vực chính như sau:
Tạo hệ thống để có thể theo dõi các số liệu một cách chính xác. Thứ hai là tạo 1 trang web
trên cơ sở hệ thống theo dõi, cho phép các nhà khoa học Australia cũng có thể kiểm soát được
tình hình trước khi xảy ra thật trên thực tế. Ví dụ, như họ có thể đưa ra các góp ý và động viên
nhóm những người tham gia dự án phía Việt Nam bằng cách xem các bức ảnh chụp về các
tiến triển tại trại. Chúng tôi có thể đánh giá từ xa về khả năng của các cán bộ Việt Nam nhằm
nhận ra các trở ngại chính trong chăn nuôi. Chúng tôi có thể góp ý vị trí tốt nhất để xây dựng
chuồng nuôi mới nhằm tận dụng được những thuận lợi về các điều kiện thời tiết. Mục đích là
nhăm hợp lý hóa các chuyến công tác của chúng tôi, từ dó sẽ có nhiều thời gian hơn cho việc
lập kế hoạch và phát triển, hơn là nhắc lại và các chuyến thăm trại nhằm tìm hiểu ra mọi vấn
đề như đã được nhận ra ngay từ các lần thăm đầu tiên.
Tăng cường khả năng nghiên cứu: Dự án đã cung cấp máy ghi chép tự động các thông tin môi
trường, máy đo nhiệt độ laser và bộ mổ khám nhằm giúp cho việc xác định các nguyên nhân
gây bệnh, tỷ lệ chết ở từng trại riêng rẽ. Máy ghi chép tự động các thông tin, hiện vẫn đang
được sử dụng quanh năm trong dự án nhờ vào quy trình đã được Mr. Duyet xây dựng nên và
hỗ trợ bởi trường UQ nhằm kiểm soát các điều kiện về môi trường tại các trại thử nghiệm và
đối chứng trong vòng năm qua (sẽ hoàn thành vào 08/2010)
Việc thành lập các câu lạc bộ nông dân: Một sáng kiến đã được tiến hành ở Quảng Trị, đó là
việc thành lập một nhóm những người chủ trang trại có kinh nghiệm và kiến thức (3 nhóm
như vậy đã được thành lập ở các huyện Hai Phu và Hai Thuong) vào cuối tháng 10/2008, với
cuộc họp lần đầu tiên sẽ được diễn ra vào cuối tháng 11. Một số chủ trang trại có thể truyền
đạt lại cho những người khác về loại bệnh mà họ đã từng gặp và sau đó, có thể, nhờ sự hỗ trợ
của trạm thú y vùng để thu thập các mẫu từ các lợn bệnh cho các chẩn đoán trong phòng thí
nghiệm. Hội nông dân, sau đó đã được tập huấn về cách sử dụng sản phẩm EM với những
thành công nhất đinh. Hội nông dân, cũng có thể chủ động trong việc quảng bá các sản phẩm
của họ và tiếp tục giải quyết các vấn đề về tính bền vững (chẳng hạn như vấn đề nóng lên của
trái đất) và lợi nhuận thông qua việc bán lợn giống Móng Cái thuần chủng, và các các hệ
thống chăn nuôi xen kẽ, đa dạng.
Xây dựng bộ đĩa DVD cho mục đích tập huấn: Bộ đĩa DVD này đã cung cấp phương tiện tập
huấn lâu dài, đảm bảo cho tính bền vững của hệ thống các câu lạc bộ nông dân. Bộ đĩa DVD
chính là công cụ tuyệt vời cho việc tuyển thêm hoặc trang bị các kiến thức cơ bản cho các
nông hộ mới, nhưng một điều cũng phải nhận ra rằng nông dân sẽ rất nhanh học hỏi và tiến bộ
vượt xa các khái niệm cơ bản như được trình bày trong bộ đĩa. Tuy nhiên, nó cũng đã tạo ra
một dấn ấn thành công khi làm phim và có thể, đây sẽ là những tập đầu tiên trong một loạt các
bộ đĩa như vậy, với các đĩa xây dựng lần sau sẽ phức tạp dần hơn.
5.5 Việc công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
1) CARD Newsletter: Trong quá trình thực hiện dự án, 3 bài báo đã được nộp và được xuất
bản.
2) Các mẩu tin tại một vài trường về chương trình tập huấn đã được đăng tải trong thời gian
qua:
a) Trường Đại học Tổng hợp Queensland:
Câu chuyện được kể bởi một bác sĩ thú y và Gatton Lockyer Brisbane Valley Star
b) Trường Đại học Tổng hợp Sydney
3) Trường Đại học Tổng hợp Queensland đã tiến hành đăng tải một bài báo về các nghiên cứu
đã được Ms. Tarni Cooper thực hiện tại Việt Nam vào 2008/2009
(
4) Có tất cả 7 bài báo tường đã được các nhà khoa học Việt Nam trình bày tại Hội nghị Chăn
nuôi thú y Á – Úc tạo Hà Nội vào tháng 9 năm 2008.
5) Đại sứ Australia tại Việt Nam Mr Alastair Cox sẽ tham gia vào chuyến thăm và đánh giá
dự án vào tháng 4 năm 2010.
5.6 Quản lý dự án
Việc quản lý hoạt động của dự án được chia sẻ giữa 6 cơ quan tham gia: 3 tại Australia (UQ,
DPI, SARDI) và 3 ở Việt Nam (NIAH, HUAF, NIVR). HUAF chịu trách nhiệm trực tiếp cho
các chương trình được tiến hành tại Thừa Thiên Huế và tương tự như vậy cho NIAH ở tỉnh
Quảng Trị. NIVR chịu trách nhiệm trong việc cung cấp vacxin E. coli cho dự án và tiến hành
các giám sát về bệnh tật thông qua các chẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Các tỉnh này có vị
trí rất gần nhau nên cũng rất thuận lợi cho các nhà khoa học phía Australia va Việt Nam thực
hiện các đánh giá trong các cuộc kiểm tra. Người đại diện dự án ban đầu phía Việt Nam là TS.
Côi, sau đó đã tiến hành bàn giao cho TS. Duyên vào năm 2007, nhưng ông vẫn đóng vai trờ
tư vấn cho dự án.
6. Về một số vấn đề có liên quan
6.1 Môi trường
Quản lý chất thải: Nếu chăn nuôi lợn tăng gấp đôi ở Việt Nam do số lượng lợn nái tăng từ các
nông hộ nhỏ, vấn đề ô nhiễm môi trường cũng sẽ có thể là một vấn đề đáng lo ngại. Bởi vậy,
dự án đã tính toán đến việc này đảm bảo tính vền vững về mặt môi trường thông qua các hình
thức xen kẽ giữa sức khỏe vật nuôi, sản xuất thịt sạch và an toán, chuyển hóa an toàn chất thải
thành nguồn năng lượng có giá trị, có tác động tích cực đối với môi trừng, cũng như cải thiện
cuộc sống của người chăn nuôi, đồng thời đem lại các lợi ích kinh tế. Số nông hộ đưa vào xây
dựng và sử dụng hệ thống biogas ngày càng được mở rộng trong quá trình thực hiện dự án,
gas được dùng để nấu ăn và thắp sáng trong gia đình và cho chăn nuôi. Rất nhiều nông dân đã
tách riêng khu chất thài với chuồng nuôi lợn, có các đường thải riêng để có thể tập trung chất
thải một cách có hiệu quả (thường là tập trung vào bể biogas), và sẵn sàng chấp nhận cách ủ
phân với chế phẩm EM để có thể dùng làm phân bón, bởi vậy đã làm giảm đáng kể việc thải
chất thải vào các kênh, rạch ao hồ, giảm mùi hôi thối, ruồi muỗi và nguồn lây lan bệnh tật.
Một số các nông hộ cũng thành công trong việc xây dựng mô hình chăn nuôi kết hợp với ao
thả cá, bởi vậy cũng đã cải thiện được thu nhập một cách đáng kể.
An toàn sinh học: Các vấn đề về an toàn sinh học và cảnh bảo về bệnh tật nói chung đã được
giải quyết, sau khi dịch PRRS xảy ra vào năm 2008, làm cho người nông dân cảnh giác hơn
trong vấn đề phòng bệnh cho lợn. Rất nhiều nông dân đã tiến hành dùng vôi bột để ở lối ra
vào chuồng lợn. Một tình trạng nên tránh (nhưng cũng được quan sát thấy thường xuyên ở các
trại) là việc nuôi đồng thời gà với lợn do việc này sẽ làm tăng nguy cơ làm cho virus cúm trở
nên tái tổ hợp.
Việc sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh: Việc đưa vacxin E. coli của NIVR vào sử dụng
và các biện pháp phòng chống bệnh cầu trùng đã có tác dụng làm giảm rõ rệt việc sử dụng
kháng sinh để điều trị tiêu chảy (mà lựa chọn phổ biến nhất trong số các trại là enrofloxacin,
một loại kháng sinh hàng đầu thuuwongf được giữ để phòng các bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm ở các nước khác). Việc hướng dẫn sử dụng đúng và có chiến lược các loại thuốc, các
nhận thức về bệnh và cách điều trị, cùng với việc cải thiện các điều kiện chăn nuôi và vệ sinh
đã làm giảm đáng kể việc dùng cũng như dựa vào kháng sinh.
6.2 Các vấn đề về giới tính và xã hội
Điều thú vị là ở Thừa thiên Huế, phần lớn các trại được lựa chọn để nâng cấp đều do những
người phụ nữ làm chủ, trong khi ở Quảng trị thì tỷ lệ này lại nghiêng về phía đàn ông. Tuy
nhiên, không có một vấn đề về giới tính hay xã hội nào làm ảnh hưởng đến tiến trình của dự
án và việc thu nhận các kỹ năng và kiến thức là như nhau giữa 2 giới.
7. Một số vấn đề về tính thực thi và bền vững
7.1 Các khó khăn
1) Dịch bệnh FMD và PRRS vào năm 2008, cơn bão vào 2009: các yếu tố này đã gây ảnh
hưởng nghiêm trọng, gây ra sự thực hiện chậm trễ của dự án ở cả 2 tỉnh. PRRS đã gây
thiệt hại 30-40% số nái của dự án chuẩn bị đẻ ở Thừa Thiên Huế và cả 2 bệnh đã làm
cản trở tới việc đưa lợn Móng Cái vào nuôi tại Quảng Trị
2) Trong năm 2008, viêc áp dụng CIP đã không được thực hiện ở các trại như đã được dự
định trước đó do việc tập huấn cho các ký thuật viên thú y đã không thành công.
7.2 Giải pháp
1) Tiếp tục kéo dài các hoạt động của dự án 1 năm, cho tới tháng 4 năm 2010 để đảm bảo
chắc chắn cho các kết quả của dự án có thể đạt được theo các tiến độ đã đề ra trước đó
2) Dự án tập trung chủ yếu vào tập huấn từ nông dân các trại mô hình và câu lạc bộ nông
dân – những đối tượng sẽ được hưởng lợi ngay lập tức do việc tiếp thu nhanh các kiến
thức và kỹ năng. Việc xây dựng bộ đĩa DVD cũng có tác dụng làm mạnh mẽ và cải
thiện thêm các kết quả đạt được của dự án.
7.3 Tính bền vững
Các vấn đề chính về tính bền vững của dự án đã được giải quyết trong năm 2010:
1) Nông dân đồng ý chăn nuôi lợn lai F1 và bán vào lúc 8 tuần tuổi. Cho tới ngày hôm
này, các nông dân vẫn chưa sẵn lòng phối đàn thay thế của họ bằng tinh dịch của lợn
Móng cái thuần chủng. Điều này chủ yếu là do giá lợn đực Móng cái rất thấp. Có một
nguy cơ ở đây là nông dân sẽ mua các lợn nái để thay thế từ các đàn có chất lượng
kém nếu vẫn đề này không được quản lý một cách cẩn thận. Những người nông dân, vì
vậy, nên được hướng dẫn để tiến hành các bước tiếp theo, hình thành nên các hợp tác
xã giống (một vài thú y huyện đã thể hiện là rất quan tâm và nhiệt tình để trở thành
những người cung cấp đàn giống)
2) Mô hình các câu lạc bộ nông dân cần phải được động viên khích lệ để hoạt động một
cách chủ động. Bộ đĩa DVD là những bước đầu tiên làm nâng cao thu nhập của người
nông dân theo hướng tích cực. Tuy nhiên, những người nông dân cũng sẽ sớm thu
nhận được nhiều những kiến thức hơn, vượt ra khỏi khuôn khổ này. Một trong các
biện pháp làm duy trì tính bền vững này chính là việc tài trợ cho 1 cuộc hội thảo, ở đó
những người nông dân từ Huế sẽ đi thăm Quảng Trị và ngược lại nhằm giúp cho nông
dân có thể học hỏi lẫn nhau cho việc hình thành các câu lạc bộ trong tương lai.
3) Để có thể duy trì ngoài dự án hiện tại, vacxin E. coli phải được tiến hành đăng ký vào
cuối năm 2010, mà hiện nay vacxin này đã được chứng minh là an toàn và có hiệu lực.
8. Các bước quan trọng tiếp theo
1) Hồ sơ xin thêm tiền hoạt động cho dự án CARD đã được tiến hành nhằm duy trì các hoạt
động của dự án trong năm 2010.
2) Các kết quả của dự án này đã tạo ra các cơ sở cho việc nộp hồ sơ cho cho tổ chức Atlantic
Philanthropies để xin 1 dự án lớn hơn (khoảng ~ 5 triệu USD) để tiếp tục mô hình này ở các
tỉnh khác, hoặc có thể thực hiện cả ở Lào và Cambodia, trong đó sẽ tuyển dụng những người
nông dân thành những người hướng dẫn tập huấn.
9. Kết luận
Một kế hoạch chi tiết cho sự thành công của chăn nuôi lợn Móng cái ở các nông hộ thuộc các
tỉnh miền Trung Việt Nam đã được tạo dựng nên thông qua quan hệ hợp tác mới được phát
triển giữa 3 co quan nghiên cứu của Việt Nam với các đối tác là các cơ quan nghiên cứu phía
Australia.Các cán bộ phía Việt Nam đã được tập huấn về một chương trình thiết thực, áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật được lựa chọn từ chính các khảo sát để nâng cấp và cải tiến tất cả các khía
cạnh của chăn nuôi lợn, sau khi tiến hành đưa đàn giống đã được cải tiến vào nuôi. Các nông
hộ chăn nuôi trực tiếp quản lý các trại mô hình, bây giờ đã có thể ghi chép, theo dõi một cách
chính xác năng suất chăn nuôi, tương tự như các quy trình đang được thực hiện tại các trại
chăn nuôi quy mô khác trên thế giới, thực hành quy trình xử lý chất thải như một loại chế
phẩm tận dụng, cải thiện cuộc sống của họ và có những khát vọng cho tương lai. Dự án đã để
lại một sự thừa kế mạnh mẽ và nên được phát triển tiếp tục phát triển thông qua hệ thống
mạng lưới các câu lạc bộ nông dân và tạo ra các cơ hội tốt hơn cho nông dân, làm cho họ có
thể tham gia vào các chương trình tập huấn. Ngòa ra, dự án cũng tạo thành một mô hình cho
mối hợp tác thành công trong tương lai giữa các cơ quan nghiên cứu đa dạng khác nhau ở Việt
Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MS 13_Bao cao ket thuc du an.pdf