Tài liệu Báo cáo Những nội dung cơ bản về tổ chức tài chính phi ngân hàng: LỜI MỞ ĐẦU
Tuy ngân hàng là một tổ chức tài chính mà chúng ta vẫn thường hay giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm để phòng cho các rủi ro có thể đến với bạn hoặc vay tiền của một công ty tài chính để làm ăn hay mua cổ phiếu qua sự giúp đỡ của các nhà môi giới. Chính trong những giao dịch ấy bạn đang làm việc với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay – những người tiết kiệm tới những người vay - những người chi tiêu giống như một ngân hàng. Việc có mặt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng góp phần làm phong phú thêm hình thức trung gian tài chính, tạo thêm nhiều cơ hội cho người muốn cho vay và người muốn vay hoàn thành mục đích của mình. Và chúng cũng thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.
Những nội dung cơ bản về các tổ chức tài ch...
18 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Những nội dung cơ bản về tổ chức tài chính phi ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tuy ngân hàng là một tổ chức tài chính mà chúng ta vẫn thường hay giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm để phòng cho các rủi ro có thể đến với bạn hoặc vay tiền của một công ty tài chính để làm ăn hay mua cổ phiếu qua sự giúp đỡ của các nhà môi giới. Chính trong những giao dịch ấy bạn đang làm việc với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay – những người tiết kiệm tới những người vay - những người chi tiêu giống như một ngân hàng. Việc có mặt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng góp phần làm phong phú thêm hình thức trung gian tài chính, tạo thêm nhiều cơ hội cho người muốn cho vay và người muốn vay hoàn thành mục đích của mình. Và chúng cũng thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.
Những nội dung cơ bản về các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã được tổng hợp và chắt lọc qua các nguồn tài liệu và quá trình học, sẽ được trình bày trong bài báo cáo. Đồng thời bài báo cáo sẽ điểm lại vài vét về thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, những khó khăn và thành công cũng như tác động của chúng đến sự phát triển nền kinh tế cùng với sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
Bài báo cáo không thể tránh khỏi những sai sót và thiếu toàn diện. Vì vậy kính mong cô giáo và các bạn tạo điều kiện chỉnh sửa và bổ sung để bài báo cáo được hoàn thiện hơn.
I – NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
Khái niệm
Tổ chức tài chính phi ngân hàng trước hết ở ngay tên gọi của nó ta cũng thấy được rằng đó là các tổ chức tài chính nhưng ko phải là các ngân hàng. Đó là các loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kì hạn, không được làm dịch vụ thanh toán. Đó chính là điểm khác biệt của các chúng với ngân hàng
2- Vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
- Tập trung những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ lẻ của các cá nhân và gia đình để các tổ chức tín dụng cho vay và đầu tư vào quá trình sản xuất, kinh doanh cũng như đầu tư vào thị trường tài chính.
- Tạo cơ hội sinh lời cho cá nhân. Nhờ các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các cơ hội đầu tư cho các cá nhân tăng lên. Nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai phía nhờ tính qui mô, sự phân tán rủi ro và đa dạng hoá các danh mục đầu tư.
- Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng, tăng cường áp lực cạnh tranh với các ngân hàng thương mại, làm cho chất lượng dịch vụ phục vụ ngày càng được cải thiện, tạo ra nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng.
- Đáp ứng nhu cầu khác nhau của cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư tài chính. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là nơi giúp bảo vệ khoản đầu tư và phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư trong xã hội.
Các loại hình tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay:
a/ Các công ty tài chính:
Các công ty tài chính được hiểu là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, là các hội thương mại mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là:
Thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái khoán, không nhận tiền gửi của dân chúng và các tổ chức kinh tế.
Cho vay các món tiền nhỏ đặc biệt thích hợp với nhu cấu của các doanh nghiệp nhỏ và người tiêu dùng.
Cho vay chủ yếu và dài hạn.
Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua.
Cầm cố các loại hàng hóa , vật tư, ngoại tệ. Các giấy tờ có giá và dụng cụ bảo đảm khác.
Tư vấn và Marketing, giám định các công việc chuẩn bị để kí hợp đồng hoặc thành lập các công ty liên doanh.
Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật được Nhà nước ưu tiên.
Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quí, mua bán, chuyển nhượng, chứng khoán.
Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh.
Quy trình trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể mô tả bằng cách nói rằng, họ vay những món tiền lớn, trung, dài hạn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ - một quá trình hoàn toàn khác với quá trình của những ngân hàng thương mại, các ngân hàng này phát hành các món tiền gửi với số lượng tiền nhỏ và sau đó thường cho vay với món tiền lớn.
Công ty tài chính có những nét khác biệt so với ngân hàng thương mại ở chỗ:
+ Các công ty tài chính không nhận tiền gửi của dân chúng của các tổ chức kinh tế xã hội … với thời hạn và dưới hình thức mở tài khoản. Để tạo nguồn vốn bổ sung cho hoạt động của mình, các công ty tài chính được vay dưới hình thức phát hành các phiếu nợ dài hạn.
+ Các công ty tài chính không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.
+ Một điểm khác biệt then chốt của các công ty tài chính so với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết kiệm là ở chỗ họ gần như ko bị điều hành chặt bởi Chính phủ. Chính phủ chỉ điều hành số tiền cực đại mà các công ty tài chính có thể các cá nhân người tiêu dùng vay và kì hạn của hợp đồng nợ, nhưng không có hạn chế nào về mở chi nhánh, về những tài sản có mà họ nắm giữ và sự thu nhận vốn của các công ty tài chính. Việc không can thiệp và điều hành chặt chẽ của Chính phủ giúp cho các công ty tài chính có thể phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng hơn là các ngân hàng.
Thông thường, ở các nước công ty, tập đoàn kinh doanh khi đã phát triển đủ lớn mạnh thường hình thành cho mình một công ty tài chính.
b/ Các công ty bảo hiểm:
Bảo hiểm thực chất là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người bảo hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua phí bảo hiểm.
Vì vậy các công ty bảo hiểm tương tự như các ngân hàng, thực hiện kinh doanh trung gian tài chính chuyển một dạng từ tài sản này thành một dạng khác cho công chúng. Tuy nhiên nếu các NHTM thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kì hạn, sau đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay và đầu tư thì các công ty bảo hiểm thực hiện trung gian tài chính bằng cách sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản như trái khoán, cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác ít rủi ro, rồi từ những tài sản có này được dùng để thanh toán cho những rủi ro đòi được bồi thường theo hợp đồng đã bán.
Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đóng vai trò tích cực đến việc ổn định nền kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Việc giải quyết bồi thường tốt giúp các doanh nghiệp và người dân ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo môi trường đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội.
c/ Các công ty chứng khoán:
Các công ty chứng khoán là một tổ chức ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các nghiệp vụ chủ yếu sau:
Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Mua bán chứng khoán bằn nguồn vốn của chính mình để hưởng chênh lệch giá.
Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát hành.
Tư vấn đầu tư và quản lí quỹ đầu tư.
Công ty chứng khoán đóng vai trò then chốt cho hoạt động của cả thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp. Trên thị trường sơ cấp thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và đại lí phân phối chứng khoán công ty chứng khoán tạo điều kiện huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nói riêng và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Trên thị trường thứ cấp, hoạt động của các công ty chứng khoán giúp tăng cường hoạt động của thị trường, nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán được phép giao dịch trên thị trường, là động lực thúc đẩy hoạt động trên thị trường sơ cấp.
d/ Công ty quản lí quỹ đầu tư: là một tổ chức chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ tổ chức, quản lí, điều hành quản lí các Quỹ đầu tư chứng khoán và có tư cách pháp nhân,có giấy phép hành nghề do UBCKNN cấp.
e/ Các quỹ đầu tư chứng khoán là tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, được hình thành bằng sự góp vốn của một tập hợp các nhà đầu tư riêng lẻ, qũy này sẽ được các nhà quản lí đầu tư chuyên nghiệp, đại diện cho các nhà đầu tư, thực hiện những khoản đầu tư vào chứng khoán với một tỉ lệ nhất định trong tổng giá trị tài sản của quỹ(ở VN là 60%), mang lại lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp nhất có thể nhờ sự đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Ngoài ra còn có những loại hình như : Tập đoàn tài chính tái bảo hiểm, Quỹ trợ cấp, các quỹ tương trợ nhưng những loại hình đó không mấy phát triển ở Việt Nam.
II – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
Trong bài báo cáo này tôi chỉ xin đi sâu vào hoạt động của 3 loại hình chính của tổ chức tài chính phi ngân hàng đó là: các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm và các công ty chứng khoán.
1- Các công ty tài chính
Các công ty tài chính đa phần ra đời trong phạm vi nội bộ ngành, gắn liền với các Tổng Công ty. Tuy những dịch vụ mà các công ty tài chính đang thực hiện đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của tổng công ty và các đơn vị thành viên, nhưng để đáp ứng nhu cầu bên ngoài thị trường thì công ty tài chính vẫn đứng ở vị trí thứ yếu và chưa thể cạnh tranh được so với các tổ chức tài chính khác.
Những chao đảo của nền kinh tế vĩ mô và những cơn lốc của thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam từ cuối năm 2007, đặc biệt những tháng đầu năm 2008, đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các tổ chức tài chính ngân hàng trong đó có các công ty tài chính (CTTC),
Tính đến hết tháng 7 năm 2008, tại Việt Nam đã có 15 CTTC được cấp phép trong đó có 02 CTTC 100% vốn nước ngoài. Những CTTC tại Việt Nam đầu tiên được ra đời vào năm 1998 và đều trực thuộc các Tổng Công ty 91 (một số hiện nay là các Tập đoàn) như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Cao su Việt Nam, Tập đoàn Than - Khoáng sản, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ, Tập đoàn Dệt may Việt Nam…
Dễ nhận thấy rằng 2008 là một năm hoạt động đầy khó khăn của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính nói chung và các CTTC nói riêng. Nhiều CTTC có kết quả lợi nhuận âm, không thể hoàn thành kế hoạch đặt ra nhưng các công ty không tiết lộ con số chính xác. Thực tế, nhiều CTTC đã xin điều chỉnh kế hoạch. Sự khó khăn, lúng túng trong các quyết định của các CTTC đã thể hiện rõ khi mà tiềm lực, trình độ và kinh nghiệm của các CTTC không thể so sánh với các NHTM. Trong điều kiện đó, nếu không có sự trợ giúp từ phía các tập đoàn/tổng công ty mẹ thì chắn chắn nhiều CTTC đã đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Có thể tổng hợp bức tranh về hoạt động của các CTTC trong nước vào 03 nhóm chính:
Thứ nhất, hoạt động huy động vốn.
Các CTTC thực hiện chức năng thu xếp vốn cho nội bộ tập đoàn/tổng công ty và cho chính hoạt động của mình. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu huy động vốn của các công ty mẹ rất khác nhau xuất phát từ mục tiêu, chiến lược đầu tư mở rộng quy mô cũng như sự gắn kết trong suy nghĩ và hành động giữa mẹ và con. Điều đó dẫn đến có những CTTC thực hiện khá mạnh hoạt động này nhưng cũng có CTTC lại đóng vai trò rất mờ nhạt.
Còn đối với việc huy động vốn phục vụ các hoạt động của chính các CTTC, theo khảo sát, việc huy động của các CTTC chưa tương xứng với khả năng của họ. Với tổng vốn điều lệ khoảng 14 nghìn tỷ đồng và bằng việc thực hiện các tỷ lệ an toàn vốn, các CTTC có thể huy động được khối lượng vốn gấp nhiều lần như vậy. Tuy nhiên, một thống kê không chính thức cho thấy, tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức phi tài chính, tính đến hết tháng 8/2007 (từ chủ yếu 9 CTTC lớn nhất nước), chỉ đạt xấp xỉ trên 3 nghìn tỉ đồng. Nhưng điều đáng nói là tổng dư nợ cho vay của khối tín dụng này lại đạt trên 10 nghìn tỉ đồng. Khoản chênh lệch đó các CTTC đi vay từ các NHTM.
Khó khăn của nền kinh tế vĩ mô đã ảnh hưởng rất rõ rệt đến hoạt động của phần lớn các doanh nghiệp. Các tập đoàn/tổng công ty vì thế hoặc không có nguồn tiền vào hoặc có nhu cầu phải sử dụng nguồn vốn dự trữ nên việc gửi tiền hoặc uỷ thác quản lý vốn cho các CTTC kinh doanh đều hạn chế. Trong khi đó, với hạn chế về giấy phép hoạt động, việc thu hút nguồn tiền gửi và vốn đầu tư từ trong dân và các nguồn đầu tư khác ngày càng giảm, đặc biệt là năm 2008 do những cuộc đua về lãi suất, do khách hàng không ưa thích tính kém linh hoạt của việc rút vốn từ CTTC.
Thứ hai, hoạt động cho vay, bảo lãnh và cầm cố chứng khoán.
Những tháng đầu năm 2008, hoạt động tín dụng đối với các CTTC khó khăn về cả về đầu vào lẫn đầu ra. Khó khăn đầu tiên chính là mức lãi suất chung toàn thị trường ở mức cao, biến động nhanh và mạnh trong năm nay sẽ tác động tới lãi suất đầu ra của các CTTC, khiến chúng trở nên kém hấp dẫn đối với đối tượng khách hàng thực sự tính toán cho hiệu quả đi vay. Những tác động này khiến kết quả hoạt động cho vay 06 tháng đầu năm của nhiều CTTC chỉ bằng khoảng 1/3 kế hoạch do thực hiện chiến lược an toàn tín dụng.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu, do thực trạng trình độ cán bộ thẩm định dự án của các CTTC chưa tốt nên đã phát sinh nhiều khoản cho vay chưa thực sự hợp lý. Đây cũng là những rủi ro tiềm tàng với các CTTC, bởi những khoản vay này thường có giá trị lớn.
Thứ ba, hoạt động góp vốn mua cổ phần và hoạt động đầu tư nói chung.
Năm 2007, với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, nhiều CTTC lại quay trở lại đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, đầu tư tài chính dài hạn... Tuy không phải định hướng quan trọng nhất nhưng thực tế thời gian qua nhiều CTTC đã kỳ vọng quá nhiều và giải ngân rất lớn vào các khoản đầu tư này.
Các CTTC mặc dù ra đời sau nhưng có lợi thế không nhỏ so với các ngân hàng thương mại (NHTM) hiện nay. Họ không phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ cần trích lập quỹ dự phòng rủi ro và duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn theo quy định; có thể khai thác nguồn vốn uỷ thác giá rẻ, đặc biệt là vốn huy động từ phát hành trái phiếu chính phủ cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước; được khuyến khích cho vay nội bộ; cơ chế linh hoạt và khách hàng nhỏ dễ tiếp cận hơn. Bên cạnh đó, họ cũng có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhờ vào uy tín tập đoàn/tổng công ty, đây có thể là mục tiêu gần nhất của các tập đoàn/tổng công ty, với các tập đoàn lớn mạnh càng cần có tổ chức tài chính riêng.
Tuy vậy, các CTTC cũng gặp phải một số hạn chế trong hoạt động tài chính so với các NHTM. Hạn chế lớn nhất là theo quy định pháp lý, CTTC không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán (không được mở hệ thống tài khoản cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp), không được huy động tiền gửi dưới 01 năm. Ngoài ra, ở nước ta, hệ thống ngân hàng vẫn thường được coi là nhà huy động vốn chuyên nghiệp, có lợi thế thâu tóm những nguồn tiền gửi nhỏ lẻ (tất nhiên là có cả những nguồn tiền lớn), nhiều kỳ hạn linh hoạt để cho vay những món lớn, các doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, các CTTC (nhất là các CTTC thuộc tập đoàn/tổng công ty) lại đi vay những khoản tiền lớn từ công ty mẹ, từ nguồn vốn uỷ thác, từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu… để cho vay và đầu tư rất nhiều những khoản nhỏ lẻ, có lựa chọn, thậm chí là hiểu biết khá rõ về đối tượng cho vay, đầu tư do phần khá lớn là nội bộ. Bản thân các CTTC chiếm vị trí khiêm tốn hơn nên người tiết kiệm và các nhà đầu tư thường xem mức độ rủi ro của đối tượng này cao hơn các ngân hàng.
2/Các công ty bảo hiểm.
Trong bối cảnh bất lợi của kinh tế thế giới, GDP của Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức 6.23%,tuy thấp hơn so với năm 2007 nhưng vẫn tạo ra những nhân tố ảnh hưởng tích cực đối với sự tăng trưởng của thị trường bảo hiểm. Dưới đây là một số nhận định tổng quan về thị trường bảo hiểm Việt nam trong năm 2008.
Trong năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục được mở rộng và phát triển với sự ra đời của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, môi giới, bao gồm cả doanh nghiệp trong và nước ngoài. Tổng số doanh nghiệp được cấp phép họat động trên thị trường hiện nay đã lên tới 27 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 10 công ty môi giới và 1 công ty tái bảo hiểm (Vinare). Một số doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời với sự tham gia góp vốn của các tổng công ty, doanh nghiệp lớn trong nước như Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng không, Bảo hiểm Than Khoáng sản…
Tăng trưởng doanh thu của thị trường vẫn duy trì ở mức cao. Năm 2007, doanh thu BH đạt 17.846 tỉ đồng, chiếm 2,11% GDP, trong đó nhân thọ(NT)đạt 9.486 tỉ đồng, phi nhân thọ(PNT) đạt 8.360 tỉ đồng.Năm 2008 toàn ngành bảo hiểm đạt doanh thu trên 27.000 tỉ đồngbằng 2,2% GDP, Bảo hiểm nhân thọ đạt 10.339 tỉ đồng tăng 9,3%, Bảo hiểm phi nhân thọ đạt 10.855 tỉ đồng tăng 31,2%, tái bảo hiểm (VNR) đạt 1.050 tỉ đồng, doanh thu từ hoạt động đầu tư 5.700 tỉ đồng. Đầu tư vào nền kinh tế trên 57.000 tỉ đồng (kể cả Vinare)Đặc biệt, BH PNT đã về đích trước hạn trong việc thực hiện chỉ tiêu chiến lược phát triển ngành BH giai đoạn 2003 – 2010 đề ra là 9.000 tỉ đồng. Tốc độ tăng trưởng BH PNT bình quân 15 năm qua đạt 2%/năm, BH NT thí điểm từ năm 1996, chính thức triển khai từ cuối năm 1999 cũng đạt tăng trưởng bình quân 1999 – 2008 là 20%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng cao, mang sức hấp dẫn lớn đối với các công ty BH nước ngoài muốn đầu tư vào VN.
Doanh nghiệp BH
Thị trường BH phi nhân thọ
Xe cơ giới
Kĩ thuật
Con người
Thân tàu
HH vận chuyển
Cháy nổ
Tổng
Bảo Việt
956 tỉ đồng
391 tỉ đồng
780 tỉ đồng
384 tỉ đồng
267 tỉđồng
140 tỉ đồng
3.305 tỉ đồng
Bảo Minh
562 tỉ đồng
325 tỉ đồng
211 tỉ đồng
135 tỉ đồng
243 tỉ đồng
1.886 tỉ đồng
PVI
954 tỉ đồng
408 tỉ đồng
2.015 tỉ đồng
PJICO
507 tỉ đồng.
101 tỉ đồng
137 tỉ đồng
Tổng
3.109 tỉ đồng
2.406 tỉ đồng
1.597 tỉ đồng
1.245 tỉ đồng
955 tỉ đồng
690 tỉ đồng
10.855 tỉ đồng
So với 2007
Tăng 22,3%
Tăng 24,7%
Tăng 32,5%
Tăng 57,5%
Tăng36,8%
Tăng 24%
Tăng 31,2%,
Với thị trường BH nhân thọ:
Doanh nghiệp BH
DT phí BH
SL đại lí
Bảo Việt
3.425 tỉ đồng
15.535
AIG Life
8.998
Prudential
4.270 tỉ đồng
25.594
Năng lực tài chính của các DNBH tăng mạnh. Năm 1993, ngành BH có vốn chủ sở hữu 145 tỉ đồng, dự phòng nghiệp vụ 188 tỉ đồng, đến nay, vốn chủ sở hữu đã lên tới trên 17.500 tỉ đồng, dự phòng nghiệp vụ lên tới 35.485 tỉ đồng.
Loại hình BH và tên DNBH
Vốn chủ sở hữu
Dự phòng nghiệp vụ
Khối BH PNT
10.676 tỉ đồng
5.611 tỉ đồng
Khối BH NT
6.824 tỉ đồng
34.446 tỉ đồng
DNBH Bảo Minh
2.067 tỉ đồng
635 tỉ đồng
DNBH Bảo Việt
1.005 tỉ đồng
1.895 tỉ đồng
DNBH PVI
1.754 tỉ đồng
Vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ tăng mạnh đã làm cho năng lực BH của từng DNBH nâng lên rõ rệt, tăng khả năng nhận tái BH trong nước và giảm dần phần tái bảo hiểm nước ngoài
Đầu tư vào nền kinh tế quốc dân của các DNBH tăng mạnh. Năm 1993, đầu tư vào nền kinh tế quốc dân mới ở mức 300 tỉ đồng. Năm 2008, đầu tư vào nền kinh tế quốc dân ước đạt 50.896 tỉ đồng, trong đó, BH NT là 36.012 tỉ đồng, BH PNT là 14.884 tỉ đồng. Các khoản đầu tư của DNBH đều đảm bảo an toàn, hiệu quả, chủ yếu là đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng và các khoản đầu tư có đảm bảo. Tiền lãi đầu tư đã tạo điều kiện cho các DNBH trả bảo tức ngày một tốt hơn cho khách hàng, một phần để bù đắp chi phí hoạt động, một phần đem lại cổ tức cho các cổ đông. Các khoản đầu tư của DNBH là nguồn vốn trung và dài hạn cho các công trình, các dự án phát triển nền kinh tế xã hội. Năm 1993, ngành BH nộp ngân sách nhà nước 68 tỉ đồng, năm 2008, ước đạt 450 tỉ đồng. Ngoài ra, ngành BH tạo nguồn thu thuế VAT gần 1.000 tỉ đồng, thuế thu nhập cá nhân của nhân viên và đại lý BH gần 1.000 tỉ đồng
Một số sản phẩm mới ra đời đã phần nào đáp ứng các nhu cầu của khách hàng như các sản phẩm chăm sóc sức khỏe cao cấp với mức trách nhiệm cao góp phần thúc đẩy nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức có mức thu nhập trung bình trở lên. Tuy nhiên so với nhu cầu của các doanh nghiệp và cá nhân, các sản phẩm vẫn còn thiếu tính đa dạng, phong phú. Một số sản phẩm mới vẫn còn chưa phát huy mạnh mẽ như bảo hiểm tín dụng, rủi ro chính trị, bảo hiểm trách nhiệm người lãnh đạo...
Các kênh phân phối sản phẩm được đa dạng hóa như các kênh bán hàng thông qua đại lý, môi giới, ngân hàng, bưu điện, nhân viên thu ngân. Bước đầu đã hình thành một số kênh phân phối sản phẩm trực tuyến đáp ứng được nhu cầu thuận tiện trong việc bán và dịch vụ sau bán hàng.
Một số văn bản pháp luật ra đời đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy và minh bạch hoạt động kinh doanh bảo hiểm như Nghị định 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, cùng với Thông tư hướng dẫn thực hiện số 126/2008/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 22/12/2008.
Do tính chất cạnh tranh khốc liệt nên hiện tượng giảm giá dành dich vụ,mở rộng điều kiện bảo hiểm diễn ra phổ biến khiến các công ty phải đối mặt với mức độ rủi ro cao, doanh thu không bù đắp đủ chi phí. Cùng với việc tụt dốc của thị trường chứng khoán, bất động sản và đầu tư khiến nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức thua lỗ tổng cộng của các doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ lên tới 163 tỷ đồng, trong đó có cả các doanh nghiệp hoạt động lâu năm cũng như một số các công ty mới đi vào hoạt động.
Nguồn nhân lực trên thị trường thực sự trở thành vấn đề bức thiết khi các cán bộ có kinh nghiệm lâu năm, được đào tạo bài bản không đủ đáp ứng so với nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm mới.
Chế độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh BH ngày càng hoàn thiện. Luật kinh doanh BH được ban hành năm 2000, NĐ 42, NĐ 43, TT 71, TT 72 được ban hành tháng 8 năm 2001 đến nay được sửa đổi, bổ sung thành NĐ 45, NĐ 46, TT 155, TT 156 ban hành năm 2007 hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh BH ví dụ:.
- NĐ 103 về BHBB TNDS chủ XCG
- NĐ 130 BH Cháy nổ bắt buộc
- NĐ 125 về BHBB TNDS trong kinh doanh vận tải thủy nội địa
- NĐ 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh BH
- QĐ 153 – BTC về chỉ tiêu giám sát tài chính DNBH
- QĐ 175/TTg về chiến lược phát triển thị trường BHVN,….
Những văn bản pháp quy nói trên là cơ sở pháp lý để ngành BH phát triển. Ngoài ra Vụ Quản lý Bảo hiểm Bộ Tài chính chính thức trở thành Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm. Đây là một minh chứng cho thấy sự quan tâm của chính phủ trong vai trò quản lý nhà nước nhằm mục tiêu củng cố và thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Chế độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh BH thể hiện sự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng, của DNBH, phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của DNBH, xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm.
3/ Các công ty Chứng khoán
Trong thời gian trước khủng hoảng, cùng với sự phát triển không ngừng về quy mô của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán (CtyCK). Sự trưởng thành của các CtyCK Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và chất lượng cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Tăng trưởng về số lượng và quy mô của các CtyCK
Tính đến 30/8/2007, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Mặc dù số lượng CtyCK đi vào hoạt động từ năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 của nhiều CtyCK vẫn khá tốt, điển hình là các CtyCK đã có thời gian hoạt động lâu như
- CtyCK Sài Gòn (SSI) - lợi nhuận sau thuế đạt 668,5 tỷ đồng,
- CtyCK ACB (ACBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 141 tỷ đồng,
- CtyCK Bảo Việt (BVSC) - lợi nhuận sau thuế đạt 156,8 tỷ đồng...
Và một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động như:
- CtyCK Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (SBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 125,2 tỷ đồng
- CtyCK Đại Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 39,4 tỷ đồng,
- CtyCK Quốc Tế Việt Nam - lợi nhuận sau thuế đạt 23,7 tỷ đồng.
Trong quá trình hoạt động, các CtyCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CtyCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trong 6 tháng đầu năm 2007, 4 CtyCK gồm Sao Việt (tăng từ 20 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng), CtyCK An Bình – ABS (tăng từ 50 tỷ đồng lên 330 tỷ đồng), CtyCK Hà Thành (tăng từ 18 tỷ đồng lên 60 tỷ đồng), CtyCK Kim Long (tăng từ 18 tỷ đồng lên 315 tỷ đồng).
Nâng cao chất lượng hoạt động
Về hoạt động môi giới
Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những CtyCK đã có bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như:
VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường;
BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%;
CtyCK Sài Gòn (SSI) có 26.746 tài khoản, chiếm 10,48%;
CtyCK Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%.
Bên cạnh đó, một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như
SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần,
ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần,
CtyCK Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2.04% thị phần...
Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các CtyCK đạt 25.196 tỷ đồng. Những CtyCK có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số là những công ty đã có nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản (xem bảng dưới đây).
Công ty chứng khoán
Doanh số GD tháng 6/2007
Thị phần GD tháng 6/2007
VCBS
6.362,5
25,25%
ACBS
3.361
13,34%
SSI
3.253
12,91%
BVSC
2.182
8,66%
BSC
1.313
5,21%
Đơn vị: tỷ đồng
Về hoạt động tự doanh
Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao.
Đối với khối CtyCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CtyCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu:
Ví du: CtyCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng),
CtyCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng)
CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng). Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây).
Công ty
Khối lượng bảo lãnh
Giá bảo lãnh (đồng)
Vốn chủ sở hữu của CtyCK (tỷ đồng)
Hình thức bảo lãnh
Số hợp đồng bảo lãnh
Giá trị bảo lãnh (triệu đồng)
BVSC
5.314
33.500
150
Chắc chắn
1
178
ACBS
880.000
67.000
250
Chắc chắn
1
58.960
Cty CK Thăng Long
108.758
451.000
120
Chắc chắn
2
49.050
Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này.
Hoạt động tư vấn
- Tư vấn đầu tư chứng khoánMảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CtyCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng.
- Tư vấn niêm yếtTổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CtyCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007)
- Tư vấn khácTổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần.
Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CtyCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt.
Phải nói một điều rằng trước khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra hoạt động của các công ty chứng khoán là tương đối tốt nhưng khi đối mặt với cơn bão khủng hoảng tài chính thì các công ty chứng khoán là nơi đứng mũi chịu sào. Các công ty này bị ảnh hưởng nhiều nhất từ sự suy thoái và đi xuống của thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Hầu hết các CtyCK đều có lợi nhuận năm 2008 âm. Tính đến 11/2, mới có Công ty Chứng
khoán Bảo Việt (BVS) và Kim Long (KLS) cùng tại HaSTC công bố lợi nhuận và cả hai đều báo lỗ năm lần lượt 453 và 347 tỷ đồng
Bất ngờ nhất có lẽ là khoản lỗ lên tới 554 tỷ đồng của CTCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC). Với khoản lỗ này, BSC chỉ còn vỏn vẹn 274 tỷ đồng vốn chủ sở hữu, trong khi vốn điều lệ của công ty này là 700 tỷ đồng (vào thời điểm cuối năm 2008, tổng các khoản trích lập dự phòng giảm giá của BSC là gần 633,5 tỷ đồng). Tuy nhiên, tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ của BSC chỉ là 79,16%, không phải là mức thua lỗ lớn nhất. Xét theo tiêu chí này, kỷ lục tạm thời thuộc về CTCK Bảo Việt (BVSC). Với khoản lỗ 452 tỷ đồng trên vốn điều lệ 451 tỷ đồng, tương đương 100,2% vốn điều lệ, BVSC đã khiến khá nhiều NĐT bất ngờ. Dù vậy, do vốn chủ sở hữu lớn có được từ thặng dư phát hành và tích lũy các năm trước, BVSC vẫn duy trì mức vốn chủ sở hữu lớn, lên tới 1.067,57 tỷ đồng. Một số CTCK khác cũng có tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ lớn như: Kim Long, Âu Việt, Hải Phòng… Phân tích sơ bộ BCTC năm 2008 tóm tắt cho thấy, các CTCK thua lỗ chủ yếu do hoạt động tự doanh. BVSC phải trích lập các khoản đầu tư lên tới hơn 445 tỷ đồng, VNDirect trích 105,8 tỷ đồng, CTCK Hải Phòng trích 87,7 tỷ đồng…
Tham khảo bảng tổng hợp tài chính của một số công ty chứng khoán:
Nguồn: Tổng hợp từ HASTC, cập nhật hết ngày 3/4/2009. Đơn vị: tỷ đồng
Trước tình hình đó một số công ty chứng khoán đã không trụ vững được trên thị trường. Mới đây nhất, hai CTCK là CP Chứng khoán SeABank (SeABS) và TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, vốn được xem là những công ty mạnh khi có ngân hàng mẹ đằng sau hỗ trợ, nhưng vẫn không tăng đủ vốn lên trên 300 tỷ để được hoạt động đầy đủ bốn nghiệp vụ và chấp nhận bị rút bớt nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Thậm chí, mới đây CTCK như Gia Anh (được thành lập từ tháng 12/2006) còn đăng tải trên báo chí cần bán đến 80% vốn điều lệ. Công ty này cho biết, họ thành lập nhưng chưa hoạt động gì mới chỉ đầu tư tài sản cố định khoảng 4 tỷ đồng. Một số đối tác đã đầu tư vào các CTCK nay cũng muốn rút lui, như Indochina Capital mới đây chuyển nhượng cho đối tác khác phần đầu tư vào CTCK Mekong.
III - GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN
Các giải pháp phát triển tổ chức tài chính phi ngân hàng ở nước ta trước hết nhấn mạnh tới các điều kiện chung nâng cao nâng lực cạnh tranh của dịch vụ tài chính phi ngân hàng. Cần xóa bỏ dần các rào cản đối với việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính, tự do hóa giá cả trong điều kiện hội nhập toàn cầu, phát huy thế chủ động cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp cũng như nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, ngoài việc nới lỏng các quy định, chính sách quản lý nên hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức này. Để tạo đầu ra cho các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, cần thúc đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, phát triển việc thành lập các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ, đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu, khuyến khích tham gia thị trường chứng khoán. Những giải pháp cụ thể được đề xuất tùy vào đặc thù của các loại hình tổ chức tài chính phi ngân hàng. Đa phần vẫn là các giải pháp về quản trị và tháo gỡ vướng mắc trong khung pháp lý.
1. Đối với các công ty tài chính
Trước hết, cần tăng cường vai trò giám sát thị trường của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của các CTTC để có biện pháp cảnh báo, can thiệp kịp thời đối với các nguy cơ rủi ro. Các cơ quan quản lý cũng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động của các CTTC để đảm bảo các công ty này cùng với các NHTM tạo nên một thị trường tài chính ổn định.
Còn các tập đoàn/tổng công ty, với vai trò là các công ty mẹ, là đơn vị chủ quản cần có những định hướng và chiến lược phát triển rõ ràng ngay từ khi quyết định thành lập CTTC trực thuộc. Trong thời điểm hiện nay, công ty mẹ có thể điều tiết nguồn vốn để tạo đầu vào bình ổn cho CTTC, đồng thời khuyến khích phát triển các dịch vụ tài chính cho nội bộ tập đoàn/tổng công ty (đầu ra) thông qua CTTC.
Đối với bản thân các CTTC, điều quan trọng nhất là luôn đảm bảo an toàn và tìm cách cơ cấu lại các khoản vay cũng như các khoản đầu tư khi chạm ngưỡng cho phép. Gần đây, một số CTTC đã góp vốn quá nhiều vào một vài lĩnh vực nóng như bất động sản, chứng khoán… mà lại không đánh giá sâu sắc về các dự án đó hoặc để mất cân đối về cơ cấu đầu tư và danh mục kém đa dạng. Chiến lược đầu tư cân bằng sẽ phù hợp hơn đối với mô hình CTTC. Với các CTTC thuộc tập đoàn/tổng công ty thì việc đầu tư nhiều hơn vào các dự án thuộc lĩnh vực hoạt động chính của tập đoàn là cần thiết vì đó là những dự án mà CTTC có điều kiện đánh giá tốt nhất.
Các CTTC cần tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định các dự án sản xuất kinh doanh và phân tích, đánh giá dự án đầu tư để đảm bảo có được những hợp đồng tín dụng ít rủi ro; hướng tới những khu vực mà NHTM chưa vươn tới.
2/ Đối với các công ty Bảo hiểm
Vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm đã có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin, công khai, minh bạch tài chính kế toán.
Để mở rộng và phát triển thị trường bảo hiểm, bản thân các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm, hxem xét phát triển thêm các kênh bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới như bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư. Vừa qua, nhiều doanh nghiệp đã thành lập công ty quản lý quỹ nhằm quản lý phần vốn nhàn rỗi từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ để đầu tư vào thị trường chứng khoán, coi đây là cơ hội tốt để sử dụng vốn hiệu quả.
Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn những rủi ro, nên cũng cũng cần xem xét kỹ hơn. Về vấn đề con người, các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ của cán bộ. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, vấn đề quan trọng nhất là quản lý dòng tiền, nên cần phải có các chuyên gia về tính phí và phát triển đội ngũ chuyên gia này. Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm nhất là vấn đề trong sạch; trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi thường, hoa hồng cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động bảo hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều.
3/ Đối với các công ty chứng khoán :
Về vấn đề cạnh tranh, nhiều chuyên gia cho rằng, mặc dù hiện tại hoạt động kinh doanh của các CtyCK khá khó khăn theo bối cảnh chung của thị trường, hướng cạnh tranh chính và lâu dài nhất là các công ty không nên quá chú trọng tới việc cạnh tranh bằng phí giao dịch, thay vào đó nên đầu tư công nghệ và tăng tiện ích. Về phía cơ quan quản lý thị trường, hiện nay Bộ Tài chính đã giao nhiệm vụ cho UBCKNN sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường, trong đó có phí giao dịch.
Về vấn đề nhân lực, trên cơ sở theo dõi hoạt động của các CtyCK, cơ quan quản lý thị trường nên ban hành Quy chế người hành nghề chứng khoán, tạo điều kiện để các CtyCK có số người hành nghề đảm bảo theo quy định pháp luật hiện hành./.
KẾT LUẬN
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng là thành phần tổ chức tài chính không thể thiếu ở bất lì một quốc gia nào. Chúng xuất hiện từ chính những giới hạn và rào cản trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng, sử dụng những công cụ và cách thức tổ chức thích hợp để đáp ứng các nhu cầu tín dụng chuyên biệt. Tùy thực tế từng nước mà hình thành nên các đặc thù của tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng như vị thế của chúng trong hệ thống tài chính mỗi quốc gia. Hiện nay chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng cụm từ thị trường chứng khoán luôn được nhắc đến rất rất nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng vì vậy có thể khẳng định một điều rằng ở nước ta hoạt đông của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đặc biệt là các công ty tài chính, công ty bảo hiểm và các công ty chứng khoán có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nền kinh tế.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế các tổ chức tài chính này cũng đã phải gánh chịu những tổn thất rất lớn, Mặc dù vậy theo dự báo của các chuyên gia thị trường tài chính Việt Nam sẽ sớm hồi sinh trở lại vì vậy các tổ chức này cũng sẽ sớm phục hồi nhanh chóng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuyet trinh nhom 1_ to chuc tai chinh phi ngan hang.doc