Tài liệu Báo cáo Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam: Bộ Công th−ơng
tập đoàn điện lực Việt Nam
Viện năng l−ợng
Mã số: I-150
Đề tài
7175
17/3/2009
Hà nội - 12/2008
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đức Song
Trưởng phũng: Trần Mạnh Hựng
Viện trưởng: Phạm Khỏnh Toàn
NGHIấN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
ĐIỂN HèNH TẠI VIỆT NAM
Đề tài nghiờn cứu cấp Bộ: Nghiờn cứu khảo sỏt, đỏnh giỏ hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hỡnh tại Việt Nam - Mó số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hà nội, 12-2008
Bộ Công th−ơng
tập đoàn điện lực Việt Nam
Viện năng l−ợng
Mó số: I-150
Đề tài
NGHIấN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
ĐIỂN HèNH TẠI VIỆT NAM
Đề tài nghiờn cứu cấp Bộ: Nghiờn cứu khảo sỏt, đỏnh giỏ hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hỡnh tại Việt Na...
71 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1094 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé C«ng th−¬ng
tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam
ViÖn n¨ng l−îng
M· sè: I-150
Đề tài
7175
17/3/2009
Hµ néi - 12/2008
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đức Song
Trưởng phòng: Trần Mạnh Hùng
Viện trưởng: Phạm Khánh Toàn
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hà nội, 12-2008
Bé C«ng th−¬ng
tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam
ViÖn n¨ng l−îng
Mã số: I-150
Đề tài
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
2
Bé C«ng th−¬ng
tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam
ViÖn n¨ng l−îng
M· sè: I-150
Đề tài
Hµ néi - 12/2008
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đức Song
Trưởng phòng: Trần Mạnh Hùng
Viện trưởng: Phạm Khánh Toàn
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1
MỤC LỤC
Nội dung Trang
MỞ ĐẦU:
SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2
BỐ CỤC NỘI DUNG ĐỀ TÀI 4
Chương I
KH¶O S¸T Vµ §¸NH GI¸ HIÖN TR¹NG N¡NG LùC KIÓM TRA THö
NGHIÖM THIÕT BÞ §IÖN GIA DôNG T¹I VIÖT NAM
5
Chương II
ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TIÊU
CHUẨN KỸ THUẬT LIÊN QUAN
14
Chương III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIÉT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
20
Chương IV
XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ TẠI CÁC CƠ SỞ CHẾ TẠO THIẾT BỊ GIA
DỤNG TRONG NƯỚC
23
Kết luận
68
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
2
MỞ ĐẦU
SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Việc kiểm tra, thử nghiệm các thiết bị điện và điện tử gia dụng được thực
hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Mặt khác việc thử nghiệm và kiểm tra các
thiết bị điện và điện tử gia dụng phải tuân thủ theo tiêu chuẩn của từng quốc gia
và phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn IEC. Trên cơ sở đó các
nước hình thành các trung tâm kiểm định và thử nghiệm cho các thiết bị điện và
điện tử gia dụng, các trung tâm kiểm định và thử nghiệm tại các vùng. tại các
tỉnh. Bên cạnh đó thì các nhà sản xuất các thiết bị trước khi đưa ra thị trường họ
cũng phải thử nghiệm và kiểm định thiết bị của mình. Trên cơ sở đó các thiết bị
phải được chứng nhận của quốc gia đó hoặc là phải được chứng nhận của quốc
gia mà các thiết bị đó được nhập khẩu vào. Tất cả các thiết bị điện và điện tử gia
dụng đều phải tuân thủ một quy định hết sức chặt chẽ trước khi đưa ra thị
trường.
Hiện nay tại nước ta việc kiểm tra thử nghiệm các thiết bị điện và điện tử gia
dụng được triển khai qua các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng
các khu vực trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đối với các thiết
bị điện và điện tử gia dụng. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này vẫn còn đang ở tình
trạng dự thảo chờ ý kiến đóng góp để thông qua. Mặt khác các trung tâm kỹ
thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã được trang bị các thiết bị thử nghiệm và
kiểm định tương đối tốt nhưng việc quan tâm đến các thiết bị điện và điện tử gia
dụng vẫn còn bỏ ngỏ, điều này dẫn đễn các thiết bị điện và điện tử gia dụng vẫn
chưa được siết chặt theo các quy chuẩn chất lượng dẫn đến các thiết bị chưa có
sự thống nhất làm cho chất lượng của các thiết bị điện và điện tử gia dụng trên
thị trường của chúng ta còn lộn xộn khó có thể phân biệt giữa hang chất lượng
và kém chất lượng. Thiết bị tiêu thụ năng lượng hiệu suất cao và thiết bị tiêu thụ
năng lượng hiệu suất thấp. Điều này cần phải đòi hỏi xây dựng năng lực cho các
trung tâm kiểm tra và thử nghiệm cho các thiết bị điện và điện tử gia dụng ngày
một nâng cao để tiến tới một thị trường với các thiết bị có chất lượng tốt và hiệu
quả cao
Trên cơ sở khảo sát đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra và thử nghiệm thiết
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
3
bị điện và điện tử gia dụng điển hình. Từ đó xây dựng các khung pháp lý lộ trình
bắt buộc thử nghiệm và kiểm tra các thiết bị và điện tử tiết kiệm năng lượng.
Định hướng phát triển các trung tâm kiểm tra và thử nghiệm các thiết bị điện và
điện tử gia dụng
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
4
BỐ CỤC NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I: Khảo sát và đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng tại Việt Nam
Chương II: Đánh giá hệ thống các văn bản QPPL và tiêu chuẩn kỹ thuật
liên quan
Chương III: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng
Chương IV: Xây dựng hệ thống quản lý tại các cơ sở chế tạo thiết bị điện
gia dụng trong nước
Kết luận
PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Trong khuôn khổ nghiên cứu ban đầu của đề tài, do điều kiện hạn chế về thời
gian và kinh phí, về số liệu thực tế thu thập, đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên
cứu chủ yếu sau:
Điều tra, nghiên cứu hiện trạng năng lực kiểm tra thiết bị gia dụng điển hình là
Tủ lạnh và điều hoà không khí
Để đạt được những kết quả nghiên cứu của đề tài, chủ nhiệm đề tài thay mặt
nhóm nghiên cứu xin cám ơn sự tham gia và đóng góp ý kiến tích cực cho đề tài,
đó là các đồng nghiệp và các cộng sự, các đơn vị và cá nhân cơ quan trong
ngành như Bộ Công Thương, Cục Điều tiết Điện lực, Tập đoàn Điện lực Việt
nam, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
5
CHƯƠNG I
KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA
THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG TẠI VIỆT NAM
I Mở đầu
Trong xã hội ngày nay, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sản phẩm, hàng
hoá từ các khía cạnh an toàn, tác động đến sức khoẻ và môi trường, bền vững,
tiết kiệm năng lượng, tương thích và phù hợp với mục đích sử dụng. Xuất phát
từ nhu cầu này, các hoạt động chứng nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được tiến hành nhằm vào ba mục đích chính sau đây:
1. Giúp cho người người tiêu dùng có được quyết định đúng đắn khi lựa chọn
sản phẩm, hàng hoá trên thị trường;
2. Giúp cho các nhà cung ứng sản phẩm, hàng hoá biết được mức chấp nhận
của thị trường để phấn đấu và làm thoả mãn nhu cầu cũng như các yêu cầu luật
định, đặc biệt là yêu cầu về an toàn và tiết kiệm năng lượng của sản phẩm, hàng
hoá;
3. Giúp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ quản lý
nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Nằm trong xu thế chung này, sản phẩm điện, điện tử là một trong các mặt hàng
được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm về khía cạnh an toàn khi sử dụng. Cũng
chính vì lý do này mà sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử cũng thường là mặt
hàng được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tại các quốc gia đưa
vào trong nhóm các mặt hàng chịu sự quản lý chặt chẽ về an toàn. Một trong
biện pháp quản lý phổ biến thường được lựa chọn là sử dụng các kết quả chứng
nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật do tổ chức
chứng nhận độc lập tiến hành.
II. Chứng nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật
Về bản chất, chứng nhận sản phẩm là hoạt động thông qua đó một tổ chức, đóng
vai trò là một bên thứ ba độc lập, đưa ra sự đảm bảo bằng văn bản rằng một sản
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
6
phẩm, hàng hoá phù hợp với các yêu cầu quy định trong một tiêu chuẩn hoặc
quy chuẩn kỹ thuật. Tiêu chuẩn là tự nguyện áp dụng còn quy chuẩn kỹ thuật là
bắt buộc áp dụng. Các yêu cầu bắt buộc áp dụng thường được sử dụng trong các
trường hợp liên quan đến an toàn, vệ sinh, sức khoẻ và môi trường.
Hoạt động chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn có thể bao gồm nhiều hoạt động
chức năng khác nhau như chọn mẫu sản phẩm, đánh giá mẫu sản phẩm, đánh giá
quá trình sản xuất hay hệ thống quản lý chất lượng, xem xét kết quả đánh giá và
ra quyết định, giám sát sau chứng nhận.
Nội dung cơ bản trong các hệ thống chứng nhận sản phẩm có thể bao gồm một
trong những nội dung sau:
- Thử nghiệm mẫu sản phẩm điển hình
- Thử nghiệm mẫu sản phẩm đại diện của lô hàng
- Đánh giá quá trình sản xuất hoặc đánh giá hệ thống chất lượng
- Thử nghiệm mẫu sản phẩm lấy từ thị trường hoặc lấy tại nơi sản xuất
trong quá trình giám sát.
Tuỳ vào mức độ tin cậy đối với mục đích sử dụng của từng chủng loại sản phẩm
và mức độ rủi ro liên quan đến khía cạnh về an toàn, sức khoẻ và tác động đến
môi trường của sản phẩm, hoạt động chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn sẽ có sự
kết hợp giữa một số nội dung này để tạo nên 7 hệ thống chứng nhận sản phẩm
cụ thể.
Tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC Guide 67 có đưa ra mô hình định hướng cho 7 hệ
thống chứng nhận sản phẩm. Nguyên tắc xác định và sự khác biệt của các hệ
thống chứng nhận này được mô tả khái quát trong Sơ đồ 1. Dựa vào đặc điểm
chính của từng mô hình, có thể phân chia 7 mô hình chứng nhận trên vào 2
nhóm chính là nhóm 1 (mô hình 1A và 1B) và nhóm 2 (mô hình 2, 3, 4, 5).
Riêng mô hình 6 là một trường hợp rất đặc biệt minh hoạ cho một hệ thống
chứng nhận sản phẩm gần giống với chứng nhận hệ thống và chỉ áp dụng trong
trường hợp sản phẩm là dịch vụ.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
7
Với các hệ thống chứng nhận trong Nhóm 1, mức độ tin cậy của kết quả chứng
nhận chỉ đơn thuần dựa trên kết quả thử nghiệm mẫu sản phẩm (thử nghiệm điển
hình hoặc thử nghiệm đại diện theo Lô sản phẩm) và do vậy khó đánh giá được
tính đại diện của mẫu sản phẩm cũng như khó chứng minh được cho sự ổn định
của các đặc tính của sản phẩm vì thiếu các biện pháp giám sát. Ngoài ra, các
phương pháp này cũng không có hiệu quả vì sẽ tốn kém quá nhiều chi phí thử
nghiệm cho từng lô hàng. Chính vì lý do này mà thông thường biện pháp thử
nghiệm theo lô thường chỉ được áp dụng trong điều kiện kiểm soát chất lượng
sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu theo từng lô và có rủi ro thấp hoặc thử nghiệm
mẫu điển hình để kiểm tra mẫu nhất định trong kiểm tra nhà nước về chất lượng.
Các hệ thống chứng nhận thuộc nhóm 2 có đặc điểm chung là mức độ tin cậy
của kết quả chứng nhận được đảm bảo hơn vì dựa trên đồng thời kết quả thử
nghiệm điển hình và đánh giá điều kiện sản xuất trước chứng nhận. Đặc điểm
này cho phép tiên lượng được khả năng duy trì ổn định các đặc tính sản phẩm đã
được xác nhận trong báo cáo thử nghiệm. Điểm khác biệt giữa các mô hình này
nằm ở việc áp dụng các biện pháp khác nhau trong giám sát sản phẩm sau chứng
nhận.
Trong các hệ thống này, có thể nhận thấy rằng nếu được áp dụng ở mức độ đầy
đủ nhất, Hệ thống 5 sẽ là hệ thống chứng nhận sản phẩm chặt chẽ và tin cậy nhất
trong các hệ thống chứng nhận. Ngoài tính chặt chẽ có độ tin cậy cao, hệ thống 5
còn cho phép kết hợp và vận dụng linh hoạt các biện pháp giám sát để tận dụng
tối đa các đặc điểm kiểm soát của hệ thống 3 và hệ thống 4 khi áp dụng để xem
xét khả năng tác động của quá trình phân phối đến chất lượng của sản phẩm. Các
đặc điểm trên đây chính là lý do dẫn tới việc tại sao hầu hết các tổ chức chứng
nhận trên thế giới áp dụng hệ thống 5 một cách phổ biến cho chứng nhận phần
lớn các sản phẩm hàng hoá (PSB của Singapore, Sirim của Malaysia, BSI của
Anh, CQC của Trung Quốc, BIS của Ấn Độ,...). Xét về mức độ rủi ro và tầm
quan trọng của việc đảm bảo an toàn đối với các sản phẩm điện - điện tử trong
sử dụng, hệ thống 5 là hệ thống phù hợp để triển khai các hoạt động chứng nhận
sản phẩm điện - điện tử.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
8
III. Chứng nhận sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử trong ASEAN EE
MRA
Trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế và thương mại, một trong những mối quan
tâm hàng đầu của các quốc gia là tháo gỡ các rào cản đối với thương mại tạo nên
bởi các các biện pháp thuế quan, kiểm soát giá thành, độc quyền buôn bán hay
các biện pháp kỹ thuật. Trong các vấn đề nêu trên, rào cản kỹ thuật là một trong
những vấn đề được WTO, APEC và các nước trong khối ASEAN đặc biệt quan
tâm. Về bản chất, rảo cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại sẽ nảy
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
9
sinh khi không có sự minh bạch và rõ ràng trong chính sách và quy chế quản lý
của mỗi quốc gia, không hài hòa và thống nhất về các tiêu chuẩn – quy định đối
với sản phẩm/hàng hoá và có sự không đồng đều và tương xứng về hạ tầng cũng
như năng lực của các hoạt động đánh giá sự phù hợp.
Trong ASEAN, tại Hội nghị thượng định ASEAN lần thứ VI tổ chức tại Hà Nội
- Việt Nam vào ngày 16/12/1998, các nước thành viên ASEAN đã ký kết Hiệp
định khung về Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau nhằm mục đích chấp nhận hay
thừa nhận các kết quả đánh giá sự phù hợp do các tổ chức đánh giá sự phù hợp
của các nước thành viên thực hiện. Mục đích chính của hiệp định là nhằm hướng
tới việc thực hiện khẩu hiệu hội nhập về chất lượng “Một lần đánh giá, cấp một
chứng chỉ và có gia trị ở mọi nơi”.
Triển khai thực hiện theo định hướng này, với mục tiêu thuận lợi hoá thương
mại, giảm chi phí và thời gian kiểm tra hàng hoá điện - điện điện tử xuất - nhập
khẩu trong khu vực, mười nước thành viên ASEAN đã thống nhất thông qua
Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về thiết bị điện - điện tử của ASEAN (ASEAN
Sectoral Mutual Recognition Arrangement for Electrical and Electronic
Equipment viết tắt là ASEAN EE MRA) vào ngày 5/4/2002 tại Bangkok –
Thailand. Thoả thuận này là một bước tiến quan trọng cho phép chính phủ của
các nước thành viên ASEAN vừa duy trì được mục tiêu quản lý an toàn của các
sản phẩm điện - điện tử, vừa tạo thuận lợi cho các bên tham gia trong quá trình
thương mại với các khả năng giảm thiểu thời gian và chi phí.
Xét về lợi ích của các bên, việc hình thành một thoả thuận như ASEAN EE
MRA là cần thiết vì theo xu thế chung, mỗi một quốc gia đều có mục tiêu quản
lý hoạt động sản xuất, thương mại và quảng cáo liên quan đến sản phẩm điện,
điện tử nhằm đảm bảo người tiêu dùng và cộng đồng nói chung được đảm bảo
một quyền lợi tối thiểu và chính đáng là quyền sử dụng các sản phẩm điện, điện
tử an toànvà tiết kiệm năng lượng.
Có thể xem xét trường hợp của Singapore như một ví dụ điển hình để thấy được
sự liên quan giữa vai trò quản lý nhà nước và các hoạt động chứng nhận sản
phẩm điện, điện tử cũng như lợi ích của cơ chế theo ASEAN EE MRA trong
việc tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện mục tiêu quản lý này.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
10
Ở Singapore, mục tiêu của Hệ thống đăng ký bảo vệ an toàn người tiêu dùng
của Singapore (CPS Scheme) là nhằm bảo vệ mối quan tâm của người tiêu dùng
về sự an toàn của các sản phẩm điện, điện tử được quy định thuộc nhóm các sản
phẩm, hàng hoá bắt buộc phải được kiểm soát hoàn toàn phù hợp với một tiêu
chuẩn an toàn cụ thể. CPS Scheme, được điều hành bởi SPING Singapore thuộc
Bộ Thương mại và Công nghiệp (MTI) với vai trò là cơ quan quản lý an toàn, áp
dụng đối với 45 nhóm sản phẩm điện điện tử. Mỗi sản phẩm điện, điện tử thuộc
nhóm này đều được quy định rõ phải phù hợp với một tiêu chuẩn quốc gia
và/hoặc tiêu chuẩn quốc tế tương đương cũng như phù hợp với một số yêu cầu
đặc thù của cơ quan quản lý nhà nước (Tham khảo Phụ lục 1 về Danh sách
nhóm sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử bắt buộc phải được quản lý tại
Singapore).
Tất cả các nhà sản xuất, nhập khẩu, bán lẻ và thương mại có liên quan đến việc
quảng cáo hoặc cung cấp bất kỳ sản phẩm điện - điện tử nào thuộc danh mục
này trước tiên đều phải đăng ký với cơ quan quản lý an toàn như một Nhà cung
cấp được đăng ký. Sau đó, nhà cung cấp được đăng ký tiến hành đăng ký cho
từng kiểu loại sản phẩm cụ thể với cơ quan quản lý an toàn. Hồ sơ đăng ký với
phải được kèm theo một Chứng nhận về Sự phù hợp (COC) do một tổ chức đánh
giá sự phù hợp được chỉ định ban hành.
Chỉ các sản phẩm đã được đăng ký chính thức mới được phép gắn dấu an toàn
(Safety Mark) và được phép quảng cáo hoặc cung cấp trong phạm vi của lãnh
thổ Singapore. Về nguyên tắc, Singapore có thể chỉ định một tổ chức đánh giá
sự phù hợp bên ngoài lãnh thổ để ban hành COC sử dụng trong hoạt động đăng
ký này theo nguyên tắc của một thoả thuận thừa nhận tương ứng như thoả thuận
ASEAN EE MRA.
IV. Trung tâm Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn QUACERT với quá trình
chuẩn bị năng lực trong việc tham gia vào ASEAN EE MRA với tư cách là
tổ chức chứng nhận sản phẩm. hàng hoá được chỉ định.
Theo ASEAN EE MRA, việc chỉ định các tổ chức chứng nhận của các nước
thành viên để đưa vào Danh sách các tổ chức chứng nhận được chỉ định của
ASEAN sẽ do Cơ quan chỉ định quốc gia của các nước thực hiện theo trình tự
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
11
quy định. Giấy chứng nhận do tổ chức chứng nhận được chỉ định cấp ra sẽ là
bằng chứng về việc sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử đã phù hợp với một tiêu
chuẩn an toàn cụ thể và do vậy có thể được nước nhập khẩu chấp nhận mà
không cần tiến hành các thủ tục đánh giá khác theo quy định. Về nguyên tắc,
Giấy chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn cụ thể sẽ chỉ được chấp nhận
hoàn toàn nếu có sự thống nhất về hệ thống chứng nhận. Mặt khác, Giấy chứng
nhận phù hợp tiêu chuẩn cũng là minh chứng đầy đủ hơn so với một kết quả thử
nghiệm vì trong trường hợp thứ hai này, kết quả thử nghiệm chỉ được xem như
một bán sản phẩm mà tổ chức chứng nhận của nước nhập khẩu sử dụng để đưa
ra kết luận cuối cùng về sự phù hợp của sản phẩm với một tiêu chuẩn cụ thể.
Một tổ chức chứng nhận sản phẩm chỉ có thể được chỉ định tham gia thực hiện
trong ASEAN EE MRA nếu như tổ chức đó đáp ứng được các yêu cầu bao gồm:
- Là một pháp nhân, có nguồn tài chính độc lập, được pháp luật cho phép
hoạt động trong lĩnh vực chứng nhận đăng ký chỉ định;
- Có năng lực kỹ thuật để thực hiện việc chứng nhận;
- Có hệ thống chứng nhận được công nhận phù hợp theo ISO/IEC Guide
65:1996 bởi một cơ quan công nhận là thành viên của Tổ chức Hợp tác
Công nhận Thái Bình Dương (PAC) và là một bên tham gia ký Hiệp định
thừa nhận đa biên của PAC hoặc là tổ chức chứng nhận tham gia trong
Chương trình đăng ký đầy đủ các Tổ chức Chứng nhận của IEC (IEC EE
FCS);
- Luôn đảm bảo được nguyên tắc độc lập, khách quan trong hoạt động
chứng nhận.
Được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường nay là Bộ Khoa học và Công
nghệ thành lập với chức năng chính là cung cấp các dịch vụ chứng nhận các hệ
thống quản lý phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu
chuẩn, Trung tâm Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn QUACERT trong thời gian
qua đã không ngừng củng cố, xây dựng và phát triển năng lực chứng nhận theo
định hướng phù hợp với các tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế nhằm đảm bảo kết
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
12
quả chứng nhận được thừa nhận rộng rãi đáp ứng mục tiêu “một lần đánh giá,
cấp một chứng chỉ, được chấp nhận ở mọi nơi”.
Từ năm 2001 đến nay, các hệ thống chứng nhận của QUACERT đã được tổ
chức công nhận JAS-ANZ - một trong các tổ chức công nhận có uy tín hàng đầu
trên thế giới, thành viên tham gia ký kết các hiệt định thừa nhận chính thức của
PAC và IAF – công nhận hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn ISO/IEC Guide
62, ISO/IEC Guide 65 và ISO/IEC Guide 66. Với kết quả này, hoạt động chứng
nhận nói chung và chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn nói riêng của
QUACERT đã dần được đông đảo tổ chức, doanh nghiệp chấp nhận và sử dụng
như một bằng chứng tin cậy đối với người tiêu dùng trong nước cũng như trong
các hoạt động thương mại toàn cầu. Tính đến nay, đã có hơn 400 sản phẩm được
QUACERT chứng nhận phù hợp với các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN, JIS, GB...)
và tiêu chuẩn quốc tế (ISO, IEC...).
Chứng nhận sản phẩm điện - điện tử được QUACERT xem như một trong các
hoạt động trọng tâm được tập trung triển khai trong thời gian qua. Hệ thống
chứng nhận mà QUACERT triển khai cho các sản phẩm điện - điện tử được thực
hiện theo hệ thống 5 theo khuyến cáo của ISO/IEC Guide 67 và do vậy hoàn
toàn có khả năng được chấp nhận đầy đủ trong các quy định bắt buộc về chứng
nhận sản phẩm điện - điện tử của các nước thành viên trong ASEAN. Phạm vi
công nhận hiện tại của JAS-ANZ theo ISO/IEC Guide 65 cho chương trình
chứng nhận sản phẩm của QUACERT cũng bao gồm các nhóm sản phẩm điện -
điện tử được ưu tiên và quan tâm trong khuôn khổ hiện tại của các hoạt động chỉ
định thuộc ASEAN EE MRA như nhóm
sản phẩm dây cáp điện phù hợp IEC 60227, nhóm sản phẩm thiết bị điện gia
dụng phù hợp IEC 60335, thiết bị đóng ngắt điện dùng trong lắp đặt gia dụng
phù hợp IEC 60898...
V. Kết luận
Với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện, việc nâng cao năng lực và
hội nhập về năng lực đánh giá sự phù hợp là điều kiện tất yếu để tiến tới xoá bỏ
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
13
các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại. Việc tham gia và sử
dụng tích cực thoả thuận ASEAN EE MRA là biện pháp hữu hiệu vừa tạo điều
kiện cho các nhà sản xuất nội địa tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường tiêu dùng
sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử trong các nước thuộc khối ASEAN vừa đồng
thời là một công cụ góp phần quản lý chặt chẽ hơn việc nhập khẩu, cung cấp và
sử dụng các sản phẩm điện - điện tử trong thị trường nội địa, đảm bảo an toàn và
sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
14
Chương II
ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT LIÊN QUAN
Việc đánh giá sản phẩm, hàng hoá phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật ở
nước ta đã được hình thành và phát triển. Nhà nước đã ban hành các tiêu chuẩn
và quy định về quản lí chất lượng sản phẩm, hàng hoá lưu thông trên thị trường
và hàng hoá nhập khẩu. Để thực hiện công tác kiểm tra chất lượng, các tổ chức
chứng nhận, công nhận và kiểm định giám định hàng hoá phải nâng cao tầm
hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế.
I. Giới thiệu một số văn bản có liên quan đến công tác quản lí chất lượng
sản phẩm hàng hoá.
Công tác quản lí chất lượng sản phẩm, hàng hoá mới được đặc biệt quan tâm
khi nước ta chuẩn bị điều kiện gia nhập WTO. Những năm gần đây các luật,
nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn được ban hành đầy đủ hơn với nội
dung hoà nhập với các quy định của thế giới và WTO. Sau đây xin giới thiệu
một số tài liệu, văn bản có liên quan đến đánh giá phù hợp và nhất là công tác
quản lí chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
- Hiệp định về rào cản kĩ thuật trong thương mại (TBT-Technical Barries to
Trade): Gồm 15 điều khoản và 3 phụ lục với các mục tiêu là thừa nhận tầm quan
trọng của tiêu chuẩn quốc tế và các hệ thống quốc tế về đánh giá sự phù hợp
trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh thương mại. Trong đó điều
5 là quy trình đánh giá sự phù hợp do cơ quan nhà nước trung ương quản lí và
điều 6 là thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp bởi các cơ quan nhà nước trung
ương. Nguyên tắc cơ bản của hiệp định là tranh sự cản trở không cần thiết cho
thương mại. Các luật, nghị định, thông tư,… phải được xây dựng trên nguyên
tắc của nghị định này.
- Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật đã được ban hành ngày 29/6/2006 và
có hiệu lực từ 1/1/2007. Đây là căn cứ, chuẩn mực kĩ thuật cho việc kiểm định,
đánh giá chất lượng sản phẩm, hàng hoá mà trước hết cần quan tâm đến lĩnh vực
tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật, đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
15
- Nghị định số 179/2004/NĐ-CP ngày 21/10/2004 về Quy định quản lí Nhà
nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Nội dung chính:
+ Quy định về xây dựng, nguyên tắc áp dụng tiêu chuẩn hàng hoá,
+ Quy định danh mục sản phẩm hàng hoá phải áp dụng tiêu chuẩn: Bộ quản lí
chuyên ngành phối hợp với Bộ KHCN công bố danh mục này,
+ Quy định chứng nhận chất lượng sản phẩm hàng hoá theo 1 trong các cách:
Thử nghiệm mẫu điển hình, Thử nghiệm mẫu điển hình và giám sát mẫu thử
nghiệm lấy trên thị trường và cơ sở sản xuất, thử nghiệm mẫu điển hình và đánh
giá điều kiện đảm bảo chất lượng, thử nghiệm hoặc kiểm định toàn bộ sản phẩm
hàng hoá. Bộ quản lí chuyên ngành lựa chọn phương thức.
+ Bộ KH&CN phối hợp với Bộ quản lí chuyên ngành quy định sản phẩm
hàng hoá phải được chứng nhận chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ngành hoặc
tiêu chuẩn khác.
+ Công nhận Hệ thống quản lí chất lượng: Thử nghiệm chất lượng, sản phẩm;
giám định; chứng nhận sản phẩm; chứng nhận hệ thống quản lí chất lượng.
- Quyết định số 04/2006/QĐ-BKHCN ngày 10/01/2006: Ban hành quy định
về nội dung, thủ tục công bố sản phẩm, hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn, pháp quy
kĩ thuật. Doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo với cơ quan quản lí và người tiêu
dùng về sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá do mình sản xuất với tiêu chuẩn.
- Quyết định số 50/2006/QĐ-TTg ngày 7/3/2006 của thủ tướng chính phủ về
ban hành danh mục sản phẩm, hàng hoá phải kiểm tra về chất lượng.
II. Quy trình và phương thức thực hiện công tác kiểm định chất lượng
Để thực hiện công tác kiểm định chất lượng hàng hoá, hầu hết các sản phẩm
được đánh giá tại các phòng thử nghiệm theo các tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng
với các loại sản phẩm. Các đơn vị thử nghiệm để đảm bảo chất lượng cũng phải
được đánh giá và hoạt động theo chuẩn mực tiêu chuẩn đã quy định.
Phòng thí nghiệm mang mã hiệu VILAS:
Là hệ thống phòng thử nghiệm được công nhận theo TCVN ISO/IEC 17025
:2005 do Văn phòng công nhận chất lượng cấp giấy chứng nhận. Chuẩn mực của
tiêu chuẩn này vừa thoả mãn ISO 9001:2000 về hệ thống chất lượng, vừa thoả
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
16
mãn ISO/IEC guide 25 về quản lí phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn. Nếu các
PTN đáp ứng chuẩn mực này thì kết quả thử nghiệm sẽ có điều kiện được thừa
nhận lẫn nhau giữa các quốc gia khác.
Hiện tại Việt nam có khoảng 300 phòng thử nghiệm được công nhận và mang
mã hiệu VILAS
• Cấu trúc của hệ thống chất lượng Phòng thử nghiệm như sau:
phù hợp là:
- Bản Công bố phù hợp của tổ chức công bố;
- Bản sao giấy chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá với tiêu chuẩn;
- Các tiêu chuẩn và các quy định khác có liên quan;
- Bản mô tả chung về sản phẩm (tính năng, công dụng…).
Trường hợp sản phẩm, hàng hoá không bắt buộc phải công bố phù hợp, doanh
nghiệp cũng nên tự đánh giá phù hợp theo các bước sau:
- Xây dựng và áp dụng các yêu cầu về kiểm soát chất lượng;
- Tự đánh giá bằng việc thử nghiệm các mẫu;
Và sau đó tự công bố phù hợp bao gồm các nội dung:
- Bản công bố phù hợp;
- Các tiêu chuẩn liên quan trực tiếp đến sản phẩm, hàng hoá;
- Bản mô tả chung về sản phẩm, hàng hoá;
- Kết quả thử nghiệm và tiêu chuẩn thử nghiệm;
- Các văn bản khác có liên quan, như: quy trình sản xuất và hệ thống quản lí
chất lượng.
Dấu công bố phù hợp tiêu chuẩn phải được gắn, in hoặc dán lên sản phẩm là
đối tượng phải được công bố phù hợp tiêu chuẩn. Đây là cơ sở pháp lí để sản
phẩm, hàng hoá lưu thông trên thị trường. Đối với các trường hợp tự nguyện thì
dấu công bố phù hợp tiêu chuẩn không bắt buộc phải gắn lên sản phẩm, hàng
hoá.
III.2. Chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
17
Bên thứ ba thực hiện công việc bảo đảm đối tượng nào đó phù hợp với yêu cầu
được quy định được gọi là tổ chức chứng nhận. Đối tượng chứng nhận là: sản
phẩm, hệ thống quản lí chất lượng, kĩ thuật viên chuyên ngành. Tổ chức được
chứng nhận có những lợi ích: nâng cao uy tín, có thể là bắt buộc với thị trường
chủ yếu trên thế giới hoặc theo quy chuẩn kĩ thuật. Việc mở rộng thị trường đối
với các chủng loại sản phẩm đã được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn là dễ dàng
hơn. Thời kì đầu, việc chứng nhận sản phẩm, hàng hoá mới chỉ chú ý tới chất
lượng sản phẩm, sau này tính ổn định của CLSP và điều kiện đảm bảo CLSP
cũng được quan tâm đặc biệt.
Chứng nhận sự phù hợp cho sản phẩm, hàng hoá (còn gọi là chứng nhận sản
phẩm) là bắt buộc với những sản phẩm phải được chứng nhận theo nghị định số
179/2004/NĐ-CP ngày 21/10/2004 về Quy định quản lí Nhà nước về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá. Tuỳ theo thể thức chứng nhận, có thể thực hiện một hoặc
nhiều phương pháp đánh giá: Thử điển hình, kiểm tra lô, kiểm tra toàn bộ, đánh
giá điều kiện đảm bảo chất lượng,…
Chuẩn mực đối với các tổ chức điều hành hệ thống chứng nhận sản phẩm là
ISO/IEC Guide 65, guide 66… Hiện có các tổ chức chứng nhận phù hợp sản
phẩm là: Quacert, TT Kĩ thuật 1, 2,3 (thuộc Tổng cục TC-ĐL-CL). Đối với lĩnh
vực vật liệu xây dựng, được sự giúp đỡ của Bộ xây dựng,Viện Vật liệu xây dựng
với năng lực hiện tại đang hình thành tổ chức chứng nhận sản phẩm VLXD phù
hợp tiêu chuẩn. Tổ chức này sẽ đánh giá chuyên sâu với nhiều chủng loại VLXD
và giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất vượt qua rào cản kỹ thuật thương mại khi
Việt nam gia nhập WTO.
III.3. Một số công tác khác của đánh giá phù hợp.
Giám định là việc kiểm tra cho việc thiết kế sản phẩm, sản phẩm, dịch vụ
(năng lực của nhà sản xuất, hoạt động của hệ thống chất lượng), quá trình hay
nhà xưởng thiết bị và xác định sự phù hợp của chúng với các yêu cầu quy định
chung hay cụ thể nào đó,. Nhà sản xuất cũng có thể qua tổ chức giám định để
xác định sự phù hợp sản phẩm của chính mình để tự công bố sự phù hợp. Công
tác giám định hoặc kiểm tra có thể là một chức năng riêng biệt hoặc có thể là
một phần của hệ thống chứng nhận. Giám định bao gồm các nội dung: chất
lượng, số lượng, giá cả. Tổ chức giám định thường hoạt động theo chuẩn mực
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
18
của ISO/IEC 17020. Đây là tiêu chuẩn được chuẩn bị bởi ban châu Âu về tiêu
chuẩn hoá (CEN) và uỷ ban châu Âu về tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực
điện(CENLEC) theo tiêu chuẩn châu Âu EN 45004
Sổ tay chất lượng
Sổ tay thủ tục
Các sổ tay phương pháp
Các sổ tay hướng dẫn
Các sổ tay biểu mẫu
Thử nghiệm, hiệu chuẩn cũng là một hoạt động của đánh giá phù hợp.
PTN thường phải thoả mãn các yêu cầu nhất định tuỳ theo quy định của từng hệ
thống. Khi tổ chức chứng nhận sử dụng PTN bên ngoài thì PTN đó phải có uy
tín và phải được công nhận (chuẩn mực là TCVN ISO/IEC 17025:2005).
Các tổ chức đánh giá sự phù hợp cũng phải được công nhận. Thông thường
mối nước đều có ít nhất một tổ chức công nhận. Nước ta tổ chức công nhận là
Văn phòng công nhận chất lượng (BOA) thuộc Tổng cục TC-ĐL-CL. Để kết
quả công nhận có thể có tác dụng với quốc gia khác thì tổ chức công nhận cần
phải có thoả thuận đa phương và song phương. Đó là kết quả của thừa nhận lẫn
nhau. Hiện nay BOA đã có những thoả thuận với ILAS, APLAC, và một số
nước khác. Việc hình thành một tổ chức công nhận quốc tế là cần thiết cho các
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
19
tổ chức đánh giá sự phù hợp để các sản phẩm của ta có đủ điều kiện vươn ra thị
trường nước ngoài.
4. Kết luận:
Kiểm định và chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá là cần thiết với cả
những đối tượng không bắt buộc phải chứng nhận. Đây là những hoạt động
khẳng định chất lượng sản phẩm, hàng hoá vừa có tính pháp lí vừa có tác dụng
quảng cáo chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Các chuẩn mực cho việc kiểm định và chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm,
hàng hoá ở Việt nam đã được xây dựng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và
hiệp định TBT. Đây là điều kiện để mở rộng xuất nhập khẩu sản phẩm, hàng
hoá. Mặt khác nó cũng là cơ sở để các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt nam sử
dụng sản phẩm, hàng hoá trong nước.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
20
Ch−¬ng III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC KIỂM
TRA THỬ NGHIỆM THIÉT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG
Từ năm 2005, Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đã thực hiện
Chương trình quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa điện, điện tử nhằm đảm
bảo an toàn và quyền lợi người tiêu dùng, phát triển vững chắc hoạt động sản
xuất hàng điện, điện tử trong nước và tạo thuận lợi cho việc lưu thông tự do
trong khu vực.
Sau khi có Quyết định 50/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì có 13
nhóm sản phẩm điện, điện tử phải kiểm tra chất lượng và an toàn. Quyết định đó
cũng đưa ra những chuẩn mực để kiểm soát, đó chính là các tiêu chuẩn quốc gia
TCVN và các tiêu chuẩn này được chấp nhận hoàn toàn đối với các tiêu chuẩn
quốc tế IEC về an toàn là chính. Hiện nay chúng ta đang xúc tiến các quy trình
đánh giá sự phù hợp, chứng nhận hợp quy để những sản phẩm thuộc nhóm 13
sản phẩm này khi lưu thông trên thị trường có những dấu hiệu được đánh giá,
được chứng nhận, được thử nghiệm phù hợp với những tiêu chuẩn đã quy định.
Vì các nhóm sản phẩm này phải được quản lý theo tiêu chí về an toàn nên dù
muốn hay không thì các doanh nghiệp vẫn phải tuân thủ, bởi một mặt phải bảo
vệ sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng, mặt khác cũng để bảo vệ cho các doanh
nghiệp không bị "vấp ngã" vì nếu xảy ra tai nạn thì các doanh nghiệp có liên
quan chắc khó có thể tồn tại được.
Hiệp định của ASEAN về quy chế quản lý hài hòa các thiết bị điện, điện tử
chính thức có hiệu lực vào 1/11/2011. Từ nay đến đó là khoảng thời gian để các
nước chuyển đổi cơ chế quản lý đối với thiết bị điện, điện tử sao cho hài hòa với
nhau. Khi hoạt động quản lý hài hòa thì các kết quả sẽ được thừa nhận tại các
nước và do đó hàng hóa sẽ được lưu thông trong khối ASEAN, không cần kiểm
tra, thử nghiệm, đánh giá lại nhiều lần và sẽ tạo dựng cho năng lực cạnh tranh
của các thiết bị điện, điện tử trong các nước ASEAN tốt hơn.
Việt Nam đã triển khai một loạt công việc như phổ biến cho các doanh nghiệp
biết tinh thần của Hiệp định. Chúng ta cũng đang chuyển đổi các văn bản quy
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
21
phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động này sao cho hàng điện, điện tử của
Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN sẽ không phải kiểm tra, thử nghiệm,
chứng nhận lại và ngược lại. Thứ 2 là chúng ta phải rà soát lại những tiêu chuẩn
có liên quan cho phù hợp với những phiên bản mới nhất của IEC. Thứ ba và
quan trọng nhất là tạo dựng một cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động
đánh giá, chứng nhận, kiểm định vì chúng ta cần có đầy đủ hệ thống phòng thử
nghiệm.
Về cơ bản hiện nay chúng ta có 2 phòng thử nghiệm điện, điện tử của Trung
tâm Kỹ thuật 1 (viết tắt là Quatest1 - Hà Nội) và Phòng thử nghiệm điện, điện tử
kỹ thuật 3 (Khu Công nghiệp Biên Hòa, Tp.HCM) là những phòng thử nghiệm
đủ năng lực thử theo các yêu cầu của tiêu chuẩn quốc tế. Khu vực miền Trung
hiện nay có Trung tâm Kỹ thuật 2 về năng lực thử nghiệm điện, điện tử còn đang
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu và cũng đang hoàn thiện sao cho chúng ta có ít nhất
là 3 phòng thử nghiệm đủ năng lực cần thiết.
Không chắc rằng tất cả các doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử có thể
đáp ứng đầy đủ các TCVN, tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, một số thiết bị lâu
nay chúng ta tiến hành thử đều đáp ứng được. Những vấn đề liên quan đến an
toàn bao giờ cũng được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu bởi nếu xảy ra sự
cố gây tổn hại đến tài sản, con người thì nguy cơ dẫn đến "phá sản" đối với các
doanh nghiệp là rất cao. Hiện nay chúng ta đang áp dụng quy chế kiểm tra đối
với 13 sản phẩm. Sau khi chúng ta làm tốt đối với những sản phẩm này rồi sẽ
mở rộng sang các sản phẩm khác nữa.
Vai trò và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp liên quan
trong việc áp dụng các quy chuẩn tại địa phương là rất lớn. Trách nhiệm của các
doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu phân phối hàng hoá ra thị trường, phải
tuân thủ theo nhiều quy định hết sức khó khăn.
Các Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là một trong những vấn đề quan trọng
trong xây dựng thương hiệu sản phẩm. Từ những tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật gắt gao là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm đồng nhất, chất
lượng ổn định. Tiêu chuẩn nói chung, là cái luôn thay đổi theo từng thời điểm.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải có những nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
22
theo kịp với đòi hỏi của từng thời kỳ, từ đó có cơ sở để không ngừng nâng cao
các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để sản phẩm của các doanh nghiệp có thể
cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
23
Chương IV
XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ TẠI CÁC CƠ SỞ CHẾ TẠO THIẾT
BỊ GIA DỤNG TRONG NƯỚC
Bộ Công Thương đang thực hiện Chương Trình Dán Nhãn và Tiêu Chuẩn Năng
Lượng nhằm loại bỏ các rào cản đã và đang liên tục cản trở việc sản xuất, nhập
khẩu, và lựa chọn của người tiêu dùng đối với các thiết bị hiệu quả năng lượng
trên diện rộng.
Trước khi thiết kế chương trình thí điểm, hai cuộc điều tra riêng biệt đã được
thực hiện ở cả ba miền bắc, trung, và nam Việt Nam. Cuộc điều tra thứ nhất gồm
phỏng vấn đại bộ phận các nhà sản xuất, nhập khẩu, hoặc phân phối thiết bị điều
hòa nhiệt độ và tủ lạnh ở Việt Nam để xác định doanh số hàng năm, các kênh
phân phối, mức tiết kiệm, và sự quan tâm của họ đối với việc tham gia chương
trình tự nguyện dán nhãn tiết kiệm năng lượng loại so sánh. Cuộc điều tra thứ
hai được thiết kế để xác định đặc điểm của người sử dụng điều hòa không khí,
thái độ của họ về việc mua các sản phẩm tiết kiệm năng lượng và phản ứng của
họ đối với nhãn so sánh được đề xuất. Kết quả của hai cuộc điều tra này sẽ giúp
định hướng việc thiết kế chương trình thí điểm về dán nhãn, và các kết quả
chính đã tìm được sau hai cuộc điều tra được nêu bật dưới đây.
Điều tra thị trường đối với 31 nhà sản xuất, nhập khẩu, và phân phối thiết bị điều
hòa không khí lớn nhất chỉ ra rằng đã có xấp xỉ 500.000 điều hòa không khí cỡ
nhỏ và vừa được bán trong năm 2008 ở Việt Nam, mức hiệu quả năng lượng dao
động từ rất thấp tới cao, và các sản phẩm sản xuất trong nước không thuộc loại
có mức hiệu quả thấp nhất hay cao nhất. Một phát hiện khác là không có mối
tương quan mật thiết giữa giá thành và mức hiệu quả của một thiết bị điều hòa
không khí.
Trong số 31 công ty tham gia sản xuất, nhập khẩu, hoặc phân phối thiết bị điều
hòa nhiệt độ, 12 công ty sẵn lòng tham gia chương trình dán nhãn tự nguyện.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
24
Cả hai cuộc điều tra đều cho thấy thị trường sản phẩm điều hòa không khí đang
tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, nhấn mạnh yêu cầu hành động với chương
trình tiêu chuẩn và dán nhãn.
Ngoài hai cuộc điều tra, phiên bản hiện tại về tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng
cho thiết bị điều hòa không khí cũng được xem xét lại và so sánh với các tiêu
chuẩn đang được sử dụng ở các quốc gia láng giềng. Mức hiệu suất của các thiết
bị có tại thị trường Việt Nam cũng được so sánh với mức hiệu suất và việc phân
loại mức hiệu suất ở các nước láng giềng khác nhau nhằm xác định các mức có
thể sử dụng ở Việt Nam. Việc xem xét này mang lại các kết luận và đề xuất sau.
• Điều kiện kiểm nghiệm cần được chuyển sang T1 tương tự với các nước
khác trong khu vực.
• Các mức của nhãn và quy trình kiểm định cần phản ánh lợi ích về năng
lượng có được trong thực tiễn nhờ các mô đen (biến tần) nhiều tốc độ.
(Kiểm định toàn tải đơn giản không làm được điều này.)
• Các mức của nhãn nên tránh bị lạc hậu bằng cách lấy mức cao nhất tương
ứng với mô đen tốt nhất có trên thị trường quốc tế, và mức thấp nhất thể
hiện hầu hết (nhưng không nhất thiết phải tất cả) các mô đen hiện có ở Việt
Nam. Tốt nhất nên thống nhất các mức trong tất cả các dải công suất.
• Nhu cầu vào giờ cao điểm do điều hòa không khí sẽ tăng với tốc độ khoảng
250 MW mỗi năm. Việc áp dụng một chương trình dán nhãn tích cực kết
hợp với thông báo về một tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu bắt
buộc trong tương lai có thể giảm mức tăng đó xuống còn khoảng 200 MW
mỗi năm.
• Không có chương trình dán nhãn, lượng điện sử dụng cho máy điều hòa
không khí trong gia đình sẽ tăng với tốc độ 250 GWh mỗi năm. Một
chương trình dán nhãn tích cực có thể giảm từ 25 tới 50 GWh trong mức
tăng này.
I. XÁC ĐỊNH CÁC KÊNH THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG ĐƠN VỊ
CHÍNH THAM GIA THỊ TRƯỜNG
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
25
Bước đầu tiên của điều tra thị trường là xác định các kênh thị trường cho thiết bị
điều hòa không khí và các nhà sản xuất, nhập khẩu cũng như bán lẻ chính chịu
trách nhiệm phân phối phần lớn thiết bị điều hòa không khí ở Việt Nam. Một
cán bộ tại Bộ Công Thương tiến hành tìm kiếm trên mạng và gọi điện tới một số
nhà cung cấp và sản xuất thiết bị điều hòa không khí. Cuộc tìm kiếm này tìm ra
xấp xỉ 14 nhà sản xuất và 50 nhà nhập khẩu, cũng như một số ít các nhà phân
phối, đang nhập khẩu, phối phối và trong một số trường hợp bán lẻ thiết bị điều
hòa không khí.
Sau đó, một thành viên trong nhóm của Econoler gọi đến từng công ty trên danh
sách để xác định tên và địa chỉ của giám đốc. Tiếp theo, Bộ Công Thương sử
dụng danh sách các công ty và địa chỉ liên lạc này để thông báo các kế hoạch về
một chương trình thí điểm tiêu chuẩn và dán nhãn cho thiết bị điều hòa không
khí, giới thiệu về việc nghiên cứu thị trường, và báo trước cho họ rằng họ sẽ
được yêu cầu tham gia một cuộc phỏng vấn. Bảng 1 thể hiện số lượng các nhà
sản xuất, nhập khẩu, và phân phối được phỏng vấn cho cuộc điều tra này.
Bảng 1: Số lượng nhà sản xuất, nhập khẩu, và phân phối được phỏng vấn
Địa điểm Nhà sản
xuất
Nhà nhập
khẩu
Nhà phân
phối
Tổng
Hà Nội 5 (3) 3 7 15
(3)
Đà Nẵng 1 - 5 6
Thành phố Hồ Chí
Minh
3 (½) 4 (1½) 3 (2) 10
(4)
Tổng 9 (3½) 7 (1½) 15 (2) 31
(7)
*Các số trong ngoặc cho thấy số người sẵn lòng tham gia thí
điểm. Một đơn vị tham gia vừa là nhà sản xuất vừa là nhà nhập
khẩu, như được thể hiện bằng số “½” tại những địa điểm phù
hợp.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
26
Cần lưu ý rằng có một số điểm lẫn lộn giữa ba loại. Ví dụ, có ba nhà sản xuất là
các công ty Việt Nam trong khi các nhà sản xuất khác dường như chỉ là các
xưởng lắp ráp cho các thương hiệu lớn của nước ngoài – sản xuất trong nước
được hưởng một số lợi thế về tài chính – hoặc, trong một số trường hợp, chỉ
nhập khẩu từ một nhà sản xuất nước ngoài. Một số nhà nhập khẩu cũng là nhà
phân phối, và ngược lại. Các nhà nhập khẩu nhỏ hơn có vẻ hay nằm gần biên
giới các thành phố và cảng. Thực trạng bán lẻ cũng phức tạp. Ví dụ: một nhà
phân phối có thể cung cấp chuỗi đại lý bán lẻ của chính mình bên cạnh một số
nhà bán lẻ độc lập.
1.1 DOANH SỐ CỦA THIẾT BỊ ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ
Như trong Bảng 2, doanh số hàng năm của thiết bị điều hòa không khí trong
phòng khác nhau đôi chút phụ thuộc vào nguồn cung cấp thông tin. Biết rằng
một vài con số này chỉ là dự tính, vẫn có sự phù hợp đáng kể. Để phục vụ mục
tiêu phân tích, số liệu của Bộ Công Thương sẽ được sử dụng, dù chúng có thể
hơi thấp vì một vài người được Bộ phỏng vấn cho doanh số là không. Cũng có
sự khác biệt giữa số liệu của cuộc điều tra và của Bộ Công Thương về số lượng
tương đối thiết bị điều hòa không khí với các công suất khác nhau. Số liệu của
Bộ Công Thương thể hiện phần doanh số thấp hơn của các mô đen có kích thước
danh nghĩa là 1,5 HP.
Bảng 2: Ước đoán doanh số của thiết bị điều hòa không khí trong phòng
Năm
Nguồn
2006 2007 2008 2009
Nhà phân phối “A” 210.000 255.000 445.000 —
Nhà nhập khẩu “B” 300.000 420.000 480.000 540.00
0
Nhà sản xuất thuộc sở hữu
nước ngoài “C”
300.000 370.000 250.000* —
Nhà sản xuất trong nước “D” — — ≈ 500.000 —
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
27
Bộ Công Thương 300.000 350.000 263.000*
*
—
*Có thể đoán chừng cho một giai đoạn giảm sút.
**Chỉ cho tám tháng đầu năm;con số tương đương 12 tháng sẽ là 395.000.
1.2 CÁC LOẠI ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ
Hơn 90% các mô đen được bán là điều hòa không khí dàn rời loại nhỏ, với
“nhỏ” có nghĩa là lên tối đa tới một kích thước danh nghĩa là 3 HP, hay công
suất lạnh định mức ước chừng là 7,5 kW. Loại này vốn đã là loại hiệu quả nhất
cho điều hòa không khí trong phòng và cho thấy kế hoạch dán nhãn tiết kiệm
năng lượng sẽ không cần phải chuẩn bị riêng cho các loại khác hay các dải công
suất khác của điều hòa không khí.
1.3 MỨC TIẾT KIỆM CỦA CÁC THIẾT BỊ SẴN CÓ ĐỂ BÁN
Trên thị trường đã có sự quảng bá đáng chú ý về các mức tiết kiệm của các mô
đen điều hòa không khí, như thấy trong Hình 1. Điều này cho thấy chương trình
dán nhãn tiết kiệm năng lượng và hiệu suất năng lượng tối thiểu có thể mang lại
tác động đáng giá.
Các mô đen tồi nhất và tốt nhất đều là hàng nhập khẩu. Xét trung bình, các mô
đen do các công ty thuộc sở hữu trong nước sản xuất tỏ ra kém tiết kiệm hơn đôi
chút so với các mô đen được các công ty thuộc sở hữu nước ngoài sản xuất trong
nước, cho dù sự khác biệt rất nhỏ.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
28
Hình 1: Mức hiệu quả của các mô đen được phân biệt bằng loại nhà sản xuất
Chú thích: Local manufacturer: nhà sản xuất trong nước
Foreign designs: các thiết kế của nước ngoài
Imports: Hàng nhập khẩu
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Cooling: công suất lạnh
Hình 2 mã hóa lại các mô đen để phân biệt giữa các công ty có quan tâm tới việc
tham gia chương trình dán nhãn ban đầu với các công ty khác. Nó cho thấy
những công ty tham gia đã cung cấp một mẫu về các mô đen khá tiêu biểu trên
thị trường, mặc dù mô đen tồi nhất không đến từ các công ty tham gia. Đáng chú
ý rằng các mô đen tồi nhất thuộc về một nhà cung cấp đơn lẻ, và rằng nhà cung
cấp đó có bán cả những mô đen thay thế với mức tiết kiệm cao hơn. Việc khởi
đầu và duy trì liên lạc với các nhà cung cấp này sẽ rất quan trọng để có thể giải
quyết những khó khăn và phàn nàn trước khi chúng trở thành những vấn đề lớn.
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Cooling (kW)
EE
R
(W
/W
)
Local manufacturers
Foreign designs
Imports
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
29
Hình 2: Mức hiệu quả của các mô đen được phân biệt bằng sự tham gia chương
trình thí điểm
Chú thích: Participant: đơn vị có tham gia
Others: khác
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Cooling capacity: công suất lạnh
1.4 KHẢ NĂNG SẢN XUẤT HOẶC NHẬP KHẨU THIẾT BỊ HIỆU
QUẢ HƠN
Dù bản điều tra có bao gồm những câu hỏi về khả năng sản xuất hoặc nhập khẩu
các thiết bị hiệu quả hơn, người được phỏng vấn thường không thể trả lời được
các câu hỏi này bởi họ không được định hướng về mặt kỹ thuật. Chủ đề này sẽ
được bàn lại trong Nhiệm vụ 3. Tuy nhiên, các kết quả tìm được cho thấy những
công ty quốc tế có cung cấp điều hòa không khí tới những nước có mức tiết
kiệm bắt buộc nghiêm ngặt.
1.5 MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA GIÁ BÁN LẺ VÀ MỨC HIỆU QUẢ
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4.5
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Cooling capacity (kW)
EE
R
(W
/W
)
Participants
Others
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
30
Chất lượng của các dữ liệu về hiệu quả và giá từ cuộc điều tra dường như khác
nhau; trong một số trường hợp điều này có vẻ là do người được phỏng vấn
không có chuyên môn kỹ thuật và bị nhầm lẫn về các con số khác nhau. Vì vậy,
cả dữ liệu từ cuộc điều tra và từ các trang web của công ty đều được kiểm tra và
trình bày ở đây.
Mối quan hệ giữa giá và mức hiệu quả được tìm hiểu bằng việc đầu tiên là xác
định xu hướng tăng giá liên quan tới công suất lạnh của các mô đen điều hòa
nhiệt độ. Sau đó, tính mức chệch ra khỏi xu hướng đó của các mức hiệu quả
khác nhau của một mô đen. Kết quả từ dữ liệu điều tra được thể hiện trên Hình
3, trong đó chỉ số giá là tỉ số dao động từ 20% đến 140% giá trung bình. Điều
rút ra từ cuộc điều tra là không có mối quan hệ nào giữa mức hiệu quả và giá.
Nhìn chung, các mô đen hiệu quả hơn không đắt hơn những mô đen thông
thường. Mặc dù vậy, dao động về giá rất rộng, cao hơn và thấp hơn tới 40% so
với giá trung bình (có lẽ do lỗi, nên một điểm thậm chí còn có khoảng cách về
giá xa hơn).
Hình 3: Mối quan hệ giữa giá và mức hiệu quả (từ cuộc điều tra)
Chú thích: Price index: chỉ số giá
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Price/Efficiency Relationship
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
2 2.2 2.4 2.6 2.8 3 3.2 3.4 3.6 3.8 4
EER (W/W)
Pr
ic
e
In
de
x
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm
thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
31
Mặt khác, các dữ liệu từ trang web, có thể nhất quán hơn dữ liệu cuộc điều tra
thu thập được, cho thấy có mối liên hệ, dù không mật thiết, giữa giá và mức tiết
kiệm (xem Hình 4). Có thể lý giải một số dao động về giá là do các tính năng
khác, như có thêm điều khiển từ xa hoặc một hệ điều khiển số. Tuy vậy, có thể
kết luận rằng những mô đen hiệu quả năng lượng nhất tương đối đắt. Các mô
đen này là loại biến tần, vốn thường được biết đến như những mô đen đắt nhất
có trên thị trường.
Hình 4: Mối quan hệ giữa giá và mức tiết kiệm (từ các trang web)
Ghi chú: Relative price: giá tương đối
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Kinh nghiệm cho thấy về lâu dài các mô đen có mức tiết kiệm cao thường không
đắt hơn. Tuy nhiên, một thay đổi trong thiết kế dẫn đến những thay đổi trong
dây chuyền sản xuất đồng nghĩa với tăng chi phí, và cần bù lại các chi phí này.
Để phục vụ cho việc phân tích, có thể giả sử rằng đối với dải tiết kiệm được cân
nhắc, tăng 20% Hệ Số Tiết Kiệm Năng Lượng (EER) sẽ khiến chi phí tạm thời
tăng 20%. Để thiết kế chương trình, tốt nhất là giảm số thay đổi – và những chi
phí tăng thêm do những thay đổi này – bằng cách đảm bảo rằng sẽ bắt đầu từ
một Tiêu Chuẩn Hiệu Suất Năng Lượng Tối Thiểu (MEPS) tương đối nghiêm
ngặt. Các nhà sản xuất trong nước khi đó có thể đưa ra những thay đổi cần thiết
cho thiết kế và dây chuyền sản xuất của họ trước vài năm.
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
2.0 2.5 3.0 3.5 4.0 4.5
EER
R
el
at
iv
e
pr
ic
e
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
32
2 XÁC ĐỊNH CÁC RÀO CẢN
Theo như những thảo luận với các đối tượng tham gia và điều tra người tiêu
dùng, quyết định mua sản phẩm được đưa ra trên cơ sở các yếu tố không liên
quan tới sử dụng hay hiệu quả năng lượng. Đó một phần là do thông tin về các
chủ đề này còn hạn chế, hoặc tại địa điểm mua sản phẩm nơi nhiều quyết định bị
ảnh hưởng, hoặc ở địa điểm khác. Quảng cáo thường không tập trung vào hiệu
quả năng lượng và chi phí vận hành mà vào các tính năng khác (một ngoại lệ là
chiến dịch của Panasonic liên hệ các mô đen có biến tần của hãng với mức hiệu
quả cao). Độ bền rõ ràng là một yếu tố rất quan trọng, còn nhãn hiệu và giá
thành cũng đóng vai trò đáng kể. Thông tin về các yếu tố này hữu hình hơn về
hiệu quả năng lượng rất nhiều.
Theo góc nhìn của nhà cung cấp, nhu cầu của khách hàng với sản phẩm có hiệu
quả cao không nhiều, trong khi đó tăng hiệu quả năng lượng sẽ kéo theo tăng chi
phí và do đó tăng giá thành, dẫn tới khả năng giảm doanh số. Là một phần trong
cả quy trình, dây chuyền sản xuất sẽ cần điều chỉnh rất nhiều, có thể làm gián
đoạn sản xuất. Khoảng một nửa số nhà cung cấp được điều tra cho rằng các mô
đen của họ đã tiết kiệm năng lượng rồi. Với mức hiệu quả đã thấy trong Hình 1,
đây có thể là một thái độ hợp lý.
Các nhà cung cấp cho rằng một chương trình dán nhãn tiết kiệm năng lượng và
hiệu suất năng lượng tối thiểu được thực hiện hợp lý sẽ vượt qua những rào cản
này.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
33
3 ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ CÁC MÔ ĐEN ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ TRÊN
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
3.1 TIÊU CHUẨN KIỂM ĐỊNH
Hình 1 và Hình 2 thể hiện mức tiết kiệm năng lượng của các mô đen điều hòa
không khí trên thị trường. Tất cả các mức hiệu suất được dựa trên mức hiệu suất
trong điều kiện T1 khác biệt với điều kiện T3 mới đây được chỉ rõ trong Tiêu
Chuẩn TCVN 7831. (Mục đích của điều kiện T3 là cung cấp điều kiện kiểm tra
điều hòa không khí trong những khí hậu rất nóng nhưng khô, như tại các nước sa
mạc. Yêu cầu kiểm định tới điều kiện T3 sẽ đòi hỏi thiết kế lại hoàn toàn các mô
đen và sẽ cho ra các mô đen có giá đắt một cách không cần thiết. Không thể tính
chính xác tác động, mặc dù đối với những dao động nhẹ trong nhiệt độ ngoài
trời Henderson1 cho rằng mức hiệu suất sẽ giảm xấp xỉ 2% đối với mỗi độ C
tăng thêm của nhiệt độ ngoài trời. Như vậy tác động của việc dựa yêu cầu trên
một điều kiện kiểm định tương tự điều kiện T3 sẽ là tăng tính nghiêm ngặt của
yêu cầu lên thêm khoảng hai mức nữa trên nhãn.) Bảng 3 so sánh các điều kiện
kiểm định tiêu chuẩn khác nhau.
1 Hugh I Henderson Jr., PE, Principal, CDH Energy Corp. Nghiên cứu 1– Điều Hòa Không Khí Trong Phòng trong
Phát Triển Tiêu Chí Thuật Toán cho Kiểm Định Hiệu Suất Năng Lượng, Dự án APEC 06/2001T, David Cogan
xuất bản cho Văn Phòng APEC, 2005.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
34
Bảng 3: Các Điều Kiện Kiểm Định Tiêu Chuẩn
T1 T2 T3 TCVN 7831
Nhiệt độ không khí vào phía trong
phòng (°C)
bầu khô 27 21 29 29
bầu ướt 19 15 19 19
Nhiệt độ không khí vào phía ngoài
phòng (°C)
bầu khô 35 27 46 45
bầu ướt 24 19 24 24
3.2 CÁC MỨC DÁN NHÃN
Dù một trong những mục đích của đánh giá này là để cung cấp thông tin hỗ trợ
việc thiết kế các mức cho kế hoạch dán nhãn, bản thân đánh giá cũng cần một
vài tham chiếu. Ban đầu đánh giá này được dự định để so sánh hiệu quả với kế
hoạch của Trung Quốc, do kế hoạch này đang được cân nhắc làm theo. Tuy
nhiên, kế hoạch của Trung Quốc đang thay đổi, với việc không còn mức thấp
nhất, và có bốn kế hoạch phân mức khác nhau: một cho điều hòa không khí kiểu
cửa sổ, và ba cho điều hòa không khí hệ dàn rời nhưng khác nhau ở công suất
lạnh. Điều này khiến việc so sánh trở nên khó khăn. Vì vậy, để phục vụ mục
đích của đánh giá này, một kế hoạch dán nhãn khả thi dựa trên những kết quả
tìm được qua điều tra đã được đặt ra.
Kế hoạch dán nhãn “thử nghiệm” dựa trên một số cân nhắc: cần bao quát dải
hiệu suất hiện có, từ mức tương đối thấp tới mức cao nhất; nên cung cấp cho
người sử dụng ý niệm rõ ràng về mức hiệu quả tương đối. Tốt nhất là lợi thế có
được khi lựa chọn mức tiết kiệm năng lượng tiềm năng cao hơn là tương đương
cho mỗi bước.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
35
Kết quả là do đó kế hoạch dán nhãn có mức thấp nhất được đặt ra để chỉ loại trừ
các mô đen tồi nhất với hệ số tiết kiệm năng lượng là 2,5 W/W. Nấc cao hơn
tiếp theo được xác định gần mức tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu của
Úc đối với hệ dàn rời cỡ vừa, và mức thứ ba gần với mức tiêu chuẩn hiệu suất
năng lượng tối thiểu của Úc đối với hệ dàn rời cỡ nhỏ. Các mức khác được đặt
sao cho giữa các mức là một mức tiết kiệm năng lượng tương đương nhau. Các
mức của Úc được sử dụng làm tham chiếu do chúng được lựa chọn sau một
nghiên cứu nhằm xác định thông lệ quốc tế hiệu quả nhất. Việc áp dụng kế
hoạch này vào các mô đen được báo cáo trong điều tra cho kết quả được thể hiện
dưới dạng đồ thị trong
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
0 4 8 12 16
Cooling (kW)
EE
R
(W
/W
)
Grade 5
Grade 4
Grade 3
Grade 2
Grade 1
Local manufacturers
Foreign designs
Imports
Hình 5: Hệ Thống Phân Mức Nhãn Có Thể Áp Dụng
Ghi chú: Grade 1, 2, 3, 4, 5: mức 1, 2, 3, 4, 5
Local manufacturers: các nhà sản xuất trong nước
Foreign designs: các thiết kế của nước ngoài
Imports: hàng nhập khẩu
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Cooling: công suất lạnh
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
36
Một điểm yếu có thể xuất hiện là, khi hiệu quả được nâng lên, các nhà sản xuất
sẽ càng gặp khó khăn trong việc đạt tới mức cao hơn tiếp theo. Có thể giải quyết
vấn đề này bằng cách chấp nhận mức rưỡi (ví dụ: mức 3+ và 4+ cùng với mức 3
và 4). Trong tương lai, đối với các mô đen dàn rời cỡ nhỏ hơn, nếu tiêu chuẩn
hiệu suất năng lượng tối thiểu được đặt tới Mức 3, kế hoạch sử dụng mức rưỡi
được sửa đổi này sẽ tạo một thực tế là vẫn có tổng cộng năm mức, bao gồm 3,
3+, 4, 4+ và 5.
Phần sau sẽ nói về hiệu suất của các mô đen được liệt kê trên các trang web.
3.3 HIỆU SUẤT HIỆN TẠI CỦA CÁC MÔ ĐEN TRÊN THỊ
TRƯỜNG
3.3.1 Điều Hòa Không Khí Dàn Rời Hai Cục Cỡ Nhỏ (kích thước danh
nghĩa 1 và 1,5 HP)
Điều hòa không khí dàn rời hai cục là loại điều hòa không khí trong phòng phổ
biến nhất, các kích thước nhỏ hơn có nhiều mô đen hơn. Loại này vốn đã là loại
hiệu quả nhất, và ở các nước khác có xu hướng là đối tượng của các tiêu chuẩn
hiệu suất năng lượng nghiêm ngặt nhất.
Khi áp dụng mức được sử dụng cho đánh giá này, chỉ một vài mô đen không thể
đáp ứng các yêu cầu cho mức thấp nhất. Hầu hết mô đen thuộc các mức 2 và 3.
Có một số mô đen được xếp ở các mức cao hơn, mặc dù đây đều là loại có biến
tần. Điều này cho thấy có tiềm năng đặt tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối
thiểu trong tương lai ở khoảng Mức 3, tương tự với tiêu chuẩn hiệu suất năng
lượng tối thiểu ở các nước khác.
Hình 5 thể hiện thông tin ở dạng đồ thị.
Các mô đen không đạt được bất kỳ mức nào (có nhưng chỉ là ngoại lệ đơn lẻ)
đều xuất xứ từ cùng một nhà sản xuất. Đây cũng là các mô đen có dữ liệu được
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
37
lấy từ trang web của một nhà phân phối/bán lẻ. Nhà sản xuất có một nhà máy ở
Việt Nam, nhưng các mô đen được sản xuất trong nước đáp ứng các yêu cầu của
nhãn. Các yêu cầu của tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu ở nước xuất xứ
đang trở nên ngày càng nghiêm ngặt, và nhiều khả năng đây là một ví dụ về
“dumping”; nghĩa là bán ở Việt Nam các mô đen có thể không còn được bán ở
nước xuất xứ nữa. Việc giới thiệu dán nhãn hiệu quả năng lượng và, sau này là,
tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu sẽ phòng ngừa khả năng này. (Trường
hợp này tương tự đối với toàn bộ sản phẩm điều hòa không khí trong phòng hệ
dàn rời hai cục.)
Hình 5: Phân Loại Các Mô Đen Hệ Dàn Rời Cỡ Nhỏ
3.3.2 . Điều Hòa Không Khí Dàn Rời Hai Cục Cỡ Vừa (kích thước danh
nghĩa 2 và 3 HP)
Như với các mô đen hệ dàn rời cỡ nhỏ hơn, chỉ một vài mô đen không được dán
nhãn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng xét trung bình mức hiệu suất thấp hơn. Chỉ
một mô đen đạt được Mức 4, dù các kết quả điều tra cho thấy hiện đã có thêm
nhiều mô đen đạt được mức này. Mục tiêu dài hạn về hiệu suất năng lượng tối
thiểu có thể sẽ bớt nghiêm ngặt hơn so với các mô đen có mức công suất thấp
0
1
2
3
4
5
0 1 2 3 4 5
Cooling capacity (kW)
EE
R
(W
/W
)
D E F G L M
P R S T Y
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
38
hơn, có lẽ chỉ khoảng Mức 2. Nhưng một mức nghiêm ngặt hơn, có thể giữa
Mức 2 và Mức 3, sẽ được cân nhắc và tìm hiểu.
0
1
2
3
4
5
4 5 6 7 8
Cooling capacity (kW)
EE
R
(W
/W
)
E F G L P R
S T Y
Hình 6 Phân Loại: Các Mô Đen Hệ Dàn Rời Cỡ Vừa
3.3.3 Điều Hòa Không Khí Dàn Rời Hai Cục Cỡ Lớn Hơn (trên 3 HP)
Có khá ít sản phẩm thuộc các mô đen có công suất lớn hơn được bày bán, và xu
hướng của các sản phẩm này là có mức hiệu quả năng lượng tương đối thấp hơn.
Có sự khác biệt giữa các giá trị hiệu quả cung cấp trên trang web và giá trị hiệu
quả điều tra thu được. Tuy nhiên, như có thể thấy trong hình 7, phần lớn mô đen
có thể đạt tới ít nhất là nhãn ở Mức 1. Có vẻ như một bộ tiêu chuẩn hiệu suất
năng lượng tối thiểu dài hạn ở Mức 2 sẽ là khả thi.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
39
Hình 7: Phân Loại Các Mô Đen Hệ Dàn Rời Cỡ Lớn Hơn
3.3.4 Điều Hòa Không Khí Kiểu Cửa Sổ
Dường như có tương đối ít các mô đen điều hòa không khí kiểu cửa sổ (hay một
cục) trên thị trường. Điều này tương tự với các nước khác, khi mà các hệ dàn rời
là loại mô đen thông dụng nhất. Trong trường hợp này, chỉ tìm được dữ liệu về
ba nhà sản xuất.
Hình 8: Phân Loại Điều Hòa Không Khí Kiểu Cửa Sổ
0
1
2
3
4
5
6 7 8 9 10 11 12 13 14
Cooling capacity (kW)
EE
R
(W
/W
)
E G L P
R S Y
0
1
2
3
4
5
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Cooling capacity (kW)
EE
R
(W
/W
)
P
S
T
Mức 5
Mức 4
Mức 3
Mức 2
Mức 1
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
40
Hình 8 thể hiện các giá trị hiệu quả của mô đen trên thị trường. Như được kỳ
vọng, mức hiệu quả thấp hơn đôi chút so với các mô đen hệ dàn rời. Tuy nhiên,
chính các mô đen có công suất lớn hơn là loại có hiệu quả kém nhất, và có thể sẽ
không được dán nhãn. Đây chính là loại mà mức tiết kiệm tiềm năng nhờ lựa
chọn một mô đen hoặc loại điều hòa không khí hiệu quả hơn là lớn nhất. Vì vậy,
sẽ rất tốt khi can người tiêu dùng không mua điều hòa không khí loại cửa sổ có
công suất cao hơn trừ phi loại này có mức hiệu suất năng lượng thỏa mãn.
4 XEM XÉT CÁC CHƯƠNG TRÌNH “DÁN NHÃN VÀ TIÊU
CHUẨN” HIỆN CÓ Ở NƯỚC KHÁC
4.1 QUY TRÌNH KIỂM ĐỊNH
Tất cả các nước đều sử dụng quy trình kiểm định ISO 5151 hoặc một tiêu chuẩn
tương đương, một số tiêu chuẩn được chỉnh sửa đôi chút. Các điều kiện kiểm
định là T1 hoặc gần với điều kiện này để có thể điều chỉnh các kết quả kiểm
định về mặt toán học. (Ngoại trừ tại Philippines, nhiệt độ bầu ướt ngoài trời
được nâng lên cho gần hơn với điều kiện độ ẩm cao gặp phải khi hoạt động.)
Điều kiện kiểm định T1 đánh giá điều hòa không khí ở mức nhiệt độ điển hình
với các điều kiện mà tại đó điều hòa không khí sẽ hoạt động trong phần lớn thời
gian, và do đó phù hợp để đưa ra so sánh giữa các mô đen khác nhau. Rõ ràng sẽ
có đôi lần nhiệt độ lên tới mức của điều kiện khắc nghiệt. Để kiểm tra rằng điều
hòa không khí thực sự làm việc trong các điều kiện như vậy, dù có lẽ không
hoàn toàn hiệu quả, ISO 5151 bao gồm cả phần kiểm định làm lạnh tối đa.
Các bộ điều kiện khác bao gồm T2, tiêu biểu cho các tòa nhà ở những vùng khí
hậu ôn hòa với tải nhiệt được tạo ra trong tòa nhà nhiều hơn được tạo ra do nhiệt
độ bên ngoài, và T3, tiêu biểu cho khí hậu rất nóng nhưng khô và có thể ứng
dụng cho các điều kiện sa mạc.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
41
Đối với các sản phẩm điều hòa không khí hai chiều (hay bơm nhiệt) có ba loại
điều kiện gia nhiệt được xác định. Chi tiết được trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4: Nhiệt Độ Kiểm Định Cho Điều Kiện “T1”
Làm lạnh Công suất lạnh Làm lạnh tối đa
T1 T2 T3 T1 T2 T3
Không khí vào phía
trong nhà
Bầu khô 27 21 29 32 27 32
Bầu ướt 19 15 19 23 19 23
Không khí vào phía
ngoài nhà
Bầu khô 35 27 46 43 35 52
Bầu ướt 24 19 24 26 24 31
Gia nhiệt H1 H2 H3 Gia nhiệt tối thiểu
Không khí vào phía
trong nhà
Bầu khô 20 20 20 20
Bầu ướt 15 15 15 ~
Không khí vào phía
ngoài nhà
Bầu khô 7 2 -7 -5
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
42
Bầu ướt 6 1 -8 -6
Việc điều chỉnh các quy trình kiểm định trên toàn vùng đã giúp ích cho các nhà
quản lý chương trình, các nhà cung cấp, và các phòng thí nghiệm kiểm định.
Một mô hình chỉ phải kiểm định một lần và, với điều kiện kiểm định được tiến
hành tại một phòng thí nghiệm kiểm định được công nhận, có thể chấp nhận các
kết quả ở hầu hết các quốc gia cho từng chương trình của từng nước. Các mô
đen có mức hiệu quả cao hơn có thể tiếp cận thị trường. Một phòng thí nghiệm
kiểm định được công nhận có thể có đủ năng lực để thực hiện công việc cho các
khách hàng nước ngoài.
4.2 MỨC ĐỘ NGHIÊM NGẶT
Mức độ nghiêm ngặt ít nhiều dao động giữa các quốc gia; các nước có các
chương trình lâu năm có xu hướng đề ra các yêu cầu nghiêm ngặt hơn. Mức hiệu
quả của các mô đen trên thị trường có thể phản ánh những yêu cầu mà chương
trình tại nước đó đề ra. Ở những nước có kỳ vọng thấp vào mức hiệu quả, các
mô đen hiệu quả thấp chiếm ưu thế. Các nhà sản xuất quốc tế có khuynh hướng
bán những mô đen hiệu quả thấp ở các quốc gia có mức kỳ vọng thấp, nhưng
vẫn bán các mô đen có hiệu quả cao ở những quốc gia có kỳ vọng cao về hiệu
quả năng lượng.
Biểu đồ dưới đây cho thấy mức độ nghiêm ngặt có tính so sánh trong việc dán
nhãn các sản phẩm điều hòa không khí hệ dàn rời cỡ nhỏ (loại phổ biến nhất) tại
một số nước ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tỉ lệ này là nghịch đảo của
COP (hệ số chuyển hóa năng lượng); so sánh trực tiếp mức sử dụng năng lượng.
Phần thấp hơn, màu xanh cho thấy dải hiệu suất tương ứng nhóm hiệu suất
nghiêm ngặt nhất (ví dụ: một nhãn có sáu sao); các phần trên (nhìn chung có
màu đỏ) cho thấy dải hiệu suất tương ứng với nhóm có hiệu suất thấp nhất (ví
dụ: không có sao). Mức thấp nhất không nằm ngoài phạm vi xếp hạng sẽ có yêu
cầu tối thiểu về hiệu quả năng lượng.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
43
Hình 9 : So Sánh Các Yêu Cầu Dán Nhãn Cho Điều Hòa Không Khí Hệ
Dàn Rời Cỡ Nhỏ
Ghi chú: Small split: dàn rời cỡ nhỏ
4.3 GHI CHÚ CHO TỪNG QUỐC GIA
Hàn Quốc có một chương trình lâu năm, và do đó có một tiêu chuẩn hiệu suất
năng lượng tối thiểu nghiêm ngặt, sự khác nhau giữa các mô đen tốt nhất và tối
nhất trên thị trường là tương đối nhỏ.
Singapore không có tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu, và do vậy dải
hiệu suất của nước này tương đối rộng. Một đặc điểm thú vị của chương trình ở
nước này là chỉ có loại có biến tần (nhiều tốc độ) là đủ tiêu chuẩn được công
nhận cấp cao nhất.
Nhật Bản có điểm độc đáo là yêu cầu của chương trình đối với hiệu quả trung
bình của tất cả sản phẩm được bán. Chỉ có hai mức được xác định cho các nhãn
năng lượng: một cho các mô đen đã đạt được mức mục tiêu, và một cho các mô
đen có hiệu quả thấp hơn mức mục tiêu.
Small split
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
44
Úc và Niu Di Lân vẫn chưa thay đổi các yêu cầu phân mức nhãn, nhưng đã đưa
ra tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu nghiêm ngặt hơn. Kết quả là các
mức nhãn cho hiệu quả năng lượng thấp hơn đã biến mất. Trong ví dụ được đưa
ra, chỉ có ba mức hiệu quả (trong số sáu mức) là có giá trị.
Thái Lan có một chương trình lâu năm. Từ khi chương trình bắt đầu, các mức
nhãn đã thay đổi nhiều lần và chi tiết trên thiết kế của nhãn đã thay đổi để, ví dụ
như, có thể phân biệt giữa Mức 4 của năm ngoái và Mức 4 của năm nay; mức
năm sau sẽ có hiệu quả cao hơn. Dán nhãn năng lượng là tự nguyện, và hai mức
thấp nhất không được sử dụng; các nhà cung cấp không muốn có các nhãn
“kém” trên sản phẩm của họ.
Ấn Độ và Trung Quốc có chương trình dán nhãn tương đối “trẻ”, và đang trong
quá trình điều chỉnh các mức của họ. Ấn Độ đang đẩy các mức lên cao hơn một
mức, để ví dụ như một mô đen nhận 4 sao sẽ trở thành một mô đen 3 sao. Trung
Quốc đang loại bỏ mức tồi nhất, là Mức 5. (Điều này đặt ra câu hỏi điều gì sẽ
xảy ra với các mô đen có hiệu quả thấp; rủi ro là các mô đen này có thể bị đưa
sang các nước khác, đặc biệt những nước có Mức 5 là mức cao nhất.)
Hồng Kông không có tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu, và do đó có dải
hiệu suất rộng. Nhưng nhãn có bao gồm các chi tiết về hiệu suất của sản phẩm.
Philippines chưa có nhãn với các mức, nhưng thay vào đó nước này đưa ra các
chi tiết về hiệu suất.
Các chương trình điều chỉnh định kỳ yêu cầu về tính nghiêm ngặt của mình. Ở
một quốc gia không sản xuất điều hòa không khí, những thay đổi này có thể
được thực hiện nhanh chóng. Các nhà nhập khẩu chỉ cần đặt hàng các mô đen có
mức tiết kiệm cao hơn. Nhưng nếu trong nước có sản xuất, việc lựa chọn thời
điểm và các mức nghiêm ngặt phải được điều chỉnh cho phù hợp với năng lực
của nhà sản xuất trong nước. Tương tự, thông báo về việc chuyển từ kế hoạch
dán nhãn tự nguyện sang bắt buộc phải đủ dài để các nhà sản xuất có thể điều
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
45
chỉnh và tiến hành kiểm định cần thiết. Việc có được sự sẵn lòng tham gia và hỗ
trợ của các ngành là rất quan trọng đối với thành công của một chương trình tiết
kiệm năng lượng.
4.4 THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM
Hiện nay, quy trình kiểm định của Việt Nam tương đồng với các nước khác,
nhưng điều kiện kiểm định lại khác, sử dụng điều kiện T3 (điều kiện sa mạc)
thay vì T1 (điều kiện nhiệt đới). Điều này có thể gây khó khăn. Các nhà cung
cấp điều hòa không khí hiện kiểm định và coi hệ số tiết kiệm năng lượng là một
cách hình dung tốt về hiệu quả của sản phẩm tại điều kiện kiểm định T1. Mức
tiết kiệm ở điều kiện kiểm định T3 không được biết tới, mặc dù nhiều khả năng
các mô đen sẽ được thiết kế lại để hoạt động tại nhiệt độ cao hơn, và cũng sẽ đắt
đỏ hơn, nhưng nhìn chung các mô đen được đánh giá vào khoảng hai mức thấp
hơn. Với điều kiện khí hậu ở Việt Nam, chúng tôi khẩn thiết đề nghị thay đổi
yêu cầu kiểm định là ISO 5151 điều kiện T1.
Chúng tôi cũng đề xuất việc cân nhắc liệu có nên nêu rõ kiểm định làm lạnh tối
đa T1 là một kiểm định bổ sung. Điều này sẽ gia tăng chi phí kiểm định và tuân
thủ, nhưng có thể giúp đảm bảo sự hài lòng của người sử dụng. Quyết định nên
dựa phần nào vào số giờ vượt quá các điều kiện ngoài trời T1 mỗi năm, vào số
lượng bao nhiêu và bao lâu mỗi lần.
4.5 THIẾT KẾ NHÃN
Thiết kế nhãn phần lớn phụ thuộc vào văn hóa mỗi nước. Các mức tiết kiệm và
các mức tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu thường không tương đồng.
Một số quốc gia thay đổi dải hiệu quả năng lượng của các mức khác nhau dựa
theo công suất và loại điều hòa. Những nước khác có một bộ yêu cầu riêng cho
dán nhãn, mặc dù mức tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu (MEPS) có thể
khác nhau tùy theo công suất. Cần cân nhắc khi quyết định sử dụng cách thức
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
46
nào. Do các mô đen có kích thước lớn hơn có xu hướng có hiệu quả năng lượng
kém hơn, và do đó đối với cùng một mức nhãn cho trước các yêu cầu về hiệu
quả năng lượng của nhãn này thấp hơn, có nguy cơ rằng các khách mua tiềm
năng có thể thích lựa chọn một mô đen có công suất lớn hơn và nhãn được xếp ở
mức cao hơn nhưng lại có mức hiệu quả thực tế thấp hơn so với một mô đen có
công suất nhỏ hơn (dù hợp lý hơn) nhưng hiệu quả cao hơn với một nhãn được
xếp thấp hơn.
4.6 VẤN ĐỀ “BÁN HÀNG Ế THỪA RA NƯỚC NGOÀI”
(DUMPING)
Các công ty liên quốc gia thường điều chỉnh sản xuất của họ, tạo ra các mô đen
có mức tiết kiệm cao ở những nước có tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu
nghiêm ngặt nhưng lại tạo ra các mô đen có mức tiết kiệm thấp ở những nước áp
dụng tiêu chuẩn hiệu suất tối thiểu ít nghiêm ngặt hơn hoặc thiếu những yêu cầu
về hiệu suất năng lượng tối thiểu. Do đó, việc đề ra một mức nghiêm ngặt quá
thấp (kể cả đối với tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu và mức nhãn thấp
nhất) đều có rủi ro biến một nước thành nơi bị các nước khác “chôn lấp” những
sản phẩm tồi nhất của họ.
4.7 SẢN PHẨM CÓ BIẾN TẦN
Các sản phẩm có biến tần thường có hiệu quả kém hơn chút ít khi hoạt động ở
công suất định mức, nhưng lại hiệu quả hơn đáng kể khi hoạt động ở các tải thấp
hơn. Trong thực tế vận hành, các mô đen có biến tần được công nhận rộng rãi là
sử dụng ít điện hơn đáng kể so với các mô đen tuần hoàn. Điều này đã được một
số quốc gia cân nhắc khi ấn định phân mức nhãn, với hệ số tiết kiệm năng lượng
danh nghĩa được rút ra từ kết quả kiểm định ở cả chế độ toàn tải và một phần tải.
Singapore đã đi một bước xa hơn, bằng việc chỉ công nhận mức cao nhất cho các
mô đen có biến tần. Mặt khác, một số quốc gia có thể quan tâm hơn đến việc
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
47
giảm tải giờ cao điểm để phân biệt với tiết kiệm năng lượng tổng, và do đó tiếp
tục đánh giá điều hòa không khí ở công suất định mức của sản phẩm.
Có lẽ sẽ là một chiến lược hợp lý khi công nhận mức tiết kiệm hữu hiệu của các
mô đen có biến tần bằng cách: mức hiệu quả năng lượng của mô đen phục vụ
các mục đích dán nhãn được dựa trên sự kết hợp của hiệu quả ở chế độ toàn tải
và một phần tải, cũng như khi yêu cầu mức hiệu suất tối thiểu (MEPS) tại công
suất danh định tương tự như của các mô đen không có biến tần.
5 TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG CẢI THIỆN VỀ MỨC HIỆU QUẢ
NĂNG LƯỢNG ĐỐI VỚI CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ BÁN LẺ
Cả điều tra và xem xét sơ bộ các mô đen điều hòa không khí trên thị trường Việt
Nam đều cho thấy không có hoặc ít có quan hệ giữa giá bán lẻ và mức hiệu quả
hiện nay. Nhưng công việc thiết kế và phát triển để sản xuất các mô đen có mức
hiệu quả cao hơn, cùng những thay đổi kèm theo đối với dây chuyền sản xuất,
đều gánh một chi phí cần được thu hồi bằng cách bán với giá cao hơn. Do đó,
các chi phí gia tăng đi kèm với các mô đen có mức tiết kiệm cao hơn đã được dự
toán, và thời gian hoàn vốn được kỳ vọng nhờ chi phí vận hành thấp hơn cũng
được tính toán.
Dữ liệu về giá thành được lấy cho nhiều loại khác nhau. Trong khi giá thành
không phải lúc nào cũng liên hệ mật thiết với chi phí, phần lớn dữ liệu được lấy
từ một nhà phân phối/bán lẻ lớn. Giá thành do vậy có một cơ sở chung và có căn
cứ để sử dụng cho mục đích so sánh.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
48
Trendline equation is Price = 2,000,000 x kW + 1,000,000
0
5,000,000
10,000,000
15,000,000
20,000,000
25,000,000
0 1 2 3 4 5 6 7 8
Cooling capacity (kW)
Price (VND)
Hình 11
Mối Quan Hệ Giữa Công Suất Lạnh Và Giá Thành
Ghi chú: Phương trình đường xu hướng là Giá thành = 2.000.000 x kW +
1.000.000
Price: giá thành
Cooling capacity: công suất lạnh
Để xác định sự ảnh hưởng của mức hiệu suất lên giá thành, dao động giá cùng
công suất lạnh được cân nhắc. Thể hiện mối quan hệ này, và dù có mức phân tán
rộng, có thể biểu diễn một cách đơn giản mối quan hệ nền tảng này bằng một
mức giá cố định 1 triệu VNĐ cộng với 2 triệu VNĐ cho mỗi kilowatt công suất
lạnh.
Sự chênh lệch so với giá thành dự kiến được xem xét để xác định tác động của
mức hiệu suất lên giá thành. Hình 10 cho thấy kết quả. Mối tương quan giữa giá
thành và hiệu suất là có nhưng yếu. Các đặc điểm khác có lẽ cũng ảnh hưởng
đến việc định giá. Ví dụ, các mô đen mới hơn dễ có các tính năng bổ sung và có
giá cao hơn bất kể chi phí cũng như ngẫu nhiên có mức tiết kiệm cao hơn. Vì
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
49
vậy, ngay cả khi có sự tăng giá ở những mẫu có mức tiết kiệm cao hơn, đây
không nhất thiết là mối quan hệ nhân quả.
Hình 10: Tác Động Của Mức Hiệu Quả Lên Giá Thành
Ghi chú: Comparative price: giá tương đối
EER: hệ số tiết kiệm năng lượng
Một ngoại lệ đối với các nhận định trên có thể là việc tăng mức tiết kiệm đi kèm
với các mô đen có biến tần. Ba mô đen có mức tiết kiệm cao nhất đều thuộc loại
biến tần. Giá của các loại này cao hơn giá trung bình từ 30% đến 50%.
Để phục vụ mục đích phân tích, dao động giá thường được cho là có liên quan
tới hiệu quả, cho dù kinh nghiệm cho thấy trong thực tế điều này không thực sự
xảy ra. Đối với nghiên cứu này, dữ liệu chỉ ra rằng một mối quan hệ có dạng
chi phí ≈ 0,4 + 0,2 x hệ số tiết kiệm năng lượng (EER)
sẽ là phù hợp và nếu đánh giá quá cao việc tăng giá thành gắn với hiệu mức hiệu
quả. (Áp dụng công thức khiến EER tăng từ 3 lên 4, chi phí tăng 20 %.)
6 PHÂN TÍCH LỢI ÍCH CHI PHÍ
Variation of EER with Comparative Price
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
0 1 2 3 4 5
Comparative price
EER
Dao động của hệ số tiết kiệm năng lượng (EER) so với giá tương đối
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
50
Mỗi nhà sản xuất hay nhập khẩu cuối cùng sẽ cố gắng tính toán lợi ích của mỗi
đầu tư vào việc cải thiện hiệu quả năng lượng xét trên phương diện chi phí vận
hành giảm được cho người tiêu dùng, và làm cách nào để so sánh việc tái định vị
mô đen điều hòa không khí tiết kiệm năng lượng hơn với các mô đen khác trên
thị trường. Mặt khác, Bộ Công Thương phải xác định được lượng năng lượng
tiết kiệm được, chi phí bổ sung đối với khách hàng mua các sản phẩm này, và hệ
quả đối với môi trường của việc nâng cao mức hiệu quả của toàn bộ thị trường
điều hòa không khí. Dữ liệu thị trường và phân tích chi phí cải tiến hiệu suất
được sử dụng để xác định chi phí kinh tế và mức tiết kiệm đạt được trong tiêu
thụ năng lượng của người tiêu dùng, giai đoạn hoàn vốn, v.v.
Mỗi người cần nhận ra rằng các dự án hiệu quả năng lượng có tác động ở nhiều
cấp khác nhau. Người tiêu dùng tiết kiệm chi phí tiền điện; nhà sản xuất có thể
bán sản phẩm có giá trị cao hơn; có thể giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng
lượng (bao gồm nhà máy điện và đường dây truyền tải). Các chương trình hiệu
quả năng lượng nên được thiết kế sao cho mọi bên đều có lợi, và đảm bảo rằng
đây là phân tích kinh tế điển hình cần được thực hiện ở cấp độ cá nhân và quốc
gia.
6.1 PHÂN TÍCH SƠ BỘ NGƯỜI TIÊU DÙNG
Các thiết bị dàn rời cỡ nhỏ là loại phổ biến nhất, cũng như dễ chịu ảnh hưởng
nhất từ các yêu cầu tiết kiệm năng lượng. Một phân tích sơ bộ được dựa trên các
thông số sau:
• Hệ số tiết kiệm năng lượng trung bình (W/W) là 2,9 (kết quả từ điều tra dữ
liệu theo dạng đồ thị)
• Giá trung bình của một thiết bị điều hòa không khí được tính bằng
VND 1.000.000 + (2.000.000 x công suất tính đơn vị là kW) (xem Phần 5)
• Dao động giá với hệ số tiết kiệm năng lượng (EER) được tính bằng
chi phí ≈ 0,4 + 0,2 x EER (xem Phần 5)
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
51
• Giá thành biên của điện = 1.800 VND trên một kWh
Các dữ liệu này được sử dụng để tính toán thời gian hoàn lại nhờ số giờ vận
hành ở chế độ toàn tải đối với hai loại điều hòa không khí có kích thước thông
dụng nhất, bao gồm công suất lạnh khoảng 7.000 BTU/h và 12.500 BTU/h. Các
kết quả được cho trong Bảng 5 và Bảng 6 dưới đây.
Bảng 5: Số giờ sử dụng để hoàn lại chi phí tăng
thêm cho một máy điều hòa không khí 7500
BTU/h có mức hiệu quả cao hơn
Từ\Đến Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5
Mức 1 1869 2067 2312 2623
Mức 2 2265 2534 2875
Mức 3 2802 3180
Mức 4 3557
Bảng 6: Số giờ sử dụng để hoàn lại chi phí tăng
thêm cho một máy điều hòa không khí 12.500
BTU/h có mức hiệu quả cao hơn
Từ\Đến Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5
Mức 1 1730 1913 2141 2429
Mức 2 2097 2346 2662
Mức 3 2595 2944
Mức 4 3293
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
52
Điểm thú vị cần lưu ý là thời gian hoàn lại không thay đổi nhiều cùng với mức
độ cải thiện. Cải thiện nhiều hơn không làm tăng thời gian hoàn lại nhiều như dự
kiến, mặc dù lợi ích có thể giảm khi hiệu quả tiếp tục được cải thiện.
Điều này cho thấy chiến lược có lẽ thực sự tốt hơn là hướng ngay tới mức hiệu
quả cao, chứ không cải thiện dần dần. Người tiêu dùng có được lợi ích cần thiết
trong cùng một khoảng thời gian, và lợi ích cho cơ sở hạ tầng (giảm nhu cầu nên
cần ít nhà máy điện mới hơn và ít áp lực hơn lên mạng lưới truyền tải) lớn hơn
rất nhiều. Ngoài ra, nhà sản xuất cũng gặp ít biến động hơn.
6.2 LỢI ÍCH QUỐC GIA – MỨC TĂNG NHU CẦU TỐI ĐA CHẬM
HƠN
Lợi ích quốc gia bao gồm tổng lượng năng lượng tiết kiệm được (cộng với bất
kỳ giá trị nào thu được nhờ lượng phát thải chất gây ô nhiễm và khí nhà kính đã
giảm được) nhưng chủ yếu là chi phí được hoãn lại nhờ công suất phát điện bổ
sung.
Điều hòa không khí vẫn là một thiết bị tương đối mới ở Việt Nam; phần lớn thiết
bị bán được không phục vụ mục đích thay thế mà để lắp mới. Một số ít có thể là
lắp bổ sung, và có lẽ ít được sử dụng thường xuyên hơn so với những máy đã có
trong cùng một hộ gia đình. Tuy nhiên, do kích thước danh nghĩa phổ biến nhất
của điều hòa không khí là một mã lực, và doanh số hàng năm vào khoảng
500.000, nên công suất lắp thêm vào khoảng 350 MW mỗi năm. Một báo cáo
nội bộ của Bộ Công Thương2 sử dụng các dữ liệu được báo cáo chi tiết về doanh
số đã tính toán tải kết nối thêm trong năm 2007 là 322 MW, trong khi số liệu
cho năm 2008 ngoại suy từ tám tháng đầu năm là 354 MW. Tải trùng hợp (nghĩa
là mức tăng phụ tải đỉnh do điều hòa không khí mới) sẽ không tới 100% mà thấp
hơn. Một số điều hòa không khí sẽ không hoạt động; số khác sẽ chạy ở công
2 Báo cáo nội bộ của Bộ Công Thương “Báo cáo chung về thiết bị điều hòa không khí và tủ lạnh bán trong năm
2007-2012”.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
53
suất thấp hơn. Có thể hy vọng một hệ số tải vào khoảng 70%, khiến phụ tải đỉnh
bổ sung vào khoảng 250 MW mỗi năm.
Có thể dự tính tiềm năng giảm mức tải này như sau. Thanh tra các dữ liệu về
hiệu suất hiện nay cho thấy hệ số tiết kiệm năng lượng trung bình là 2,9, và
nghịch đảo, hệ số WVÀO/WRA, là 0,35. Việc tăng trung bình một mức sẽ giảm
được 0,035 cho hệ số WVÀO/WRA này hay tương đương 10 phần trăm. Xét lâu
dài hơn, trung bình việc cải thiện hiệu suất được tối đa hai mức là có thể hy
vọng, mang lại mức giảm 20 phần trăm. Điều này sẽ giảm mức tăng hàng năm
của nhu cầu tối đa từ 250 MW xuống còn 200 MW.
Trong khi nhiều khả năng doanh số hàng năm của thiết bị điều hòa không khí
tăng, thì doanh số tăng sẽ dễ tăng độ bão hòa (số lượng điều hòa không khí trong
một hộ gia đình) khác với tăng độ thâm nhập (số hộ gia đình có ít nhất một thiết
bị điều hòa không khí). Tăng độ bão hòa sẽ khiến tăng ít hơn tải tối đa trùng
hợp.
Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) nhiều khả năng sẽ tính toán chi phí sản xuất
mới cho Việt Nam. Ở các quốc gia khác, giá trị này thường vào khoảng giữa
1.000 USD và 2.000 USD cho mỗi kW công suất. Do đó, công suất phát 50 MW
điện tốn khoảng từ 50 triệu USD đến 100 triệu USD. Mạng lưới phân phối cũng
có thể có liên quan.
6.3 LỢI ÍCH QUỐC GIA – TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG
Ước lượng mức tiết kiệm năng lượng tiềm năng chỉ là con số sơ bộ. Có quá
nhiều khác biệt trong việc sử dụng, và thậm chí mối quan hệ giữa công suất lạnh
được mua và yêu cầu lạnh thực tế cũng chưa được biết thấu đáo. Vì vậy, việc lập
hai bản ước lượng tiếp cận vấn đề từ hai góc độ khác nhau là việc làm thực tế.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
54
Báo cáo nội bộ của Bộ Công Thương được đề cập tới ở trên dự tính mức tiết
kiệm hàng năm tiềm năng là 46 GWh, tăng thêm và góp lại. Bộ cho rằng cải tiến
về kỹ thuật giúp tiết kiệm 20%, chủ yếu nhờ sử dụng các mô đen có biến tần.
Có thể thấy từ kết quả điều tra, việc sử dụng điện của điều hòa không khí trung
bình khoảng hơn 500 kWh mỗi năm. Với lượng doanh số sắp đạt nửa triệu thiết
bị mỗi năm, tổng lượng điện sử dụng thêm mỗi năm sẽ lên tới 250 GWh. Tiềm
năng tiết kiệm nhờ cải thiện được một mức trên ghi nhãn là 10% (như trên),
tương đương 25 GWh mỗi năm tăng thêm và góp lại. Tiết kiệm nhờ tăng hai
mức, khả thi về lâu dài, tương đương 50 GWh mỗi năm. Con số này khớp với
ước tính của Bộ Công Thương.
7 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
7.1 ĐIỀU TRA THỊ TRƯỜNG
Một điều tra đối với 31 nhà sản xuất, nhập khẩu và phân phối điều hòa không
khí lớn nhất chỉ ra rằng có xấp xỉ 500.000 máy điều hòa cỡ từ nhỏ đến vừa được
bán trong năm 2008 ở Việt Nam, mức hiệu quả năng lượng dao động từ rất thấp
tới cao, và các sản phẩm được sản xuất trong nước không phải là các sản phẩm
có mức hiệu quả thấp nhất hoặc cao nhất. Kết quả điều tra cũng cho thấy không
có mối liên quan mật thiết giữa giá thành và mức hiệu quả năng lượng của điều
hòa không khí.
7.2 ĐIỀU TRA NGƯỜI TIÊU DÙNG
Chỉ một phần ba người được hỏi trong điều tra giải thích đúng nhãn. Nhãn cần
được sửa đổi và kiểm định kỹ lưỡng với người tiêu dùng để đảm bảo cho nhãn
được hiểu đúng và “ngay lập tức” cũng như giúp người tiêu dùng lựa chọn một
mô đen hiệu quả hơn. Cũng cần kiểm định để tìm hiểu các chủ đề khác liên quan
tới chương trình thí điểm và tới các tiêu chuẩn tổng quát hơn cùng nỗ lực dán
nhãn. Ví dụ, sẽ tốt nếu nghiên cứu các thông điệp và kênh nào là hiệu quả nhất
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
55
trong một chiến dịch tiếp thị xã hội để thúc đẩy sự chú ý và việc sử dụng nhãn,
và để thăm dò người tiêu dùng nhìn nhận sự phù hợp giữa nhãn xác nhận và
nhãn so sánh như thế nào. Nghiên cứu này sẽ không chỉ góp phần mang lại một
nhãn và chiến dịch tiếp thị tốt, mà còn giúp đảm bảo rằng nhãn sẽ không dễ
dàng bị thay đổi, do nhãn đã dựa trên thị hiếu người tiêu dùng. Ví dụ là các nhãn
về hiệu quả năng lượng được sử dụng tại các quốc gia láng giềng trong Phụ Lục
F.
Cả hai điều tra đều cho rằng thị trường điều hòa không khí đang tăng trưởng với
tốc độ nhanh chóng, nhấn mạnh yêu cầu phải hành động với chương trình tiêu
chuẩn và dán nhãn. Đối tượng tiềm năng nhất là các gia đình trẻ hơn, khá giả, và
được học hành. Dù nam giới thường tham gia vào hầu hết quyết định mua thiết
bị, phụ nữ lại là động lực sau mỗi quyết định lựa chọn sản phẩm trong gia đình.
Bất kỳ nỗ lực tiếp thị nào cũng cần lôi cuốn nhóm đối tượng tiềm năng chung và
nữ giới cũng như nam giới.
Độ tin cậy/độ bền, cùng với giá thành và nhãn hiệu, tỏ ra là sự kết hợp các yếu
tố quan trọng nhất trong việc chọn mua một thiết bị điều hòa không khí. Điều
này gợi ý rằng việc mua máy điều hòa không khí hiện nay là tìm mua giá trị chứ
không phải giá tuyệt đối. Người tiêu dùng tỏ ra cởi mở với thông tin về mức tiết
kiệm năng lượng và cách nó ảnh hưởng tới chi phí vận hành máy điều hòa nhiệt
độ. Nhiều người nói rằng họ sẽ trả nhiều tiền hơn để có được máy điều hòa nhiệt
độ có mức tiết kiệm cao nếu điều này góp phần giảm số lần mất điện.
Nếu thiết bị điều hòa không khí tiết kiệm năng lượng tích hợp các tính năng liên
quan tới sức khỏe được cải thiện và tính tiện lợi, thì các tính năng này rất có thể
sẽ tăng tính hấp dẫn cho các mô đen có mức tiết kiệm năng lượng cao. Mặc dù
chưa được kiểm chứng trực tiếp, nhiều hộ gia đình sử dụng điều hòa nhiệt độ có
trẻ nhỏ và người già trong nhà, và khoảng một phần ba số người được hỏi đã
nhắc tới điều này như một yếu tố trong quyết định mua sắm của họ. Tầm quan
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử
nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--
56
trọng của tính tiện lợi được thể hiện rõ ràng qua việc xếp loại cao cho tiêu chí độ
bền, vốn có thể hiểu là ít phải lo lắng và bảo dưỡng.
Nên kiểm tra kỹ hơn bất kỳ thông điệp hay kênh nào tới người tiêu dùng trước
khi bắt đầu với một nhóm trọng điểm, và nam - nữ nên tham gia vào các nhóm
riêng biệt. Các khẩu hiệu đã được sử dụng trong những chiến dịch tiết kiệm
trước đó – có xu hướng tập trung vào phát thải, môi trường, và lòng yêu nước –
nên được kiểm tra cùng những thông điệp mới hướng tới các yếu tố được liệt kê
ở trên.
Các nhà sản xuất cùng bạn bè và người thân là những nguồn thông tin đáng tin
cậy nhất và nên được tận dụng khi quảng bá cho nhãn. Hai nguồn này nên được
đẩy mạnh trong các nỗ lực tiếp thị như là các công cụ hỗ trợ cho chương trình
tiêu chuẩn và dán nhãn. Thông tin từ chính phủ/dán nhãn có thể phát triển thành
một nguồn đáng tin cậy khác, nhưng khó có thể hy vọng độ tin cậy từ người bán
hàng và phía quảng cáo.
7.3 KẾT QUẢ PHÂN TÍCH KINH TẾ
Điều hòa không khí đang thâm nhập vào thị trường Việt Nam với số lượng lớn,
và điều này sẽ tăng phụ tải đỉnh và sử dụng điện. Phụ tải đỉnh sẽ tăng với tốc độ
khoảng 250 MW mỗi năm. Việc áp dụng một chương trình dán nhãn tích cực
cùng với thông báo về một tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu bắt buộc
trong tương lai có thể giảm mức tăng này xuống còn khoảng 200 MW mỗi năm.
Không có một chương trình dán nhãn, việc sử dụng điện cho máy điều hòa
không khí trong gia đình sẽ tă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo- NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM.pdf