Tài liệu Báo cáo một trường hợp nút động mạch chọn lọc điều trị bướu mỡ - Cơ - Mạch thận khổng lồ liên quan đến thể xơ cứng củ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 120
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP NÚT ĐỘNG MẠCH CHỌN LỌC ĐIỀU
TRỊ BƯỚU MỠ - CƠ - MẠCH THẬN KHỔNG LỒ
LIÊN QUAN ĐẾN THỂ XƠ CỨNG CỦ
Nguyễn Văn Khoa*, Đỗ Anh Toàn*,**, Ngô Xuân Thái*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Nguyễn Ngọc Thái*,**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Báo cáo một trường hợp bướu mỡ - cơ - mạch thận (AML) khổng lồ có liên quan đến thể xơ cứng
củ được điều trị bằng phương pháp nút mạch chọn lọc ở thận trái và mô tả kết quả theo dõi trong 4 năm đối với
thận phải.
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi báo cáo một trường hợp, người đàn ông 43 tuổi nhập viện vì đau
bụng vùng hông lưng bên trái và tiểu máu, tiền căn đã nút mạch chọn lọc điều trị vỡ mạch máu nuôi bướu AML
thận phải cách đây 4 năm. Chụp cắt lớp vi tính cho kết quả bướu AML 2 thận, bên phải có dấu đã nút mạch, bên
trái có khối bướu AML rất to, kích thước: 10*10*8cm, có xuất huyết ở vị trí trung tâm bướu. Bệnh nhân được
can th...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo một trường hợp nút động mạch chọn lọc điều trị bướu mỡ - Cơ - Mạch thận khổng lồ liên quan đến thể xơ cứng củ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 120
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP NÚT ĐỘNG MẠCH CHỌN LỌC ĐIỀU
TRỊ BƯỚU MỠ - CƠ - MẠCH THẬN KHỔNG LỒ
LIÊN QUAN ĐẾN THỂ XƠ CỨNG CỦ
Nguyễn Văn Khoa*, Đỗ Anh Toàn*,**, Ngô Xuân Thái*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Nguyễn Ngọc Thái*,**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Báo cáo một trường hợp bướu mỡ - cơ - mạch thận (AML) khổng lồ có liên quan đến thể xơ cứng
củ được điều trị bằng phương pháp nút mạch chọn lọc ở thận trái và mô tả kết quả theo dõi trong 4 năm đối với
thận phải.
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi báo cáo một trường hợp, người đàn ông 43 tuổi nhập viện vì đau
bụng vùng hông lưng bên trái và tiểu máu, tiền căn đã nút mạch chọn lọc điều trị vỡ mạch máu nuôi bướu AML
thận phải cách đây 4 năm. Chụp cắt lớp vi tính cho kết quả bướu AML 2 thận, bên phải có dấu đã nút mạch, bên
trái có khối bướu AML rất to, kích thước: 10*10*8cm, có xuất huyết ở vị trí trung tâm bướu. Bệnh nhân được
can thiệp với phương pháp nút mạch chọn lọc động mạch nuôi bướu AML thận trái.
Kết quả: Bệnh nhân không còn tiểu máu và giảm đau vùng hông lưng trái, chức năng thận ở giới hạn bình
thường. Về thận bên phải, tính đến thời điểm hiện tại, chúng tôi theo dõi trong 4 năm, hiện tại, khối bướu AML
thận giảm kích thước từ 7*8*10cm còn 6*7*7cm (giảm 47,5% thể tích).
Kết luận: Phương pháp nút mạch chọn lọc an toàn và hiệu quả trong điều trị bướu AML thận, đặc biệt
trường hợp bướu vỡ, bướu khổng lồ, bướu mỡ - cơ - mạch thận kèm thể xơ cứng củ, tiết kiệm tối ưu nhu mô thận
bình thường để duy trì chức năng thận tối đa.
Từ khóa: bướu mỡ - cơ - mạch thận, nút mạch chọn lọc
ABSTRACT
SELECTIVE ARTERIAL EMBOLIZATION OF GIANT RENAL ANGIOMYOLIPOMA ASSOCIATED
WITH TUBEROUS SCLEROSIS COMPLEX
Nguyen Van Khoa, Do Anh Toan, Ngo Xuan Thai, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Ngoc Thai,
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 120 – 125
Objective: To report a giant renal angiomyolipoma (AML) tumor associated with tuberous sclerosis treated
with selective arterial embolization (SAE) in the left kidney and describe follow-up results in 4 years for right
kidney.
Material and Methods: We reported a case, a 43-year-old man hospitalized for flank pain in the left and
hematuria, SAE for rupture of right AML 4 years ago. CT result: AML in two kidneys, the right side had sign of
SAE before, the left side had a giant AML tumor, size: 10*10* 8cm, hemorrhage in the center of the tumor. Patient
was performed SAE for left AML.
Results: The patient had no hematuria and reduced left flank pains; kidney function is normal. The right
kidney, up to the present time, we have monitored for 4 years, currently, size of AML decreased from 7*8* 10cm
down 6*7* 7cm (47.5%, volume).
Conclusion: SAE is safe and effective in treating renal AML tumors, for rupture tumors, giant tumors,
AML associated with tuberculous sclerosis complex, to maintain maximum kidney function.
Keywords: AML tumor, SAE
*Bộ môn Tiết Niệu – ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh **BV Bình Dân
Tác giả liên lạc: TS.BS Đỗ Anh Toàn ĐT: 0983707036 Email: doanhtoan09@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 121
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu mỡ - cơ - mạch thận (AML) thường
bướu lành tính, thành phần bướu bao gồm số
lượng khác nhau của mô mỡ, cơ trơn và mạch
máu bất thường. Khoảng 20% AML là liên quan
đến thể xơ cứng củ (TSC)(5,6). Các bướu AML có
đường kính > 4 cm thường có triệu chứng, xuất
huyết sau phúc mạc và/hoặc tiểu máu, có thể đe
dọa tính mạng bệnh nhân(16). Lựa chọn điều trị
tiêu chuẩn khi bệnh nhân có chỉ định là phẫu
thuật cắt bướu bảo tồn thận(5,6). Tuy nhiên, gần
ba thập kỷ qua, nút động mạch chọn lọc (SAE)
đã được sử dụng làm lựa chọn điều trị đầu tay ở
những bệnh nhân bị chảy máu cấp tính cũng
như dự phòng để ngăn ngừa chảy máu do vỡ
bướu(1). Trường hợp này đại diện cho sự nút
mạch thành công bướu AML thận khổng lồ đi
kèm thể xơ cứng củ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Một bệnh nhân nam 43 tuổi được đưa vào
khoa cấp cứu với tình trạng đau vùng hông lưng
trái và tiểu máu. Bệnh nhân có sinh hiệu ổn
định, giá trị xét nghiệm cho kết quả: thiếu máu
nhẹ (huyết sắc tố (Hb): 9,4 g /dL, hematocrit
(Hct): 29,2%), chức năng thận bình thường. Tiền
căn: năm 2015, bệnh nhân được chẩn đoán: chảy
máu sau phúc mạc do vỡ mạch máu nuôi bướu
mỡ - cơ - mạch thận phải/ bướu mỡ - cơ - mạch
thận 2 bên liên quan thể xơ cứng củ, bệnh nhân
được nút mạch chọn lọc điều trị vỡ mạch máu
nuôi bướu mỡ - cơ - mạch thận phải (Hình 1).
Chụp cắt lớp vi tính hệ niệu có cản quang (1-
32 dãy) cho kết quả: bướu mỡ - cơ - mạch 2 thận,
bên phải có dấu đã nút mạch, còn khối bướu
6*7*7cm, bên trái có khối bướu mỡ - cơ - mạch to,
kích thước: 8*10*10cm, có xuất huyết ở vị trí
trung tâm bướu, gan có hai thương tổn giảm
đậm độ, to nhất là 15mm (Hình 2).
Hình 1. Phim CT và hình ảnh SAE cách đây 4 năm. a) Thương tổn mạch máu, thuốc cản quang thoát ra ngoài
(dấu mũi tên); b & c) AML thận phải; d) phim chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) phát hiện thương tổn thoát
thuốc cản quang ra khỏi mạch máu (dấu mũi tên); e) hình ảnh thận được chụp DSA sau nút mạch
a b c
e d
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 122
Hình 2. Phim CT cho thấy bướu AML thận trái
Bệnh nhân được tiến hành can thiệp nút
mạch chọn lọc động mạch nuôi bướu AML trái.
Đầu tiên, bộ thông nòng mạch máu 5F (catheter
sheath, Introducer II, 5F, Terumo) được đặt vào
động mạch đùi phải, tiếp đó đặt ống thông mạch
máu 5F (Cobra® C2, Terumo - 100cm) với hướng
dẫn của dây dẫn (guidewire) tiếp cận động
mạch chủ, chụp hình động mạch chủ, xác định
chỉ có một động mạch thận trái, tiếp cận động
mạch thận trái, xác định động mạch nuôi bướu,
dùng vi ống thông mạch máu 2,7F
(microcatheter 2,7F; dài 120cm, Progreat,
Terumo) tiếp cận chọn lọc mạch máu nuôi bướu
và tiến hành nút mạch với hạt vi cầu
(Embosphere®), số lượng sử dụng là 2 ống (mỗi
ống 2ml), kích thước hạt lựa chọn 300-500 μm
(Hình 3), tiếp đó bệnh nhân được chụp mạch số
hóa xóa nền thận phải để kiểm tra bướu AML
(Hình 4).
Hình 3. a,b) Hình ảnh chụp DSA của bướu AML thận trái; c) dùng microcatheter chọn lọc mạch máu nuôi
bướu; d) hình ảnh thận sau nút mạch
Hình 4. Hình ảnh chụp DSA thận phải
a b c d
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 123
KẾT QUẢ
Sau can thiệp, theo dõi hậu phẫu sau 2
ngày bệnh nhân có xét nghiệm máu và chức
năng thận ổn định. Công thức máu không thay
đổi so với trước can thiệp (huyết sắc tố: 9,5
g/dL, hematocrit: 29,1%), chức năng thận bình
thường (Ure: 4,2 mmol/l, Creatinine: 78
micromol/l). Bệnh nhân được xuất viện mà
không có bất kỳ biến chứng gì và hẹn tái khám
sau 1 tháng, 3 tháng.
BÀN LUẬN
Bướu mỡ - cơ - mạch (AML) thận thường là
lành tính và khoảng 20% trường hợp liên quan
đến thể xơ cứng củ (TSC), bởi vì đây là loại bướu
lành, trường hợp không có triệu chứng sẽ được
theo dõi mà không cần can thiệp(5,6). Khoảng 60%
bệnh nhân với bướu AML lớn có thể xuất hiện
chảy máu cấp sau phúc mạc, đau vùng hông
lưng, tiểu máu. Và đây cũng là những chỉ định
điều trị cho bệnh nhân(15,16).
Hình 5. Gương mặt bệnh nhân với những đốm trắng
và vết sần điển hình của thể xơ cứng củ
Tỉ lệ mắc bệnh xơ cứng củ ước tính hiện tại
là 1/6000 trẻ ra đời và trên thế giới ước tính hiện
đang có 1 triệu người đang mắc TSC. Rất nhiều
trường hợp bệnh không được phát hiện trong
nhiều năm do những biểu hiện không rõ ràng
của bệnh và những triệu chứng khó phát hiện
trên những bệnh nhân bị ảnh hưởng ở thể nhẹ.
TSC là căn bệnh về gen có thể được di truyền từ
cha mẹ mắc bệnh TSC hoặc có thể là kết quả của
sự đột biến gen ngẫu nhiên. Thể xơ củ chiếm
20% các AML thận, ở 1 thận hay 2 thận, thường
hay phát triển to và gây chảy máu. Bệnh nhân
của chúng tôi được chẩn đoán mắc thể xơ cứng
củ theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội nghị quốc
tế về thể xơ cứng củ (International Tuberous
Complex Concensus Conference) đưa ra năm
2012(12) (Hình 5).
TSC được gây ra bởi sự thay đổi hay biến đổi
(được gọi là đột biến nếu những biến đổi này
gây bệnh) trên một trong hai gen TSC1 trên NST
9 hoặc gen TSC2 trên NST 16. TSC là bệnh về
gen có tính trội, có nghĩa là những bệnh nhân
TSC có thể thừa hưởng gen đột biến nếu có ít
nhất một trong hai cha hoặc mẹ mang gen đột
biến. Ngoài ra TSC cũng là một loại đột biến xảy
ra tự phát ngẫu nhiên, có nghĩa là tiền sử gia
đình hoàn toàn không mang bệnh. Hai phần ba
số ca mắc bệnh TSC là do đột biến tự phát ngẫu
nhiên, một phần ba số ca còn lại là do được di
truyền từ cha hoặc mẹ. TSC có thể được chẩn
đoán thông qua xét nghiệm gen (TSC1, TSC2)
hoặc chẩn đoán về bệnh lý. Xác định một trong
hai gen đột biến gây bệnh TSC1 hay TSC2 trong
DNA của mô bình thường là đủ cơ sở để chẩn
đoán bệnh TSC, lưu ý rằng xấp xỉ 15% bệnh
nhân TSC không xác định được đột biến gen
bằng phương pháp xét nghiệm gen truyền thống
và kết quả xét nghiệm gen bình thường không
có nghĩa là không mắc bệnh TSC(12).
Bướu AML thận có thể được chẩn đoán dễ
dàng bằng siêu âm, CT và MRI. Đối với siêu âm,
bướu AML thận hầu như luôn luôn xuất hiện
như một khối tăng âm do thành phần mỡ của
khối bướu, hay một khu vực giá trị suy giảm âm
(<−20 HU) và cường độ tín hiệu cao trên trọng số
T1 trên hình ảnh CT và MRI giúp chẩn đoán.
Tuy nhiên, không phải tất cả các bướu AML
thận đều thể hiện những hình ảnh rõ rang để
chẩn đoán. Bướu tế bào thận (RCC) cũng xuất
hiện tăng âm trên siêu âm trong khoảng một
phần ba các trường hợp(6,17). Kiểm tra mô bệnh
học nên được thực hiện trong trường hợp nghi
ngờ tổn thương(5). Ở bệnh nhân của chúng tôi,
phim CT cho thấy khối giảm âm tương thích với
chất béo (−40HU), phù hợp với bướu AML thận.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 124
Theo dõi tích cực là lựa chọn cho hầu hết các
AML(2,11,14). Việc điều trị AML có chỉ định trong
trường hợp đau kéo dài hoặc chảy máu cấp tính
hoặc lặp đi lặp lại. Ngoài ra, cắt bỏ khối bướu dự
phòng có đường kính > 4-5 cm ngăn ngừa vỡ tự
phát và xuất huyết nghiêm trọng. Nguy cơ chảy
máu do vỡ tăng theo kích thước của AML. Phẫu
thuật cắt bướu bảo tồn thận là lựa chọn điều trị.
Có thể sử dụng phương pháp nút mạch chọn lọc
ở những bệnh nhân có khối bướu lớn (> 4-5 cm)
không phù hợp để phẫu thuật và là phương
pháp chọn lựa đầu tay trong trường hợp chảy
máu cấp tính. Đối với AML rất lớn, nút mạch
chọn lọc động mạch nuôi bướu trước để khối
bướu co rút nhỏ lại trước khi thực hiện cắt bướu
bảo tồn thận cho phép bảo tồn tốt hơn nhu mô
thận. Ở những bệnh nhân được chẩn đoán mắc
bệnh xơ cứng củ, việc giảm kích thước của AML
hai bên thường có thể được gây ra bằng cách ức
chế con đường mTOR sử dụng everolimus, như
đã được chứng minh trong RCTs(9).
Mạch máu trong AML là bất thường và
không có tính đàn hồi, hình thành phình mạch
và có xu hướng vỡ(7). Do đó, nút mạch nuôi AML
là nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng vỡ
những phình mạch và tiết kiệm tối ưu nhu mô
thận bình thường để duy trì chức năng thận tối
đa(5,7,16). Mục đích khác của việc nút mạch nuôi
AML là giảm kích thước khối bướu. Bệnh nhân
của chúng tôi, phương pháp nút mạch nuôi
bướu được lựa chọn vì bệnh nhân có một khối
bướu rất to bên trái (10*10*8cm), bướu có dấu
hiệu xuất huyết, bệnh nhân có tiền căn đã nút
mạch bướu AML bên phải và hiện tại vẫn còn
khối bướu 6*7*7cm, bệnh nhân có bênh kèm theo
là xơ cứng củ, nên chúng tôi nghĩ phương pháp
nút mạch chọn lọc động mạch nuôi bướu AML
thận trái là lựa chọn tối ưu cho bệnh nhân trong
việc điều trị và để duy trì chức năng thận tối đa.
Một số nhà nghiên cứu đã ủng hộ nút
mạch dự phòng vì đã chứng minh đây là một
phương pháp an toàn và hiệu quả để ngăn
ngừa tình trạng xuất huyết cấp tính(7), và kích
thước bướu trên 4cm là tiêu chuẩn vì
Osesterling et al thấy rằng nếu bướu lớn hơn
4cm thì 82-94% có triệu chứng và 50-60% chảy
máu tự nhiên(13). Việc can thiệp nút mạch bướu
AML bên trái chúng tôi nghĩ là hợp lý. Vấn đề
đặt ra là có can thiệp bướu AML bên phải
(kích thước 6*7*7cm), chúng tôi nêu ra các tình
huống giả định như sau:
Can thiệp bướu AML 2 bên cùng lúc, giải
pháp này không hợp lý bởi các điểm sau: bệnh
nhân chưa có triệu chứng bướu bên phải, nguy
cơ giảm chức năng thận cho bệnh nhân, hội
chứng sau thuyên tắc sẽ rất nặng nề.
Can thiệp dự phòng bướu AML bên phải
sau khi can thiệp bướu AML trái, hiện tại bướu
bên phải chưa gây ra triệu chứng, hơn nữa bướu
bên phải đã có tiền căn nút mạch một lần cách
đây 4 năm.
Theo khuyến cáo của hội nghị quốc tế về
thể xơ cứng củ năm 2012, đối với những bướu
AML chưa có triệu chứng và có kích thước
trên 3cm thì nên sử dụng thuốc điều trị nội
khoa ức chế con đường mTOR(8), và các nghiên
cứu thử nghiệm pha 3 tại thời điểm đó cho kết
quả khả quan về việc giảm kích thước khối
bướu(3). Hướng dẫn điều trị của hội niệu khoa
Âu châu năm 2019 đề cập vai trò của
Everolimus trong điều trị bướu AML thận liên
quan thể xơ cứng củ(4,9).
Cho đến nay, không có nghiên cứu nào
chứng minh tính ưu việt của một vật liệu được
sử dụng trong điều trị nút mạch chọn lọc bướu
AML(5). Các vật liệu sử dụng nút mạch, chẳng
hạn như PVA (Poly Vinyl Alcohol) hoặc
embosphere là dạng các hạt vi cầu, được sử
dụng phổ biến nhất trong nút mạch AML, vì
chúng có thể đi xa vào các mạch máu nuôi
bướu(1,7,16). Việc lựa chọn kích thước của các hạt
vi cầu, cũng như loại vật liệu để nút mạch
AML là tùy vào bác sĩ lâm sàng, tuy nhiên một
số tác giả không sử dụng hạt vi cầu có kích
thước nhỏ hơn 150 microns, do có thể gây ra
biến chứng nặng nề tại phổi(18). Chúng tôi chọn
hạt vi cầu Embosphere®, kích thước 300-500
μm, sau khi tiến hành bơm vào động mạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 125
nuôi bướu, chúng tôi chụp mạch số hóa xóa
nền thận trái kiểm tra thì hình ảnh bướu AML
hoàn toàn mất trên màn hình.
Biến chứng của nút mạch chọn lọc bao gồm
đau, hội chứng sau nút mạch, thương tổn
mạch máu, tiểu máu, nhồi máu thận với hình
thành áp xe, suy thận, nhiễm trùng, ... Hội
chứng sau nút mạch xảy ra do hoại tử nhu mô
thận và được đặc trưng bởi buồn nôn, nôn, sốt,
đau bụng, và tăng bạch cầu. Hội chứng đã
được báo cáo xảy ra ở 80% trường hợp và
được điều trị bảo tồn(5,10). Trong trường hợp
chúng tôi, không có biến chứng gặp phải trong
nút mạch và sau nút mạch.
KẾT LUẬN
Tóm lại, AML ở thận thường là lành tính.
Tuy nhiên bướu lớn sẽ có nguy cơ vỡ gây xuất
huyết sau phúc mạc, có thể đe dọa tính mạng
bệnh nhân. Đặc biệt đối với bướu AML thận có
liên quan đến thể xơ củ, nguy cơ bệnh nhân suy
thận là rất cao do bướu rải rác hai bên thận.
Trường hợp của chúng tôi đại diện cho sự nút
mạch chọn lọc thành công của AML thận khổng
lồ có liên quan đến thể xơ củ, bảo tồn tối đa nhu
mô thận cho bệnh nhân, qua quá trình theo dõi
49 tháng cho bướu bên phải, kích thước bướu
giảm 47,5% thể tích, không có triệu chứng đau
vùng hông lưng phải và không có xuất huyết
sau lần can thiệp từ năm 2015, kết quả nút mạch
điều trị bướu AML trái là thành công về mặt kỹ
thuật, chức năng thận bình thường sau can
thiệp. Tuy nhiên cần theo dõi tích cực trong thời
gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bardin F, et al (2017). "Selective arterial embolization of
symptomatic and asymptomatic renal angiomyolipomas: a
retrospective study of safety, outcomes and tumor size
reduction". Quant Imaging Med Surg, 7(1):pp. 8.
2. Bhatt JR, et al (2016). "Natural history of renal angiomyolipoma
(AML): most patients with large AMLs> 4 cm can be offered
active surveillance as an initial management strategy". Eur Urol,
70(1):85-90.
3. Bissler JJ, et al (2013). "Everolimus for angiomyolipoma
associated with tuberous sclerosis complex or sporadic
lymphangioleiomyomatosis (EXIST-2): a multicentre,
randomised, double-blind, placebo-controlled trial". Lancet,
381(9869):817-824.
4. Bissler JJ, et al (2017). "Everolimus long-term use in patients
with tuberous sclerosis complex: Four-year update of the
EXIST-2 study". PLoS One, 12(8):pp.e0180939.
5. Flum AS, et al (2016). "Update on the diagnosis and
management of renal angiomyolipoma". J Urol, 195(4Part1):834-
846.
6. Jinzaki M, et al (2014). "Renal angiomyolipoma: a radiological
classification and update on recent developments in diagnosis
and management". Abdom Imaging, 39(3):588-604.
7. Kothary N et al (2005). "Renal angiomyolipoma: long-term
results after arterial embolization". J Vasc Interv Radiol, 16(1):45-
50.
8. Krueger DA, et al (2013). "Tuberous sclerosis complex
surveillance and management: recommendations of the 2012
International Tuberous Sclerosis Complex Consensus
Conference". Pediatr Neurol, 49(4):255-265.
9. Ljungberg B, et al (2019). "European Association of Urology
Guidelines on Renal Cell Carcinoma: The 2019 Update". Eur
Urol, 75(5):799-810.
10. Loffroy R et al (2010). "Transcatheter arterial embolization in
patients with kidney diseases: an overview of the technical
aspects and clinical indications". Korean J Radiol, 11(3):257-268.
11. Mues AC, et al (2010). "Contemporary experience in the
management of angiomyolipoma". J Endourol, 24(11):1883-1886.
12. Northrup H, et al (2013). "Tuberous sclerosis complex diagnostic
criteria update: recommendations of the 2012 International
Tuberous Sclerosis Complex Consensus Conference". Pediatr
Neurol, 49(4):243-254.
13. Oesterling JE, et al (1986). "The management of renal
angiomyolipoma", J Urol, 135(6):1121-1124.
14. Ouzaid I, et al (2014). "Active surveillance for renal
angiomyolipoma: outcomes and factors predictive of delayed
intervention". BJU Int, 114(3):412-417.
15. Patatas K, et al (2013). "Patterns of renal angiomyolipoma
regression post embolisation on medium-to long-term follow-
up". Br J Radiol, 86(1024):20120633.
16. Ramon J, et al (2009). "Renal angiomyolipoma: long-term results
following selective arterial embolization". Eur Urol, 55(5):1155-
1162.
17. Seyam RM, et al (2008). "Changing trends in presentation,
diagnosis and management of renal angiomyolipoma:
comparison of sporadic and tuberous sclerosis complex-
associated forms". Urology, 72(5):1077-1082.
18. Villalta JD, et al (2011). "Selective arterial embolization of
angiomyolipomas: a comparison of smaller and larger embolic
agents". J Urol, 186(3):921-927.
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_mot_truong_hop_nut_dong_mach_chon_loc_dieu_tri_buou.pdf