Tài liệu Báo cáo một trường hợp: Đột biến gen gây tăng động: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 150
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP: ĐỘT BIẾN GEN GÂY TĂNG ĐÔNG
Lê Thị Phương Thảo*, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha*, Trần Thanh Tùng**,
Nguyễn Thị Ngọc Minh**, Huỳnh Hồng Hoa**, Đinh Hiếu Nhân*
TÓM TẮT
Huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng trên kết hợp với huyết khối tĩnh mạch lách, tĩnh mạch cửa là một bệnh
hiếm gặp, triệu chứng mơ hồ, diễn tiến chậm và khi phát hiện thường ở giai đoạn muộn, gắn liền với tỉ lệ tử vong
cao, nhiều biến chứng. Một trong các yếu tố nguy cơ chính dẫn tới huyết khối tĩnh mạch là bệnh lý tăng đông,
trong đó bệnh lý tăng đông di truyền đã được chứng minh có vai trò đáng kể. Chúng tôi báo cáo một trường hợp
bệnh nhân nam 45 tuổi nhập viện vì đau bụng cấp với chẩn đoán nhồi máu ruột non do huyết tĩnh mạch mạc treo
tràng trên kết hợp với khối tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch lách được điều trị thành công tại bệnh viện Chợ Rẫy. Tầm
soát rối loạn t...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo một trường hợp: Đột biến gen gây tăng động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 150
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP: ĐỘT BIẾN GEN GÂY TĂNG ĐÔNG
Lê Thị Phương Thảo*, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha*, Trần Thanh Tùng**,
Nguyễn Thị Ngọc Minh**, Huỳnh Hồng Hoa**, Đinh Hiếu Nhân*
TÓM TẮT
Huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng trên kết hợp với huyết khối tĩnh mạch lách, tĩnh mạch cửa là một bệnh
hiếm gặp, triệu chứng mơ hồ, diễn tiến chậm và khi phát hiện thường ở giai đoạn muộn, gắn liền với tỉ lệ tử vong
cao, nhiều biến chứng. Một trong các yếu tố nguy cơ chính dẫn tới huyết khối tĩnh mạch là bệnh lý tăng đông,
trong đó bệnh lý tăng đông di truyền đã được chứng minh có vai trò đáng kể. Chúng tôi báo cáo một trường hợp
bệnh nhân nam 45 tuổi nhập viện vì đau bụng cấp với chẩn đoán nhồi máu ruột non do huyết tĩnh mạch mạc treo
tràng trên kết hợp với khối tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch lách được điều trị thành công tại bệnh viện Chợ Rẫy. Tầm
soát rối loạn tăng đông trên bệnh nhân, chúng tôi đã phát hiện bệnh nhân có đột biến gen gây tăng đông. Kết quả
xét nghiệm dù không làm thay đổi phương pháp điều trị đối với bệnh nhân nhưng tạo điều kiện hướng dẫn việc
ra quyết định trong tương lai cho bệnh nhân và gia đình. Điều trị kéo dài bằng thuốc kháng đông giúp dự phòng
huyết khối tái phát và cải thiện được tiên lượng.
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng trên, đột biến gen gây tăng đông
ABSTRACT
A CASE REPORT: HYPERCOAGULABLE GENETIC MUTATION
Le Thi Phuong Thao, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha, Tran Thanh Tung,
Nguyen Thi Ngoc Minh, Huynh Hong Hoa, Dinh Hieu Nhan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 150 – 155
Upper mesenteric venous thrombosis associated with thrombosis of the splenic vein, portal vein is a rare
disease, vague symptoms, progresses slowly and the detection usually at a later stage, associated with a high
mortality, complications. One of the major risk factors leading to venous thrombosis was thrombophilia, including
congenital thrombophilia proven significant role. We report a case of patient 45 years old admitted to Cho Ray
hospital due to acute abdominal pain and diagnosed with small intestinal necrosis by thrombosis of upper
mesenteric vein, associated with thrombosis in portal and splenic vein. Approach to the hypercoagulable state in
patient, we detected hypercoagulable genetic mutation. Despites the results of the thrombophilia testing should
rarely affect clinical decisions about the treatment of VTE, it might be useful for guiding future decisions making
for patient and family members. Patient was treated sucessfully and anticoagulant was used to prevent recurrent
thrombosis and improve prognosis.
Keywords: upper mesenteric venous thrombosis, Hypercoagulable genetic mutation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Huyết khối tĩnh mạch mạc treo (Mesenteric
venous thrombosis – MVT) là một bệnh hiếm
gặp chiếm khoảng 1 trong 5.000-15.000 bệnh
nhân nhập viện, 1 trong 1.000 trường hợp
nhập cấp cứu và chiếm tỉ lệ 6-9% trong tất cả
các trường hợp thiếu máu mạc treo cấp tính(13).
MVT mặc dù hiếm gặp nhưng nó là nguyên
nhân chủ yếu đe dọa tính mạng trong các bệnh
lý gây nhồi máu mạc treo với tỉ lệ tái phát cao.
Nguyên nhân gây tử vong chủ yếu là biến
chứng nhiễm trùng huyết và suy đa cơ quan,
ngoài ra còn có hội chứng ruột ngắn, huyết
khối tái phát và thuyên tắc phổi(13). Một trong
*Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Phương Thảo ĐT: 0906977809 Email: dr.phuongthao3012@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 151
các yếu tố nguy cơ chính dẫn tới huyết khối
tĩnh mạch là bệnh lý tăng đông, trong đó bệnh
lý tăng đông di truyền đã được chứng minh có
nhiều vai trò đáng kể(4,11,12,14,15). Bệnh lý tăng
đông di truyền sẽ ảnh hưởng lên hệ thống
đông cầm máu theo 3 con đường: tăng các yếu
tố đông máu, giảm các yếu tố kháng đông tự
nhiên và bất thường hệ tiêu sợi huyết. Việc
điều trị nền tảng của huyết khối tĩnh mạch vẫn
là thuốc kháng đông bên cạnh các can thiệp
khác khi có chỉ đinh: phẫu thuật, can thiệp nội
mạch tái thông dòng(3,9,11). Trên cơ địa bệnh
nhân có yếu tố tăng đông di truyền thì nguy cơ
huyết khối tĩnh mạch tái phát là rất cao, đòi
hỏi cần có một thái độ tiếp cận thích hợp, quản
lý sát đối với những bệnh nhân bị huyết khôi
tĩnh mạch nhằm tránh xảy ra huyết khối tái
phát, dẫn tới những biến chứng đe dọa tính
mạng bệnh nhân.
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Bệnh nhân nam, 45 tuổi, là kiến trúc sư tại
tỉnh An Giang. Tiền căn bệnh nhân từng ghi
nhận 1 lần huyết khối tĩnh mạch đùi phải năm
2012, được điều trị nội khoa tại bệnh viện Chợ
Rẫy với Sintrom trong vòng 3 năm. Gia đình
bệnh nhân chưa từng ghi nhận có thành viên có
bệnh lý đông cầm máu trước đó. Cách nhập viện
2 tuần, bệnh nhân bắt đầu đau liên tục, âm ỉ,
cường độ nhẹ vùng thượng vị, không lan, không
tư thế giảm đau. Bệnh nhân tự mua thuốc giảm
đau uống. Trước đó có ghi nhận bệnh nhân ói
nhiều sau khi tham dự tiệc. Cách nhâp viện 4
ngày, bệnh nhân bắt đầu đau nhiều hơn, đau dữ
dội, cường độ mạnh khắp vùng bụng nên nhập
viện bệnh viên tại địa phương. Tại bệnh viện địa
phương, bệnh nhân được làm xét nghiệm và
chẩn đoán “Nhồi máu ruột non do huyết khối
toàn phần tĩnh mạch lách, tĩnh mạch cửa, tĩnh
mạch mạc treo tràng trên”. Bệnh nhân được
chuyển viện đến bệnh viện Chợ Rẫy ngay sau đó
(12/02/2019). Tại khoa cấp cứu bệnh viện Chợ
Rẫy, bệnh nhân tỉnh táo, không nôn ói, mạch 105
lần/phút, huyết áp 110/70 mmHg, không sốt,
bụng chướng, ấn đau khắp bụng, các cơ quan
khác không ghi nhận bất thường. CTscan bụng
có cản quang khẩn có kết quả: Huyết khối hoàn
toàn tĩnh mạch cửa các nhánh, tĩnh mạch lách,
tĩnh mạch mạc treo tràng trên; phù nề lan tỏa các
quai hỗng tràng, thành dày, bắt thuốc kém, dịch
trong lòng các quai ruột này có đậm độ cao nghĩ
hoại tử ruột; dịch tự do ổ bụng lượng ít. Các xét
nghiệm khác tại thời điểm nhập viện có kết quả
như Bảng 1. Các xét nghiệm sinh hóa trong giới
hạn bình thường. Lúc này, bệnh nhân được chỉ
định phẫu thuật cấp cứu, kết quả cắt đoạn ruột
non hoại tử dài 160 cm, đưa 2 đầu ruột ra da, sử
dụng lại kháng đông lovenox 40 mg/0,4 ml ngay
sau khi vết mổ ổn định, không chảy máu, nuôi
ăn hỗng tràng và hồi sức tích cực tại khoa ICU
bệnh viện Chợ Rẫy. Sau đó bệnh nhân được đề
nghị các xét nghiệm khảo sát tìm bệnh lý tăng
đông và hội chứng kháng phospholipid và có
kết quả như Bảng 2. Ngoài ra, bệnh nhân còn
được đề nghị làm thêm tìm đột biến gen gây
tăng đông vào ngày 27/02/2019 và phát hiện kết
quả bất thường như Bảng 3.
Bảng 1. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ và đông
cầm máu tại thời điểm nhập viện (12/02/2019)
Các thông số Kết quả bệnh
nhân
Giá trị bình
thường
Đơn vị
RBC 4,93 3,8 – 5,5 T/L
HGB 151 120 – 170 g/L
HCT 44 34 – 50 %
MCV 89,2 78 – 100 fL
MCH 30,6 24 – 33 pg
MCHC 343 315 - 355 g/L
WBC 24,19 4 – 11 G/L
%Neu 82 45 – 75 %
%Lym 6 20 – 40 %
%Mono 11,3 4 – 10 %
%Eso 0,6 2 – 8 %
%Baso 0,1 0 - 2 %
#Neu 19,83 1,8 – 8,25 G/L
#Lym 1,45 0,8 – 4,4 G/L
#Mono 2,74 0,16 – 1,1 G/L
#Eso 0,15 0,08 – 0,88 G/L
#Baso 0,02 0 – 0,22 G/L
PLT 258 200 - 400 G/L
PT 21,3 10 – 13 giây
INR 1,79 1 – 1,2
Fib 4,61 2 – 4 g/L
aPTT 32,8 26 - 37 giây
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 152
Bảng 2. Kết quả xét nghiệm khảo sát tình trạng tăng
đông (15/02/2019)
Các thông số Kết quả
bệnh nhân
Giá trị bình
thường
Đơn vị
Protein S 67,7 62-145 %
Protein C 39 70-135 %
AntiThrombin 40,8 80-130 %
Yếu tố V Leiden 1,95 ≥ 2.15 R
Lupus Anticoagulant–Screen 46,6 31.0-44.0 s
Lupus Anticoagulant–
Screen Ratio
1,43
0.9-1.1 R
Anti- Cardiolipin IgM < 1,0 ≤ 20 U/mL
Anti- Cardiolipin IgG < 2,6 ≤ 20 U/mL
Anti-Beta 2 Glycoprotein I
IgM
< 1,1
≤ 20 U/mL
Anti-Beta 2 Glycoprotein I
IgM
< 6,4
≤ 20 U/mL
D-Dimer >10000 0-500 ng/mL
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm tìm đột biến gen tăng
đông bằng kỹ thuật StripAssay thực hiện tại bệnh
viện Chợ Rẫy (27/02/2019)
Đột biến gen được
khảo sát
Kết quả
FV G1691A (Leiden) Không phát hiện đột biến
FV H1299R (R2) Phát hiện đột biến (Gene dị hợp)
Prothrombin G20210A Không phát hiện đột biến
MTHFR C677T Không phát hiện đột biến
MTHFR A1298C Không phát hiện đột biến
FXIII V34L Không phát hiện đột biến
PAI-1 4G/5G
Phát hiện đột biến 4G/5G (Gene dị
hợp)
EPCR Phát hiện kiểu gen (A2/A2)
Sau 1,5 tháng nằm và điều trị tại ICU, tình
trạng bệnh nhân ổn định, bệnh nhân được
chuyển sang kháng đông đường uống
rivaroxaban (Xarelto) 15 mg 1 viên/ngày uống,
tiến hành phẫu thuật thì 2 tái lưu thông ruột và
được xuất viện vào ngày 11/04/2019. Sau khi
xuất viện, bệnh nhân được điều trị duy trì với
rivaroxaban (Xarelto) 15 mg 1 viên/ngày.
Bảng 4. Kết quả xét nghiệm tại thời điểm sau 2 tuần
xuất viện (25/04/2019)
Các thông số Kết quả BN
Giá trị bình
thường
PT 19.2 giây
INR 1,74
FIB 4,04 g/L
aPTT 45,5 giây
Yếu tố VIII 115,94 %
Protein S 139,8 %
Protein C 100,8 %
Antithrombin 122,2 %
Yếu tố V Leiden 2,58 %
Siêu âm Hiện không thấy huyết khối tĩnh mạch
lách – Tĩnh mạch cửa và đoạn đầu tĩnh
mạch mạc treo tràng trên.
BÀN LUẬN
Bệnh nhân của chúng tôi nhập viện vì tình
trạng đau bụng với bệnh sử ghi nhận các triệu
chứng mơ hồ không rõ ràng kéo dài 2 tuần, tiền
căn huyết khối tĩnh mạch đùi phải năm 2012.
Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu ruột
non do huyết khối hoàn toàn tĩnh mạch mạc treo
tràng trên, tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch lách. Qua
đó cho thấy huyết khối mạc treo các triệu chứng
mơ hồ, diễn tiến chậm và khi phát hiện thường ở
giai đoạn muộn, gắn liền với tỉ lệ tử vong cao,
nhiều biến chứng.
Chúng ta cần phân biệt thiếu máu cục bộ do
huyết khối tĩnh mạch mạc treo và huyết khối
động mạch mạc treo. Với MVT thường xảy ra
khi có tình trạng tăng đông, trong khi nguyên
nhân tim mạch và rung nhĩ thường liên quan
đến huyết khối động mạch. Các nguyên nhân
khác của đau bụng cấp như viêm tụy cấp, tắc
nghẽn tinh hoàn, thủng ruột, viêm túi mật cấp
và viêm ruột thừa cấp có thể được loại trừ bằng
triệu chứng lâm sàng và hình ảnh học ổ bụng.
Tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị huyết khối tĩnh
mạch sâu, với tỉ lệ từ 17-44% trường hợp, làm
tăng thêm nghi ngờ về chẩn đoán MVT(13).
Tương tự như vậy, sự phát triển báng bụng ở
bệnh nhân đau bụng cấp cũng làm tăng thêm
nghi ngờ chẩn đoán MVT(13). Ở bệnh nhân này
đã ghi nhận tiền căn huyết khối tĩnh mạch đùi
phải giúp củng cố thêm chẩn đoán. Chụp cắt lớp
vi tính là phương thức chẩn đoán được lựa chọn
với độ nhạy 93,3% và độ đặc hiệu 95,9% giúp
chẩn đoán chính xác trong 90% trường hợp
MVT(10). Việc tăng tần suất sử dụng chụp cắt lớp
vi tính để chẩn đoán trong đau bụng cấp và sử
dụng thuốc kháng đông trong huyết khối tĩnh
mạch mạc treo cấp tính đã cải thiện tiên lượng
sống còn ở những bệnh nhân này(13).
Bên cạnh việc chẩn đoán và điều trị kịp thời
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 153
thì việc xác định nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
nền cũng như dự phòng huyết khối tĩnh mạch
tái phát cũng đóng một vai trò vô cùng quan
trọng. Hệ thống đông cầm máu bình thường
được cân bằng bởi ba hệ thống: hệ thống đông
máu, hệ thống kháng đông tự nhiên và quá trình
tiêu sợi huyết. Trong đó, yếu tố V Leiden và đột
biến prothrombin G20210A là bất thường di
truyền tăng đông thường gặp nhất(16). Ở bệnh
nhân này, bằng kỹ thuật StripAssay xác định đột
biến gen đã phát hiện bệnh nhân có gen dị hợp
FV H1299R (R2) và PAI-1 4G/5G. Sự tồn tại của
đột biến FV H1299R (R2) bản thân nó đã được
chứng minh là có liên quan đến tăng nguy cơ
huyết khối tĩnh mạch và đã được đề nghị tầm
soát haplotype R2 trên dân số bị huyết khối tĩnh
mạch, thông qua cơ chế làm giảm hoạt động của
protein C hoạt hóa ức chế yếu tố VIIIa (2,4,11).
Gen dị hợp PAI-1 4G/5G, đặc biệt là sự xuất hiện
của allel 4G cũng đã được chứng minh là yếu tố
nguy cơ của huyết khối tĩnh mạch, đặc biệt ở
những bệnh nhân có kèm theo một rối loạn di
truyền tăng đông khác, thông qua cơ chế ức chế
chất kích hoạt plasminogen loại mô (t-PA), ngăn
chặn sự tạo plasmin làm tiêu fibrin(14,15).
Câu hỏi thú vị được đặt ra là các kết quả xét
nghiệm đột biến gen có nguy cơ gây tăng đông ở
trên có ảnh hưởng gì đến việc quyết định điều trị
cũng như tiên lượng của bệnh nhân. Theo tác giả
Coppens, kết quả xét nghiệm tăng đông hiếm
khi ảnh hưởng đến quyết định trên lâm sàng về
vấn đề điều trị. Các dữ liệu có sẵn cho thấy
không có sự khác biệt về tỉ lệ tái phát VTE giữa
nhóm bệnh nhân có và không có bệnh lý tăng
đông, hoặc ở những bệnh nhân làm và không
làm xét nghiệm tăng đông di truyền(15). Ngoài ra,
nhiều xét nghiệm khi được làm tại thời điểm
xuất hiện huyết khối ban đầu, ví dụ như các xét
nghiệm protein C, protein S, antithrombin và
kháng đông lupus có thể cho kết quả dương tính
giả do đang trong tình trạng huyết khối cấp tính,
tình trạng viêm, mang thai hoặc sảy thai gần
đây, và các tình trạng bệnh lý khác kèm theo. Sự
hiện diện của thuốc kháng đông có thể cho kết
quả dương tính giả, đặc biệt đối với kháng thể
kháng phospholipid(8). Các kết quả xét nghiệm
tăng đông trên bệnh nhân này (ví dụ như
protein S, protein C, yếu tố V Leiden,
antithrombin, lupus anticoagulant) được thực
hiện lúc đang có huyết khối (D-dimer >10000
ng/mL) và đang sử dụng kháng đông
(enoxaparin) là một ví dụ cụ thể. Sau khi xuất
viện, các kết quả xét nghiệm tăng đông trở về
bình thường. Do đó, xét nghiệm tại thời điểm có
huyết khối có thể cho kết quả không rõ ràng về
độ tin cậy của kết quả, dẫn tới phải lặp lại xét
nghiệm, tăng chi phí điều trị. Kết quả dương
tính giả có thể dẫn đến chẩn đoán bệnh nhân bị
thiếu hụt trong khi bệnh nhân không có, và kết
quả bình thường có thể cung cấp sự bảo đảm sai.
Tuy nhiên, ở bệnh nhân này đã từng có tiền căn
VTE (năm 2012) và lần này bị huyết khối ở vị trí
bất thường (huyết khối tĩnh mạch lách, tĩnh
mạch cửa, tĩnh mạch mạc treo tràng trên). Theo
phân loại dựa trên tam giác Virchow, bệnh lý
tăng đông là yếu tố ảnh hưởng chính trong
huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng trên (chiếm
tỉ lệ 60%), tiếp theo là chấn thương trực tiếp
(29%) và tình trạng ứ máu (16%)(1,16). Theo phác
đồ điều trị huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng
trên của hiệp hội phẫu thuật mạch máu châu Âu
cũng đã có hướng dẫn về việc xét nghiệm bệnh
lý tăng đông trên những bệnh nhân này(3). Tuy
nhiên, khi xét nghiệm chúng ta cần lưu ý không
xét nghiệm tăng đông khi bệnh nhân đang bị
huyết khối tĩnh mạch, chỉ xét nghiệm khi ngưng
kháng đông hoặc khi cân nhắc ngưng kháng
đông(14). Không xét nghiệm khi bệnh nhân đang
sử dụng kháng đông: ngưng kháng vitamin K ít
nhất 2 tuần, thuốc kháng đông đường uống mới
(DOAC) ngưng ít nhất 2 ngày, và heparin
(không phân đoạn và trọng lượng phân tử thấp)
ngưng ít nhất 24 giờ(6). Các xét nghiệm tìm đột
biến gen tăng đông bằng StripAssay (kĩ thuật
PCR) dù kết quả không bị ảnh hưởng bởi tình
trạng huyết khối cũng như sử dụng thuốc kháng
đông, nhưng cũng không cần thiết phải thực
hiện tại khoa cấp cứu hay khi bệnh nhân nằm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 154
viện vì huyết khối tĩnh mạch do không làm thay
đổi điều trị.
Một khi MVT được thiết lập chẩn đoán, sử
dụng thuốc kháng đông nên được thực hiện
càng sớm càng tốt khi không có chống chỉ
định(3,9). Tỉ lệ chảy máu ở bệnh nhân được điều
trị với kháng đông tương đối thấp < 10% với
biểu hiện xuất huyết tiêu hóa là chủ yếu và có
thể được kiểm soát bằng β-blocker hay nội soi
cầm máu. Nếu không liên quan đến xuất huyết
nội sọ, chảy máu hiếm khi là nguyên nhân gây
tử vong ở bệnh nhân được điều trị kháng
đông(13). Bệnh nhân bị nhồi máu xuyên thành và
có dấu hiệu viêm phúc mạc thì được điều trị
bằng phẫu thuật. Trong loạt trường hợp khác
nhau, trung bình đoạn ruột bị cắt bỏ dài từ 50
đến 60 cm(5,13). Ở bệnh nhân này, khi nhập viện
đã được ghi nhận có dấu hiệu hoại tử ruột nên
được quyết định phẫu thuật cấp cứu cắt bỏ đoạn
ruột hoại tử. Sau đó, bệnh nhân được hồi sức
tích cực, điều trị bằng thuốc kháng đông
enoxaparin (Lovenox) với liều 1mg/kg tiêm dưới
da mỗi 12 giờ và duy trì với rivaroxaban
(Xarelto) 15mg 1 viên/ ngày uống. Sau 10 tuần
điều trị, kiểm tra trên siêu ghi nhận không thấy
huyết khối tĩnh mạch lách, tĩnh mạch cửa và
đoạn đầu tĩnh mạch mạc treo tràng trên, bệnh
nhân sinh hoạt bình thường, không triệu chứng
xuất huyết. Bệnh nhân được theo dõi, tái khám
định kì và được tư vấn phòng tránh các yếu tố
nguy cơ gây huyết khối.
KẾT LUẬN
Huyết khối tĩnh mạch mạc treo, tĩnh mạch
lách, tĩnh mạch cửa kết hợp là một bệnh hiếm
gặp, triệu chứng mơ hồ dẫn tới việc phát hiện
chậm trễ, nguy cơ tử vong và biến chứng cao.
Phần lớn nguyên nhân của huyết khối tĩnh mạch
mạc treo tràng trên, tĩnh mạch lách, tĩnh mạch
cửa là bệnh lý tăng đông trong đó bệnh lý tăng
đông di truyền đã được chứng minh có vai trò
đáng kể trong cơ chế bệnh sinh. Việc xác định
đột biến gen tăng đông hay bệnh lý tăng đông di
truyền dù không ảnh hưởng đến quyết định
điều trị trong giai đoạn huyết khối cấp tính
nhưng có ý nghĩa giúp đưa ra quyết định điều
trị trong tương lai như dự phòng thứ phát ngăn
ngừa huyết khối tái phát, ngăn ngừa nguy cơ
biến chứng và tử vong có thể xảy ra. Điều trị
bằng thuốc kháng đông kéo dài nhằm kiểm soát
tình trạng tăng đông bất thường giúp phòng
ngừa huyết khối tái phát và cải thiện tiên lượng
cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Acosta S, Alhadad A, Svensson P, Ekberg O (2008).
Epidemiology, risk and prognostic factors in mesenteric venous
thrombosis. Br J Surg, 95(10):1245-51.
2. Alhenc-Gelas M, Nicaud V, Gandrille S, et al (1999). The factor
V gene A4070G mutation and the risk of venous thrombosis.
Thromb Haemost, 81:193–7.
3. Björck M, Koelemay M, Acosta S, et al (2017). Editor's Choice -
Management of the Diseases of Mesenteric Arteries and Veins:
Clinical Practice Guidelines of the European Society of Vascular
Surgery (ESVS). Eur J Vasc Endovasc Surg, 53(4):460-510.
4. Castoldi E, Simioni P, Kalafatis M, et al (2000). Combinations of
4 mutations (FV R506Q, FV H1299R, FV Y1702C, PT 20210G/A)
affecting the prothrombinase complex in a thrombophilic
family. Blood, 96:1443-1448.
5. Cenedese A, Monneuse O, Gruner L, et al (2009). Initial
management of extensive mesenteric venous thrombosis:
retrospective study of nine cases. World J Surg, 33(10):2203-2208.
6. Connors JM (2017). Thrombophilia Testing and Venous
Thrombosis. N Engl J Med, 377:1177-1187.
7. Coppens M, Reijnders JH, Middeldorp S, Doggen CJ, Rosendaal
FR (2008). Testing for inherited thrombophilia does not reduce
the recurrence of venous thrombosis. J Thromb Haemost, 6:1474-
7.
8. Emmanuel J. Favaloro and Giuseppe Lippi (2017). Interference
of direct oral anticoagulants in haemostasis assays: high
potential for diagnostic false positives and false negatives. Blood
Transfus, Nov; 15(6):491–494.
9. Howard LS, Hughes RJ. (2013). NICE guideline: management of
venous thromboembolic diseases and role of thrombophilia
testing. Thorax, 68: 391-3.
10. Menke J (2010). Diagnostic accuracy of multidetector CT in
acute mesenteric ischemia: systematic review and meta-
analysis. Radiology, 256:93-101.
11. Otrock ZK, Taher AT, Shamseddeen WA, et al (2008). Factor V
HR2 haplotype: a risk factor for venous thromboembolism in
individuals with absence of Factor V Leiden. Ann Hematol,
87(12):1013-6.
12. Salwa Khan, Joseph DD (2006). Hereditary thrombophilia.
Thromb J, pp.4-15.
13. Singal AK, Kamath PS, Tefferi A (2013). Mesenteric venous
thrombosis. Mayo Clin Proc, 88(3):285-94.
14. Tsantes AE, Nikolopoulos GK, Bagos PG, et al (2007).
Association between the plasminogen activator inhibitor-1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 155
4G/5G polymorphism and venous thrombosis. A meta-analysis.
Thromb Haemost, 97(6):907-13.
15. Wang J, et al (2014). Association between the plasminogen
activator inhibitor-1 4G/5G polymorphism and risk of venous
thromboembolism: a meta-analysis. Thromb Res, 134(6):1241-8.
16. Zarrouk M, Salim S, Elf J, Gottsäter A, Acosta S (2017). Testing
for thrombophilia in mesenteric venous thrombosis -
Retrospective original study and systematic review. Best Pract
Res Clin Gastroenterol, 31(1):39-48.
Ngày nhận bài báo: 15/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_mot_truong_hop_dot_bien_gen_gay_tang_dong.pdf