Báo cáo Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa

Tài liệu Báo cáo Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa: BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua cùng với quá trình phát triển kinh tế, cùng với sự thay đổi sâu sắc của cơ chế kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển góp phần tích cực vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng quản lý tài chính quốc gia, quản lý doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện dường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta đang trong quá trình tiến hành CNH - HĐH thì nhu cầu về vốn càng trở nên cấp bách hơn, nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều phải có trong tay một lượng vốn nhất định. Việc tổ chức, quản lý, sử dụng vốn tiết kiệm và có h...

doc79 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua cùng với quá trình phát triển kinh tế, cùng với sự thay đổi sâu sắc của cơ chế kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển góp phần tích cực vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng quản lý tài chính quốc gia, quản lý doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện dường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta đang trong quá trình tiến hành CNH - HĐH thì nhu cầu về vốn càng trở nên cấp bách hơn, nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều phải có trong tay một lượng vốn nhất định. Việc tổ chức, quản lý, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả hay không mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự sống còn của các doanh nghiệp để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề bức thiết đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, hiệu quả sử dụng vốn đang là một vấn đề được quan tâm. Nhìn chung hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn đang ở mức thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Nếu chúng ta không có giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính thì các doanh nghiệp sẽ khó đứng vững được trong môi trường cạnh tranh quốc tế và dẫn đến nguy cơ tụt hậu. Mặt khác, nền kinh tế thị trường luôn đi kèm với cạnh tranh gay gắt, khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục phấn đấu ở mọi mặt các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, giảm thiểu chi phí, hạ giá thành, tăng doanh thu có lợi nhuận. Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng cũng như yêu cầu thực tế về hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Đồng thời xuất phát từ mục đích của bản thân mong muốn được nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn về vốn lưu động, cùng với kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập tại trường và qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa, được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn cùng với tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, em đã quyết định chọn đề tài 13 với nội dung: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa” . Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về vốn lưu động trong doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần mía đường thanh Hóa. Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa. Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một vấn đề phức tạp mà giải quyết nó không những đòi hỏi phải có kiến thức, năng lực mà còn phải có kinh nghiệm thực tế. Nhưng do những hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ hiểu biết nên chắc chắn báo cáo không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được sự góp ý tận tình của thầy hướng dẫn và của tất cả các thầy, cô trong khoa để báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn!.. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP. 1.Lý luận chung về vốn kinh doanh: Đối với mỗi doanh nghiệp để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào đó cũng phải có vốn. Vốn là điều kiện quyết định có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có vốn để đầu tư mua sắm các yếu tố cho quá trình sản xuất kinh doanh đó là tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Do sự tác động của sức lao động và đối tượng thông qua tư liệu lao động mà hàng hóa dịch vụ được tạo ra, tiêu thụ trên thị trường và doanh nghiệp thu được tiền. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài tư liệu lao động thì doanh nghiệp cần có đối tượng lao động và trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì đối tượng lao động được biểu hiện dưới hình thái cụ thể là vốn lưu động. 1.1.Khái niệm vốn kinh doanh: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. 1.2.Phân loại vốn kinh doanh: Để cho quá trình quản lý và sử dụng vốn trở nên dễ dàng và thuận lợi, đạt hiệu quả cao thì các doanh nghiệp phải phân loại vốn thành các loại khác nhau tùy theo mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp.Theo cách phân loại chung thì vốn được chia làm 2 loại: 1.2.1.Vốn cố định: Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn. Để đánh giá đâu là tài sản cố định thì căn cứ vào thời gian sử dụng và giá trị sử dụng: - Thời gian sử dụng tối thiểu phải là từ một năm trở lên. - Phải có giá trị đủ lớn theo quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ ( hiện nay là từ 10 triệu trở lên). * Các khoản đầu tư dài hạn trong doanh nghiệp bao gồm: + Đầu tư chứng khoán dài hạn + Cho vay vốn dài hạn + Góp vốn liên doanh dài hạn + Đầu tư kinh doanh bất động sản. Tóm lại, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản cố định, trong quá trình sản xuất kinh doanh nó sẽ luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, vốn cố định là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trước hết doanh nghiệp cần phải quản lý, tổ chức phân bổ, sử dụng vốn cố định. 1.2.2. Vốn lưu động: Nếu mỗi doanh nghiệp chỉ có vốn cố định điều đó không đảm bảo chu kỳ sản xuất kinh doanh được hình thành trên tài sản lưu động, là lượng tiền ứng trước để có tài sản lưu động. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và chuyển dịch toàn bộ hoặc một lần vào giá trị sản phẩm. Đặc điểm của tài sản lưu động và tài sản cố định lúc nào cũng thống nhất với nhau do đó phải giảm tối thiểu sự chênh lệch. - Cơ cấu vốn lưu động là tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành vốn lưu động và mối quan hệ giữa các loại và của mỗi loại so với tổng số. - Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng có hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng nhu cầu về vốn trong từng khâu, từng bộ phận trên cơ sở đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì việc phân loại vốn lưu động là rất cần thiết. Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động được chia làm 3 loại: - Vốn dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế và dự trữ đưa vào sản xuất. - Vốn sản xuất: là bộ phận vốn trực tiếp dùng cho giai đoạn sản xuất như sản phẩm dở dang chờ chi phí phân bổ. - Vốn lưu thông: là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông. Căn cứ vào hình thái biểu hiện vốn lưu động bao gồm: - Vốn bằng tiền và các khoản phải thu - Vốn vật tư hàng hóa - Tài sản lưu động khác. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn lưu động bao gồm: - Vốn lưu động bổ sung: là số vốn doanh nghiệp bổ sung từ lợi nhuận các khoản tiền phải trả nhưng chưa đến hạn như tiền lương, tiền nhà… - Vốn lưu động do ngân sách cấp: là loại vốn mà doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao quyền sử dụng. - Vốn liên doanh, liên kết: là vốn do doanh nghiệp liên doanh, liên kết với các đơn vị khác. - Vốn tín dụng: là vốn mà doanh nghiệp vay ngân hàng và các đối tượng khác để kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một cơ cấu vốn lưu động hợp lý hiệu quả. Đặc biệt quan hệ giữa các bộ phận trong vốn lưu động luôn thay đổi nên người ta cần phải nghiên cứu để đưa ra một cơ cấu phù hợp với đơn vị mình trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. 2. Vốn lưu động và nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp: 2.1. Vốn lưu động, nội dung vốn lưu động: 2.1.1. Khái niệm về vốn lưu động: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường , vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vậy thì vốn là gì? Có thể hiểu “ Vốn là một phạm trù kinh tế, vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả giá trị các tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là giá trị ứng ra ban đầu cho các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời”. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các yếu tố về tư liệu lao động như: máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải…Doanh nghiệp còn cần các yếu tố về đối tượng lao động như: Nguyên nhiên liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ hoặc một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế, vốn lưu động không chỉ ứng ra để mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ mà còn để mua sức lao động – một yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Do đó, vốn lưu động của một doanh nghiệp bao gồm cả giá trị tài sản lưu động và cả chi phí thuê mướn sức lao động. Tóm lại, vốn lưu động là số vốn ứng ra để hình thành tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục ( vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng hoàn lại một lần sau một chu kỳ kinh doanh.) 2.1.2. Đặc điểm của vốn lưu động: Do đó vốn lưu động cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra thường xuyên, liên tục được lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Sự vận động của vốn lưu động được thể hiện qua sơ đồ sau: T – H…..SX – H’ – T’ ( Đối với các doanh nghiệp sản xuất T’>T ) T – H – T’ ( Đối với các doanh nghiệp thương mại T’>T ) Sự vận động của vốn lưu động trải qua các giai đoạn và chuyển hóa từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang các hình thái vật tư hàng hóa và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu động. - Giai đoạn 1 ( T –H ): Khởi đầu vòng tuần hoàn vốn lưu động dưới hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối tượng lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở mỗi giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hóa. - Giai đoạn 2 ( H….SX – H’ ): ở giai đoạn này doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra sản phẩm, các vật tư dự trữ được đưa dần vào sản xuất. Trải qua quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa được tạo ra. Như vậy ở giai đoạn này, vốn lưu động đã từ hình thái vốn vật tư hàng hóa chuyển sang hình thái vốn sản phẩm dở dang và sau đó chuyển sang hình thái vốn thành phẩm. - Giai đoạn 3 ( H’ – T ): doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về và vốn lưu động đã từ hình thái vốn thành phẩm chuyển sang hình thái vốn tiền tệ - điểm xuất phát của vòng tuần hoàn. Vòng tuần hoàn kết thúc. Như vậy, có thể thấy đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái biểu hiện, chu chuyển giá trị toản bộ ngay trong một lần hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh. Và trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động thay đổi hình thái không ngừng. Do đó tại một thời điểm nhất định vốn lưu động cùng tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua. 2.1.3. Vai trò của vốn lưu động: Vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng giữ một vai trò quyết định trong sản xuất kinh doanh, để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản lưu động nhất định. Vốn lưu động có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu mua sắm vật tư sản xuất cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Việc sử dụng vốn lưu động và đảm bảo được nhu cầu vốn lưu động sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Do đó, vốn lưu động có tính quyết định rất lớn trong việc thiết lập chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô của vốn lưu động ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp thương mại, nó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhờ có cơ chế dự trữ, khả năng tài chính trong quan hệ đối ngoại, tận dụng được cơ hội kinh doanh và khả năng cung cấp tín dụng cho khách hàng, đó là một lợi thế rất lớn trong nền kinh tế thị trường có tính cạnh tranh gay gắt hiện nay. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh giá trị của vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ hoặc một lần vào giá trị sản phẩm và là nhân tố chính tạo nên giá thành sản phẩm. Do đó, quản lý tốt vốn lưu động có thể giảm được chi phí và hạ được giá thành và làm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Vốn lưu động với đặc điểm về khả năng chu chuyển của nó sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể thay đổi được chiến lược sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường cũng như các nhu cầu tài chính trong các quan hệ kinh tế đối ngoại của doanh nghiệp. 2.2. Phân loại vốn lưu động: Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả thì công việc trước tiên mà doanh nghiệp phải làm là phân loại vốn lưu động. Tùy thuộc vào những hoạt động của mình mà doanh nghiệp sẽ lựa chọn việc phân chia vốn lưu động theo các tiêu thức khác nhau.Mỗi cách phân loại vốn lưu động đều mang ý nghĩa riêng, song mục đích chung của việc phân loại vốn lưu động là giúp các nhà quản lý doanh nghiệp huy động được đủ số vốn và có những nhận xét ở những góc độ khác nhau để có giải pháp quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. Từ góc độ quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp có thể phân loại theo các cách sau đây: 2.2.1. Phân loại theo vai trò của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh: Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp được chia thành 3 loại: - Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm: + Vốn nguyên vật liệu chính: là số tiền biểu hiện giá trị các loại vật tư dự trữ cho sản xuất, khi tham gia vào sản xuất nó hợp thành thực thể của sản phẩm. + Vốn vật liệu phụ: là giá trị những loại vật tư dự trữ dùng cho sản xuất, giúp cho việc hình thành sản phẩm nhưng không hợp thành thực thể chủ yếu của sản phẩm. + Vốn nhiên liệu: là giá trị những loại nhiên liệu dự trữ dùng trong sản xuất. + Vốn phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ. - Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: + Vốn sản phẩm đang chế tạo: là những giá trị sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm việc đợi chế biến tiếp, chi phí trồng trọt dở dang…( chi phí sản xuất kinh doanh dở dang). + Vốn bán thành phẩm tự chế: là giá trị những sản phảm dở dang nhưng khác với sản phẩm đang chế tạo ở chỗ nó hoàn thành một hay nhiều giai đoạn chế biến nhất định( bán thành phẩm ). - Vốn lưu động trong khâu lưu thông bao gồm: + Vốn thành phẩm hàng hóa: là biểu hiện bằng tiền của số sản phẩm nhập kho và chuẩn bị các công việc cho tiêu thụ. + Vốn bằng tiền: bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng mà trong quá trình luân chuyển vốn lưu động thường xuyên có bộ phận tồn tại dưới hình thức này. + Vốn trong thanh toán: là những khoản phải thu và các khoản tạm ứng của doanh nghiệp đối với các đối tượng trong và ngoài doanh nghiệp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cách phân loại vốn lưu động theo phương pháp này giúp cho việc xem xét, đánh giá hình thức phân bổ vốn lưu động ở các khâu cho từng thành phần vốn trong quá trình luân chuyển vốn và vai trò của từng thành phần vốn trong quá trình kinh doanh. Từ đó đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm tạo ra một kết cấu vốn lưu động hợp lý để tăng được tốc độ chu chuyển vốn lưu động phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. 2.2.2. Phân loại theo hình thái biểu hiện của vốn: Theo cách phân loại này có thể chia vốn lưu động làm 3 loại: - Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: + Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định. + Các khoản phải thu: chủ yếu là khoản phải thu từ khách hàng, thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hóa, dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra, trong một số trường hợp mua sắm vật tư doanh nghiệp còn phải ứng trước tiền cho người cung ứng, từ đó hình thành khoản tạm ứng. - Vốn vật tư hàng hóa: Trong các doanh nghiệp sản xuất, dự trữ vật tư hàng hóa gồm 3 loại: nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, ba loại này gọi chung là hàng tồn kho. Trong doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho chủ yếu là hàng hóa dự trữ. Hàng hóa dự trữ là hàng hóa mua về để chuẩn bị cho tiêu thụ. Vốn hàng hóa dự trữ bao gồm: hàng mua đang đi trên đường, hàng tồn kho, hàng gửi các đại lý…Trong kinh doanh hàng hóa dự trữ có vai trò cung cấp, điều hòa làm ổn định giá cả để đảm bảo cho thị trường phát triển. - Tài sản lưu động khác: Là bộ phận của vốn lưu động trong doanh nghiệp, nó được biểu hiện bằng tiền giá trị của các khoản: chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn… Thông qua cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể tìm các biện pháp phát huy chức năng các thành phần vốn và biết được kết cấu vốn lưu động theo hình thái biểu hiện để định hướng điều chỉnh hợp lý, có hiệu quả. Đồng thời cách phân loại này cũng giúp doanh nghiệp xem xét đánh giá mức tồn kho dự trữ, thấy được tính thanh khoản của từng loại vốn, đáp ứng yêu cầu và khả năng thanh toán qua đó giúp doanh nghiệp chủ động được nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn. 2.2.3. Phân loại vốn lưu động theo thời gian huy động và sử dụng vốn: Theo cách phân loại này có thể chia vốn lưu động thành 2 bộ phận: - Vốn lưu động thường xuyên cần thiết: là mức vốn cần thiết tối thiểu để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường, lien tục tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định. Đây là khoản vốn được sử dụng có tính chất lâu dài và ổn định. - Vốn lưu động tạm thời: là phần vốn lưu động sử dụng không thường xuyên phát sinh bất thường, có tính chất ngắn hạn như khi giá cả vật tư hàng hoá tăng lên hoặc đột xuất doanh nghiệp nhận được một đơn đặt hàng mới có tính chất riêng lẻ thì khi đó doanh nghiệp cần phải huy động thêm vốn để dự trữ hoặc thanh toán Cách phân loại này giúp cho người làm công tác quản lý có định hướng và giải pháp để huy động vốn thích hợp đối với từng loại nguồn vốn phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp. 2.3. Phân loại nguồn hình thành vốn lưu động: Để tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp không thể không có vốn, một doanh nghiệp đang hoạt động cũng không thể thiếu vốn. Do vậy việc huy động vốn đảm bảo vốn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ luôn được các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn lưu động. Lượng vốn lưu động này phải đủ lớn để hình thành nên tài sản lưu động cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Để đưa ra quyết định về huy động vốn trước hết phải xem xét những nguồn vốn doanh nghiệp có thể khai thác, huy động trong quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh nói chung vốn lưu động nói riêng. Mỗi một doanh nghiệp khác nhau với đặc điểm ngành nghề kinh doanh, quy mô, hình thức sở hữu khác nhau thì sự hình thành vốn lưu động cũng có sự khác nhau. 2.3.1. Phân loại theo quan hệ sở hữu về vốn: Theo tiêu thức này vốn lưu động chia làm 2 loại: - Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn lưu động được hình thành từ vốn chủ sở hữu, số vốn này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, bao gồm vốn do chủ sở hữu đầu tư vốn, vốn tự bổ sung chủ yếu từ lợi nhận để lại và quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính doanh nghiệp, vốn do ngân sách cấp nếu có. Nguồn vốn này không phải bỏ ra chi phí để sử dụng, doanh nghiệp có quyền sở hữu định đoạt, không có thời gian hoàn trả và nó có vai trò rất quan trọng với doanh nghiệp. Tùy theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể vốn riêng. - Các khoản nợ: là các khoản nợ được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán cho chủ nợ nhưng chưa thanh toán. Nguồn vốn này doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí để sử dụng vốn, thời gian sử dụng vốn có hạn, doanh nghiệp chỉ được sử dụng trong thời gian thỏa thuận, hết thời gian này doanh nghiệp phải hoàn trả cho chủ nợ. Qua cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của chủ doanh nghiệp và vốn từ các khoản vay nợ để xem xét năng lực tài trợ và tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. 2.3.2. Phân loại theo thời gian hoạt động: - Nguồn vốn lưu động thường xuyên: là nguồn có tính chất ổn định, lâu dài hình thành nên tài sản lưu động cho doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản nợ dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu. Cách xác định: Nguồn VLĐ thường xuyên Tổng nguồn vốn thường xuyên Giá trị TSCĐ (đã trừ đi khấu hao) = - Tổng giá trị TSLĐ Nợ ngắn hạn Nguồn VLĐ thường xuyên Hoặc: = - Trong đó: Nguồn vốn thường xuyên = Nguồn vốn chủ sở hữu +Nợ dài hạn. - Nguồn vốn lưu động tạm thời: là nguồn vốn ngắn hạn dưới một năm, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác… 2.4. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng: 2.4.1. Kết cấu vốn lưu động: Vốn lưu động có kết cấu phức tạp, do tính chất hoạt động không thuần nhất, nguồn cấp phát và nguồn bổ sung luôn thay đổi. Để nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trước hết phải tiến hành nghiên cứu kết cấu vốn lưu động. Kết cấu vốn lưu động là tỷ trọng của từng khoản vốn so với tổng số vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Thông qua kết cấu vốn lưu động cho thấy sự phân bổ của vốn trong từng giai đoạn luân chuyển hoặc trong từng nguồn vốn, từ đó doanh nghiệp xác định phương hướng và trọng điểm quản lý nhằm dáp ứng vốn kịp thời đối với từng thời kỳ kinh doanh. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau và luôn thay đổi qua các thời kỳ. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Mặt khác, thông qua việc thay đổi kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý vốn lưu động của từng doanh nghiệp. 2.4.2. Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp là thể hiện số vốn tiền tệ cần thiết doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho ( vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm hoặc hàng hóa) và khoản cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoản tín dụng của người cung cấp. Khoản phải trả người cung cấp Khoản phải thu của khách hàng Mức dự trữ hàng tồn kho Nhu cầu VLĐ Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp có thể được xác định theo công thức: = + - Số vốn lưu động mà doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra tùy thuộc vào nhu cầu vốn lưu động trong từng thời kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý vốn lưu động, một vấn đề quan trọng là phải xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với một quy mô và điều kiện kinh doanh nhất định. Nhu cầu vốn lưu động được xác định đúng đắn là cơ sở để doanh nghiệp tổ chức các nguồn vốn đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của một doanh nghiệp là một vấn đề rất phức tạp. Có hai phương pháp để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp: * Phương pháp trực tiếp: - Xác định nhu cầu vốn hàng hoá dự trữ bình quân: Nhu cầu vốn hàng hoá dự trữ bình quân Số ngày dự trữ cần thiết bình quân mặt hàng i kỳ KH Doanh số bán ra bình quân một ngày theo giá vốn mặt hàng i kỳ KH = * Doanh số bán ra trong kỳ theo giá vốn mặt hang i Doanh số bán ra bình quân một ngày theo giá vốn mặt hàng i kỳ KH Cách tính: . Số ngày trong kỳ = Số ngày dự trữ hợp lý bình quân năm BC mặt hàng i Số ngày dự kiến tăng giảm mặt hàng i năm KH Số ngày dự trữ cần thiết bình quân mặt hàng i kỳ KH +(-) . = - Xác định nhu cầu vốn công cụ dụng cụ: - Trị giá CCDC giảm trong kỳ KH Trị giá CCDC tăng trong kỳ KH + = Số dư vốn CCDC đầu kỳ KH Nhu cầu vốn CCDC kỳ KH * Phương pháp gián tiếp: Đặc điểm của phương pháp gián tiếp này là dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn lưu động. Ở đây có thể chia làm 2 trường hợp: - Một là dựa vào kinh nghiệm thực tế của doanh nghiệp cùng loại trong ngành để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp mình. + Việc xác định nhu cầu vốn lưu động theo cách này là dựa vào hệ số vốn lưu động tính theo doanh thu được rút ra từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành. Trên cơ sở xem xét quy mô kinh doanh dự kiến theo doanh thu của doanh nghiệp mình để tính ra nhu cầu vốn lưu động cần thiết. Tỷ lệ % VLĐ bình quân trên doanh thu năm BC Công thức: Nhu cầu vốn lưu động cần thiết Tổng mức luân chuyển VLĐ kỳ KH = * VLĐ bình quân năm BC Tỷ lệ % VLĐ bình quân trên doanh thu năm BC Mà: Tổng mức luân chuyển VLĐ kỳ BC = Phương pháp này tương đối đơn giản, tuy nhiên mức độ chính xác bị hạn chế. Nó thích hợp với việc xác định nhu cầu vốn lưu động khi thành lập doanh nghiệp với quy mô nhỏ. - Hai là dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động ở thời kỳ trước của doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn lưu động cho thời kỳ tiếp theo khi có sự thay đổi về quy mô sản xuất kinh doanh. + Đặc điểm của phương pháp này là dựa vào thống kê kinh nghiệm về vốn lưu động bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm kế hoạch và khả năng tăng hoặc giảm tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp năm kế hoạch. Tổng mức luân chuyển VLĐ năm KH Công thức: (1+Tỷ lệ tăng giảm số ngày luân chuyển VLĐ năm KH so với năm BC) Số dư bình quân VLĐ năm BC Nhu cầu VLĐ năm KH Tổng mức luân chuển VLĐ năm BC = * * Cách tính:Vốn lưu động bình quân các quý 1, 2, 3, 4. Số vốn lưu động bình quân trong kỳ = . 4 Số ngày luân chuyển VLĐ năm kế hoạch - số ngày luân chuyển VLĐ năm BC Tỷ lệ tăng(giảm) số ngày luân chuyển VLĐ năm KH so với năm BC . * 100% Số ngày luân chuyển VLĐ năm BC = 2.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động: Kết cấu vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: đặc điểm của ngành nghề kinh doanh, trình độ tổ chức…Vì vậy mỗi doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động khác nhau, nó phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Những nhân tố về cung ứng vật tư: Các doanh nghiệp hằng năm phải sử dụng nhiều loại vật tư khác nhau của các đơn vị cung ứng khác nhau, khoảng cách giữa các doanh nghiệp với đơn vị cung ứng, khả năng cung ứng của thị trường nói chung, kỳ hạn giao hàng, chủng loại. số lượng, giá cả được cung cấp mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp khi có sự thay đổi đều ảnh hưởng đến tỷ trọng của từng khoản vốn trong vốn lưu động. - Những nhân tố về mặt sản xuất: đặc điểm, kỹ thuật công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức sản xuất ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn cố định bỏ vào khâu sản xuất, thay đổi đến tỷ trọng vốn lưu động bỏ vào khâu dự trữ. - Những nhân tố về tiêu thụ sản phẩm: điều kiện tiêu thụ sản phẩm, khối lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi lần nhiều hay ít đều ảnh hưởng nhất định đến kết cấu vốn lưu động. - Những nhân tố về mặt thanh toán: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng, tổ chức các thủ tục thanh toán, tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán. Nếu phương thức thanh toán hợp lý, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỷ trọng vốn trong khâu lưu thông sẽ thay đổi. 3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp: 3.1.Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Sử dụng vốn lưu động có hiệu quả là yêu cầu khách quan đối với cơ chế hạch toán kinh doanh, đó là kinh doanh tiết kiệm và có hiệu quả trên cơ sở tự chủ về tài chính. Hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu là thu được lợi nhuận ( trừ một số doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu về lợi nhuận còn hướng đến các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phục vụ các lợi ích công cộng cho toàn xã hội.). Bởi vì lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, đồng thời cũng là nguồn chủ yếu để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt, việc có tạo ra lợi nhuận hay không quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì thế mà lợi nhuận được coi là đòn bẩy quan trọng và là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đạt được chỉ tiêu này đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được ổn định. Chính vì vậy mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh là đạt được lợi nhuận cao nhất, và để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng nhằm đạt được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Mặt khác, do đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, các vòng tuần hoàn diễn ra liên tục,liên tiếp tạo thành vòng chu chuyển của vốn lưu động tại một thời điểm, vốn lưu động tồn tại ở nhiều hình thái khác nhau và ở mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ chức quản lý vốn lưu động vì tổ chức quản lý vốn lưu động liên quan mật thiết đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Thực tế cho thấy rằng, trong điều kiện sản xuất chưa cao như nước ta hiện nay, hiệu quả kinh tế đạt được nhìn chung là thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều kho khăn thì việc bổ sung vốn lưu động từ lợi nhuận để lại là rất hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tăng thêm tất yếu phải sử dụng vốn bên ngoài như: đi vay…thực chất, đây là khoản nợ mà doanh nghiệp phải trả chi phí sử dụng vốn do ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh từ đó ảnh hưởng tới giá thành, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp mà mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Do đó việc sử dụng vốn hợp lý tiết kiệm, có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được lượng vốn vay mà vẫn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, từ đó giảm tới mức thấp nhất chi phí sử dụng vốn tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Một doanh nghiệp được đánh giá là sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nghĩa là vốn lưu động của doanh nghiệp đó chu chuyển nhanh, việc sử dụng vốn lưu động là tiết kiệm, hợp lý, đạt doanh lợi vốn lưu động cao. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, doanh nghiệp có thể sử dụng một số nhóm chỉ tiêu sau: 3.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu đ trong sản xuất: . Hệ số sinh lời của vốn lưu động: LN trước hoặc sau thuế VLĐ bình quân trong Hệ số sinh lời của VLĐ = Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lời của vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng tốt. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động: VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Hệ số đảm nhiệm của VLĐ Doanh thu thuần = Chỉ tiêu này cho biết để có thể thu về được một đồng doanh thu thi doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Hệ số vòng quay vốn lưu động:Doanh thu thuần Hệ số vòng quay VLĐ bình quân VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết để đạt được tổng doanh thu thuần trong kỳ thì vốn lưu động phải quay máy vòng. Nếu vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động. Kỳ luân chuyển vốn lưu động: Kỳ luân chuyển VLĐ 360 Số vòng quay VLĐ trong kỳ. = Chỉ tiêu này thể hiện độ dài ( số ngày) cần thiết cho một chu kỳ ( vòng quay) của vốn lưu động. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. 3.2.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả trong khả năng thanh toán: Hệ số thanh toán hiện thời: Hệ số thanh toán Tổng giá trị TSLĐ + ĐT ngắn hạn hiện thời = Nợ ngắn hạn Hệ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này bằng hoặc lớn hơn 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán. Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản lưu động thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mứ độ đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và cũng là dấu hiệu báo trước khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Nếu hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cho việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Hệ số thanh toán nhanh: Hệ số thanh toán Tổng giá trị TSLĐ – Giá trị HTK nhanh = Nợ ngắn hạn. Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn đến kỳ thanh toán mà không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Hay là không phụ thuộc vào việc giải phóng hàng tồn kho. Hệ số này càng cao càng tốt. Hệ số thanh toán tức thời: Hệ số thanh toán tức thời Vốn bằng tiền + Các khoản tương đương tiền = Nợ ngắn hạn. Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán lập tức tại thời điểm xác định, tỷ lệ này không phụ thuộc vào các khoản phải thu và dự trữ. 3.2.3. Nhóm các chỉ tiêu bổ sung để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong quản lý nợ, hàng tồn kho: Hệ số nợ: Tổng số nợ của DN Hệ số nợ = Tổng nguồn vốn của DN. Hệ số này thể hiện tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, hay nói một cách khác là hệ số này cho ta thấy tỷ lệ tự tài trợ của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ càng cao thì tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng lớn. Kỳ thu tiền trung bình: Kỳ thu tiền trung Số dư bình quân các khoản phải thu bình = Doanh thu thuần Số phải thu đầu kỳ + số phải thu cuối kỳ Trong đó: Số dư bình quân các khoản phải thu 2 = Kỳ thu tiền trung bình phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho thấy kỳ thu tiền trung bình càng dài chứng tỏ lượng vốn bị chiếm dụng trong thanh toán của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại. Vòng quay hàng tồn kho: Doanh thu thuần HTK bình quân trong kỳ Vòng quay HTK = Chỉ tiêu này phản ánh số lần mà hàng tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao chứng tỏ việc tổ chức và quản lý dự trữ của doanh nghiệp càng tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn bỏ vào hàng tồn kho. Nếu vòng quay hàng tồn kho thấp, doanh nghiệp đã dự trữ quá mức dẫn đến lượng vật tư hàng hóa bị ứ đọng và tiêu thụ chậm. Từ đó có thể dẫn đến dòng tiền vào doanh nghiệp bị giảm đi và doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. 4. Các nhân tố ảnh hưởng tới vốn lưu động: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc tổ chức huy động và sử dụng vốn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Có tổ chức đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn thì quá trình kinh doanh mới được diễn ra liên tục và thuận lợi, hiệu quả sử dụng vốn mới cao. Ngược lại, nếu sử dụng vốn có hiệu quả thì việc huy động vốn mới được dễ dàng để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo được những quan hệ này tồn tại một cách tối ưu phải xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng để có biện pháp tác động đối phó. Trong môi trường kinh doanh, doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Có những nhân tố tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và đến hoạt động quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, có những nhân tố hạn chế, cản trở sự phát triển đó. Ta có thể xem xét những nhân tố này theo tiêu thức sau: * Các nhân tố khách quan: - Đặc điểm ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, các chính sách kinh tế tài chính của nhà nước đối với lĩnh vực doanh nghiệp đang hoạt động, sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các nhân tố này có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu khi mà nhà nước đưa ra các chính sáchn hoãn nợ, miễn thuế xuất khẩu…thì đó là một thời cơ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộngngành nghề kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy doanh nbghiệp tăng trưởng cũng như trong việc cạnh tranh thắng lợi. Tuy nhiên các nhân tố này cũng tạo ra thách thức cho các doanh nghiệp như việc nước ta tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp phải đối mặt với môi trường cạnh tranh gay gắt. - Lạm phát của nền kinh tế: Do tác động của nền kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền bị giảm sút, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dẫn đến việc tăng giá các loại vật tư, hàng hóa…Vì vậy, nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời thì giá trị của các tài sản lưu động sẽ bị trượt giá theo sự lạm phát của tiền tệ. - Các loại rủi ro: Khi tham gia kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia, cùng cạnh tranh. Nếu thị trường không ổn định, sức mua có hạn thì làm tăng lên các rủi ro bất thường như: khách hàng mất khả năng thanh toán, thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn… làm hư hỏng vật tư, mất mát tài sản của doanh nghiệp. - Sự phát triển của khoa học công nghệ: Tác động của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm cải tiến sản phẩm cả về chất lượng, mấu mã, giá cả giảm hơn. Tình trạng giảm giá hàng hóa gây nên tình trạng thất thoát vốn lưu động tại doanh nghiệp. Mặt khác, khi khoa học kỹ thuật phát triển đến thời đại đỉnh cao trong thời đại văn minh này như một sự kỳ diệu thì cũng chính điều này làm cho tài sản cố định của doanh nghiệp bị hao mòn vô hình rất lớn. Đây là những nguyên nhân quan trọng làm cho doanh nghiệp bị mất vốn. Chính vì vậy doanh nghiệp liên tục phải có sự ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới nhất đưa vào sản xuất kinh doanh để đẩy mạnh tiêu thụ, tránh tình trạng tồn đọng vốn. * Các nhân tố chủ quan: Đây là những nhân tố nằm trong nội tại doanh nghiệp. Nó bao gồm các nhân tố bên trong các hoạt động mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, công tác tổ chức phân bổ vốn lưu động vào các khâu, các thành phần…và bao trùm là trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Lựa chọn phương án đầu tư, tìm thị trường tiêu thụ: Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp sẽ thực hiện được quá trình tiêu thụ sản phẩm, giúp đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động. Ngược lại, nếu sản phẩm hàng hóa có chất lượng thấp không phù hợp với thị hiếu khách hàng dẫn đến hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được, làm cho vốn lưu động bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. - Xác định nhu cầu vốn lưu động: việc xác định nhu cầu vốn lưu động ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả vốn cố định của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu vốn lưu động không chính xác sẽ dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng không tốt tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Tìm nguồn trang trải cho nhu cầu vốn lưu động: đây là công việc rất quan trọng. Nếu xác định nguồn tài trợ không hợp lý có thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc gây ra tình trạng lãng phí chi phí. Doanh nghiệp cần cân đối trong việc đảm bảo an toàn tài chính và tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn. - Trình độ tổ chức, quản lý, sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong tất cả các khâu. Trong khâu dự trữ sản xuất phải lựa chọn được nguồn cung cấp để giảm chi phí bảo quản chuyên chở. Trong khâu sản xuất phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất, đặc tính sản phẩm để bố trí sắp xếp cho vốn được luân chuyển thường xuyên, tránh ứ đọng kéo dài trong quá trình sản xuất. Trình độ quản lý yếu kém sẽ dẫn đến việc thất thoát vật tư hàng hóa trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng chi phí gây ứ đọng vốn có thể dẫn đến kinh doanh thua lỗ kéo dài, mất mát vốn kinh doanh, giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và vốn lưu động. - Việc lựa chọn phương thức bán hàng và phương thức thanh toán: Nếu doanh nghiệp bán chịu quá nhiều và chấp nhận thanh toán chậm thì lượng vốn bị chiếm dụng sẽ lớn, đồng thời doanh nghiệp sẽ mất thêm một khoản chi phí quản lý các khoản phải thu. Điều này có thể gây ra tình trạng mất tự chủ về vốn khi không thu hồi được nợ, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không chấp nhận bán chịu hoặc phương thức bán hàng không ưu đãi thì hàng hóa có thể tiêu thụ được. Điều này làm ứ đọng hàng hóa, tăng vốn lưu động trong khâu dự trữ, làm giảm vòng quay vốn lưu động. Ngoài những nhân tố trên doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn do sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp khác trên thị trường, nếu doanh nghiệp của mình không có vị trí, chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì nguy cơ giải thể là rất cao. Trên đây là một số nhân tố chủ yếu cơ bản, đặc trưng nhất ảnh hưởng đến việc tổ chức và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thực tế còn có rất nhiều sự thay đổi gây ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải xem xét, nghiên cứu từng nhân tố để hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra, đồng thời phát huy những tác động tích cực nhằm đảm bảo cho công tác quản lý, huy động vốn kịp thời, đầy đủ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5. Bảo toàn vốn lưu động: 5.1. Sự cần thiết phải bảo toàn vốn lưu động: Bảo toàn vốn lưu động là đảm bảo duy trì được giá trị thực của vốn lưu động ở thời điểm đánh giá hiện tại so với thời điểm đầu tư ban đầu tính theo giá cả hiện tại. Tức là số vốn lưu động thu được đủ mua một lượng vật tư, hàng hóa tương đương với thời điểm bỏ vốn ban đầu mặc dù có sự biến động của giá cả thị trường. Quản lý và sử dụng vốn lưu động là khâu quan trọng trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp, trong đó việc bảo toàn vốn lưu động là vấn đề cực kỳ quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn lưu động trong doanh nghiệp được tồn tại dưới dạng vật tư hàng hóa và tiền tệ. Sự luân chuyển và sự chuyển hóa thường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động khách quan và chủ quan, trong đó có những yếu tố làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm sút dần đó là: - Hàng hóa bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất không phù hợp với nhu cầu thị trường, không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá bị hạ thấp. - Các rủi ro bất thường xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Kinh doanh bị lỗ kéo dài nên sau một thời kỳ nhất định vốn bị thiếu hụt dần vì doanh thu bán hàng không đủ bù đắp vốn lưu động. - Nền kinh tế có lạm phát, giá cả tăng nhanh nên sau mỗi vòng luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp bị mất dần theo tốc độ trượt giá. - Vốn lưu động trong thanh toán bị chiếm dụng lẫn nhau kéo dài với số lượng lớn. Vì các nguyên nhân trên đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn vốn lưu động nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi. 5.2. Các biện pháp thực hiện việc bảo toàn vốn lưu động và phát triển vốn lưu động: Định kỳ tiến hành kiểm kê, đánh giá lại toàn bộ vật tư, hàng hóa vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán…để xác định số vốn lưu động hiện có của doanh nghiệp theo giá trị hiện tại. Trên cơ sở đánh giá vật tư, hàng hóa đó, đối chiếu với sổ sách kế toán để điều chỉnh hợp lý. Thông qua kiểm soát hàng tồn kho sẽ giúp cho doanh nghiệp thực hiện dự trữ vật tư, hàng hóa đúng chủng loại, đúng số lượng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh liên tục, không bị xảy ra thiếu hoặc thừa vật tư, hàng hóa. Vốn thiếu hoặc thừa đều sẽ dẫn đến tổn thất trong kinh doanh. Đồng thời thông qua kiểm soát hàng tồn kho mà bảo vệ được hàng hóa khỏi bị hư hỏng, mất mát, kịp thời phát hiện chất lượng của vật tư, hàng hóa và tính hữu hiệu của quản lý bảo vệ kho tàng. - Những hàng hóa tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém hoặc mất phẩm chất hoặc không phù hợp với nhu cầu sản xuất phải chủ động giải quyết, phần chênh lệch thiếu phải xử lý kịp thời để bù đắp lại. - Những khoản vốn trong thanh toán, vốn bị chiếm dụng cần có biện pháp đôn đốc và giải quyết tích cực để thu tiền về nhanh chóng và sử dụng ngay vào sản xuất kinh doanh nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. - Đối với doanh nghiệp bị lỗ kéo dài cần có biện pháp khắc phục lỗ là sử dụng kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh và cải tiến phương pháp công nghệ để hạ giá thành, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động. Để đảm bảo sử dụng vốn lưu động hợp lý, Doanh nghiệp phải biết lựa chọn, cân nhắc nếu đầu tư vốn vào khoản nào và lúc nào là có lợi nhất tiết kiệm nhất. - Để bảo toàn vốn lưu động trong điều kiện có lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cần phải dành ra một phần để hình thành quỹ dự phòng tài chính nhằm bù đắp số hao hụt do lạm phát. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG THANH HÓA. 1. Tổng quan về công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: 1.1. Quá trình hình thành và phát triển: - Tên doanh nghiệp: Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa. - Địa chỉ: Thị Trấn Vân Du – Huyện Thạch Thành – Tỉnh Thanh Hóa. - Điện thoại : 0373 609 043 - Hình thức sở hữu vốn: Công ty cổ phần - Ngành nghề kinh doanh: Vận tải mía nguyên liệu, sản xuất và cung ứng mía giống, kinh doanh đường. Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa được thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2603000106 ngày 01/01/2003, và thay đổi lần đầu vào ngày 25/11/2005 do sở kế hoạch đầu tư Tỉnh Thanh Hóa cấp. Trụ sở của công ty được đóng tại : Thị Trấn Vân Du - Huyện Thạch Thành - Tỉnh Thanh Hóa. Từ khi được thành lập cho đến nay, Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa đã không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, trang bị thêm máy móc thiết bị trong dây chuyền sản xuất chế biến đường đảm bảo trong việc kinh doanh. Bên cạnh đó, Công ty đã trang bị, củng cố được số lượng lớn các phương tiện vận tải để phục vụ cho quá trình vận chuyển mía nguyên liệu về nơi sản xuất chế biến của Công ty giúp cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục. Được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, Công ty được đặt tại địa phương nơi đây với diện tích đất đai rộng lớn, và nhất là nó phù hợp, thuận lợi để phát triển trồng cây mía cho năng suất cao, từ đó cung cấp cho công ty lượng mía nguyên liệu để phục vụ cho quá trình chế biến, sản xuất và kinh doanh đường của Công ty. Công ty đã từng bước ổn định xây dựng cơ sở vật chất, đến nay đã và đang đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh của Công ty. Các ngành nghề kinh doanh của Công ty không những được duy trì mà ngày càng phát triển. Doanh số bán hàng năm sau lớn hơn năm trước. Đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty ngày một ổn định, đặc biệt là Công ty đã giải quyết được công ăn việc làm cho hàng trăm lao động chủ yếu là con em trong huyện. 1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: 1.2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý của công ty: Sơ đồ 1: * Sơ đồ tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa. GĐ Công Ty ` Các phó GĐ Phòng kế toán Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh Phòng kế toán -tài chính Các tổ sản xuất Phòng kế hoạch điều vận Phòng kỹ thuật Tổ chức bộ máy quản lý sản xuất của Công ty bao gồm: ( Sơ đồ 1) + Bộ máy quản lý: gồm Giám đốc Công ty, các Phó giám đốc và các phòng ban có liên quan. + Bộ phận sản xuất: gồm các xí nghiệp sản xuất và phân xưởng trực thuộc công ty. Và dưới xí nghiệp sản xuất được tổ chức thành bộ phận quản lý xí nghiệp và phân xưởng sản xuất. Để có một công ty phát triển và hoạt động tốt đạt lợi nhuận cao thì mỗi phòng ban của công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa đều mang mỗi chức năng và nhiệm vụ riêng nhưng chúng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó: - Giám đốc công ty: Là người đứng đầu bộ máy quản lý của công ty và chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ máy, chịu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, định hướng kế hoạch trước nắt cũng như lâu dài nhằm thúc đẩy công ty phát triển. - Các phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc và cơ quan chủ quản cấp trên về các nhiệm vụ được giao. Các phòng ban chức năng được tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc và giúp cho ban giám đốc nhằm đảm bảo cho việc lãnh đạo hoạt động sản xuất kinh doanh thống nhất. Các phòng ban được bố trí như sau: - Phòng kỹ thuật: có trách nhiệm trong việc nghiên cứu, thiết kế và chế tạo sản phẩm, nhập máy móc thiết bị, công nghệ của công ty. - Phòng kế hoạch điều vận: Có nhiệm vụ lập kế hoạch thu mua nguyên vật liệu đầu vào, đồng thời lập kế hoạch cho khâu vận chuyển để kịp phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như quá trình bán hàng. - Phòng kế toán: Có nhiệm vụ hạch toán sản xuất kinh doanh, viết các hóa đơn như: phiếu xuất kho, phiếu nhập kho… cho khách hàng, thanh quyết toán với nhà nước, cung cấp cho ban giám đốc những thông tin kinh tế kịp thời để ban giám đốc đưa ra những quyết định kịp thời, chính xác và đảm bảo cho hoạt động của công ty được thống nhất. - Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc trong việc sắp xếp bố trí cán bộ công nhân viên cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty, giải quyết các chế độ chính sách, tổ chức các công việc hành chính, chuyển giao công văn, giấy tờ, quyết định nội bộ, quản lý trang thiết bị phục vụ công tác quản lý và điều hành sản xuất. - Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, ký kết các hợp đồng kế toán, theo dõi tình hình tiêu thụ hàng của công ty trên thị trường, cung cấp thông tin về các mặt hàng cùng loại của công ty với các đơn vị khác. - Phòng kế toán - tài chính: có nhiệm vụ tổng hợp số liệu, thông tin về công tác tài chính kế toán, thực hiện việc xử lý thông tin trong công tác hạch toán theo yêu cầu thể lệ tổ chức kế toán nhà nước. Ghi chép cập nhật chứng từ kịp thời, chính xác, theo dõi hạch toán các khoản chi phí, kiểm tra giám sát tính hợp lý, hợp pháp của các khoản chi phí đó nhằm giám sát phân tích hiệu quả kinh tế của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, từ đó giúp ban lãnh đạo đưa ra những biện pháp tối ưu. Tập hợp các khoản chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm qua các giai đoạn, xác định kết quả sản xuất kinh doanh. Trên đây là mô hình tổ chức quản lý của công ty, với mô hình tổ chức quản lý này đã giup công ty phát triển đứng vững trên thị trường, có nhiều uy tín đối với khách hàng. 1.2.2. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty: * Tổ chức bộ máy kế toán: Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa: Kế toán trưởng Kế toán TSCĐ Kế toán mua hàng Kế toán bán hàng Kế toán tiền mặt, tiền gửi, tiền vay Kế toán tổng hợp Thủ quỹ Kế toán chi phí sản xuất Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập trung ( sơ đồ 2). Theo hình thức này thì toàn bộ công tác kế toán, công tác thống kê, công tác tài chính được thực hiện tại phòng kế toán của công ty từ khâu đầu đến khâu cuối: tập hợp số liệu, ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính, lưu trữ chứng từ, hệ thống sổ sách kế toán. Tại phân xưởng không tổ chức bộ máy kế toán riêng mà chỉ bố trí nhân viên quản lý ( thủ kho) làm nhiệm vụ thống kê, ghi chép ban đầu, tập hợp chứng từ nhập nguyên vật liệu đầu vào, xuất thành phẩm, hàng hóa sau đó tập hợp lại đưa lên phòng kế toán. Đứng đầu phòng kế toán là kế toán trưởng, phòng kế toán được đặt dưới sự chỉ đạo của Giám đốc công ty, có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện và kiểm tra toàn bộ kế toán trong phạm vi toàn công ty đồng thời giúp Giám đốc cập nhật thông tin kinh tế để có hướng đi trong việc mở rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty, thực hiện đầy đủ chế độ ghi chép ban đầu, chế độ hạch toán và chế độ quản lý tài chính. Để thực hiện được đầy đủ các nhiệm vụ trên nhằm đảm bảo sự lãnh đạo tập trung của trưởng phòng và phù hợp với quy mô sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức bộ máy kế toán của công ty hiện nay được tổ chức như sau: - Kế toán trưởng: là người trực tiếp cung cấp những thông tin nhằm tư vấn cho giám đốc công ty mình về vấn đề tài chính kế toán của công ty. - Kế toán tổng hợp: tổng hợp các số liệu kế toán trên cơ sở số liệu sổ sách do các phân hành khác cung cấp và tiến hành lập các báo cáo quyết toán. - Thủ quỹ: Phản ánh kịp thời các khoản thu chi vốn bằng tiền, thực hiện kiểm tra đối chiếu số liệu thường xuyên với quỹ đảm bảo giám sát chặt chẽ vốn bằng tiền, đồng thời thực hiện các quy định về chứng từ, thủ tục hạch toán vốn bằng tiền. - Kế toán mua hàng: thông qua phiếu nhập kho do phòng kế hoạch viết kế toán sẽ đối chiếu kiểm tra chứng từ liên quan đến việc mua hàng hóa để đảm bảo cho quá trình hạch toán được chính xác. - Kế toán bán hàng: Khi nhận được thông báo từ phòng kế hoạch gửi tới, kế toán tiến hành viết hóa đơn và theo dõi trên sổ chi tiết có liên quan đến quá trình bán hàng - Kế toán chi phí sản xuất: Tính toán và phản ánh kịp thời, đầy đủ khoản chi phí trong giá thành của sản phẩm. Lập báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. - Kế toán tiền mặt, tiền gửi, tiền vay: Thực hiện nhiệm vụ viết phiếu thu, chi thông qua sổ quỹ của thủ quỹ. Đồng thời cân đối với thủ quỹ về số tiền còn trong quỹ thanh toán với ngân hàng về các khoản này, khoản gửi và các khoản công nợ phải thu, phải trả. - Kế toán TSCĐ: Theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ và thực hiện trích khấu hao TSCĐ theo quy chế hiện hành. Tuy là giữa các bộ phận kế toán khác nhau thì có những chức năng khác nhau nhưng chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, khăng khít với nhau để tạo nên một tổ chức bộ máy kế toán hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. * Chế độ kế toán áp dụng: - Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. - Công ty tổ chức hạch toán kế toán theo hình thức kế toán nhật ký chứng từ. Sơ đồ 3: Sơ đồ trình tự kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ. Chứng từ ghi sổ và các bảng phân bổ Thẻ, sổ kế toán chi tiết Nhật ký chứng từ Bảng kê Bảng tổng hợp chi tiết Sổ cái Bảng báo cáo tài chính . Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Quan hệ đối chiếu Đây là hình thức ghi sổ có sự kết hợp giữa ghi chép theo trình tự thời gian và ghi chép theo hệ thống của sổ sách kế toán tồng hợp và kế toán chi tiết, giữa ghi chép hàng ngày với tổng hợp số liệu để lập báo cáo cuối tháng. Để theo dõi và quản lý hàng tồn kho, công ty đã áp dụng hạch toán tổng hợp theo phương pháp kiểm kê định kỳ kết hợp với kê khai thường xuyên. Giá trị hàng tồn kho xác định theo giá thực tế sử dụng phương pháp tính giá bình quân gia quyền để phản ánh trị giá của nguyên vật liệu xuất kho và xác định giá vốn hàng bán. Công ty áp dụng thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. 2. Tình hình chung về công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: * Thuận lợi: - Đảng và nhà nước có nhiều chính sách, nghị quyết về hợp tác kinh tế quốc tế, tạo môi trường thuận lợi để chúng ta hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Dó là ưu thế mà công ty có được trong kinh doanh, đặc biệt công ty còn tham gia nhiều vào các cuộc thi “ Nhà nông đua tài ” và đạt được nhiều những thành tích xuất sắc giúp cho công ty khẳng định được khả năng phát triển cũng như sự tin cậy của khách hàng. - Nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày một tăng lên, công ty đã xuất bán được một khối lượng đường khá lớn, vì thế mà hoạt động kinh doanh đường của công ty đạt được kết quả cao. Bên cạnh đó, do đặc tính đất đai nơi đây rất phù hợp và thuận lợi để phát triển trồng cây mía cho năng suất cao, đây là nguồn cung cấp mía nguyên liệu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được diễn ra liên tục,và để hỗ trợ việc sản xuất trồng trọt của nhân dân thì công ty cũng đã cung ứng một lượng mía giống cho năng suất cao giúp cho người dân sản xuất có được những mùa vụ bội thu. - Về nguồn nhân lực, công ty đang có trong tay một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, kinh nghiệm, cùng với đội ngũ lao động có sức khỏe, tay nghề và nhiệt huyết trong lao động. * Những khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi mà công ty có được thì công ty cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: - Khi xã hội phát triển thì có nhiều những công ty cũng mọc lên, thị trường có nhiều công ty sản xuất kinh doanh đường cho nên công ty không tránh khỏi những cạnh tranh và gặp phải những bất lợi trong kinh doanh, vì thế mà công ty cần phải có những chiến lược kinh doanh riêng cho mình để có thể đứng vững trên thị trường. - Sản phẩm của công ty chủ yếu là tiêu thụ và cung cấp trên thị trường ở miền bắc, chưa chiếm được thị phần lớn so với các công ty khác. - Do khí hậu thời tiết thất thường vì thế mà thời vụ cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, việc vận chuyển mía nguyên liệu, việc phát triển sản xuất và cung ứng mía giống sẽ kém hiệu quả. 2.1. Khái quát về vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của công ty: 2.1.1. Cơ cấu vốn kinh doanh của công ty: Bảng 01: Cơ cấu vốn kinh doanh. Đơn vị: Triệu đồng. Các chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 So sánh 2009/2008 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ lệ % I. Tổng vốn KD 181.311 100 214.843 100 33.532 18,49 1. Vốn cố định 64.251 35,44 52.420 24,40 -11.831 -18,41 2. Vốn lưu động 117.060 64,56 162.423 75,60 45.363 38,75 ( Nguồn : Phòng kế toán của Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa.) Qua bảng 01 – Cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty ta thấy rằng tổng vốn kinh doanh của Công ty năm 2009 so với năm 2008 đã tăng lên đáng kể. Ở năm 2008 số vốn là 181.311 triệu đồng nhưng đến năm 2009 thì con số đã lên đến 214.843 triệu đồng, tăng 33.532 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 18,49%. Điều này chứng tỏ Công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc huy động vốn, phân tích cụ thể ta thấy: Trong tổng vốn kinh doanh thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao và tăng khá cao. Năm 2009 tăng so với năm 2008 là 45.363 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 38,75%.Nguyên nhân vốn lưu động tăng là do các khoản phải thu tăng. Ta có thể nhận thấy vốn lưu động ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, năm 2008 vốn lưu động là 64,56% thì đến năm 2009 tỷ trọng đã lên tới 75,6% trong tổng vốn kinh doanh. Còn vốn cố định thì ngược lại, vốn cố định giảm từ 64.251 triệu đồng xuống còn 52.420 triệu đồng, giảm 11.831 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 18,41%. Điều này là do công ty đã sử dụng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị hợp lý và giảm các máy móc thiết bị không cần thiết. Qua đó cho thấy tính chất kinh doanh trong lĩnh vực vận chuyển mía nguyên liệu, sản xuất và cung ứng mía giống, kinh doanh đường nó đòi hỏi một lượng vốn kinh doanh rất lớn nhất là vốn lưu động. Từ đó, ta nhận thấy vốn lưu động chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc hình thành nên vốn kinh doanh của Công ty. 2.1.2. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của công ty: Bảng 02: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh. Đơn vị: Triệu đồng. Các chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 So sánh 2009/2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ lệ I. Nợ phải trả 150.211 82,85 175.312 81,60 25.101 16,82 1. Nợ ngắn hạn 145.051 96,56 170.310 97,15 25.259 17,41 2. Nợ dài hạn 5.160 3,44 5.002 2,85 -158 -3,06 II. Nguồn vốn CSH 31.100 17,15 39.531 18,40 8.431 27,11 Tổng nguồn vốn 181.311 100 214.843 100 33.532 18,49 ( Nguồn: phòng kế toán Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa ). Qua bảng cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của công ty cho ta thấy tổng nguồn vốn được hình thành từ 2 nguồn: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Tổng nguồn vốn của năm 2009 so với năm 2008 tăng 33.532 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 18,49%, trong đó: Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu năm sau lớn hơn năm trước ( năm 2008 là 17,15%, năm 2009 là 18,4%), với tỷ lệ tăng cao trong tổng nguồn vốn là 27,11%. Từ đó ta có thể nhận thấy công ty có thể tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng thanh toán của mình, đồng thời đây cũng là một thế mạnh giúp công ty nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và giữ vững được vị thế của mình trên thương trường. Tuy nhiên, nợ phải trả của công ty tương đối nhiều. Nợ phải trả năm 2009 so với năm 2008 là tăng 25.101 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 16,82%. Ta nhận thấy, nợ phải trả của Công ty chiếm tỷ trọng rất lớn, mà chủ yếu là do nợ ngắn hạn tăng. Đây cũng là mối quan tâm đáng lo ngại bởi nợ phải trả càng cao sẽ là gánh nặng cho Công ty trong việc trả nợ và lãi vay nhiều, đồng thời tỷ lệ nguồn vốn thấp sẽ làm giảm khả năng tự tài trợ độc lập về tài chính của Công ty và sẽ trực tiếp làm giảm lợi nhuận của công ty. Do đó, Công ty cần quan tâm hơn nữa đến việc tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu của mình và giảm nợ phải trả vì đây là yêu cầu khách quan của việc sử dụng vốn kinh doanh. 3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: Trong những năm qua, nhờ sự đoàn kết, nỗ lực và ý chí quyết tâm đạt chỉ tiêu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, toàn thể cán bộ công nhân viên chức trong công ty, cùng với sự ủng hộ của các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương, cùng với sự lãnh đạo của công ty. Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa đã đạt được một số kết quả đáng kể như sau: Bảng 03: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Đơn vị: Triệu đồng. Các chỉ tiêu Mã số Năm 2008 Năm 2009 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1. Doanh thu 1 338.105 485.317 147.212 43,54 2. Các khoản giảm trừ 2 10.812 10.301 -511 -4,37 3.Doanh thu thuần(10=1-2) 10 327.293 475.016 147.723 45,13 4. Giá vốn hàng bán 11 289.159 430.795 141.636 48,98 5.Lợi nhuận gộp(20=10-11) 20 38.134 44.221 6.087 15,96 6.Doanh thu HĐTC 21 57 164 107 187,72 7.Chi phí tài chính 22 8.911 10.394 1.483 16,64 8.Chi phí bán hàng 24 10.085 11.132 1.047 10,38 9.Chi phí quản lý DN 25 12.873 14.789 1.916 14,88 10.Lợi nhuận từ hoạt động SXKD. (30=20+(21-22)-(24+25) 30 6.322 8.060 1.738 27,49 11.Thu nhập khác 31 594 96 -498 -83,84 12.Chi phí khác 32 0 44 44 - 13.Lợi nhuận khác(40=31-32) 40 594 52 -542 -91,25 14.Tổng lợi nhuận trước thuế(50=30+40) 50 6.916 8.112 1.196 17,29 15.Thuế TNDN 51 1.936 2.271 335 17,30 16.Lợi nhuận sau thuế(60=50-51) 60 4.980 5.841 861 17,29 Qua số liệu bảng 03 ta thấy, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đang trên đà phát triển bởi doanh thu cũng như lợi nhuận của công ty năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau: Trước tiên ta phải xét đến các khoản giảm trừ. Các khoản giảm trừ năm 2009 so với năm 2008 giảm 511 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 4,37%. Như vậy là trong quá trình sản xuất, Công ty đã giảm được các khoản giảm trừ, trong khi đó doanh thu lại tăng lên điều đó đã làm cho doanh thu thuần tăng lên. Tổng doanh thu của Công ty năm 2009 so với năm 2008 tăng 147.212 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 43,54%, doanh thu thuần cũng tăng lên 147.723 triệu đồng tương đương với tỷ lệ tăng 45,13%. Doanh thu thuần tăng lên là do doanh thu tăng, đồng thời Công ty giảm bớt được các khoản giảm trừ doanh thu. Giá vốn hàng bán năm 2009 tăng so với năm 2008 là 141.636 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 48,98%. Giá vốn hàng bán tăng là do năm 2009 chỉ số vật giá tăng nhanh nên các khoản tiền mua nguyên vật liệu cũng tăng theo. Ta nhận thấy rằng, tỷ lệ tăng của giá vốn hàng bán lớn hơn tỷ lệ tăng của doanh thu thuần ( 48,98% > 45,13% ), điều đó đã làm cho lợi nhuận gộp giảm đi. Tuy vậy, ta vẫn thấy không phải vì thế mà lợi nhuận gộp của Công ty năm 2009 giảm đi so với năm 2008. Trong năm 2009 lợi nhuận gộp đạt 44.221 triệu đồng tăng so với năm 2008 là 6.087 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 15,96%. Doanh thu hoạt động tài chính của Công ty cũng tăng lên, so với năm 2008 thì năm 2009 đã tăng lên 107 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 187,72%. Và doanh thu hoạt động tài chính tăng nhanh như vậy là do tiền từ lãi tiền gửi và tiền lãi cho vay tăng. Xét đến chi phí tài chính của Công ty cũng tăng lên 1.483 triệu đồng với tỷ lệ tương ứng là 16,64%. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty cũng tăng lên tương ứng với tỷ lệ là 10,39% và 14,885%. Các chi phí này tăng là do Công ty đã tiến hành việc mở rộng thêm một số chi nhánh bán hàng: xuất bán đường, và một số địa bàn để cung ứng mía giống cho nhu cầu phát triển trồng trọt, sản xuất của người dân, và một phần là do quy mô của Công ty ngày một lớn mạnh. Ta thấy rằng, tốc độ tăng của chi phí thấp hơn so với tốc độ tăng của doanh thu. Tuy nhiên khoảng cách giữa doanh thu và chi phí không lớn, Công ty cần có những biện pháp quản lý các khoản chi phí thật tốt sao cho mức chi phí này giảm xuống thấp hơn nữa để nâng cao lợi nhuận kinh doanh của Công ty. Lợi nhuận trước thuế của Công ty năm 2008 là 6.916 triệu đồng và năm 2009 con số đã lên 8.112 triệu đồng, như vậy là lợi nhuận trước thuế tăng lên 1.196 triệu đồng với tỷ lệ 17,29%. Và lợi nhuận sau thuế cũng tăng lên 861 triệu đồng với tỷ lệ 17,29%. Như phân tích ở trên là lợi nhuận tăng là do tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí. Lợi nhuận tăng như vậy điều đó chứng tỏ Công ty đang làm ăn ngày càng có hiệu quả, hứa hẹ trong tương lai Công ty sẽ ngày một phát triển hơn nữa. 3.1. Nguồn vốn lưu động của công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: Để đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục, nhu cầu vốn lưu động phải được đáp ứng kịp thời và đầy đủ. Vì vậy, việc huy động cũng như việc quản lý sử dụng vốn lưu động là rất quan trọng và cần thiết. Để đánh giá hiệu quả tổ chức quản lý và sủ dụng vốn lưu động của công ty ta xem xét bảng sau: Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch Số tiền Tỷ Trọng(%) Số tiền Tỷ Trọng(%) Số tiền Tỷ lệ(%) A. Tài sản lưu động 117.060.000.000 100 162.423.000.000 100 45.363.000.000 38,75 B. Nguồn vốn lưu động 117.060.000.000 100 162.423.000.000 100 45.363.000.000 38,75 I. Nguồn vốn lưu động thường xuyên -27.991.000.000 -23,91 -7.887.000.000 -4,86 20.104.000.000 -71,82 II. Nguồn vốn tạm thời 145.051.000.000 123,91 170.310.000.000 104,86 25.259.000.000 17,41 1. Vay ngắn hạn 126.427.000.000 87,18 126.037.571.000 74,00 -389.429.000 0,31 2. Phải trả cho người bán 2.512.949.000 1,73 2.501.500.000 1,47 -11.449.000 -0,46 3. Người mua người bán 939.700.000 0,65 1.683.944.000 0,99 744.244.000 79,20 4. Thuế và các khoản phải nộp 250.844.000 0,17 300.957.000 0,18 50.037.000 19,96 5. Phải trả công nhân viên 186.000.000 0,13 186.423.000 0,11 -40.000 -0,02 6. Phải trả, phải nộp khác 14.734.004.000 10,16 39.599.805.000 23,25 24.865.801.000 168,76 Về nguồn vốn lưu động, qua phân tích bảng số 06 ta thấy rằng tổng tài sản lưu động của công ty năm 2009 là 162 423 000 000đồng, tăng 38,75% so với năm 2008. Số vốn lưu động này được tài trợ từ hai nguồn là nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời. * Thứ nhất là nguồn vốn lưu động thường xuyên: Nguồn VLĐ thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Nguồn vốn này được xác định theo công thức: = 162 423 000 000 – 170 310 000 000 = - 7 887 000 000đồng Như vậy là nguồn vốn lưu động thường xuyên của công ty trong cả 2 năm đều nhỏ hơn 0, nhưng năm 2009 thì còn số âm nhỏ đi rất nhiều. Trong trường hợp này thể hiện tài sản cố định lớn hơn nguồn vốn dài hạn. Điều đó có nghĩa là công ty đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho đầu tư dài hạn. Điều này là khá nguy hiểm bởi một điều là khi hết hạn vay thì công ty phải tìm ra nguồn vốn khác để thay thế. Khi nguồn vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn 0 có nghĩa là tài sản cố định được hình thành từ các nguồn vốn dài hạn là chưa ổn định và tài sản cố định nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Chứng tỏ công ty đang trong tình trạng vay nợ ngắn hạn nhiều, điều đó cho thấy mức an toàn về khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty không được ổn định lắm. Vì vậy công ty cần có biện pháp kịp thời để khắc phục để quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. * Thứ hai là nguồn vốn lưu động tạm thời: Nguồn vốn lưu động tạm thời năm 2009 tăng so với năm 2008 là 25.259.000.000đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 17,41%, nguyên nhân tăng nguồn vốn lưu động tạm thời này là do: - Nguồn vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất 74,00% trong tổng nguồn vốn lưu động tạm thời. Đây là nguồn vốn mà công ty vay ngân hàng có thời hạn và phải trả lãi tiền vay. Vì vậy nếu công ty sử dụng không hiệu quả nguồn vốn này thì sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty, và ảnh hưởng không tốt tới tình hình tài chính, chẳng hạn như khả năng thanh toán sẽ bị đe doạ do hệ số nợ cao…Điều này một mặt có thể là bất lợi cho công ty, đòi hỏi công ty phải có những biện pháp thích hợp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Mặt khác, hệ số cao sẽ trở nên tích cực nếu việc sử dụng vốn vay vẫn tạo ra các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay cao hơn lãi suất tiền vay. Khi đó công ty sẽ tăng được hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc công ty được hưởng phần lợi nhuận chênh lệch lớn do sử dụng vốn vay mang lại sau khi đã trừ đi lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng, từ đó làm tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, làm cơ sở phát triển vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, trong năm 2009 nguồn vốn vay ngắn hạn so với năm 2008 đã giảm đi về mặt lượng là 389 429 000đồng, tương đương với tỷ lệ là 0, 31% và về tỷ trọng là 13,18% (= 87,18% - 74,00% ). Như vậy công ty đang cố gắng thanh toán các khoản vay ngắn hạn để giảm bớt hệ số nợ, từ đó làm giảm bớt nguy cơ mất khả năng thanh toán. - Nguồn vốn tín dụng của nhà cung cấp năm 2009 là 2.501.500 000đồng, chiếm 1,47% trong tổng nợ ngắn hạn. Về số lượng, nguồn vốn này cuối năm 2009 đã giảm đi so với năm 2008 là 11.449.000đồng, tương ứng với tỷ lệ là 0,46%. Trong tổng nguồn vốn lưu động tạm thời, tỷ trọng của nguồn vốn này cũng giảm 0,26% (= 1,47% - 1,73% ), như vậy công ty đang thu hẹp dần nguồn chiếm dụng hợp pháp của công ty đối với nhà cung cấp. Điều này sẽ giúp cho tình hình tài chính của công ty phần nào tốt hơn do đã giảm được hệ số nợ. Tuy nhiên, trên lý thuyết thì công ty đang để lãng phí một nguồn vốn lẽ ra công ty được sử dụng mà không phải trả một đồng chi phí nào. Nhưng trên thực tế, khi sử dụng tín dụng của nhà cung cấp công ty phải có sự cân nhắc thật kỹ lưỡng các khoản nợ này vì nhìn bề ngoài thì dường như công ty không phải trả lãi, nhưng thực chất bên trong công ty phải có các điều kiện rang buộc từ phía nhà cung cấp ( ví dụ như việc phải mua với giá cao hơn với số lượng nhiều…). Như vậy, ở trường hợp này thì công ty phải chịu lãi suất tín dụng thương mại cao hơn nhiều so với lãi suất đi vay thong thường, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. - Các khoản người mua ứng ctrước của công ty có sự gia tăng rất lớn. Cụ thể là ở thời điểm năm 2008 lượng vốn này là 939.700.000đồng nhưng đến năm 2009 là 1.683.944.000đồng, tăng lên 744.244.000đồng với tỷ lệ tương ứng là 79,20%. Về tỷ trọng nguồn vốn này so với tổng nguồn vốn lưu động năm 2009 so với năm 2008 cũng tăng lên 0,34% (= 0,99% - 0,65% ). Điều này chứng tỏ công ty ngày càng có uy tín hơn với khách hàng và đây chính là ưu thế và là điều kiện thuận lợi để công ty có thể mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. - Các khoản phải trả công nhân viên năm 2009 so với nâưm 2008 cũng giảm đi nhưng không đáng kể ( 0,02% ). Năm 2008 chiếm 0,13% trong tổng nợ ngắn hạn và năm 2009 chỉ chiếm 0,11%. Điều này chứng tỏ công ty đã thực hiện việc chi trả tiền lương, tiền thưởng và cả các khoản phụ cấp cho công nhân viên dầy đủ, kịp thời, đảm bảo cho đời sống của cán bộ công nhân viên luôn ổn định và tốt để tạo ra hiệu quả lao động cao hơn. - Các khoản nợ khác của công ty như: thuế và các khoản phải nộp; phải trả, phải nộp khác trong năm 2009 đã gia tăng đáng kể cả về mặt lượng và cả về mặt tỷ trọng. Qua đó cho thấy công ty chưa thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước và với các chủ nợ khác. Điều này sẽ làm giảm uy tín của công ty trên thị trường và từ đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Như vậy nguồn vốn lưu động của công ty được tài trợ bởi gần một nửa bằng nợ ngắn hạn, trong đó vay ngắn hạn chiểm tỷ trọng cao nhất. Nguồn vốn lưu động thường xuyền của công ty nhỏ hơn 0, điều này nhắc nhở công ty cần có biện pháp để giảm khoản nợ ngắn hạn trong tổng nợ phải trả vì đây là yêu cầu khách quan của việc sử dụng vốn kinh doanh và để giúp công ty chủ động hơn trong việc sử dụng vốn lưu động và thực hiện các chiến lược kinh doanh, đặc biệt là chiến lược kinh doanh dài hạn của mình. 3.2. Kết cấu vốn lưu động: Bảng 04: Cơ cấu tài sản lưu động. Đơn vị: Triệu đồng. Các chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 So sánh Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ lệ % I. Vốn bằng tiền 2.638 2,25 3.108 1,91 470 17,82 1. Tiền mặt tại quỹ 229 8,68 253 8,14 24 10,48 2. Tiền gửi ngân hàng 2.409 91,32 2.855 91,86 446 18,51 II. Các khoản phải thu 29.291 25,02 53.573 32,98 24.282 82,90 1. thu của khách hàng 28.419 97,02 37.511 70,02 9.092 31,99 2. Trả trước cho người bán 187 0,64 13.201 24,64 13.014 6959 3. Thu nội bộ 0 0 1.970 3,68 1.970 - 4. Phải thu khác 685 2,34 891 1,66 206 30,07 III. Hàng tồn kho 80.532 68,8 98.502 60,65 17.970 22,31 1. NVL tồn kho 22.461 27,89 54.845 55,68 32.384 144,18 2. CCDC tồn kho 710 0,88 840 0,85 130 18,31 3. Chi phí SXKD dở dang 57.361 71,23 42.817 43,47 -14.544 -25,36 IV. Tài sản lưu động khác 4.599 3,93 7.240 4,46 2.641 57,43 Tổng tài sản lưu động 117.060 100 162.423 100 45.363 38,75 Một người chủ Công ty khi đã có vốn trong tay cần phải biết sử dụng chúng vào mục đích gì cho phù hợp và mục đích này lại có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Để biết được Công ty cổ phần Thanh Hóa phân bổ vốn lưu động như thế nào, có hợp lý và đem lại hiệu quả hay không ta đi phân tích bảng số liệu như sau: Qua bảng số 04 ta có thể nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã chuyển biến tốt bởi số tài sản lưu động của Công ty đã được huy động tăng thêm 38,75%, ngoài ra, vốn lưu động của Công ty được phân bổ vào bốn khoản mục đó là: vốn bằng tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho, và tài sản lưu động khác. Để hiểu rõ hơn ta đi sâu vào phân tích các khoản mục sau: - Lượng vốn bằng tiền của Công ty năm 2009 là 3.108 triệu đồng, chiếm 1,91% trong tổng tiaì sản lưu động và tăng so với năm 2008 là 470 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 17,82%. Đây có thể xem là một dấu hiệu tốt, cho thấy công tác thu hồi nợ về bán hàng của Công ty gặp nhiều thuận lợi. Khi lượng tiền tăng sẽ đảm bảo hơn khả năng thanh toán cũng như cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. - Các khoản phải thu năm 2009 chiếm 32,98% tăng hơn so với năm 2008 một lượng là 24.282 triệu đồng với tỷ lệ tương ứng là 82,90%. Nguyên nhân tăng chính là do hàng bán cho khách hàng chưa thanh toán, khách hàng không trả hết tiền hàng trong một lần mà thường nợ lại Công ty, vì thế mà dẫn tới việc tăng doanh thu cũng dẫn đến việc tăng các khoản phải thu của Công ty. Bên cạnh đó, việc các khoản phải thu tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản lưu động đã chứng tỏ vốn của Công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng nhiều. Qua đó nhắc nhở Công ty cần quản lý tốt các khoản phải thu để vừa khuyến khích được nhiều người mua hàng, vừa tránh tình trạng vốn bị chiếm dụng. - Hàng tồn kho năm 2009 là 98.502 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,65% tổng vốn lưu động và tăng 17.970 triệu đồng ứng với 22,31% so với năm 2008. - Xét đến tài sản lưu động khác của Công ty, lượng tài sản này chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu tài sản lưu động. Năm 2008 chiếm 3,78% đến năm 2009 tài sản lưu động này tăng nhẹ chiếm 4,33% . Như vậy, năm 2009 cùng với việc tăng quy mô vốn kinh doanh thì vốn lưu động trong Công ty cũng đã đạt được 162.423 triệu đồng, tăng thêm 45.363 triệu đồng tương ứng với 38,75%, trong đó các khoản mục hầu hết đều tăng lên đáng kể. 3.3. Tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: Để đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa đi sâu phân tích ta nhận thấy: 3.3.1. Vốn bằng tiền và khả năng thanh toán: Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ một lượng vốn nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiết cần thiết. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Và tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, đòi hỏi phải có một lượng vốn bằng tiền để đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp luôn trong trạng thái ổn định cân bằng. Qua bảng số liệu 04, ta thấy tại thời điểm năm 2008, lượng vốn bằng tiền là 2.638 triệu đồng, chiếm 2,25% trong tổng tài sản lưu động, nhưng đến năm 2009 lượng vốn bằng tiền đã tăng lên 3.108 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 1,91%, như vậy là vốn bằng tiền tăng lên 470 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 17,82%. Trong đó: - Tiền mặt tại quỹ năm 2008 là 229 triệu đồng chiếm 8,68%, và đến năm 2009 lượng tiền mặt tại quỹ tăng lên 253 triệu đồng chiếm 8,14%, như vậy là tiền mặt tại quỹ tăng lên 24 triệu đồng so với năm trước với tỷ lệ tương ứng là 10,48%, ta nhận thấy rằng, tỷ trọng của tiền mặt tại quỹ trong tổng vốn bằng tiền giảm đi 0,54% ( = 8,14% - 8,68%). - Tiền gửi ngân hàng năm 2009 tăng so với năm 2008 là 446 triệu đồng với tỷ lệ 18,51%. Như vậy tiền gửi ngân hàng tăng năm 2009 tăng cả về mặt lượng là 2.855 triệu đồng, và tăng cả về tỷ trọng là 0,54% (= 91,86% - 91,32%). Như vậy, việc lưu giữ vốn bằng tiền của Công ty được thực hiện chủ yếu dưới dạng tiền gửi ngân hàng ( chiếm 91,86% tổng vốn bằng tiền ). Việc có một lượng tiền lớn, ổn định trong tài khoản gửi ngân hàng là điều kiện đảm bảo cần thiết trong giao dịch thương mại quốc tế, giúp Công ty tránh được những rủi ro về tỷ giá hối đoái, đảm bảo có đủ dự phòng. Ngoài ra, qua bảng số liệu ta thấy được tỷ trọng giữa các loại tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng đang có sự điều chỉnh theo hướng giảm bớt tỷ trọng tiền mặt tại quỹ và tăng thêm tỷ trọng tiền gửi ngân hàng. Điều này có thể thấy việc quản lý vốn bằng tiền của Công ty ngày càng được tổ chức chặt chẽ để phát huy tối đa khả năng sinh lời của đồng vốn tạm thời nhàn rỗi trong khả năng cho phép. Và kết cấu giữa tiền mặt và tiền gửi ngân hàng như vậy là phù hợp, điều này cho thấy khả năng thanh toán tức thời của Công ty năm 2009 tăng hơn so với năm 2008. 3.3.2.Tình hình quản lý các khoản phải thu của Công ty: Trong nền kinh tế thị trường, để sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa, các Công ty khác nhau thường áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hút được nhiều khách hàng. Một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến nhất là cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, dưới dạng cho khách hàng mua chịu. Việc cho khách hàng mua chịu vừa là một cách đẩy nhanh hàng hóa ra thị trường, vừa là cách để giữ và thu hút người mua tìm đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quan hệ thương mại, một Công ty có thể vừa là nhà cung cấp vừa là khách hàng của các Công ty khác. Vì vậy luôn luôn tồn tại việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp và trong mỗi doanh nghiệp luôn có các khoản nợ phải thu. Qua bảng số liệu 04 ta thấy: Các khoản phải thu chiếm tỷ trọng tương đối lớn, cụ thể năm 2008 khoản phải thu là triệu đồng chiếm tỷ trọng 25,02% tổng số vốn lưu động, năm 2009 khoản phải thu tăng lên tới 53.573 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 32,98% trong tổng số vốn lưu động. Xem xét cụ thẻ các khoản phải thu ta thấy: - Khoản phải thu của khách hàng là lớn nhất, năm 2008 chiếm 97,02% trong tổng các khoản phải thu. Năm 2009 khoản phải thu tăng lên 37.511 triệu đồng chiếm tỷ trọng70,02 % trong tổng các khoản phải thu. Ta thấy, khoản phải thu của Công ty năm 2009 tăng rất cao với tỷ lệ 82,90% so với năm 2008. Từ số liệu trên nhắc nhở cán bộ lãnh đạo của Công ty một điều là cần phải quan tâm hơn nữa đến các khoản phải thu. Qua đó ta cũng có thể kết luận là công tác thu hồi các khoản phải thu của Công ty năm 2009 không tốt so với năm 2008. Nguyên nhân là do không chỉ các khoản phải thu của khách hàng tăng lên 31,99% mà khoản trả trước cho người bán cũng tăng mạnh (với tỷ lệ là 6.959%) vì năm 2009 Công ty cần ứng trước tiền để mua nguyên vật liệu. Điều này cho thấy lượng vốn của Công ty bị chiếm dụng khá lớn, và chứng tỏ công tác quản lý các khoản phải thu chưa thật sự tốt đã gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình quay vòng vốn kinh doanh. Vì vậy, Công ty cần nhanh chóng có biện pháp khắc phục tình trạng này để có hiệu quả hơn trong việc sử dụng vốn lưu động. 3.3.3. Tình hình quản lý hàng tồn kho: Qua bảng số liệu ta nhận thấy hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất ( năm 2008 chiếm 68,8%, năm 2009 chiếm 60,65%) trong tổng vốn lưu động và có xu hướng năm sau tăng hơn năm trước. Nhìn vào số liệu bảng 04 ta thấy tỷ trọng hàng tồn kho năm 2009 so với năm 2008 tuy đã giảm được 8,15% nhưng hàng tồn kho năm 2009 so với năm 2008 vẫn tăng 17.970 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 22,31% nhất là sản phẩm dở dang và NVL tồn kho. Phân tích kỹ hơn chỉ tiêu trong hàng tồn kho thì về công cụ dụng cụ trong kho chiếm tỷ trọng không đáng kể, năm 2009 tăng 130 triệu đồng với tỷ lệ là 18,31%. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang trong năm 2009 tuy là giảm đi 14.544 triệu đồng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao ( 43,47% ) trong tổng lượng giá trị hàng tồn kho. Đối với nguyên vật liệu tồn kho là yếu tố thứ 2 sau các sản phẩm dở dang có tỷ trọng lớn ( 55,68% ) trong tổng giá trị hàng tồn kho, mà nguyên nhân là do đến năm 2009 đã có nhiều sản phẩm hoàn thành và bán ra thị trường, đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho các khoản phải thu tăng lên. Và để bắt đầu cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh mới thì Công ty phải mua một lượng nguyên vật liệu dự trữ phục vụ sản xuất mới, do đó mà đã làm cho lượng nguyên vật liệu tồn kho tăng mạnh. Vì thế mà Công ty cần phải tìm ra các giải pháp nhằm tối thiểu hóa nguyên vật liệu tồn kho, để từ đó làm giảm các chi phí liên quan ( như chi phí lưu kho, chi phí bảo quản…) và tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Sử dụng vốn lưu động có hiệu quả là một trong những vấn đề then chốt quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty, phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ đánh giá được chất lượng sử dụng vốn lưu động từ đó thấy được những hạn chế cần khắc phục, từ đó vạch ra các phương hướng, có biện pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhằm tăng lợi nhuận cho Công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa ta xem xét một số chỉ tiêu cụ thể qua bảng sau: Bảng 05: Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng VLĐ tại công ty. Các chỉ tiêu ĐVT Năm 2008 Năm 2009 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1.Doanh thu thuần Trđ 327.293 475.016 147.723 45,13 2.Vốn lưu động Trđ 117.060 162.423 45.363 38,75 3.Vốn lưu động bình quân Trđ 105.234 139.741 34.507 32,79 4.Lợi nhuận trước thuế Trđ 6.916 8.112 1.196 17,29 5.Vốn bằng tiền Trđ 2.811 3.310 499 17,75 6.Nợ ngắn hạn Trđ 145.051 170.310 25.259 17,41 7.Hàng tồn kho Trđ 80.532 98.502 17.970 22,31 8.Doanh thu thuần bình quân ngày Trđ 0.909 1.319 0.410 45,10 9.Số dư các khoản phải thu bình quân năm Trđ 250.127 315.667 65.540 26,20 10.Kỳ thu tiền trung bình(9/8) Trđ 275.167 239.323 -35.844 -13,03 11.Hàng tồn kho bình quân trong kỳ Trđ 6.711 8.209 1.498 22,32 12.Số vòng quay VLĐ(1/3) Vòng 3,11 3,40 0,29 9,32 13.Kỳ luân chuyển(360/12) Ngày 115,76 105,88 -9,88 -8,53 14.Hệ số sinh lời VLĐ(4/3) Đồng 0,066 0,058 -0,8 -12,12 15.Hệ số đảm nhiệm(3/1) Đồng 0,322 0,294 -0,028 -8,70 16.Hệ số thanh toán hiện thời(2/6) % 0,81 0,95 0,14 17,28 17.Hệ số thanh toán nhanh(2-7)/6 % 0,25 0,38 0,13 52 18.Hệ số thanh toán tức thời(5/6) % 0,02 0,02 - - 19.Hệ số nợ(6/2) Trđ 1.239 1.049 -190 -15,33 20.Vòng quay hàng tồn kho(1/11) vòng 48,770 57,865 9,095 18,65 * Số vòng quay vốn lưu động và kỳ luân chuyển vốn lưu động: So sánh hai năm 2008 và 2009 ta thấy: Doanh thu thuần của công ty từ năm 2008 đến năm 2009 tăng khá cao, tăng 45,13%, trong khi đó vốn lưu động bình quân cũng tăng thêm 38,75% so với năm 2008. Số vòng quay vốn lưu động trong năm 2008 là 3,11 vòng thì đến năm 2009 tăng lên 3,40 vòng. Do số vòng quay vốn lưu động năm 2009 tăng lên khiến cho chu kỳ luân chuyển vốn giảm đi từ 115,76 ngày xuống còn 105,8 ngày. Điều này đã có tác động tích cực đến việc sử dụng vốn lưu động của Công ty. Hay nói cách khác là việc tăng vòng quay vốn lưu động, rút ngắn chu kỳ quay do đó đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động: (105,88 – 115,76) Mức tiết kiệm (lãng phí) VLĐ 475.016 360 = * * = = - 13.037 trđ Nếu số vòng quay vốn lưu động càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và chỉ tiêu kỳ luân chuyển năm 2009 càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. Ta cũng nhận thấy rằng, thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động giảm dần qua các năm bởi số vòng quay của vốn lưu động tăng qua các năm do doanh thu bán hàng của Công ty ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ Công ty hoạt động kinh doanh và quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. Ta đi sâu vào các chỉ tiêu khác để thấy rõ hơn: * Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động là chỉ tiêu cho biết để có một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Nhìn vào bảng kê ta thấy, năm 2008 cứ một đồng doanh thu thì cần 0,322 đồng vốn lưu động, đến năm 2009 thì một đồng doanh thu sinh ra cần 0,294 đồng vốn lưu động. Như vậy, mức chi phí của vốn lưu động để có một đồng doanh thu thuần cần ít hơn năm 2008 là 0,03 đồng. * Hệ số sinh lời của vốn lưu động: Hệ số sinh lời của vốn lưu động cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng trong đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Nhìn vào bảng số liệu 05 ta thấy, năm 2008 là 0,066 đồng thì năm 2009 đã giảm đi 12,12%. Điều này chứng tỏ năm 2008 Công ty bỏ ra một đồng vốn lưu động bình quân thì thu được 0,066 đồng lợi nhuận, nhưng đến năm 2009 Công ty cũng bỏ ra một đồng vốn lưu động sử dụng bình quân chỉ thu được 0,058 đồng lợi nhuận, giảm so với năm trước là 0,8 đồng tương ứng với tỷ lệ là 12,12%, việc tồn tại tình trạng này là do đâu mà có? Như chúng ta đã biết, lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều khâu hoạt động. Đối với số liệu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 2 năm 2008 và năm 2009, với diễn biến thực tế của khách hàng, của nền kinh tế nước ta cho thấy Công ty đạt được kết quả như trên là do: . Giá cả các sản phẩm, các yếu tố đầu vào luôn không ổn định và ngày càng có xu hướng tăng lên. . Việc bố trí cơ cấu vốn lưu động của Công ty là chưa được phù hợp, cụ thể là các khoản phải thu ( nhất là khoản phải thu của khách hàng) ngày càng tăng, việc dự trữ nguyên vật liệu tồn kho và sản phẩm dở dang còn nhiều dẫn tới tốc độ vòng quay vốn lưu động nói chung và vòng quay hàng tồn kho nói riêng còn chậm. . Chi phí tài chính lớn hơn nhiều so với doanh thu tài chính năm 2009. Thu tài chính năm 2009 chỉ đạt ở mức 177 triệu đồng trong khi đó chi phí tài chính tăng lên tới 9.265 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do chi trả lãi vay quá lớn, đặc biệt là nợ ngắn hạn. * Hệ số thanh toán hiện thời: Hệ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của Công ty. Trong năm 2008 hệ số thanh toán hiện thời là 0,81, đến năm 2009 hệ số thanh toán hiện thời tăng lên 0,95 tăng với tỷ lệ tăng là 17,28% so với năm trước. Nhân tố tác động chính tới hệ số thanh toán hiện thời là lượng vốn bằng tiền của Công ty lớn chiếm 2,25% năm 2008 và 1,91% năm 2009. Điều này cho thấy mức an toàn về khả năng thanh toán của Công ty không được ổn định lắm tuy vậy nó vẫn có xu hướng tăng lên. Ở đây nếu như Công ty chuyển đổi toàn bộ tài sản lao động của mình thì cũng chưa đủ để trả nợ cho khách hàng. Từ đó dẫn tới việc thu hút các nhà đầu tư các nhà cho vay vào Công ty là rất thấp, vì thế sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Công ty. Công ty cần phải tính toán lại để quá trình kinh doanh đạt hiệu quả tốt nhất. * Hệ số thanh toán nhanh: Đây là chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của Công ty. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Công ty mà không phụ thuộc vào việc giải phóng hàng tồn kho. Năm 2008 là 0,25 đến năm 2009 là 0,38 tăng 0,13 tương ứng với tỷ lệ tăng là 52%. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do lượng hàng tồn kho quá lớn, nhất là tồn kho nguyên vật liệu và tồn kho sản phẩm dở dang. Chỉ tính riêng 2 khoản mục này trong năm 2009 chiếm 97.662 triệu đồng trong khi vốn lưu động năm đó chỉ có 162.423 triệu đồng. Điều này cho thấy việc quản lý sử dụng vốn của Công ty còn chưa tốt, là một yếu kém của ban lãnh đạo Công ty, vì vậy Công ty cần có biện pháp khắc phục để kết quả sản xuất kinh doanh đạt chỉ tiêu tốt. * Hệ số thanh toán tức thời: Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán ngay lập tức tại một thời điểm mà không phụ thuộc vào việc giải phóng hàng tồn kho và việc thu hồi nợ. Nhìn vào bảng số liệu 05 ta nhận thấy trong 2 năm 2008 và năm 2009 hệ số thanh toán tức thời là không thay đổi và đều đạt được là 0,02. Qua việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên ta nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanhcủa công ty trong 2 năm qua có nhiều mặt tích cực nên đem lại kết quả khả quan cần phải được tiếp tục phát huy và kế thừa cho những kỳ hoạt động tiếp theo. Bên cạnh những mặt tốt đó thì vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế dẫn đến ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh và chưa đạt được chỉ tiêu đề ra. Đòi hỏi công ty phải tìm ra các giải pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đặc biệt công ty cần chú ý tới việc giải phóng hàng tồn kho, giảm chi phí sản xuất, dự trữ vốn bằng tiền. Trong những năm tới lãnh đạo công ty cần phải mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật để nhanh chóng tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những yếu kém. 4. Đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: 4.1. Ưu điểm: Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa tồn tại và phát triển trong những năm qua là nhờ có được những thuận lợi về địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh. Ưu thế phát triển của công ty là vận chuyển mía nguyên liệu, kinh doanh đường và sản xuất và cung ứng mía giống vì công ty được đặt tại vùng đất trồng mía rất thuận lợi cho việc phát triển, đã cung cấp cho công ty khối lượng mía lớn để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, với điều kiện vị trí địa lí thuận lợi, khí hậu phù hợp để phát triển trồng cây mía và từ đó cung cấp cho nhà máy lượng mía nguyên liệu để công ty có thể duy trì hoạt động sản xuất liên tục và không ngừng sản xuất kinh doanh đường để xuất bán ra thi trường. Cơ cấu tổ chức của Công ty tương đối lớn và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Về mặt công tác quản lý và điều hành của công ty được thực hiện rất tốt cũng như công tác điều hành sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, sản phẩm của công ty được phân bổ rộng khắp miền Bắc. Đặc biệt công ty có một nguồn lao động dồi dào, con người nơi đây sống tình cảm, ôn hòa, biết bảo tồn, kế thừa cái cũ và tiếp thu cái mới, và công ty luôn chú trọng tuyển chọn và đào tạo con người địa phương để trở thành những con người lao động có tay nghề và gắn bó với công ty, với quê hương. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh công ty còn đạt được một số chỉ tiêu, đó là: - Chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn lưu động của công ty trong năm 2009 đã giảm xuống 8,70% so với năm 2008, điều này chứng tỏ công ty đã tiết kiệm vốn lưu động tốt nhất nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả. - Chỉ tiêu kỳ luân chuyển vốn có xu hướng giảm, năm 2009 giảm gần 10 ngày so với năm 2008, vòng quay vốn lưu động càng nhanh làm cho kỳ luân chuyển của vốn được rút ngắn xuống và chứng tỏ vốn lưu động của công ty càng được sử dụng có hiệu quả. Ngoài ra, Công ty còn được Nhà nước ưu đãi nhiều chính sách. Vì Công ty đặt tại địa bàn là huyện miền núi nên Nhà nước đặc biệt chú trọng và quan tâm và khuyến khích phát triển, tạo cơ hội để Công ty có thể phát triển và đứng vững trên thị trường. 4.2. Hạn chế: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài những mặt tích cực đạt được thì Công ty còn gặp một số hạn chế đó là: Việc quản lý và sử dụng vốn chưa thật sự hiệu quả, do vậy làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quá sản xuất kinh doanh của công ty, nguyên vật liệu và hàng tồn kho dự trữ nhiều mà tiêu thụ lại chậm do vậy mà lượng hàng tồn kho còn lớn. Thực trạng công tác quản lý nợ phải thu còn nhiều bất cập. Tốc độ tăng của các khoản phải thu là rất lớn, nhất là các khoản phải thu của khách hàng tăng cho thấy công ty bị khách hàng chiếm dụng một lượng vốn khá lớn nên buộc công ty phải vay ngắn hạn, điều này làm cho chi phí các khoản vay tăng lên làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu hệ số sinh lời của năm 2009 giảm 12,12% so với năm 2008, điều này ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. 4.3. Nguyên nhân: Dưới áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, đây là một khó khăn lớn nhất đối với Công ty. Trên thị trường có rất nhiều công ty sản xuất kinh doanh đường, các công ty cạnh tranh nhau bằng mọi hình thức như: đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hình thức sản phẩm, hình thức marketting…nhằm cạnh tranh lẫn nhau trên thị trường. Cơ cấu vốn lưu động còn có chỗ chưa hợp lý, chưa lập kế hoạch cụ thể về vốn lưu động, công ty còn bị động về vốn trong sản xuất kinh doanh. Xu hướng tăng lên của hàng tồn kho, các khoản phải thu chiếm tỷ trọng cao là một điều đáng lo ngại, bởi hàng tồn kho là bộ phận sinh lời. Nếu bộ phận này càng lớn thì công ty sẽ thiếu vốn, lợi nhuận giảm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giá cả thị trường biến động thường xuyên, lạm phát phát sinh, thuế, lãi suất… cũng làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của công ty. 4.4. Những thuận lợi và kết quả đạt được trong những năm gần đây của Công ty cổ phần mía đường Thanh Hóa: Ban lãnh đạo công ty luôn có tinh thần, trách nhiệm cao trước sự nghiệp phát triển và đổi mới của công ty, luôn đề ra các phương hướng, đường lối phát triển đúng đắn trong các giai đoạn. Đặc biệt là thể hiện ở tính thống nhất trong các quan điểm điều hành kinh doanh. Tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty luôn nhiệt tình, đoàn kết,có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc. Trong bộ máy công ty, các nhà quản lý có mối quan hệ thân thiện, tin tưởng lẫn nhau, nhất là mối quan hệ cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ và nhân viên đều có sự hòa đồng, thân thiện, tôn trọng lẫn nhau, mọi vấn đề, mọi rắc rối thì tất cả nhân viên, ban lãnh đạo đều cùng nhau giải quyết ổn thỏa. Chính vì thế mà luôn tạo được bầu không khí làm việc thoải mái, thân thiện, mọi người cùng giúp đỡ nhau làm việc tạo ra năng suất lao động cao hơn. Đặc biệt trong cơ chế quản lý nội bộ và điều hành sản xuất kinh doanh, công ty đã luôn thể hiện sự chắc chắn, cẩn trọng và ý thức tuân thủ pháp luật cao. Được sự quan tâm, ủng hộ của Đảng và nhà nước cũng là một điều kiện thuận lợi để công ty ngày càng phát triển và có vị thế trên thị trường. Ngoài ra, công ty cũng luôn áp dụng những tiến bộ khoa học vào trong quá trình sản xuất, không ngừng tìm tòi, sáng tạo và vận dụng những thông tin mới vào trong hoạt động kinh doanh của mình để công ty ngày càng phát triển và có vị thế trên thị trường. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của mình, công ty đã không những tạo được uy tín đối với khách hàng mà còn tự khẳng định mình trong cạnh tranh. Với nhiệm vụ vận tải mía nguyên liệu, sản xuất và cung ứng mía giống, và kinh doanh đường, công ty đã trực tiếp vận chuyển được khối lượng mía nguyên liệu từ các vùng trồng mía về công ty để sản xuất và chế biến thành đường để kinh doanh. Bên cạnh đó công ty còn cung ứng mía giống cho các vùng trồng mía, tạo cơ hội để người dân phát triển kinh tế, làm giàu cho địa phương mình. Công ty luôn thực hiện tốt các kế hoạch do nhà nước giao, thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Công ty có đội ngũ công nhân co sức khỏe tốt, dày dặn kinh nghiệm, luôn đoàn kết, sáng tạo, tâm huyết, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ lao động, từ đó nâng cao hiệu quả trong lao động trong công ty. Trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã đạt được những kết quả tương đối tốt, không chỉ đem lại lợi nhuận cho công ty mà còn tạo ra những nền tảng cho sự phát triển. Tuy nhiên, qua xem xét một số thuận lợi và khó khăn ta thấy còn một số khó khăn ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đòi hỏi công ty phải đưa ra được những giải pháp để khắc phục trong thời gian tới. Để nâng cao lợi nhuận và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi công ty phải có những chiến lược kinh doanh cụ thể, trên cơ sở kế thừa và đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với phương pháp và kế hoạch nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được tốt hơn trong thời gian tới. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG THANH HÓA. 1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới: Năm 2009 mặc dù vẫn còn gặp phải một số khó khăn nhất định, song công ty vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ: Doanh thu năm 2009 tăng so với năm 2008 là 147.723 triệu đồng với tỷ lệ tương ứng là 45,13%. Lợi nhuận sau thuế cũng tăng 861 triệu đồng so với năm trước, với tỷ lệ là 17,29%. Như vậy là kết quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần mía đường Thanh Hóa.doc
Tài liệu liên quan