Báo cáo Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại

Tài liệu Báo cáo Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần phải năng động, nhạy bén mới có thể tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp kinh doanh tồn tại hay không là kết quả của hệ thống các chiến lược kinh doanh, chính sách, biện pháp với các hoạt động cụ thể như: mua, bán, tồn kho, dự trữ, tổ chức lao động, sử dụng vốn... Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại".Trong đề tài này tôi xin trình bày một số vấn đề sau: + Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. + Thực trạng kinh doanh tại Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại. + Một số b...

doc65 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần phải năng động, nhạy bén mới có thể tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp kinh doanh tồn tại hay không là kết quả của hệ thống các chiến lược kinh doanh, chính sách, biện pháp với các hoạt động cụ thể như: mua, bán, tồn kho, dự trữ, tổ chức lao động, sử dụng vốn... Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại".Trong đề tài này tôi xin trình bày một số vấn đề sau: + Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. + Thực trạng kinh doanh tại Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại. + Một số biện pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Hoá Chất - Bộ thương Mại. Do thời gian thực tập hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi thiếu sót mong được sự góp ý sửa chữa để bài viết hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn Trần Thăng Long và các cô chú trong Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại đã tận tình giúp tôi hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG I KINH DOANH HÀNG HOÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. I. Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1. Mục tiêu của kinh doanh thương mại. Kinh doanh là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn của quá trình từ đầu tư đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện quá trình dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Đối với mỗi doanh nghiệp thì mục tiêu kinh doanh đầu tiên là lợi nhuận vì lợi nhuận duy trì sự sống của toàn bộ công nhân viên trong công ty cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp và nó cũng là động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng phải lớn hơn chi phí bỏ ra. Muốn có doanh thu bán hàng và dịch vụ lớn thì phải bán được hàng và giảm tối đa các khoản chi phí kinh doanh không cần thiết. Nền kinh tế ngày nay là nền kinh tế thị trường do vậy không có độc quyền bán cũng như độc quyền mua, chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để tiêu thụ được hàng hoá. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường, việc thu hút khách hàng không phải là công việc có thể thực hiện trong ít ngày mà nó là một công việc lâu dài và bền bỉ. Doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng để được khách hàng chấp nhận. Muốn làm được điều này, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã cũng như tăng cường công tác bán hàng. Lợi nhuận và sự kì vọng vào nó phụ thuộc vào loại hàng hoá và chất lượng hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh. Ngoài ra, khối lượng và giá cả hàng hoá bán được, cung cầu hàng hoá trên thị trường, chi phí và tốc độ tăng giảm chi phí kinh doanh,...cũng là những nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Công việc kinh doanh chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi, do vậy an toàn là mục tiêu thứ hai mà doanh nghiệp cần quan tâm. Thị trường kinh doanh luôn có nhiều biến động có thể gây rủi ro cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy vấn đề bảo toàn nguồn vốn và duy trì hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có sự an toàn thông qua việc đa dạng hoá kinh doanh “trứng không cho hết vào một giỏ”. Các quyết định kinh doanh phải được đưa ra nhanh, nhạy và kịp thời nếu không cơ hội sẽ trôi qua nhưng các quyết định đó cũng cần phải được cân nhắc mặt lợi, mặt hại. Chính vì vậy, bản lĩnh và khả năng nhìn xa trông rộng của người lãn đạo hết sức quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp. Ngày nay, nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Chính vì điều đó mà các doanh nghiệp cần phải hoạch định chiến lược cho đúng đắn. Điều quan trọng là phải chiếm lĩnh được thị trường và tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Mục đích chính của công việc kinh doanh là lợi nhuận nhưng không phải lúc nào mục đích này cũng được thực hiện nên doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn mục tiêu. Doanh nghiệp cần phải xác định được đâu là mục tiêu quan trọng nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất và sẽ được doanh nghiệp thực hiện trước nhất để đặt đó là mục tiêu hàng đầu. Việc lựa chọn mục tiêu có thể biểu diễn thông qua mô hình tháp mục tiêu. Trong mô hình này, các mục tiêu quan trọng và dễ thực hiện được đặt trên nhất và tuần tự là các mục tiêu lâu dài hơn. Mục tiêu quan trọng nhất Mục tiêu lâu dài hơn Nhìn chung, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá thường có ba mục tiêu cơ bản là: lợi nhuận, an toàn và vị thế của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp mới bắt đầu bước vào kinh doanh thì yếu tố an toàn được đặt lên hàng đầu và chỉ khi nào mục tiêu an toàn được thực hiện thì các mục tiêu tiếp theo là vị thế và lợi nhuận của doanh nghiệp mới đựoc thực hiện. Mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu lâu dài và để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp cũng phải tuân thủ các quy luật của thị trường nếu không muốn phải trả giá đắt bởi thị trường cũng có quy luật riêng của nó đó là: + Quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao + Quy luật mua rẻ bán đắt. Thuận theo đó thì doanh nghiệp có lợi nhuận thông qua phần chênh lệch giá còn ngược lại thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ. + Quy luật “mua của người chán, bán cho người cần”. Nếu doanh nghiệp thực hiện được điều này thì sẽ thu được lợi nhuận cao hơn vì người bán vì muốn bán hàng nhanh sẽ chịu bán với giá thấp hơn còn người mua thì do muốn có hàng hoá đó nên sẵn sàng trả cao hơn lúc bình thường. 2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại 2.1 Doanh nghiệp thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp thương mại và chức năng của nó. Doanh nghiệp thương mại. Quá trình phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã nảy sinh nền sản xuất hàng hoá. Quá trìng sản xuất bao gồm: sản xuất, trao đổi và tiêu dùng. Tiền tệ ra đời đã làm cho quá trình trao đổi mang hình thái mới là lưu thông hàng hoá với hai thái cực là mua và bán. Thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá này là những thương nhân và như vậy thương mại trở thầnh một lĩnh vực kinh doanh. Quy luật chi phối của hoạt động thương mại là quy luật mua rẻ bán đắt. Tiền được dùng để mua hàng hoá rồi sau đó bán lại với giá cao hơn, lợi nhuận chính là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Giữa thương mại và sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Doanh nghiệp thương mại tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp sản xuất sẽ nhường lại một phần lợi nhuận cho doanh nghiệp thương mại. Như vậy doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập với mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường nhằm thu lợi nhuận. Chức năng của doanh nghiệp thương mại. Doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá nên có một số đặc điểm sau: - Chức năng lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Đây là chức năng xã hội của doanh nghiệp thương mại. Để tực hiện tốt chức năng này thì doanh nghiệp phải nghiên cứu nắm vững thị trường, huy động và sử dụng tốt các nguồn hàng, tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại, đảm bảo việc phân phối hàng hoá thông qua các kênh phân phối. - Chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Chức năng này thể hiện thông qua việc doanh nghiệp thực hiện phân loại hàng hoá, đóng gói bao bì hàng hoá, ghép đồng bộ sản phẩm, bảo quản và vận chuyển hàng hoá. Khi thực hiện chức năng này, doanh nghiệp sẽ duy trì và nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá, thoả mãn tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng và nâng cao khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá. - Chức năng tiếp theo của các doanh nghiệp thương mại là chức năng thực hiện hàng hoá. Mục đích của các doanh nghiệp thương mại không phải là mua hàng hoá mà là mua để bán. Khi mua hàng hoá, các doanh nghiệp thương mại đã làm chức năng tiêu thụ hàng hoá cho sản xuất. Mục đích của doanh nghiệp là thu lợi nhuận, muốn thu được lợi nhuận thì phải bán được hàng hoá và giá bán phải cao hơn giá mua cộng với chi phí khác. Nếu không bán được hàng hoá hoặc bán với giá thấp hơn giá mua thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ có thể dẫn tới phá sản. Chức năng cuối cùng của doanh nghiệp thương mại là tổ chức sản xuất. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hàng hoá sẽ không chỉ tác động đến quá trình lưu thông hàng hoá mà thông qua các hoạt động mua bán đó doanh nghiệp tác động đến quá trình tái sản xuất. Hoạt động thương mại có thể tác động thúc đẩy tái sản xuất hoặc gây đình trệ sản xuất. Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại. Để thực hiện các chức năng đó thì doanh nghiệp thương mại cần làm tôt các nhiệm vụ sau: - Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức tốt khâu mua bán và đặc biệt giảm bớt khâu trung gian. - Giảm chi phí kinh doanh và tăng lợi nhuận, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng. - Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thương mại, thực hiện các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lưu thông như: vận tải, bảo quản, đóng gói, bao bì.... - Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý kinh doanh. - Thực hiện các ngiã vụ đối với nhà nước, xã hội và người lao động, có trách nhiệm bảo vệ an ninh trật tự an toàn xã hội trên phạm vi doanh nghiệp và thực hiện tôt các vấn đề bảo vệ môi trường. 2.2 Các hình thức kinh doanh thương mại. Kinh doanh chuyên môn hoá. Kinh doanh chuyên môn hóa tức là doanh nghiệp chỉ chuyên môn kinh doanh một mặt hàng hay một nhóm hàng hóa nhất điịnh. Ví dụ như: xăng dầu, lương thực. Loại hình kinh doanh chuyên môn hóa có các ưu điểm sau: - Nắm chắc được thông tin về người mua, ngưòi bán, giá cả,thị trường, tình hình hàng hóa và dịch vụ nên có thể làm chủ được thị truờng để vưon lên thành độc quyền trong kinh doanh. - Trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao, có điều kiện để hiện đại hóa các cơ sở vật chất kĩ thuật, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất chuyên dùng tạo lợi thế lớn trong cạnh tranh. - Có khả năng đào tạo được những cán bộ quản lý,các chuyên gia và nhân viên kinh doanh giỏi về cả chuyên môn và nghiệp vụ. Bên cạnh những ưu điểm đó thì loại hình kinh doanh này cũng tồn tại những nhược điểm sau: - Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì hệ số rủi ro cao. - Khi mặt hàng kinh doanh không chiếm được lợi thế nữa và doanh nghiệp muốn chuyển hướng kinh doanh thì sự chuyển hướng này diễn ra chậm. Kinh doanh tổng hợp. Kinh doanh tổng hợp là loại hình kinh doanh nhiều loại hàng hóa khác nhau, kinh doanh không lệ thuộc vào thị trường truyền thống, bất cứ hàng hóa nào có thể kiếm được lợi nhuận thì doanh nghiệp kinh doanh. Loại hình kinh doanh này có những ưu điểm sau: - Hạn chế được rủi ro trong kinh doanh và dễ dàng chuyển hướng kinh doanh(Khi kinh doanh một loại hàng hóa nào nào đó bất lợi thì doanh nghiệp có thể nhanh chong chuyển sang kinh doanh loại hàng hóa khác). - Vốn kinh doanh không bị ứ đọng vì mua nhanh, bán nhanh và doanh nghiệp thường đầu tư cho những mặt hàng có khả năng lưu chuyển nhanh nên khả năng quay vòng vốn nhanh. - Thị trưòng kinh doanh rộng lớn và luôn phải đối đầu với vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp khác nên kích thích tính năng động của các doanh nghiệp. Loại hình kinh doanh này cũng có những nhược điểm sau: - Khó trở thành độc quyền trên thị trường và ít có điều kiện tham gia vào các liên minh độc quyền. - Mỗi ngành hàng kinh doanh chỉ là những ngành hàng kinh doanh nhỏ nên không thể tìm kiếm được lợi nhuận siêu ngạch. - Không bộc lộ sở trường kinh doanh. Do không chuyên môn hóa nên khó đào tạo về chuyên môn và bồi dưỡng được những chuyên gia giỏi. II. Nội dung việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại. 1. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại. a)Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Một nhà doanh nghiệp kinh doanh thương mại có những đức tính cần thiết và những am hiểu về kĩ năng quản trị kinh doanh vẫn chưa thể đưa doanh nghiệp của mình dến với thành công nếu chưa đề ra được chiến lược kinh doanh đúng đắn. Chiến lược kinh doanh thể hiện nội dung hoạt động, mục tiêu và các giải pháp ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường. Chiến lược kinh doanh bao gồm một số nội dung chủ yếu sau: +)Chiến lược quy mô kinh doanh và tích lũy tài sản vô hình. Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp phải được xác định hợp lí trên cơ sở tính toán đúng dung lượng thị trường, tiềm lực kinh doanh. Doanh nghiệp phải xác định được điểm hòa vốn để tối ưu hóa quy mô kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đề có hai loại tài sản là: tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản vô hình: tài sản vô hình đó là lòng tin của khách hàng với doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, là hình ảnh quen thuộc và nổi tiếng của nhãn hiệu, là các hiểu biết về thông tin khoa học kĩ thuật, là bầu không khí làm việc trong nội bộ doanh nghiệp, là kĩ năng quản lí của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Tài sản hữu hình: Tài sản hữu hình đó là những yếu tố vật chất có tính định lượng như: nhà xưởng, vật tư, máy móc thiết bị. Nhìn chung cả hai loại hình tài sản trên đều quan trọng đối với doanh nghiệp và nếu xét về lâu dài thì tài sản vô hình có phần quan trọng hơn. Tài sản vô hình là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại của doanh nghiệp trên thị trường. Nó quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Tài sản vô hình có thể tích lũy bằng hai cách: - Cách quảng cáo trực tiếp trên phương tiện thông tin đại chúng, huấn luyện nhân viên của doanh nghiệp để giao tiếp tốt với khách hàng. - Cách gián tiếp là các hoạt động hàng ngày thông qua giao tiếp với khách hàng, thông qua các dịch vụ phục vụ khách hàng để nâng cao tín nhiệm của sản phẩm và danh tiếng của sản phẩm trên thị trường. + Chiến lược thích nghi với môi trường Môi trường của doanh nghiệp bao gồm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Môi trường cạnh tranh bên ngoài thực sự nhiều phức tạp vì doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác. Để thích nghi với môi trường thì doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện sau: Đáp ứng những nhu cầu khách hàng, đáp ứng những thay đổi trong nhu cầu kế hoạch của khách hàng. Xác định đối thủ cạnh tranh, tích luỹ và thực hiện lợi thế cạnh tranh, lựa chọn vũ khí cạnh tranh hợp lí. Tiếp cận được với khoa học kĩ thuật hiện đại. Đó là giới hạn về năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có những phương thức ứng xử hợp lí với sự phát triển của khoa học công nghệ, tìm ra giải pháp mới trong việc ứng dụng khoa học kĩ thuật. + Chiến lược marketing thương mại Marketing là quá trình hoạch định và thực hiện một số công việc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng về hàng hoá và dịch vụ thông qua việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp thương mại thì việc nắm bắt được bản chất của marketing và thực hiện tôt công tác marketing có một ý nghĩa quan trọng vì marketing là một công cụ quản lí kinh tế, kế hoạch hoá kinh doanh. Nhiệm vụ của marketing trong doanh nghiệp thương mại là làm cho kinh doanh phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và thông qua đó doanh nghiệp bán được nhiều sản phẩm và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Marketing thương mại trong các doanh nghiệp có vai trò hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, là vũ khí của nhà kinh doanh, làm cho công việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp dễ dàng hơn. Doanh nghiệp không chỉ bán được nhiều hàng hoá hơn mà còn có thể mở rộng thị trường. Nhu cầu của khách hàng được đáp ứng tốt hơn vì doanh nghiệp thông qua các biện pháp thăm dò, khuyến mại, tìm hiểu sở thích người tiêu dùng để cải tiến chất lượng hàng hoá, dịch vụ tốt hơn. b) Kế hoạch kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại. Trong doanh nghiệp thương mại, kế hoạch kinh doanh chính là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Lưu chuyển hàng hoá có những loại sau: - Lưu chuyển hàng hoá là những tư liệu sản xuất, yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất. Loại lưu chuyển này do các doanh nghiệp thương mại vật tư đảm nhiệm. - Lưu chuyển hàng hoá là nông sản do hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh lương thực đảm nhiệm. - Lưu chuyển hàng hoá là các tư liệu tiêu dùng cá nhân do các doanh nghiệp thương mại hàng tiêu dùng thực hiện. - Lưu chuyển hàng hoá là các sản phẩm xuất nhập khẩu tham gia vào thương mại quốc tế do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đảm nhiệm. Nhiệm vụ chủ yếu của hoạch định lưu chuyển hàng hoá: - Đáp ứng kịp thời, tốt nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian giao hàng, tạo điều kiện phân phối hợp lí hàng hoá và các kênh tiêu thụ. - Khai thác tốt nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. - Hình thành đầy đủ và đồng bộ lực lượng dự trữ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại. - Tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động. Các chỉ tiêu của kế hoạch lưu chuyển hàng hoá gồm: + Doanh số bán hàng. + Doanh số mua vào. + Dự trữ hàng hoá đầu kì và cuối kì kế hoạch. + Tốc độ chu chuyển vốn lưu động kì kế hoạch. Trong các doanh nghiệp thương mại, kế hoạch lưu chuyển hàng hoá được xây dựng bằng hai phương pháp Phương pháp thống kê - kinh nghiệm. Phương pháp này chủ yếu dựa trên cơ sở là các số liệu báo cáo hoạt động kinh doanh trong thời gian gần nhất, căn cứ vào thời gian lên kế hoạch và ước tính thực hiện của thời kì còn lại để ước tính thực hiện kế hoạch lưu chuyển trong năm. Ước tính thực hiện của một số năm làm cơ sở kế hoạch lưu chuyển cho năm sau. Phương pháp này có nhược điểm là: không phản ánh chính xác số lượng hàng hoá lưu chuyển kì kế hoạch, không thâu tóm hết những thay đổi trong cơ cấu tổ chức bán hàng cho khách và những thay đổi trong danh mục sản phẩm do doanh nghiệp tạo ra. Phương pháp kinh tế - kĩ thuật. Đây là phương pháp kế hoạch hoá lưu chuyển hàng hoá được coi là đúng đắn hơn. Cơ sở xây dựng kế hoạch lưu chuyển hàng hoá theo phương thức này dựa trên nhu cầu của khách hàng và khả năng khai thác nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu đó của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tính tổng mức bán hàng hóa theo công thức sau: T = P + (Dđk – Dck) Trong đó: T : là tổng doanh số bán P : là lượng hàng hoá thu gom Dđk : là dự trữ hàng hoá đầu kì Dck : là dự trữ hàng hoá cuối kì Sau khi xác địng doanh số bán doanh nghiệp cần tính lượng hàng hoá lưu chuyển thẳng. Lượng hàng hoá lưu chuyển thẳng tính bằng lượng hàng hoá thu gom thẳng. 2. Xây dựng hệ thống tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. 2.1 Quản lý kinh doanh thương mại bằng các phương pháp quản lý hành chính. Quản lý kinh doanh thương mại bằng các phương pháp quản lý hành chính là sự tác động trực tiếp của cơ quan quản lí hay người lãnh đạo đến cơ quan bị quản lí hay người chấp hành nhằm bắt buộc thực hiện một hành động. Các phương pháp hành chính trong quản lí chính là các cách tác động trực tiếp của chủ thể quản trị lên các cá nhân trong tổ chức bằng các quyết định dứt khoát, mang tính bắt buộc, đòi hỏi mọi người trong tổ chức phải chấp hành thực hiện nếu không sẽ bị trừng phạt thích đáng, kịp thời. Vai trò của các phương pháp hành chính trong quản trị là rất to lớn, nó xác định trật tự kỉ cương trong doanh nghiệp, kết nối các phương pháp khác thành hệ thống, giải quyết nhanh chóng các vấn đề đặt ra. 2.2 Phương pháp kinh tế. Phương pháp kinh tế là dùng sự tác động đến lợi ích vật chất của cá nhân hay tập thể nhằm làm cho họ quan tâm đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về các hành động của chính bản thân họ. Phương pháp này lấy động lực cơ bản của phát triển là lợi ích vật chất. Lợi ích cá nhân của người lao động là yếu tố cơ bản nhất tác động đến hoạt động của người lao động. Nếu không có sự khuyến khích của lợi ích vật chất và trách nhiệm vật chất thì động lực kích thichs người lao động sẽ bị thủ tiêu. Vai trò của lợi ích vật chất trong cơ chế thị trường đã được xác định rất rõ ràng: Lợi ích vật chất là cái làm chuyển động quảng đại quần chúng nhân dân lao động, đồng thời lợi ích vật chất là chất kết dính mọi hoạt động riêng lẻ theo một mục đích chung. Các nhà CNXH khoa học đã khẳng định: ở đâu không có sự thống nhất về mục đích thì đừng nói gì về thống nhất hành động. Trong nền kinh tế thị trường nước ta, do tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên tồn tại nhiều hệ thống lợi ích khác nhau. Thực chất của việc huy động sử dụng các thành phần kinh tế khác nhau chính là sự kết hợp hài hoà các lợi ích. Nguyên tắc các bên cùng có lợi sẽ chi phối sự kết hợp hay chia rẽ hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Sử dụng đòn bẩy kinh tế là nội dung của phương pháp kinh tế. Các đòn bẩy kinh tế như: tiền lương, tiền thưởng, giá cả, lợi nhuận, chi phí ...có tác động rất lớn đến người lao động. Nó kích thích hay hạn chế động lực làm việc của mỗi người. Các đòn bẩy kinh tế phải được sử dụng đồng bộ, bên cạnh đó cần sử dụng các biện pháp hành chính như xử phạt và các trách nhiệm về vất chất khác. 2.3 Phương pháp tuyên truyền giáo dục. Phương pháp tuyên truyền giáo dục là các cáh tác đọng đén tinh thần và năng lực chuyên môn của người lao động để nâng cao ý thức và hiệu quả công tác. Phương pháp tuyên truyền giáo dục bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Tác động thông qua hệ thống thông tin đa chiều tới toàn bộ hệ thống quản lí và người lao động. Hệ thống thông tin đa chiều có định hướng, chính xác và tác động kịp thời sẽ có tác động kích thích chủ thể theo khuynh hướng dự kiến. Qua hệ thống thông tin tác động đến tư tưởng người lao động, nắm bắt và sửa chữa, uốn nắn các tư tưởng sai lạc, thiếu lành mạnh, phát huy tinh thần trách nhiệm của người lao động. + Phương pháp tuyên truyền giáo dục thể hiện sự khen, chê rõ ràng, nêu gương trước tập thể là cách quan trọng tác động gây sự chú ý và thuyết phục người khác làm theo, xử phạt nghiêm minh để giữ vững kỉ cương và ngăn chặn các khuynh hướng xấu. + Bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao tay nghề, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kết hợp chặt chẽ với cơ chế tuyển dụng, bố trí và sủ dụng, đào thải người lao động một cách hợp lí. + Giáo dục chuyên môn và năng lực công tác là hệ thống quan trọng trong hệ thống tuyên truyền vận động, là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác. + Giáo dục tuyên truyền ở mỗi doanh nghiệp là việc làm có ý nghĩa và hiệu quả cao làm cho mỗi người có ý thức đầy đủ về vị trí doanh nghiệp, xác định rõ trách nhiệm cá nhân là nguồn động lực để nâng cao trách nhiệm đối với công việc. + Phải làm phong phú đời sống tinh thần để tăng niềm tin của mỗi người lao động vào doanh nghiệp. Phương pháp kinh tế và phương pháp tuyên truyền giáo dục là hai cách thức tác động gián tiếp đến người lao động, hiệu quả của các phương pháp này không biểu hiện ngaymà mang tính chất của một quá trình. Mỗi phương pháp quản lí đều có những ưu điểm và những nhược điểm khác nhau nên trong quản trị kinh doanh thương mại chúng ta cần sử dụng tổng hợp các phương pháp để đạt được hiệu quả cao nhất. 3. Tổ chức và điều khiển hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại. 3.1 Nghệ thuật nhập hàng trong kinh doanh. Hoạt động thương mại thực chất là hoạt động mua bán. Nhiều người cho rằng thương mại chỉ đơn thuần là bán nhưng trên thực tế cả mua và bán đều là tiền đề và là cơ sở hành vi kiếm tiền. Kiến thức về nhập hàng và nghệ thuật nhập hàng trong thương mại có một ý nghĩa to lớn. Để có thể vạch ra những kế hoạch nhập hàng phù hợp với nhu cầu thị trường thì ngườ lập kế hoạch phải hiểu rõ tình hình thị trường đầu ra và thị trường đầu vào. Cần phải làm rõ quy luật lưu thông hàng hoá, đặc điểm mới của xu thế tiêu dùng và tình hình biến động của cung và cầu trên thị trường. Để thành công trong nhập hàng thì chúng ta phải lên kế hoạch nhập hàng dựa trên các cơ sở khoa học gồm những nội dung sau: Nguyên tắc thu gom được, bán được và đảm bảo có lãi. Cơ cấu thu mua phải phù hợp với nhu cầu tiêu dùng như: mẫu mã, chủng loại, kiểu dáng, quy cách...đồng thời phải chú ý đến hàng hoá chủ lực theo nguyên tắc 8.2 trong kinh doanh (tức là đảm bảo thu được 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực). Vì vậy khi lập kế hoạch mua hàng bao giờ cũng phải xác định hàng hoá chủ lực là những hàng hoá nào. Số lượng hàng hoá thu gom: Về nguyên tắc thì số lượng hàng hoá thu gom bao giờ cũng lớn hơn hoặc bằng số lượng hang hoá tiêu thụ theo kế hoạch. Cụ thể là: * Nếu nhập hàng theo lô, phải dưa trên cơ sở lượng hàng hoá có nhu cầu trong thời gian nhất định. Căn cứ vào một số đặc điểm ta có thể xác định được số lượng hàng hoá tối ưu cần nhập vào. Nếu gọi C là tổng chi phí. C1: là tổng chi phí mua hàng hoá một lần. C2: là chi phí bảo quản một đơn vị hàng hoa trong một thời gian nhất định. D: là số lượng hàng hoá cần trong một đơn vị thời gian. Q: là số lượng hàng hoá thu mua một lần. Giả thiết rằng Q không thay đổi và số lượng hàng hoá lưu kho luôn bằng Q/2 thì ta có: Q = 2 * C1 *D / C2. C = C2 * Q / 2 + C1 * D / Q. * Nếu nhập hàng có giới hạn: Trong kho lúc nào cũng cần một lượng hàng nhất định, khi nào lượng hàng trong kho giảm tới số lượng đó thì tiếp tục nhập hàng vào và số lượng hàng mới nhập đó chỉ bằng số lượng bán ra. Nhập với số lượng thích hợp:Nếu doanh nghiệp dự tính được số hàng bán ra trong một thời gian nhất định thì phải có kế hoạch nhập hàng đó vào theo công thức sau: Lượng hàng hoá Lượng hàngđịnh + Lượng hàng tồn - Lượng hàng thích hợp thu = bán ra kho cuối kì tồn kho ĐK mua một lần. Số lần lưu chuyển hàng hóa dự kiến Doanh nghiệp phải luôn nắm được thời cơ để nhập hàng vì nó đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy, để nhập hàng kịp thời và kinh doanh có lãi doanh nghiệp cần: Tìm thời cơ trong tiêu thụ hàng hóa tức là nhập hàng vào trong giai đoạn hàng hoá đang bán chạy nhất. Tìm thời cơ trong thời gian hình thành hàng hoá tức là nhập vào giai đoạn hàng hoá phổ biến. Tìm thời cơ ở đơn vị nhập hàng tức là mua hàng ở những đơn vị nổi tiếng. Tìm thời cơ trong khâu bán buôn tức là phải mua hàng tận gốc. Tìm thời cơ trong sự biến động chất lượng và thời vụ( hàng thanh lí, hàng khó bảo quản, hàng tồn kho lâu ngày...). 3.2 Nghiệp vụ bán hàng của doanh nghiệp thương mại. *Bán hàng trong cơ chế thị trường Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh tồn tại trong hai khâu mua và bán. Lợi nhuận trong thương mại được tạo ra do mua vào với giá thấp và bán ra với giá cao. Hoạt động bán hàng trong thương mại tốt có thể làm tăng tiền bán hàng hoá còn hoạt động mua hàng tốt thì có thể làm giảm tiền mua hàng tức là làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Bán hàng là sự chuyển dịch hình thái gía trị của hàng hoá thành tiền (H-T) nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định của hàng hoá. Trong cơ chế thị trường, hoạt động bán hàng văn minh bao gồm những nội dung sau: + Khối lượng và chất lượng hàng hoá dịch vụ tiêu thụ phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. + Phải không ngừng cải tiến, thiết kế quầy hàng và các cơ sở kinh doanh. Đối với các loại thiết bị công cụ bảo quản, trưng bày để bán, đảm bảo cho khách hàng bao giờ cũng được phục vụ một cách tốt nhất, kết hợp bán hàng với quảng cáo thúc đẩy việc bán hàng và tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường. + Tổ chức tốt lao động bán hàng sao cho thời gian làm việc của nhân viên bán hàng đạt hiệu quả cao. + Xây dựng thái độ bán hàng văn minh, lịch sự, tất cả vì khách hàng với phương châm “Khách hàng là thượng đế”. + Nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp trong kinh doanh. * Chuẩn bị và bổ xung hàng hoá Hàng hoá trước khi đem bán phải được chuẩn bị kĩ lưỡng. Có như vậy thì uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng ngày càng được nâng cao và góp phần đẩy mạnh tốc độ bán hàng. Trước khi đem hàng hoá bán thì phải làm những công việc chuẩn bị như: vệ sinh, kiểm tra chất lượng để loại bỏ những hàng hoá hư hỏng, kém chất lượng, lắp ghép đồng bộ và bao gói...Cần có các phương án dự trữ tại điểm bán hàng để làm căn cứ cho việc định lượng và bổ xung hàng hoá cho các cửa hàng, quầy hàng. Các dơn vị kinh doanh cần phải được bổ xung hàng hoá kịp thời. Khối lượng hàng hoá bổ xung sao cho tại đơn vị kinh doanh mức dự trữ luôn đảm bảo ở mức ổn định. Tuỳ thuộc vào mức bán bình quân một ngày đêm mà ta quy định số lượng hàng hoá dự trữ lớn nhất cho từng loại mặt hàng. Khi nào nhu cầu thị trường thay đổi thì số lượng đó mới thay đổi, số lượng quy định mỗi mặt hàng tại thời điểm kinh doanh không được thấp hơn lượng bán của ngày bán nhiều nhất để tránh ngừng bán hoặc bổ xung nhiều lần trong một ngày. Đối với các cử hàng kinh doanh thì việc bán hết hàng dự trữ là không tốt. Vì khi bán hết hàng nhân viên bán hàng sẽ không còn để bán khi khách hàng có nhu cầu và như vậy rất có thể mất khách hàng vào tay các đối thủ cạnh tranh. Để tránh hiện tượng đó, công việc kiểm tra hàng hoá dự trữ phải tuân theo các quy tắc sau: + Kiểm tra định kì đều đặn. + Sắp xếp hàng hoá khoa học để dễ dàng tìm thấy và dễ lấy. + Khi hàng hoá tăng thêm thì hàng hoá phải được sắp xếp riệng theo từng nhóm khác nhau. + Nếu danh mục hàng hoá có trên 20 mặt hàng thì phải có bảng kê dự trữ. * Phương pháp làm giá bán Làm giá bán tức là doanh nghiệp ssẽ định giá sản phẩm là bao nhiêu để thu được lãi. Khi định giá cần chú ý: + Tính hết các chi phí kinh doanh. + Thăm dò giá của các đối thủ cạnh tranh để tránh tình trạng giá của doanh nghiệp mình cao hơn nhiều so với giá của các doanh nghiệp khác. + Thăm dò khách hàng để biết mức giá mà khách hàng dễ chấp nhận. Đối với kinh doanh thương mại thì giá bán là rất quan trọng vì nó quyết định lượng hàng hoá bán được và qua đó quyết định doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng bao gồm ba phần: + Chi phí trực tiếp là chi phí cho việc bán toàn bộ hàng hoá, kể cả chi phí vận tải. + Chi phí gián tiếp là chio phí để vận hành điểm kinh doanh như: lương, thuế, điện thoại... + Lãi dự tính của doanh nghiệp. Công ty Hoá Chất-Bộ Thương Mại tiến hành tính giá theo quy trình sau: Giá bán = Giá mua + Thuế NK(nếu có) + Chi phí khác Lãi bán hàng thường được xác đinh bằng % so với giá bán, việc tính lãi bán hàng bình quân như sau: Lãi bán hàng bình quân = Tiền bán hàng(chi phí trực tiếp)/Giá bán Quy trình bán hàng: Đây là hệ thống các thao tác kĩ thuật và các công việc phục vụ có liên quan đến nhau trong quá trình bán hàng, được sắp xếp theo một trình tự nhất định tuỳ thuộc vào sự khác nhau về phương thức bán, về đặc điểm nhu cầu khách hàng. Các thao tác kĩ thuật và các công việc phục vụ gồm có từ khâu tiếp khách, tìm hiểu nhu cầu, giới thiệu hàng hoá đến thu tiền và giao hàng cho khách. Khi xây dựng quy trình bán hàng cần dựa trên cơ sở lợi dụng những lợi thế về địa điểm, cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ nghiệp vụ của người bán hàng mà lựa chọn phương án tiết kiệm nhất nhằm đảm bảo nâng cao năng suất lao động bán hàng và chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng. 4. Phân tích hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại chính là lợi nhuận hay nói một cách khác lợi nhuận chính là mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước cững phải lấy lợi nhuận làm mục đích hoạt động của mình. Lợi nhuận của công ty phải được thu từ các nguồn chính đáng và hợp pháp. Nhìn nhung, với tất cả các doanh nghiệp thì lợi nhuận không phải chỉ tính trên một đơn vị hàng hoá kinh doanh mà là tổng lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận tối đa thu được do bán được nhiều hàng hoá và do thu được từ nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp được xác đinh theo công thức sau: Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Trong đó: Tổng doanh thu bao gồm: Doanh thu bán hàng, tiền thu được từ các hoạt động dịch vụ, tiền do đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khác, thu được do bồi thường, lãi tiền gửi ngân hàng và các khoản thu khác. Tổng chi phí bao gồm: Chi phí lưu thông, chi phí cho các hoạt động dịch vụ, tiền bị phạt, phí sản xuất đầu vào các lĩnh vực khác. Sau khi xác định được tổng lợi nhuận thì doanh nghiệp cần xác định tỉ suất lợi nhuận để phân tích hiêụ quả kinh doanh. Có ba cách tính tỉ suất lợi nhuận như sau: Cách 1: P1 = Tổng lợi nhuận * 100 / Vốn kinh doanh Cách tính này cho ta biết 1 đồng vốn kinh doanh đem lại cho chúng ta bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cách 2: P2 =Tổng lợi nhuận * 100 / doanh số bán được Cách tính này cho ta biết mỗi đồng doanh số bán ra đem lại cho chúng ta bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cách 3: P3 = Tổng lợi nhuận * 100 / Tổng chi phí kinh doanh Cách tính này phản ánh hiệu quả chi phí. Nó cho biết một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. III. Đặc điểm chung của kinh doanh hoá chất. 1. Đặc điểm của mặt hàng hoá chất Mặt hàng hoá chất là một mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong đời sống mặt hàng hoá chất xuất hiện ở mọi nơi và đây là thứ không thể thiếu trong các nhà máy sản xuất công nghiệp. Hoá chất là mặt hàng độc hại và nguy hiểm đối với con người nên đòi hỏi cần phải có kho tàng dự trữ và bảo quản cẩn thận tránh bị thất thoát ra ngoài môi trường. Do tính chất nguy hiểm của mặt hàng này nên việc sử dụng hoá chất vào sản xuất, tiêu dùng đòi hỏi phải hết sức cẩn thận để không xảy ra những tai nạn đáng tiếc. 2. Đặc điểm của kinh doanh hoá chất Trước đây, hoá chất là một ngành hàng độc quyền của nhà nước và chỉ có một số công ty có thẩm quyền mới được phép kinh doanh ví dụ như: Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại. Hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường nhiều công ty được phép kinh doanh mặt hàng này khiến sự cạnh tranh của ngành hàng hoá chất trên thị trường diễn ra ngày càng gay gắt. Cũng trong những năm trước đây, mặt hàng hoá chất trên thị trường nước ta chủ yếu là hàng nhập ngoại từ Trung Quốc, Liên Xô cũ và một số quốc gia khác. Ngày nay, một số công ty hoá chất trong nước tiến hành ngày càng nhiều mặt hàng có thể sở dĩ cạnh tranh với hàng nhập ngoại khiến cho thị trường hoá chất ngày càng đa dạng phong phú về số lượng, chủng loại và giá cả cũng được giảm nhiều. Thị trường kinh doanh chứa đựng đầy sự cạnh tranh gay khó khăn cho những doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực kinh doanh hoá chất. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở CÔNG TY HOÁ CHẤT – BỘ THƯƠNG MẠI. I. Tổng quan về Công ty Hóa Chất. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công ty Hoá Chất – Bộ Thương Mại có tên giao dịch quốc tế là CHEMCO có nguồn gốc ban đầu là trạm hoá chất thuộc công ty Ngũ Kim – Bộ nội thương được thành lập tháng 6 năm 1958. Công ty có mạng lưới kinh doanh, quy mô lớn, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập, tự chủ về tài chính, có tài khoản tại ngân hàng, được sử dụng con dấu theo thể thức nhà nước quy định, hoạt động theo hiến pháp và pháp luật của nhà nước Việt Nam. Công ty đã có hệ thống cơ sở vật chất tương đối hoàn chỉnh, hình thành một đội ngũ can bộ có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công ty đã đảm nhiệm cung ứng vật tư hoá chất cho các ngành sản xuất và nhu cầu nhân sinh với khối lượng lớn và ngày càng gia tăng. Đến năm 1963 Công ty thuộc quyền quản lý của Cục bách hoá Ngũ Kim- Bộ Nội Thương. Năm 1968 Cục Điện Máy Hoá Chất trực tiếp quản lý công ty. Ngày 22 tháng 12 năm 1971 theo quyết định số 81-số 821 VT/QĐ thành lập Công ty Hoá Chất trực thuộc Tổng Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện Và Dụng Cụ Cơ Khí. Sự chuyển đổi này là một bước ngoặt quan trọng, bắt đầu từ đây Công ty có điều kiện thống nhất quản lý do cung ứng vật tư theo kế hoạch cho các nhu cầu quốc phòng sản xuất, xây dựng cơ bản, nghiên cứu khoa học kĩ thuật các khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Từ tháng 7 năm 1985 dến 30 tháng 10 năm 1990 sau khi giải thể tổ chức liên hiệp Công ty Hoá Chất thuộc Tổng Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện Và Dụng Cụ Cơ Khí – Bộ Vật Tư. Tháng 9 năm 1991 đến tháng 9 năm 1994 Công ty Hoá Chất trực thuộc Tổng Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện Và Dụng Cụ Cơ Khí-Bộ Thương Mại. Từ tháng 10 năm 1994 đến nay, Công ty Hoá Chất trực thuộc Bộ Thương Mại. Giai đoạn này công cuộc đổi mới đất nuớc diễn ra sôi động và đạt đuợc một số kết quả ban đầu đặc biệt là công nghiệp. Nền kinh tế thị trường đã đem đến cho Công ty nhiều thời cơ nhưng cũng đem lại cho Công ty nhiều thách thức. Với bề dày kinh nghiệm của mình, trên cơ sở tiếp thu những đường lối của Đảng và Nhà Nước, Công ty đã xây dựng và triển khai thực hiện đề án đổi mới toàn diện tổ chức kinh doanh của Công ty . Trong tình hình chuyển đổi cơ chế kinh tế của cả nước, Công ty đã chuyển đổi về chất và nhiệm vụ của mình,từ chỗ cung ứng vật tư theo kế hoạch chuyển hẳn sang nhiệm vụ kinh doanh vật tư theo cơ chế thị trường. Để có thể tồn tại và phát triển, Công ty đã mở rộng nhiệm vụ của mình từ chỗ chuyên doanh hoá chất đa ngành trong đó vẫn lấy ngành hoá chất công nghiệp làm chủ đạo. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu là nhập khẩu và xuất khẩu. Công ty nhập khẩu chủ yếu là hoá chất công nghiệp và xuất khẩu chủ yếu là cao su, khoáng sản và nông sản. Hiện nay, Công ty Hoá Chất có trụ sở chính tại 135 Nguyễn Văn Cừ-Quận Long Biên –Hà Nội. Điện thoại: 8271762 – 8271944. Fax: 8271764. Email: _chemco@hn.vnn.vn Đây là trung tâm giao dịch của Công ty với cả nước. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty. 2.1 Chức năng của Công ty. Chức năng chính của Công ty là chuyên doanh các mặt hàng hoá chất, xuất nhập khẩu trên 200 mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu về hoá chất cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố và các tỉnh trong cả nước, góp phần ổn định thị trường và tạo ra lợi nhuận cho Công ty, đóng góp vào ngân sách nhà nước ,cải thiện cho đời sống cán bộ công nhân viên.Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty là:NaOH, CaCO3, Na2CO3, các loại axít như:HCl, H2SO4, HNO3... hay nhựa: PE, PVC... Ngoài ra còn có các mặt hàng ngoài ngành như:Mn, Si,..., oxit các loại như:TiO2, MgO,...,các loại muối như:NaNO3, NH4Cl..trong đó hàng nhập khẩu chiếm 90% còn lại là 10% hàng mua trong nước. Hàng nhập khẩu của Công ty chủ yếu là hàng của Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Thái Lan. Hàng mua trong nước của Công ty từ : Công ty Supe Phốt Phát Hoá Chất Lâm Thao, Công ty Hoá Chất Đức Giang. Khách hàng chủ yếu của Công ty là các doanh nghiệp sản xuất, chủ yếu là các doanh nghiệp phía Bắc như: + Các nhà máy dệt: Nhà máy dệt 8/3,dệt Vĩnh Phú. + Các nhà máy sản xuất bột giặt: Lix,Đasô,Đức Giang. + Các nhà máy sản xuất kính: Kính Đáp Cầu, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Phả Lại, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Đà Nẵng, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Thanh Đức –Hà Nội. + Các nhà máy sản xuất giấy: Nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy giấy Yên Bái, Nhà máy giấy Trúc Bạch. 2.2 Nhiệm vụ của Công ty. + Công ty đuợc Bộ Thương Mại giao nhiệm vụ chính là quản lý và kinh doanh các mặt hàng hoá chất phục vụ cho nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng, tham gia vào hoàn thiện các sản phẩm hàng công nghiệp. + Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức tốt khâu tạo nguồn và bán hàng, giảm bớt khâu trung gian. + Giảm chi phí kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng . + Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước, xã hội và người lao động, có trách nhiệm bảo vệ tài sản, bảo vệ doanh nghiệp, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi doanh nghiệp và bảo vệ môi trường. + Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với mục đích và nội dung kinh doanh của Công ty. Tích luỹ nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn có sẵn, giữ vững tỷ lệ bảo toàn và phát triển vốn do Bộ Thương Mại giao. Đảm bảo đầu tư mở rộng Công ty đổi mới trang thiết bị kĩ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh, bù đắp mọi chi phí, làm nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. + Nghiên cứu khả năng sản xuất kinh doanh, nhu cầu thị trường trong nước và thế giới để cải tiến và cung ứng hàng hoá, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. + Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chú trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao năng lực, trình độ, thực hiện đầy đủ các chế độ về bảo hộ lao động và an toàn lao động. + Quản lý chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, thực hiện theo quy chế hiện hành của Công ty và Bộ Thương Mại. + Chủ động giao dịch và đàm phán kí kết các hợp đồng kinh tế, hợp đồng ngoại thương và các văn bản khác về hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết thuộc các lĩnh vực đã được quy định với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của nhà nước và pháp luật. + Tham gia các hội chợ triển lãm, quảng cáo hàng hoá, tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh của Công ty và mở rộng mạng lưới đại lý, giới thiệu sản phẩm trong phạm vi kinh doanh của Công ty . 3. Hệ thống tổ chức của Công ty và chức năng của các đơn vị phòng ban trực thuộc. Cơ cấu tổ chức của Công ty bao gồm: + Ban giám đốc với giám đốc và ba phó giám đốc. + Bốn phòng nghiệp vụ. + Bốn trung tâm và của hàng, một tổng kho và một xưởng sản xuất. 3.1 Ban giám đốc. + Giám đốc Công ty là người phụ trách chung cụ thể là mọi chức năng, nhiệm vụ, hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty, phụ trách công tác tài chính, công tác kế hoạch, công tác tổ chức, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác thi đua khen thưởng kỉ luật, công tác đời sống. + Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh xuất nhập khẩu. + Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh nội địa, an toàn lao động, bảo vệ kĩ thuật kho và xưởng. + Một phó giám đốc kiêm giám đốc trung tâm kinh doanh chất dẻo và vật tư thiết bị điện, phụ trách công tác liên doanh liên kết và công tác xây dựng cơ bản. 3.2 Các phòng ban. + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Đây là bộ phận chiếm đa phần tổng doanh thu của Công ty. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu gồm một trưởng phòng, hai phó phòng và một số nhân viên vào khoảng 30 người. Chức năng và nhiệm vụ của phòng là trực tiếp mua bán các loại vật tư hàng hoá chất và một số vật tư khác phục vụ cho sản xuất. Tập hợp nhu cầu của cửa hàng và trung tâm của khách hàng, xác định nhu cầu vật tư của mỗi loại, quan hệ cung - cầu của thị trường ở từng thời điểm để lên đơn hàng và làm thủ tục nhập khẩu, nắm bắt thông tin về nguồn hàng, giá cả để từ đó thực hiện điều chỉnh việc mua vào, bán ra và giá bán nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời đáp ứng kịp thời vật tư cho sản xuất và nhu cầu xã hội. Đây là bộ phận quan trọng không thể thiếu được của Công ty. Nó tạo ra thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng hoá cũng như việc kí kết các hợp đồng của Công ty. + Phòng tài chính – kế toán Phòng tài chính – kế toán có nhiệm vụ quản lý về tài chính, vốn phục vụ cho kinh doanh,hạch toán phân tích tài chính các hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách theo chế độ đối với các hoạt động của công ty. Đây cũng là một phòng quan trọng trong bộ máy của Công ty. Nó góp phần tăng lượng tiền mặt trong kinh doanh khiến Công ty chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh của mình. + Phòng tổ chức hành chính Phòng tổ chức hành chính quản lý nhân sự , tiếp nhận, bố trí, điều động cán bộ công nhân viên của Công ty vào các công việc hợp lý, xây dựng các chế độ chính sách tiền lương, biện pháp an toàn trong lao động. Các công việc cụ thể của phòng tổ chức hành chính là: Thực hiện chế độ lao động tiền lương đối với cán bộ công nhân viên, quản lý trang thiết bị văn phòng làm việc. Tổ chức đời sống cán bộ công nhân viên như: nhà ở, điện, nước,… Tổ chức đưa đón cán bộ đi công tác phục vụ công tác kinh doanh. + Phòng nghiên cứu thị trường Phòng nghiên cứu thị trường mới được thành lập năm 2003. Do mới được thành lập nên số nhân viên trong phòng mới chỉ có 5 người. Phòng nghiên cứu thị trường được thành lập nhằm tìm ra các thị trường mới cho Công ty cũng như phát triển các thị trường sẵn có.Nói một cách khác, phòng nghiên cứu thị trường thực hiện nhiệm vụ marketing cho Công ty. Bên cạnh chức năng marketing phòng nghiên cứu thị trường cũng có chức năng kinh doanh như các phòng ban khác. 3.3 Các đơn vị khác. + Tổng kho Đức Giang: có nhiệm vụ bốc xếp, dự trữ vật tư hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo quản hàng hoá phục vụ cho công tác kinh doanh toàn Công ty. + Xưởng sản xuất hoá chất công nghiệp: làm nhiêm vụ sản suất bao bì,can nhựa phục vụ cho kinh doanh axit sunfuaric. Ngoài ra còn nghiên cứu sản xuất một số mặt hàng hoá chất như: phèn kép, axit… + Các cửa hàng trung tâm(bao gồm 9 quầy hàng): kinh doanh các mặt hàng hoá chất, được phân bổ tại nhiều địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các cửa hàng kinh doanh và trung tâm được quảnlý bằng chế độ giao khoán với mục đích nâng cao hiệu quả kinh doanh vì nó gắn thu nhập với kết quả lao động của các cá nhân trong đơn vị. + Công ty còn có các đại diện tại các cửa khẩu như: Lạng Sơn,Móng Cái, Lào Cai và một trung tâm đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh. Các trung tâm đại diện này hoạt động như các đơn vị độc lập. Sơ đồ tổ chức công ty Hóa chất –Bộ Thương Mại Giám đốc Phó GĐ 2 Phòng KH Phòng TCKT Phó GĐ 1 Phòng KD XNH Phó GĐ 3 Phòng TCHC Tổng kho Đức Giang Trung tâm KDHC và TBTH Trung tâm KDCD và VTTBĐ Xưởng sản xuất công ngiệp Đức Giang Cửa hàng HCVL Điện Cửa hàng KDTH số II 4.2. II. Tình hình thực trạng kinh doanh của Công ty Hóa Chất. 1. Đặc điểm môi trường kinh doanh của Công ty. 1.1. Một số khó khăn đối của Công ty trước sự dịch chuyển của nền kinh tế nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV khởi xướng công cuộc đổi mới (năm 1986). Theo đó khẳng định “ kiên quyết xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và sự phát triển của nền kinh tế ”. Đây là một mốc vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế cả nước nói chung và với Công ty Hoá Chất nói riêng. Trước sự vân động của nền kinh tế cả nước, Công ty Hoá Chất đã nắm bắt và chuyển dịch theo cơ chế quản lý mới song mọi việc còn mới mể nên không tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu. Mặc dù tiến hành đổi mới từ năm 1986 nhưng thực sự đến năm 1990 công cuộc đổi mới kinh tế mới diễn ra sôi động và thực sự đạt được một số kết quả. Năm 1991 Liên Xô và Đông Âu tan rã, Công ty Hoá Chất đứng trước thách thức to lớn: nguồn vật tư nhập khẩu trước đây bị cắt đứt. Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Tổng Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện, Công ty Hoá Chất đã mở rộng hướng tạo nguồn từ thị trường Trung Quốc thông qua việc nhập khẩu hàng hoá qua biên giới Việt – Trung. Tháng 9 năm 1991 Công ty đã nhập khẩu lô hàng đầu tiên qua cửa khẩu Lào Cai theo hợp đồng Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện đã kí với khách hàng Trung Quốc. Từ năm 1991 đến nay, vật tư hoá chất hoàn toàn được thương mại hoá trên thị trường và ngày càng có nhiều các tổ chức và cá nhân tham gia kinh doanh. Đứng trước tình hình đó, Công ty Hoá Chất Vật Liệu Điện đã hướng dẫn để Công ty Hoá Chất đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lý. Nhờ những chiến lược đó mà Công ty ngày càng phát triển(doanh số của Công ty năm 1991 là 30 tỷ và đến nay doanh số của Công ty đã là hơn 300 tỷ). 1.2. Một số đặc điểm bên trong Công ty. a) Đặc điểm về nhân sự. Trong mỗi công ty, yếu tố hàng đầu quyết định sự thành hay bại của công ty chính là yếu tố con người. Do đó Công ty luôn chú trọng khâu tuyển chọn lao động cũng như đào tạo đội ngũ nhân viên trong Công ty. Các thành viên trong Công ty phải có tác phong làm việc công nghiệp , hiện đại. Đối với những cá nhân có sáng kiến đóng góp cho sự phát triển của Công ty thì Công ty luôn có những chế độ khen thưởng hợp lý để khích lệ tinh thần họ. Tuy nhiên, đi đôi với những hình thức khen thưởng, khích lệ Công ty cũng có những hình thức kỉ luật thích đáng đối với những cán bộ công nhân viên nào vi phạm nội quy của công ty đã đề ra. Công ty luôn sử dụng đúng người đúng việc nên tăng được năng suất và hiệu quả lao động đồng thời tránh được hiện tượng dư thừa lao động. Công ty Hoá Chất là một công ty khá lớn với gần 300 cán bộ công nhân viên được bố trí các công việc khác nhau. Với lượng cán bộ công nhân viên khá lớn nhưng ban lãnh đạo Công ty luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ công nhân viên trong Công ty thông qua việc tổ chức cho họ đi học các lớp nâng cao nghiệp vụ khác nhau như: đi học đại học tại chức, bồi dưỡng quản lý kinh tế, nghiệp vụ máy tính... Đối với người lao động tiền lương cao và ổn định là một nguồn động viên rất lớn với họ và nó tạo động lực khiến cho người lao động gắn bó với công việc và công ty. Thấu hiểu điều đó nên ban lãnh đạo Công ty luôn quan tâm đến việc cải thiện mức lương cho cán bộ công nhân viên trong Công ty . b) Đặc điểm về tài chính. Nền kinh tế thị trường là một môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt và có nhều biến động phức tạp khó lường trước đo đó muốn Công ty tồn tại, đứng vững và phát triển thì ban lãnh đạo Công ty phải đưa ra những chiến lược phát triển hợp lý. Một trong những chiến lược đó của Công ty là chiến lược về vốn (đặc biệt là vốn lưu động). Nguồn vốn phải được đảm bảo và phát triển không ngừng nhằm ổn định cho việc phát triển kinh doanh của Công ty. Công ty đã xác lập mối quan hệ hợp đồng lâu dài với các ngân hàng thương mại như Ngân hàng công thương Chương Dương và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công ty huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong đó chủ yếu là vay ngân hàng, đồng thời Công ty cũng tích cực thu hút nguồn vốn đầu tư khác như tranh thủ huy động vốn trong nội bộ Công ty. Nguồn vốn nội bộ Công ty được huy động thông qua việc gửi tiết kiệm nội bộ của các cán bộ công nhân viên trong Công ty. Những nguồn vốn này góp phần quan trọng vào việc tăng lượng vốn của Công ty giúp cho Công ty chủ động trong kinh doanh. Nhờ có chiến lược về vốn kinh doanh(huy động tạo vốn và quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn)nên Công ty đã đảm bảo việc ổn định và tăng trưởng về vốn, không để xảy ra tình trạng thua lỗ và nộp nhân sách hàng năm đều đặn. Tổng số vốn kinh doanh, tổng doanh thu và doanh thu xuất khẩu của Công ty. Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Vốn lưu động 9.806 9.806 10.255 10.255 Vốn cố định 6.300 6.300 7.443 7.443 Tổnh vốn kinh doanh 16.106 16.106 17.698 17.698 Tổng doanh thu 312.673 321.123 328.485 284.985 Doanh thu xuất khẩu 9.027 9.930 8.403 18.545 ( Nguồn : Phòng tài chính kế toán) Nhìn vào bảng trên ta thấy vốn là một nhân tố quan trọng tác động tới hoạt động kinh doanh của Công ty. c) Đặc điểm về mặt hàng kinh doanh. Công ty Hoá Chất là doanh nghiệp thương mại do Bộ Thương Mại quản lý, chuyên kinh doanh về mặt hàng hoá chất. Công ty đã xác định rõ các mặt hàng kinh doanh phù hợp với các điều kiện thực tế của Công ty. Công ty có một hệ thống kho bãi tốt có khả năng đảm bảo cho việc bảo quản hàng hoá. Do đó hàng hoá của Công ty luôn dược đảm bảo trong tình trạng tốt. Mặt hàng hoá chất là một mặt hàng dễ biến đổi chất lượng và độc hại đối với con người nên Công ty rất chú trọng đến vấn đề bao bì đóng gói hàng hoá. Bao bì tốt thì chất lượng hàng hoá được bảo đảm và cũng tránh được nguy hiểm cho con người khi tiếp xúc với loại hàng hoá này. Chủng loại mặt hàng kinh doanh của Công ty thường là các loại hàng hoá chất phục vụ chủ yếu cho các công ty sản xuất như: NaOH, H2SO4, HCl, NaHSO3. Bên cạnh các mặt hàng phải nhập khẩu, hiện nay, Công ty đầu tư thêm trang thiết bị sản xuất và nhân lực để sản xuất một số mặt hàng thay thế cho hàng nhập khẩu như: phèn kép, một số loại axit. Danh mục một số hàng hoá chất Công ty kinh doanh TT Tên hoá chất TT Tên hoá chất 1 Natri hydroxyt (xút) 21 Amon clorua 2 Natri cacbonat (Sođa) 22 Amon phốt phát 3 Nhựa PVC 23 Đạm urê 4 Nhựa PE 24 Bary cacbonat 5 Phocmôn 25 Bary clorua 6 Parafin 26 Bary sunfat 7 Axit sunfuric 27 Can xicacbonat 8 Axit photphoric 28 Vôi bột 9 Natri nitrat 29 Đất đèn 10 Amon sunfat 30 Natri hydro sunfit 11 Amôn nitrat 31 Axit clohydric 12 Natri poly photphat 32 Axit axetic 13 Bột kẽm oxít 33 Nước javen 14 Than đen 34 Lưu huỳnh 15 Phèn kép 35 Natri sunfua 16 Kali clorua 36 Natri sunfat 17 Cao su tổng hợp 37 Natri nitrit 18 Cao su tự nhiên 38 Nước ôxy già 19 Fero các loại 39 Dầu hoá dẻo 20 Quặng crômít 40 Hàn the (Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu) Công ty kinh doanh các mặt hàng chủ yếu sau: Bảng 4: Một số mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty. Stt Tên hoá chất Stt Tên hoá chất 1 Xút 8 Natri sunfat 2 Sôđa 9 Dầu hoá dẻo 3 Nhựa PVC 10 Axít sunfuaric 4 Nhựa PE 11 Amôn sunfat 5 Parafin 12 Amôn nitrat 6 Phooc môn 13 Quặng crômit 7 Natri nitrat 14 Fêrô các loại ( Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.) d) Đặc điểm về thị trường. Khách hàng chủ yếu của Công ty là các doanh nghiệp sản xuất, chủ yếu là các doanh nghiệp phía Bắc như: + Các nhà máy dệt: Nhà máy dệt 8/3,dệt Vĩnh Phú. + Các nhà máy sản xuất bột giặt: Lix,Đasô,Đức Giang. + Các nhà máy sản xuất kính: Kính Đáp Cầu, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Phả Lại, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Đà Nẵng, Nhà máy sản xuất thuỷ tinh Thanh Đức –Hà Nội. + Các nhà máy sản xuất giấy: Nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy giấy Yên Bái, Nhà máy giấy Trúc Bạch. Thị trường của Công ty tập trung đa phần vào các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Hiện nay, Công ty đang rất quan tâm đến việc mở rộng thị trường nên cuối năm 2003 phòng nghiên cứu thị trường được thành lập. Nhiệm vụ của phòng nghiên cứu thị trường là phát triển các thị trường truyền thống của Công ty đồng thời tìm kiếm các thị trường mới.Trong những năm qua Công ty chú trọng phát triển tại các địa phương: Hải Phòng, Lạng Sơn, Thành Phố Hồ Chí Minh.Thời gian tới, Công ty sẽ hướng ra các địa phương khác nơi tập trung những khu công nghiệp mới như: Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc là nơi tập trung nhiều nhà máy sản xuất. Công ty đang thay thế dần việc nhập khẩu hàng hoá bằng việc mua hàng của các doanh nghiệp sản xuất trong nước và các cơ sở tự sản xuất như các cơ sở sản xuất hoá chất ở Việt Trì. e) Đặc điểm về marketing Gần đây, chính sách nhà nước thay đổi cho phép các ccông ty TNHH, các công ty vừa và nhỏ được phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoá chất nên tình hình cạnh tranh trên thị trường hoá chất rất gay gắt. Trong khi đó công ty lại phản ứng chậm với tình hình. Một phần là do bộ máy tổ chức còn cồng kềnh nhưng mặt khác là do hiểu biết về marketing của cán bộ công nhân viên Công ty còn hạn chế. Phần lớn các cán bộ công nhân viên đều cho rằng marketing là tiếp thị bán hàng đơn thuần. Việc mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, áp dụng các công cụ marketing còn rất hạn chế. Cuối năm 2002 phòng thị trường được thành lập mang tính chất của phòng marketing nhưng do mới thành lập nên không có được những hoạt động mang nhiều ý nghĩa đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. f) Đặc điểm đầu vào - đầu ra Đầu vào chủ yếu của Công ty vẫn chủ yếu là hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc và một số quốc gia khác. Ngoài ra Công ty vẫn duy trì mối quan hệ với các đơn vị sản xuất trong nước để nhập hàng. Khách hàng chủ yếu của Công ty là các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước. Đó là các nhà máy sản xuất ở phía Bắc và hiện nay Công ty đang tiến hành mở rộng thị trường đến các khu công nghiệp mới ở Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc...và các nhà máy ở phía Nam. 2. Môi trường cạnh tranh của Công ty. Hiện nay có nhiều cơ sở sản xuất trong nước trước đây chỉ chuyên sản xuất nay đã đứng ra kinh doanh các mặt hàng đó. Công ty gặp không ít khó khăn vì thực sự phải cạnh tranh với không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Những doanh nghiệp đứng ra kinh doanh thực sự là đối thủ của Công ty như: Nhà Máy Hoá Chất Đức Giang. Ngay tại trụ sở kho chứa hàng của Công ty cũng có đối thủ cạnh tranh.Đó chính là các cán bộ của Công ty sau một thời gian làm việc cho Công ty đã tách ra thành lập cơ sở kinh doanh riêng và trở thành đối thủ cạnh tranh của Công ty . Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được thì Công ty còn gặp một số khó khăn như: thị trường chưa được mở rộng và trên thị trường còn nhều đối thủ cạnh tranh. Nhận thức dược điều đóban lãnh đạo Công ty đã đưa ra những phương án chiến lược như:chiến lược về vốn, chiến lược marketing, chiến lược quản lý nhân sự. Nhờ đó tổ chức Công ty gọn nhẹ và có hiệu quả công tác cao,phát huy tối đa năng lực từng bộ phận và đảm bảo tập trung vào một mối thống nhất, nâng cao khả năng cạnh tranhcủa Công ty. Trên thị trường quốc tế, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty là các công ty Trung Quốc vì đa phần các sản phẩm của Công ty đều nhập về từ Trung Quốc và một số doanh nghiệp Đài Loan. Những doanh nghiệp nước ngoài thường có lượng công nhân lớn và lượng vốn lớn nên các doanh nghiệp đó chính là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh của Công ty. Đặc biệt khi hàng rào thuế quan được loại bỏ trong những năm tới thì Công ty gặp nhiều khó khăn hơn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp này. 3. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2001 Chỉ tiêu TH năm 2001 So với KH (%) So với năm 2000 (%) Tổng giá trị mua: Nhập khẩu Mua nội Mua khác 294.270 262.066 19.849 12.355 102 102,5 100 100 102,12 103,24 108,06 77,46 Tổng giá trị bán: Xuất khẩu Bán trong nước và bán khác 318.619 9.930 308.689 102 102,2 97,2 106,84 110,0 106,75 Doanh số bán của các đơn vị Phòng kinh doanh XNK Cửa hàng HCVLĐ Hà nội Cửa hàng KDTH số II Trung tâm KDHC & TMTH 159.683 34.600 48.000 76.336 102 103 100 102,9 119,62 111,34 100,17 134,01 Lợi nhuận 312 Nộp ngân sách 24.075 ( Nguồn : Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.) Tình hình thị trường trong năm 2001 diễn ra hết sức sôi động, cạnh tranh khốc liệt, tốc độ tăng trưởng bình quân chung của cả nước tương đối thấp. Công ty kinh doanh trong hoàn cảnh đó cũng bị ảnh hưởng lớn, nhất là do thiếu vốn kinh doanh nên không dự trữ đủ lượng hàng cần thiết cho nhu cầu thị trường của Công ty, tỷ giá ngoại tệ biến động mạnh gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Số dư nợ bán vẫn ở mức cao so với mục tiêu kế hoạch đề ra, một số mặt hàng chủ yếu giảm đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chung của Công ty. Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn đó, Công ty vẫn cố gắng hoàn thành tốt các mặt như: Tạo nguồn mua hàng: Công ty đã đề ra cho những kế hoạch phát triển đúng đắn nên tránh được những khó khăn trong khâu tạo nguồn. Do vậy, những chỉ tiêu đề ra đã được thực hiện tốt, tuy còn kém so với mức thực hiện năm 2000. Tổng giá trị mua đạt 292.000 triệu đồng vượt mức kế hoạch 2%, so với năm trước tăng 21,2%. Trong đó, mua nội hoàn thành mức kế hoạch 100%, tăng 8,06% so với năm 2000. Công tác bán hàng: Năm 2001, tổng giá tri hàng bán đạt 102% kế hoạch năm và bằng 106,84% so với thực hiện năm 2000 do Công ty mở rộng thị trường tiêu thụ phía Nam và tích cực quan hệ với một số bạn hàng mới. Một số mặt hàng nắm địa vị chủ chốt của Công ty như: Xút, Chất Dẻo, DAP, Niken, Kẽm thỏi, SôĐa... phát triển khá mạnh. Phòng kinh doanh XNK đã thực hiện tốt kế hoạch đặt ra và doanh số bán của phòng kinh doanh XNK chiếm 50,1% tổng doanh bán toàn Công ty (đạt 102% mức kế hoạch và tăng so với năm trước 19,62% ). Công tác xuất khẩu: Tình hình xuất khẩu trong thời gian này phát triển khá mạnh, giá trị hàng xuất khẩu: 9.930 triệu đồng đạt 102,2% so với kế hoạch đề ra và vượt 10% giá trị thực hiện năm 2000. Mối quan hệ Việt - Trung hình thành từ rất lâu đời và Trung Quốc là bạn hàng truyền thống tin cậy. Công ty đã xuất khẩu một lượng lớn cao su thiên nhiên sang thị trường này. Kết quả kinh doanh của Công ty năm 2002 Chỉ tiêu TH năm 2002 So với KH (%) So với năm 2001 (%) Tổng giá trị mua: Nhập khẩu Mua nội Mua khác 287.529 261.105 10.080 16.344 94,3 96 46 136 97,71 99,66 50,8 132,28 Tổng giá trị bán: Xuất khẩu Bán trong nước Bán khác 324.730 8.403 302.461 13.866 102 91 102 101,92 84,6 97,98 Doanh số bán của các đơn vị Phòng KDXNK Cửa hàng HCVLĐ Hà nội Cửa hàng KDTH số II Trung tâm KDHC & TMTH 163.485 33.412 56.229 71.604 99,38 93,2 102,14 85,8 102,38 96,56 117,14 93,8 Lợi nhuận 348 Nộp ngân sách 24.331 (Nguồn : Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.) Tổng giá trị mua: Sự kiện 11/9 ảnh hưởng lớn đến lượng hàng nhập làm giảm sút về hầu hết các mặt: nhập khẩu, mua nội. Nhập khẩu chỉ đạt 96% kế hoạch, 99,66% so với năm trước mua nội chỉ đạt 46% kế hoạch đặt ra. Đây là những con số đáng lo ngại đối với một Công ty có tầm cỡ quốc gia, cơ quan đầu ngành tronh lĩnh vực kinh doanh hoá chất. Vì vậy Công ty cần phải khai thác và mở rộng một số thị trường mới, ổn định hơn để tránh bị ảnh hưởng do những tác động xấu gây thiệt hại đến hiệu quả kinh doanh chung của toàn Công ty. Về tổng giá trị bán: Tổng giá trị bán thời gian này đạt được một số kết quả khả quan, chỉ duy nhất hoạt động xuất khẩu bị ngưng trệ không đạt được doanh số xuất của năm trước cũng như kế hoạch đặt ra. Bán hàng trong nước có thuận lợi hơn, đạt được chỉ tiêu kế hoạch đặt ra tuy còn kém so với năm 2001. Như vậy giá trị hàng bán ra trong năm 2002 kém hơn năm 2001 nhưng do nắm trước được tình hình khó khăn nên kế hoạch vẫn thực hiện tốt. Trong thời gian tới, Công ty cần chú trọng hơn tới vấn đề kích hoạt thị trường xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này. Về doanh số bán của các đơn vị kinh doanh: Thực hiện kế hoạch kinh doanh XNK chỉ đạt 99,38%. Tuy nhiên, doanh số bán của phòng kinh doanh XNK vẫn chiếm tỷ trọng lớn có ưu thế vượt trội so với các cửa hàng, trung tâm khác, đạt: 50,35% tổng doanh số bán toàn Công ty so với năm trước vượt hơn 102,38%. Cửa hàng KHTH số II vẫn giữ được nhịp độ phát triển tăng trưởng đều, trong những năm qua cửa hàng số II kinh doanh khá hiệu quả do luôn giữ được uy tín với các đầu mối khách hàng. Còn lại, cửa hàng HCVLĐ - Hà Nội và Trung tâm KDHC và TMTH có sự giảm sút về doanh số bán. Cả hai đều không đạt mức kế hoạch lẫn doanh số bán năm trước. Kết quả kinh doanh của Công ty năm 2003 Chỉ tiêu TH năm 2003 So với KH (%) So với năm 2002 (%) Tổng giá trị mua: Nhập khẩu Mua nội Mua khác 298.342 274.215 12.542 11.585 102 102 95 110 103,76 105,02 124,42 70,88 Tổng giá trị bán Xuất khẩu Bán trong nước Bán khác 283.259 18.545 251.568 13.146 101 110 99 94,81 87,23 219,98 83,17 94,81 Doanh số bán của các đơn vị Phòng KDXNK Cửa hàng HCVLĐ Hà nội Cửa hàng KDTH số II Trung tâm KDHC & TMTH 171.633 32.114 46.972 32.504 106,06 95,41 82,03 43,06 104,98 96,11 83,53 45,44 Lợi nhuận 326 Nộp ngân sách 26.615 (Nguồn : Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.) Về tổng giá trị mua. Giá trị hàng mua vào của Công ty đạt được cả hai mức chỉ tiêu kế hoạch đặt ra và thực hiện của năm trưóc. Hàng nhập khẩu vẫn cả năm đạt 102% kế hoạch và so với kỳ trước đạt 105,02%. Điều đó cho thấy lĩnh vực mua tạo nguồn trong năm khá phát triển. Công ty cần chú trọng mở rộng quan hệ và giữ các chân hàng phục vụ nguồn đầu vào của mình một cách ổn định. Trong năm 2003 Công ty đã đề ra kế hoạch phát triển nhằm thu hút các nhà kinh doanh trong nước để giữ nhịp độ tăng trưởng tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Về tổng giá trị bán: Trong năm 2003 cuộc chiến giữa Mỹ - Irắc ảnh hưởng lớn đến lượng bán . Tuy nhiên, mặt hàng xuất khẩu tăng vọt đạt 110% so với kế hoạch và tăng so với năm 2002 là 119,98%. Điều này có thể do ảnh hưởng của một số nước mua vào với khối lượng lớn nhằm dự trự cho sản xuất tránh tình trạng giá cả tăng cao. III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của công ty và phương hướng phát triển. 1. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh. 1.1. Ưu điểm + Mặc dù phải đứng trước nhiều khó khăn như: thị trường luôn luôn biến động, chính sách của nhà nước hay có sự thay đổi nhưng Công ty luôn đứng vững trên thị trường kinh doanh hoá chất và làm ăn có lãi từ đó tự khẳng định vị thế của Công ty trên thị trường. Một vài năm tới đây, Công ty sẽ tiến hành cổ phần hoá để thu hút thêm lượng vốn đầu tư. + Công ty luôn chủ động tìm nguồn hàng, mặt hàng kinh doanh của Công ty tương đối đa dạng và có một số chủng loại hàng chỉ có ở Công ty. Đội ngũ vận tải của Công ty luôn phát huy hết khả năng của mình. Thu nhập do vận tải không ngừng tăng trong những năm qua. Công ty có đội ngũ và phương tiện vân tải chuyên dụng như : xe nâng, xe teec để chuyên chở các loại hoá chất nguy hiểm. + Công ty tận dụng được hệ thống kho bãi chứa hàng. Tiến hành liên doanh liên kết với các cơ sở khác, tận dụng được hệ thống kho bãi lưu không để cho thuê. + Trong vấn đề huy động vốn, Công ty đã huy động được nguồn vốn nội bộ từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty làm tăng đáng kể nguồn vốn của Công ty. + Công ty luôn tăng cường quan hệ với các đối tác nước ngoài, liên doanh liên kết, kí kết các hợp đồng xuất – nhập khẩu. Phương châm kinh doanh của Công ty là luôn coi “chữ tín là vàng”do đó mà Công ty ngày càng có nhiều bạn hàng mua hàng thường xuyên với số lượng lớn. + Công ty gắn việc kinh doanh với hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế cao không chỉ nói lên hướng đi đúng của Công ty mà còn nói lên sự phát triển của Công ty trong giai đoạn mới. Năm 2001, 2002 và năm2003 Công ty Hoá Chất đều đạt mục tiêu đề ra là kinh doanh có lợi nhuận. + Công ty có những sách lược phù hợp trong quá trình kinh doanh: - Tăng khả năng tự sản xuất của Công ty, đầu tư các trang thiết bị để tự tiến hành sản xuất các mặt hàng mà trước đây Công ty phải nhập khẩu. Do đó doanh thu từ sản xuất của Công ty tăng trong những năm gần đây. - Công ty thực hiện việc cắt giảm lượng nhân lực thừa nhằm giảm bớt số nhân viên toàn Công ty đề phù hợp với cơ cấu gọn nhẹ của bộ máy Công ty. - Công ty luôn chú trọng đến việc động viên khuyến khích các cán bộ công nhân viên trong Công ty, tăng cường các lớp nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. 1.2 Nhược điểm. + Nhược điểm lớn nhất của Công ty là quy mô kinh doanh còn chưa thực sự lớn nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. + Do mới được thành lập nên phòng nghiên cứu thị trường của Công ty chưa phát huy hết khả năng của phòng vì thế mà công tác marketing của Công ty còn yếu kém. + Một nhược điểm nữa của Công ty là chưa có các gian hàng giới thiệu sản phẩm. + Khả năng thích ứng với thị trường của Công ty chưa cao. 2. Đánh giá công tác quản trị hoạt động kinh doanh. 2.1 Đánh giá theo chức năng quản trị. + Hoạch định chiến lược Trong công tác quản trị doanh nghiệp hoạch định là cái không thể thiếu. Nhận thức điều này một cách rõ ràng nên trong từng hoàn cảnh, từng giai đoạn ban lãnh đạo Công ty luôn đưa ra các chiến lược, mục tiêu cụ thể và phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty . + Tổ chức Ban giám đốc Công ty luôn chú trọng phối hợp hoạt động giữa các chi nhánh, phòng ban sao cho bộ máy Công ty hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả. Giữa các phòng ban, chi nhánh có sự tương hỗ lẫn nhau trong quá trình hoạt động nhằm hoàn thành mục tiêu chung của Công ty . + Lãnh đạo Ban lãnh đạo Công ty là những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, biết sử dụng đúng người đúng việc để mỗi cá nhân đều phát huy tối đa năng lực của bản thân. Ban lãnh đạo biết động viên khích lệ nhân viên cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ vàcũng có những hình thức kỉ luật đối với nhân viên vi phạm quy định Công ty đã đề ra. + Kiểm soát Ban lãnh đạo Công ty luôn có những biện pháp kiểm soát hành động của cấp dưới nhờ đó kịp thời phát hiện và khắc phục tránh được những sai sót và ngăn không để những hậu quả đáng tiếc xảy ra. 2.2 Đánh giá theo hoạt động tác nghiệp. + Mua Mua là một trong những hoạt động chính của Công ty. Trong 3 năm vừa qua Công ty luôn vượt mức kế hoạch đặt ra. Đảm bảo mua hàng hấ không thừa không thiếu nên luôn có đủ hàng bán mà không tốn nhiều chi phí lưu kho, tránh được lãng phí. + Bán Khách hàng của Công ty chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước. Trong những năm tới đây, Công ty cần tăng cường bán sản phẩm cho các đối tác nước ngoài. Lượng hàng bán trong mấy năm vừa qua tuy có tăng nhưng tăng không nhiều. Chủng loại hàng hoá còn chưa đa dạng. + Marketing Trong những năm gần đây, Công ty thực sự quan tâm đến hoạt động này và đã thành lập phòng nghiên cứu thị trường. Tuy nhiên do mới được thành lập nên hoạt động của phòng và công tác marketing còn gặp nhiều khó khăn và chưa thực sự đạt hiệu quả. + Tài chính Lượng vốn của Công ty còn nhỏ ,tuy có huy động thêm từ hoạt động gửi tiết kiệm nhưng khả năng huy động vốn chưa thực sự cao.Công ty cần nâng cao khả năng vốn chủ sở hữu nhằm phát huy quyền làm chủ của mình. 3. Phương hướng phát triển của Công ty trong vài năm tới. 3.1. Định hướng xuất nhập khẩu. Về xuất khẩu Thị trường xuất khẩu ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng doanh số bán của Công ty trong những năm tới đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch kinh tế theo hướng xuất khẩu tăng. Mục tiêu dề ra cho giai đoạn 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm từ 12-20%, đưa tỉ trọng giá trị xuất khẩu trong tổng doanh số bán từ 5,6% lên 8%vào năm 2005. Để thực hiện mục tiêu trên cần đầu tư mạnh vào công tác mở rộng thị trường xuất khẩu và phát triển mặt hàng xuất khẩu. Giữ vững và phát triển thị trường hiện có đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Duy trì khối lượng mặt hàng xuất khẩu như: quặng crômit giữ mức từ 10000-15000 tấn ở các năm rừ 2002 đến 2005 và cau su từ 1200 tấn lên 2200 tấn vào năm 2005. Ngoài ra còn đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng như: dầu dừa, than gáo dừa…Tiếp tục khảo sát để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản thông qua quan hệ mậu dịch chính thống nhà nước và quan hệ hiệp hội phi chính phủ. Tập trung cán bộ có năng lực để hình thành bộ phận chuyên trách phát triển các thị trường mới, trước mắt là thị trường Châu Á (Lào, Singapo) Châu Âu và Mỹ. Tích cực tìm kiếm bạn hàng để xuất khẩu các mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như: nông lâm sản và khoáng sản. Phát triển kinh doanh dịch vụ về thương mại: tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu giữa Trung Quốc và các nước khác. Nắm chắc thông tin về cung-cầu và giá cả ở thị trường trong nước và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài. Về nhập khẩu Nâng cao năng lực điều hành nhập khẩu trên cơ sở chọn lọc mặt hàng vvà thị trường để đảm bảo nguồn hàng đầy đủ, đồng bộ và kịp thời, chất lượng và giá cả phù hợp với trình độ công nghệ sản xuất trong nước. Mục tiêu đề ra giai đoạn 2001-2005 là duy trì lượng hàng nhập khẩu chiếm tỉ trọng 80-85%tổng giá trị mua, trong đó hàng nhập từ Trung Quốc chiếm 40-45%. Mặt hàng chủ yếu là NaOH, Na2CO3, nhóm muối vô cơ, nguyên liệu sản xuất phân bón, bột màu, kim loại. Ngoài ra cần chú ý phát triển các nguồn nhập khẩu từ Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và các nước ASEAN đối với các mặt hàng:chất dẻo, phụ liệu dẻo, cao su tổng hợp, phụ liệu cao su. Tìm hiểu và khảo sát một số mặt hàng nhập khẩu từ thị trường Nga, Châu Âu trên cơ sở bảo đảm về thời gian tiến độ giao hàng và hiệu quả. Người nhập khẩu phải nắm vững hàng nhập về bán cho đối tượng nào và sản phẩm nào là chủ yếu để quyết định lượng tăng giảm theo từng thời điểm. Chủ động tìm đối tác có thế mạnh từng mặt hàng để đàm phán mua theo phương thức đại lý độc quyền. 3.2. Định hướng phát triển kinh doanh trong nước. Trong chiến lược kinh doanh ở các thời kì, Công ty luôn xác định thị trường và bạn hàng trong nước là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 5-10%, đến năm 2005 doanh dố bán trong nước đạt 392 tỷ VNĐ. Mạnh dạn phân cấp cho các đơn vị kinh doanh nhằm nâng cao tính chủ động và khả năng xử lý các tình huống đảm bảo năng lực cạnh tranh và uy tín của Công ty trên thương trường. Về bạn hàng: Công ty cần tập trung vào các doanh nghiệp lớn của nhà nước trong các ngành sản xuất công nghiệp ở Phía Bắc có sức mua lớn và ổn định lâu dài. Mặt khác, cần phải nắm bắt nhanh nhạy và phát hiện các bạn hàng mới có triển vọng như: Các công ty cổ phần, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô lớn và các liên doanh nước noài đầu tư tại Việt Nam. Với phương châm nắm chắc bạn hàng, giữ chữ tín với bạn hàng, phát triển thêm bạn hàng mới, thực hiên văn minh thương nghiệp, làm tốt các dịch vụ sau bán hàng. Về mặt hàng Công tác định hướng ngành hàng kinh doanh chủ lực là hoá chất công nghiệp tập trung vào các mặt hàng truyền thống như: NaOH, Na2CO3, chất dẻo, parafin, axit H2SO4, hàn the, cao su tổng hợp. Đồng thời đa dạng hoá mặt hàng chuyển đổi cơ cấu cho phù hợp, đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng ngoài ngành có giá trị cao để tăng trưởng doanh số, tập trung vào các máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp hoá nông thôn và chú trọng phát triển mặt hàngkim loại màu và hợp kim mà trong nước chưa sản xuất được. Về thị trường trong nước Trước hết, phải củng cố và giữ vững các thị trường đã được xác lập trên địa bàn thủ đô Hà Nội và khu công nghiệp ở phía Bắc. Giữ vững thị phần các mặt hàng chủ yếuvà phấn đấu tăng doanh số hàng năm. Chuẩn bị sẵn sàng và đưa ra các đối sách ứng phó với các đối thủ cạnh tranh trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế nhằm giữ vững thị trường trong nước mà Công ty đã chiếm lĩnh được trong những năm qua. Tích cực mở rộng thị trường phía Nam nhằm vào các đối tác lớn thuộc các thành phần kinh tế có nhu cầu ổn định và làm ăn chắc chắn. Đầu tư vào khảo sát nhu cầu và tranh thủ thâm nhập vào các khu chế xuất, khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Trước mắt tăng cường cán bộ và giao nhiệm vụ cho văn phòng đại diện của Công ty tại Thành Phố Hồ Chí Minh đảm nhiệm việc khảo sát và thâm nhập thị trường, xác định nhu cầu và triển vọng phát triển kinh doanh Công ty ở phía Nam. Giao cho các đơn vị kinh doanh của Công ty nghiên cứukhảo sát để mở rộng thị trường nông thôn, tập trung vào các làng nghề, các khu công nghiệp vừa và nhỏ của địa phương đồng thời khai thác các sản phẩm tryuền thống, hàng thủ công mĩ nghệ chất lượng cao ở các vùng nông thôn để phục vụ cho kế hoạch xuất khẩu của Công ty. 3.3. Định hướng về công tác tài chính. Căn cứ vào kế hoạch mua, bán Công ty xây dựng kế hoạch tài chính thời kì 2001-2005: Trong công tác quản lý tài chính, nếu quá trình kinh doanh có sự tăng giá vật tư hàng hoá thì Công ty sẽ thực hiện bảo toàn vốn theo hướng dẫn quy định của nhà nước. Đảm bảo các chỉ tiêu tài chính Thường xuyên nắm bắt khả năng thanh toán của khách hàng để ngăn ngừa hiện tượng thất thoát vật tư, tiền vốn. Thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, giảm phí lưu thông nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.4. Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, lao động tiền lương. Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo hướng dẫn của bộ. Bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ 2001 – 2005. Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ hiện có, đồng thời xây dựng quy chế tuyển dụng cán bộ công nhân viên có chọn lọc nhằm tạo nguồn cán bộ vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị đội ngũ cán bộ lâu dài, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Nâng cao tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học và trên Đại học để tăng cường chất lượng và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong Công ty đặc biệt là số cán bộ của các phòng nghiệp vụ và cán bộ chủ chốt các đơn vị trực tiếp kinh doanh. Giai đoạn 2001 -2005 phấn đấu đưa tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học từ 39% hiện nay lên 50% vào năm 2005, trong đó cán bộ lãnh đạo Công ty, phụ trách các đơn vị trực thuộc từ 63% lên 90%, giảm tỷ lệ lao động phổ thông từ 21% xuống còn 15%. Quan tâm cán bộ trẻ và cán bộ nữ, đồng thời kết hợp các độ tuổi để bảo đảm tính liên tục kế thừa và phát triển. Trong tuyển dụng cán bộ có quan tâm đến đối tượng là con em cán bộ công nhân viên của Công ty trên cơ sở bảo đảm đủ tiêu chuẩn, có phẩm chất, có trình độ được đào tạo cơ bản và có năng lực để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, việc tuyển chọn những người tài giỏi có đủ phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập thì phải ưu tiên hàng đầu. 3.5. Kế hoạch phát triển sản xuất,đầu tư hợp tác liên doanh liên kết. Hiện Công ty đang có một xưởng sản xuất nhỏ ở khu vực Đức Giang, thiết bị cũ và lạc hậu lên chất lượng sản phẩm thấp, số lượng và chủng loại mặt hàng còn ít và thiếu ổn định. Công ty có kế hoạch đầu tư tăng cường cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm trong công tác đầu tư, nghiên cứu tìm đối tác, liên doanh hợp tác sản xuất kinh doanh, củng cố và mở rộng xưởng sản xuất một số mặt hàng hóa chất để thay thế hàng nhập khẩu, đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị để đảm bảo sản xuất ổn định lâu dài. 3.6. Kế hoạch khoa học và ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh. Công ty đã xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ 5/ 5: từ 2001 – 2005 ( theo biểu mẫu riêng đã gửi Vụ khoa học – Bộ Thương mại ). Triển khai ứng dụng công nghệ tin học trong hoạt động kinh doanh và công tác quản lý của Công ty, nhằm tạo một bước chuyển biến mới trong phương thức quản lý điều hành Công ty và thích ứng được xu thế phát triển của công nghệ thông tin, chuẩn bị cho tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và trên thế giới. 3.7. Kế hoạch xây dựng cơ bản. Công ty đã xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ 5/ 5: từ 2001 – 2005 ( theo biểu mẫu riêng đã gửi Vụ khoa học – Bộ Thương mại ). Triển khai ứng dụng công nghệ tin học trong hoạt động kinh doanh và công tác quản lý của Công ty, nhằm tạo một bước chuyển biến mới trong phương thức quản lý điều hành Công ty và thích ứng được xu thế phát triển của công nghệ thông tin, chuẩn bị cho tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và trên thế giới. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở CÔNG TY HOÁ CHẤT – BỘ THƯƠNG MẠI. 1. Phát triển công tác thu thập và xử lý thông tin, nắm bắt nhu cầu thị trường, mở rộng thị trường kinh doanh. Công tác thu thập và xử lí thông tin đi liền với hoạt động kinh doanh của toàn mạng lưới bán hàng. Thông tin thu được từ mạng kưới bán hàng tác động đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Qua lượng thông tin thu thập được Công ty có thể dự đoán được nhu cầu thị trường cần loại vật tư nào? mức độ ra sao? thời điểm nào? giá cả là bao nhiêu? mặt hàng nào ít bị cạnh tranh?Nguồn thông tin thu thập được càng đầy đủ và đáng tin cậy bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. ở Công ty Hoá Chất-Bộ Thương Mại thì việc thu thập thông tin của cả thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn yếu nên ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong vài năm qua do thu thập thông tin về thị trường không đầy đủ nên có thời điểm một số mặt hàng nhập quá nhiều dẫn đến tồn kho một lượng lớn không có khả năng tiêu thụ như: ôxit kẽm, dầu hoá dẻo, bột PVC. trong khi đó một số mặt hàng khách hàng có nhu cầu lớn như: Xút, Sô đa, Parafin…thì Công ty lại chưa có khả năng đáp ứng đầy đủ do hàng chưa nhập về kịp hay lượng tồn kho còn quá ít. Để tránh sai lầm và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng Công ty cần có các biện pháp sau: + Thông qua các hợp đồng kinh tế, các thông tin phản hồi từ khách hàng, các tư liệu khảo sát trên thị trường, kết hợp các phương pháp thống kê phân tích để tìm ra quy luật và xu thế phát triển của nhu cầu về từng loại hàng hoá trên thị trường. + Các cửa hàng, quầy hàng của Công ty là những đơn vị trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh mua bán hàng hoá và thu thập thông tin từ khách hàng. Do đó các đơn vị này cần có những cách thức linh hoạt để thu thập thông tin xác thực từ khách hàng, ghi nhận cách nhìn của khách hàng đối với Công ty. + Sau khi tiến hành thu thập thông tin thậm chí ngay khi đang thu thập thông tin, Công ty nên tiến hành tổng hợp, phân loại, phân tích, kiểm tra để xác định tính đúng đắn của thông tin, loại bỏ những thông tin thiếu chính xác để tìm ra các giải pháp tối ưu cho các vấn đề thị trường, cạnh tranh, giá cả… từ đó có chính sách, kế hoạch cụ thể đối với từng loại mặt hàng cho tằng khu vực thị trường. + Tình hình khu vực đang có nhiều biến động phức tạp nên đối với vấn đề xuất nhập khẩu Công ty cần sớm có chủ trương về nhu cầu thị trường để tránh ảnh hưởng xấu từ thị trường khu vực. Mặt khác Công ty cần giữ vững các thị trường truyền thống như: thị trườngTrung Quốc và thị trường Hàn Quốc 2. Định hướng kinh doanh theo hướng đa dạng hoá mặt hàng,kết hợp kinh doanh mặt hàng hoá chất với mặt hàng khác. Trong công tác định hướng chiến lược về mặt hàng kinh doanh của Công ty vẫn lấy hoá chất là mặt hàng kinh doanh chủ lực và chuyên môn hoá. Cần tập trung tăng doanh số bán hàng cho các doanh nghiệp trên thị trường Trung Quốc. Mô hình kinh doanh tập trung chuyên môn hoá có nhiều lợi thế nhưng cũng tronh nền kinh tế thị trường thì có nhiều bất lợi nhất định như: mức độ rủi ro cao, khả năng chuyển hướng kinh doanh chậm khi công việc kinh doanh gặp bất lợi. Công ty nên mở rộng nhiều mặt hàng kinh doanh khác nhau để phân tán rủi ro trong kinh doanh. Vốn kinh doanh ít bị ứ đọng do mua nhanh bán nhanh, đầu tư vốn nhiều ngành hàng và tăng nhanh khả năng quay vòng vốn. Có thị trường kinh doanh rộng lớn nên kích thích sự năng động sáng tạo và đòi hỏi sự hiểu biết cuả cán bộ kinh doanh. 3. Nâng cao hiệu quả dụng vốn trên cơ sở các biện pháp phát triển vốn kinh doanh. Hiện nay vốn kinh doanh của Công ty còn quá ít đặc biệt là vốn lưu động so vói doanh số bán nên đòi hỏi Công ty cần có những biện pháp khắc phục điểm yếu này. Công ty cần phải có mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng như: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và các ngân hàng khác để đảm bảo nguồn vốn kinh doanh. Các cơ sở kinh doanh cần làm tốt công tác hạch toán kế toán, kiểm soát tình hình công nợ, dứt diểm chấm dứt hiện tượng khách hàng nợ mà không có khả năng thanh toán, áp dụng khung giá cho các mặt hàng kinh doanh do công ty mua về và điều chuyển cho các đơn vị kinh doanh. Việc bán hàng dưới mức giá cần phải thông qua sự đồng ý của lãnh đạo Công ty.Phòng tài chính kế toán cần được nâng cao nghiệp vụ kế toán, đầu tư cơ sở vật chất kĩ thật như tăng cường thêm một số máy tính để nâng cao hiệu suất và chất lượng của công tác kế toán, lưu trữ số liệu và cung cấp kịp thời số liệu về tình hình tài chính của Công ty cho ban lãnh đạo và các bộ phận liên quan. Phấn đấu tăng nguồn vốn lưu động của Công ty lên 45 tỷ đồng vào năm 2005 với mức doanh số bán là 600 tỷ đồng. Trong chiến lược về vốn của Công ty xác định 70% vốn lưu động là nguồn vốn tín dụng. Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển của nền kinh tế, Công ty phải nắm bắt được và tận dụng các nguồn vốn mới mà nhà nước cho phép như phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cổ phần hoá từng phần doanh nghiệp, huy động vốn trong nội bộ Công ty...Hiện nay, do quy mô của Công ty chưa thực sự lớn, tốc độ phát triển chưa cao, khả năng sinh lợi và mức độ ảnh hưởng chưa rộng rãi nên Công ty chưa phát hành đựoc trái phiếu doanh nghiệp. Dự kiến cuối năm nay Công ty sẽ tiến hành cổ phần hoá để tăng nguồn vốn lưu động. 4. Dự trữ hợp lý hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh dự trữ hàng hoá là nhu cầu tất yếu, mức dự trữ hợp lý có ý nghĩa hợp lý to lớn đối với Công ty. Nó cho phép giảm các chi phí bảo quản hàng hoá, giảm hao hụt hàng hoá trong vòng quay vốn lưu động và đảm bảo cho Công ty có đủ hàng hoá trong kinh doanh. Với cơ chế kinh doanh như hiện nay, công tác dự trữ hàng hoá có vai trò quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Không nên coi dự trữ hàng hoá chỉ đơn thuần là hàng hoá tồn kho thông thường. Để làm tốt công tác dự trữ Công ty cần: + Xác định hàng hoá, lượng đặt hàng và khối lượng hàng hoá nhập về cho kế hoạch kinh doanh. + Mở rộng và phát triển các kênh phân phối. Điều này cho phép giảm đáng kể hàng hoá dự trữ hàng hoá. +Đầu tư xây dựng lại mạng lưới kho tàng với trang thiết bị kĩ thuật hiện đại để đảm bảo bảo quản tốt hàng hoá nhằm giảm những hao hụt mất mát, kém phẩm chất của hàng hoá. + Thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết về dự trữ hàng hoá ở Công ty để thuận tiện trong việc kiểm tra và dự trữ hàng hoá. + Cần năng động trong việc tìm nguồn tiêu thụ, có thể áp dụng hình thức bán trả chậm, khuyến mại để kích thích khách hàng. Công tác dự trữ hàng hoá phải được chỉ đạo chặt chẽ và linh hoạt để đảm bảo nhu cầu cung ứng cho khách hàng và tránh hàng hoá tồn đọng quá mức cần thiết. Ngoài ra, các đơn vị kinh doanh căn cứ vào danh mục hàng hoá của yếu của Công ty để xây dựng nhu cầu dự trữ hợp lý cho các đơn vị. 5. Đổi mới công tác bán hàng trên cơ sở sử dụng chiến lược tiếp thị. Để đưa Công ty sớm trở thành một doanh nghiệo lớn mạnh trong ngành hoá chất, cần sớm đưa công tác tiếp thị, bán hàng lên tầm quan trọng tương ứng. Đây là khâu có tính quyết định toàn bộ trong hoạt động bán hàng của Công ty. Cần chú ý thông tin về đối thủ cạnh tranh, các đơn vị cùng ngành hàng để có biện pháp xử lí kịp thời. Với các danh mục được phân công, các đơn vị cần bám sát cơ sở sản xuất để nắm được nhu cầu sử dụng vật tư và các biến động phát sinh do đổi mới công nghệ, do sự phát triển thận lợi hay khó khăn của sản xuất. Khi thị trường khan hiếm nguồn hàng, cần thực hiện phương châm ưu tiênbán cho những khách hàng đã kí hợp đồng dài hạn như các doanh nghiệp quốc phòng, doanh nghiệp nhà nưópc, các bạn hàng truyền thống có tín nhiệm. Ngoài danh mục các đối tượng được phân công công tác, các đơn vị kinh doanh cần chủ động tìm kiếm khách hàng trong và ngoài khu vực, chú ý xâm nhập vào các khu công nghiệp mới, các vùng kinh tế trọng điểm. Thực hiện tôt các công tác dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng, nâng cao trình độ văn minh thương mại. Thông báo khả năng đáp ứng nhu cầu cho khách hàng, giới thiệu và hướng dẫn chi tiết việc sử dụng ở cơ sở, tổ chức tốt việc vận chuyển hàng. Cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và nhân viên bán hàng cần phải nâng cao nghiệp vụ bán hàng, giao tiếp tốt với khách hàng để tạo dự tin tưởng nơi khách hàng, nhiệt tình trong khi bán hàng cho khách, thái độ văn minh hoà nhã tạo ấn tượng tốt của khách hàng về Công ty và sản phẩm của Công ty. 6. Sử dụng đòn bẩy kinh tế để kích thích người lao động. Phát triển quy luật ứng dụng để phát huy tính tích cực trong cán bộ công nhân viên nên Công ty có hình thức thưởng về kinh tế như thưởng cho đơn vị vượt mức chỉ tiêu doanh số bán, có mức lợi nhuận cao, có nhiều mối quan hệ với các bạn hàng thường xuyên mua hàng của Công ty. Hình thức thưởng về kinh tế cho các cán bộ công nhân viê tạo được nguồn hàng lớn với giá rẻ, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn. Để khuyến khích tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên trong Công ty thì ban lãnh đạo công ty cần phải thường xuyên: - Quan tâm đến việc ổn định và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty. - Sử dụng phương pháp phân phối thu nhập theo kết quả kinh doanh. - Động viên khuyến khích mọi người nâng cao hiệu quả làm việc. - Ban lãnh đạo Công ty cần thưởng kịp thời, phạt nghiêm minh để khuyến khích và gắn người lao động với công việc. 7. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, kiểu kinh doanh độc quyền như trước đây không còn phù hợp mà thay thế nó là hương thức kinh doanh tự do tuân theo cơ chế thị trường. Chính thị trường quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp do đó muốn bán được hàng thìdoanh nghiệp phải chú trọng đến sản phẩm của mình như: mẫu mã, bao bì, chủng loại, màu sắc, giá cả...Riêng đối với Công ty Hoá Chất một trong những cách quan trọng để nâng cao doanh số bán là nâng cao chất lượng hàng hoá. Phương châm bán hàng của Công ty là "bán những thứ khách hàng cần chứ không phải bán những gì mình có". ý thức được điều đó, Công ty đã thay đổi hệ thống máy móc cũ kĩ lạc hậu bằng những máy móc hiện đại nhở đó mà chất lượng hàng hoá của Công ty được nâng cao. Ngoài ra Công ty còn thay đổi, chỉnh trang tu sửa bố trí lại hệ thống kho tàng nhà xưởng để quá trình bảo quản hàng hoá được tốt tránh mất mát, hư hỏng hàng hoá do điều kiện khách quan. KẾT LUẬN. Kinh tế thị trường là môi trường kinh doanh đầy thử thách đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Các công ty kinh doanh cần nỗ lực hết mình mới có thể đứng vững và phát triển. Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại là đơn vị kinh doanh được hình thành trong điều kiện nền kinh tế bao cấp nên gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, bằng các chiến lược kinh doanh hợp lý của ban lãnh đạo Công ty và sự nỗ lực vươn lên của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa Công ty không ngừng phát triển đi lên trong những năm gần đây. Công ty đã khẳng định được vị thế của mình là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh hoá chất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường kinh doanh hoá chất, Công ty cần phải khắc phục một số nhược điểm còn tồn tại như: chưa khắc phục được nhược điểm về nuồn vốn đặc biệt là nguồn vốn lưu động, một số khâu trong tổ chức kinh doanh còn không hợp lý, chưa sử dụng hết năng suất và hiệu quả các đơn vị kinh doanh trong Công ty. Có như vậy Công ty mới có thể giữ vững được vị thế và tiếp tục phát triển trong tương lai. Qua thời gian thực tập tại Công ty và bằng những hiểu biết của mình tôi viết đề tài này để nêu lên một số phương pháp khắc phục những nhược điểm còn tồn tại của Công ty. Tôi mong rằng những ý kiến đóng góp nhỏ bé đó sẽ góp phần vào việc đưa công ty phát triển đi lên trong thời gian tới. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn thầy Trần Thăng Long và các cô chú trong Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành tốt chuyên đề này. Hà nội, tháng 5 năm 2004 Sinh viên thực hiện Nguyễn Mạnh Hoạt TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình quản trị KDXNK- PGS.TS Trần Chí Thành 2. Giáo trình Kinh tế thương mại - PGS.TS Đặng Đình Đào 3. Giáo trình Marketing thương mại - TS Nguyễn Xuân Quang. 4. Tạp chí thương mại 5. Thời báo kinh tế. 6. Một số tài liệu của Công ty hoá chất - Bộ thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Hoá Chất - Bộ Thương Mại.doc
Tài liệu liên quan