Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 6: Những tồn tại và giải pháp

Tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 6: Những tồn tại và giải pháp: CHƯƠNG 6 NHữNG tồN tại và Giải pHáp 101BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT CHƯƠNG 6 NHữNG tồN tại và Giải pHáp 6.1. CÁC VẤN ĐỀ BỨC XÚC VỀ MÔI TRƯỜNG NƯỚC 6.1.1. Thiếu thống nhất trong tổ chức quản lý Nhà nước về BVMT nước; quản lý môi trường nước theo LVS còn nhiều yếu kém Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về BVMT nước mặt nói chung, môi trường nước LVS nói riêng còn nhiều chồng chéo, đặc biệt là ở cấp trung ương. Vấn đề này đã tồn tại từ nhiều năm trước đây. Mặc dù đến năm 2008, Nghị định số 120/2008/NĐ-CP đã quy định rõ Bộ TN&MT là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với LVS trên phạm vi cả nước, trong đó bao gồm cả quy hoạch LVS, song thực tế trách nhiệm về quản lý LVS vẫn còn nằm một phần ở Bộ NN&PTNT. Các Bộ chuyên ngành khác cũng đang quản lý khai thác, sử dụng nguồn nước cho các mục đích khác nhau (Bộ NN&PTNT quản lý hệ thống thủy nông, khai thác công trình thủy lợi; Bộ Công thương quản lý các công trình t...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 6: Những tồn tại và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 6 NHữNG tồN tại và Giải pHáp 101BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT CHƯƠNG 6 NHữNG tồN tại và Giải pHáp 6.1. CÁC VẤN ĐỀ BỨC XÚC VỀ MÔI TRƯỜNG NƯỚC 6.1.1. Thiếu thống nhất trong tổ chức quản lý Nhà nước về BVMT nước; quản lý môi trường nước theo LVS còn nhiều yếu kém Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về BVMT nước mặt nói chung, môi trường nước LVS nói riêng còn nhiều chồng chéo, đặc biệt là ở cấp trung ương. Vấn đề này đã tồn tại từ nhiều năm trước đây. Mặc dù đến năm 2008, Nghị định số 120/2008/NĐ-CP đã quy định rõ Bộ TN&MT là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với LVS trên phạm vi cả nước, trong đó bao gồm cả quy hoạch LVS, song thực tế trách nhiệm về quản lý LVS vẫn còn nằm một phần ở Bộ NN&PTNT. Các Bộ chuyên ngành khác cũng đang quản lý khai thác, sử dụng nguồn nước cho các mục đích khác nhau (Bộ NN&PTNT quản lý hệ thống thủy nông, khai thác công trình thủy lợi; Bộ Công thương quản lý các công trình thủy điện; Bộ Giao thông Vận tải quản lý hệ thống giao thông thủy nội địa; Bộ Xây dựng quản lý việc cấp nước sinh hoạt...). Ở cấp địa phương, phân cấp quản lý môi trường nước mới tới cấp tỉnh. Hầu hết các tỉnh chưa có quy định cụ thể để phân cấp các nhiệm vụ quản lý môi trường nước đến cấp huyện, cấp xã. Vì vậy, chưa huy động được hệ thống quản lý các cấp để thực hiện quản lý môi trường nước trên địa bàn, đặc biệt là công tác bảo vệ môi trường nước tại địa bàn, cơ sở. Việc thành lập các Ủy ban BVMT LVS cho 3 LVS lớn (Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai) là chủ trương đúng đắn của Chính phủ. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động của các tổ chức này chưa thực sự phát huy vai trò và hiệu quả. Năng lực thực thi cũng như quyền hạn của các Ủy ban này còn nhiều hạn chế. Quy chế làm việc của Ủy ban cũng như Văn phòng LVS chưa chặt chẽ. Hiện nay, phần lớn Ban chỉ đạo và các thành viên làm công tác kiêm nhiệm. Cơ chế phối hợp liên tỉnh (trong cùng LVS) chưa khả thi. Nguyên nhân chính từ quy định luân phiên các Chủ tịch UBND tỉnh thuộc LVS làm Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS theo nhiệm kỳ, dẫn đến thiếu những chỉ đạo có tầm ảnh hưởng lớn, lâu dài và tạo sự đồng thuận giữa các địa phương đối với các vấn đề liên vùng. 6.1.2. Chồng chéo trong quy hoạch sử dụng nước Chính từ sự phân công trách nhiệm liên quan đến quản lý môi trường nước mặt giữa các Bộ ngành còn nhiều chồng chéo đã dẫn đến việc các Bộ, ngành đều xây dựng quy hoạch phát triển chuyên ngành theo yêu cầu của Bộ mình đặt ra. Cụ thể, Bộ NN&PTNT xây dựng quy hoạch thủy lợi; Bộ Công thương xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống thủy điện; Bộ Giao thông Vận tải xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống giao thông thủy... Chính việc sử dụng môi trường nước mặt cho các mục đích khác nhau của các ngành dẫn đến những xung đột trong khai thác sử dụng nước, làm gia tăng nguy cơ thiếu nước và ô nhiễm môi trường nước mặt. 6.1.3. Xử lý nước thải chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng được yêu cầu BVMT Xử lý nước thải đang là một trong những vấn đề cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay. Nguyên nhân chủ yếu khiến cho hoạt động xử lý nước thải chưa được đẩy mạnh là do nguồn kinh phí đầu tư cho việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải chưa được các doanh nghiệp, nhà đầu tư quan tâm đúng mức. Một vấn đề không thể không đề cập đó là sự phát triển các khu đô thị mới. Hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư mới chỉ tập trung vào việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật nhà ở và một số các công trình phụ trợ khác, chưa NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 102 BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT quan tâm tới việc đầu tư, xây dựng hệ thống xử lý nước thải của khu đô thị nên nhìn chung, nước thải tại các khu đô thị mới chỉ được xử lý sơ bộ bằng bể tự hoại, chưa đạt quy chuẩn môi trường và đổ thẳng ra sông hồ, kênh rạch đô thị. Thêm vào đó, đa phần công nghệ xử lý nước thải đang triển khai hiện nay chưa thực sự phù hợp; còn thiếu những văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể cũng như thiếu những nghiên cứu, đánh giá đối với việc ứng dụng công nghệ xử lý nước thải phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đối với vấn đề xử lý nước thải công nghiệp, mới chỉ tập trung đầu tư cũng như thực hiện việc giám sát, kiểm tra chủ yếu cho hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong khi đó, theo số liệu thống kê năm 2012, có khoảng 75% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, xử lý được khoảng 62% tổng lượng nước thải phát sinh. Tại các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các cơ sở sản xuất nhỏ và các làng nghề, hầu hết đều chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có thì công tác giám sát, kiểm tra việc vận hành cũng chưa đầy đủ. Cũng theo thống kê năm 2012, trong số 614 cụm công nghiệp đang hoạt động, chỉ có 18 cụm công nghiệp (chiếm tỷ lệ 3%) có hệ thống xử lý nước thải tập trung; hầu hết các làng nghề trên cả nước không có hệ thống xử lý nước thải... Vấn đề xử lý nước thải đô thị cũng chưa được quan tâm đúng mức. Tại một số thành phố, đô thị lớn mới chỉ đầu tư một vài trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung nhưng đều ở quy mô nhỏ, công suất xử lý không đáp ứng yêu cầu thực tế, chưa kể đến phần lớn công nghệ áp dụng chưa phù hợp với điều kiện Việt Nam. Hiện nay, trong tổng số 760 đô thị của Việt Nam, mới chỉ 7 đô thị đã triển khai thử nghiệm xây dựng và vận hành công trình xử lý nước thải sinh hoạt tập trung ở quy mô nhỏ (phường, khu dân cư nhỏ). Trong số 71 đô thị loại 3 trở lên có 18 đô thị đã và đang triển khai xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tập trung, chỉ chiếm khoảng 25%; các đô thị loại 4 hầu như chưa được quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải. 6.1.4. Mức độ ô nhiễm các chất hữu cơ có xu hướng mở rộng và gia tăng Giai đoạn 2001 - 2005, ô nhiễm các chất hữu cơ là một trong những vấn đề nổi cộm tại 3 LVS lớn: Cầu, Nhuệ - Đáy và hệ thống sông Đồng Nai. Đến giai đoạn 2006 - 2011, ô nhiễm chất hữu cơ vẫn tiếp tục là vấn đề nóng tại 3 LVS nói trên, thậm chí còn có xu hướng gia tăng cả về mức độ ô nhiễm và xuất hiện thêm ở nhiều LVS khác. Theo các báo cáo đánh giá, môi trường nước mặt ở hầu hết các đô thị và ở nhiều LVS nước ta đều bị ô nhiễm các chất hữu cơ. Ở hầu hết các sông, hồ, kênh, rạch trong nội thành, nội thị, trị số hàm lượng các chất ô nhiễm của các thông số đặc trưng ô nhiễm hữu cơ đều vượt trị số giới hạn tối đa cho phép đối với nguồn nước loại B từ 2-6 lần. Hàm lượng chất hữu cơ và Coliform ở hầu hết các sông chảy qua các đô thị và các KCN đều vượt giới hạn tối đa cho phép, nhiều nơi cao hơn tới 2-3 lần. Môi trường nước tại một số khu vực mới được giám sát, đánh giá cũng đã có dấu hiệu bị ô nhiễm hữu cơ. Điển hình như khu vực sông Ka Long (đoạn chảy qua thị xã Móng Cái, Quảng Ninh), tiểu LVS Vu Gia (Đà Nẵng), sông Ba (đoạn qua nhà máy đường An Khê, Gia Lai)... 6.1.5. Xã hội hóa, tư nhân hóa và huy động cộng đồng tham gia còn yếu kém Hiện nay, công tác xã hội hóa và huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác BVMT nói chung, BVMT nước nói riêng, còn tồn tại rất nhiều vấn đề. Nhiều hoạt động còn mang tính hình thức, không có nguồn lực tương xứng, không được hướng dẫn tổ chức đầy đủ nên không được sự ủng hộ rộng rãi, thường xuyên. Cho đến nay, vẫn còn thiếu một văn bản quy phạm pháp luật ở tầm cao, vừa giải quyết một cách cơ bản hệ thống những vấn đề cốt lõi liên quan đến hoạt động BVMT của cộng đồng, vừa tạo cơ sở để ban hành các văn bản ở tầm thấp hơn, phù hợp với đặc thù của từng loại hình, địa bàn hoạt động. NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 103BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Mặc dù hiện nay, các chương trình tuyên truyền, phổ biến thông tin về BVMT nói chung, BVMT nước nói riêng, đã trở thành những nội dung định kỳ được truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, truyền thanh, báo chí...), thậm chí còn được đưa vào trong các chương trình giáo dục phổ thông, trung học cơ sở... tuy nhiên, tính hiệu quả của các chương trình này chưa cao. Theo khảo sát của Tổng cục Môi trường (tháng 10/2010), trên 90% người dân được hỏi cho rằng họ có quá ít thông tin về môi trường và cho rằng lỗi đó thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương. 6.1.6. An ninh nguồn nước đang bị đe dọa Theo số liệu thống kê, tổng trữ lượng nước mặt của Việt Nam đạt khoảng hơn 830-840 tỷ m3/năm, trong đó 63% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài. Hiện nay chúng ta đã sử dụng khoảng 400 tỷ m3 mỗi năm. Điều đó cho thấy chúng ta đang phụ thuộc vào nguồn nước chảy từ nước ngoài đến. Các nước trên thượng nguồn các dòng sông xuyên biên giới hiện đang tích cực đắp đập giữ nước, thậm chí chuyển nước sang các dòng sông khác của họ. Nếu như thiếu nước, chúng ta sẽ không thể phát triển được, chưa kể sẽ phải nhượng bộ các quốc gia trên thượng nguồn về nhiều mặt để có nước. Ngoài ra, việc dùng nước lãng phí và làm ô nhiễm tất cả các hệ thống sông ngòi nội địa, khiến cho mối đe dọa an ninh nguồn nước sẽ trở thành mối đe dọa hàng đầu. Cho đến năm 2005, tình hình khan hiếm nước trên lưu vực sông Đồng Nai đã đến mức báo động khẩn cấp. Năm 2005, bình quân lượng nước sử dụng tính trên đầu người là 2.486 m3, nằm dưới ngưỡng 4.000 m3/người là mức thiếu nước theo tiêu chuẩn của Hội Tài nguyên nước quốc tế (IWRA). Theo dự báo, năm 2020 mức bình quân này chỉ còn ở mức 1.770 m3/người/ năm (71,2% so với 2005); năm 2040: 1.475 m3/ người/năm (59,3% so với 2005) và thuộc mức khan hiếm nước. Trong tương lai, do ảnh hưởng BĐKH, nước biển dâng và hàng loạt công trình thủy điện của các nước trong khu vực sông Mê Công (Trung Quốc, Lào, Campuchia...) được xây dựng sẽ khiến cho lưu lượng nước dòng Mê Công giảm chỉ còn 2/3 so với những thập kỷ trước. Từ thượng lưu đến hạ lưu sông Mê Công đến nay đã có 16 đập thủy điện đã và đang xây dựng. Theo “quy hoạch’ của các nước trong lưu vực thì hàng trăm dự án thủy điện trên các nhánh chính và nhánh rẽ của dòng sông này sẽ làm cho dòng sông bị chia cắt thành nhiều đoạn và ngăn cách con đường sinh tồn của các loài thủy sinh. Biến động môi trường liên quan đến BĐKH và khai thác bất hợp lý nguồn thủy điện thượng nguồn có rất nhiều khả năng dẫn đến tình trạng tị nạn môi trường ở khu vực nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Vùng châu thổ này là nơi sinh sống của 18 triệu người, tương đương với 22% dân số Việt Nam, cung cấp tới 40% diện tích đất canh tác và là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, cung cấp hơn 50% sản lượng gạo (trong đó góp 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới), hơn 60% lượng thủy sản và hơn 70% lượng trái cây cho cả nước. 6.2. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 6.2.1. Các giải pháp chung Rà soát, bổ sung và hoàn thiện chính sách pháp luật và thể chế về BVMT nước Mặc dù Luật Tài nguyên nước đã được sửa đổi, thông qua năm 2012 nhưng vẫn cần thiết phải xem xét tới các quy định để phân định rõ những trùng lặp, chồng chéo đối với các quy định về BVMT nước. Đối với Luật BVMT đang trong giai đoạn rà soát, sửa đổi cũng cần xem xét cụ thể để bổ sung các nội dung còn thiếu về BVMT nước LVS. Bổ sung các quy định về sự tham gia của cộng đồng, cung cấp và phổ biến thông tin trong quản lý và BVMT nước vào các văn bản dưới Luật, hướng dẫn thi hành Luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đồng thời, cần xem xét, bổ sung các văn bản hướng dẫn quy NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 104 BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT định cụ thể đối với công tác điều tra, thống kê và đánh giá nguồn thải, đặc biệt là nguồn thải tại các LVS. Ban hành các quy chế BVMT cho từng LVS trong đó nêu rõ các vấn đề môi trường và nguyên tắc ứng xử của các bên liên quan cụ thể, bao gồm các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Tiếp tục rà soát và bổ sung hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến môi trường nước. Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy định khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu tài nguyên nước. Điều chỉnh phân công phân nhiệm, củng cố hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BVMT nước Cần rà soát lại chức năng nhiệm vụ của các Bộ ngành có liên quan để có những biện pháp cụ thể khắc phục những chồng chéo trong phân công phân nhiệm quản lý và BVMT nước. Một trong những giải pháp cần được xem xét, đó là việc kiện toàn mô hình tổ chức và hoạt động của các Ủy ban BVMT LVS, cụ thể như sau: Thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về BVMT các LVS do Phó Thủ tướng Chính phủ làm trưởng Ban chỉ đạo, Bộ trưởng Bộ TN&MT làm Phó Trưởng ban chỉ đạo; các Ủy viên bao gồm: Ủy viên thường trực là Thứ trưởng bộ TN&MT; các Ủy viên khác là Thứ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Khoa học và Công nghệ..., đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn các LVS (Cầu, Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai). Ban chỉ đạo Nhà nước có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ liên quan đến BVMT LVS lớn và liên tỉnh trong phạm vi toàn quốc. Giúp cho việc Ban chỉ đạo Nhà nước là Văn phòng Ban chỉ đạo do Bộ trưởng Bộ TN&MT thành lập. Dưới Ban chỉ đạo Nhà nước về BVMT các LVS là các Tiểu ban BVMT các LVS Cầu, Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai. Xây dựng và triển khai thực hiện Quy hoạch LVS, Quy hoạch phân vùng, khai thác sử dụng nước Quy hoạch LVS cần được xây dựng và phê duyệt cho mỗi LVS. Quy hoạch này sẽ là định hướng cho quản lý và bảo vệ môi trường nước nói chung, môi trường nước LVS nói riêng. Các chiến lược, kế hoạch về phát triển của các ngành; chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch kế hoạch sử dụng tài nguyên lãnh thổ khác nhau trên LVS sau đó sẽ phải được điều chỉnh cho phù hợp với Quy hoạch quản lý tổng hợp LVS. Cùng với đó, cần xây dựng các quy hoạch phân vùng khai thác sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải một các hệ thống và đồng bộ đối với từng LVS. Đây là cơ sở để có sự điều chỉnh và thống nhất các quy hoạch phát triển của các ngành trong khai thác, sử dụng môi trường nước. Và đó cũng là cơ sở cho việc cấp phép xả nước thải vào nguồn nước dựa trên đánh giá về khả năng tự làm sạch và quy chuẩn cụ thể tại mỗi đoạn sông trên LVS. Quy hoạch cần được xây dựng theo cách tiếp cận có sự tham gia của nhiều bên, được tham vấn rộng rãi và có sự đồng thuận cao của cộng đồng trước khi được phê duyệt. Cơ chế quản lý và triển khai quy hoạch phải dựa trên cách tiếp cận quản lý tổng hợp, chú trọng vấn đề điều phối, phối hợp đa ngành, liên địa phương, sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan, đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả của cơ chế giám sát, đánh giá và cưỡng chế việc thực hiện quy hoạch. Một trong những giải pháp thực hiện quy hoạch là tăng cường năng lực của các cơ quan, tổ chức và các bên liên quan, đặc biệt là trong khả năng thực hiện các hoạt động phối hợp liên ngành, liên địa phương. Tăng cường các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường, công tác thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế tuân thủ pháp luật về BVMT nước Đẩy mạnh các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các cấp, đặc biệt là việc kiểm soát NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 105BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT ô nhiễm nước tại các LVS nhằm phòng ngừa, khống chế ô nhiễm xảy ra, hoặc khi có ô nhiễm xảy ra thì có thể chủ động xử lý, nhằm giảm thiểu hoặc loại trừ tối đa tác động tới môi trường và sức khỏe cộng đồng. Tập trung chỉ đạo hoàn thành mục tiêu xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là các cơ sở nằm trên các LVS theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục kiểm tra, phát hiện các nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong các LVS để đưa vào diện xử lý. Ngăn chặn các nguồn gây ô nhiễm môi trường mới. Nghiêm cấm việc xây dựng các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và có nguy cơ gây sự cố môi trường. Tùy theo từng LVS, hạn chế đầu tư một số loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra môi trường một cách thường xuyên. Có biện pháp buộc các cơ sở sản xuất thực hiện chương trình tự quan trắc và các quy định khác theo Luật BVMT. Thúc đẩy việc triển khải các biện pháp tổng thể khả thi nhằm từng bước hạn chế ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt của các đô thị. Tại các thành phố và đô thị lớn, cần sớm xây dựng để đưa vào vận hành các hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung song song với việc đầu tư các công trình xử lý tại nguồn ở ngay các khu dân cư mới. Tăng cường công tác quan trắc, giám sát môi trường nước mặt, đặc biệt là việc triển khai hệ thống quan trắc tự động liên tục môi trường nước mặt. Chú trọng nghiên cứu, phát triển các công nghệ quan trắc hiện đại, tiên tiến. Áp dụng các công cụ kinh tế, giải pháp khoa học và công nghệ trong BVMT nước Sửa đổi và ban hành phí xả nước thải theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; phí xả nước thải phải bằng hoặc lớn hơn chi phí xử lý ô nhiễm. Đánh giá tổng thể tác động của các công trình thủy lợi, thủy điện, các hoạt động dân sinh nhằm ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng sụt lở, bồi lắng các dòng sông và đề ra các biện pháp nhằm khôi phục lại cảnh quan, sự cân bằng cho các dòng sông. Sự tham gia và trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý và BVMT nước Xây dựng các cơ chế cụ thể để thu hút sự tham gia của tất cả các bên liên quan trong đó có cộng đồng dân cư trong các quá trình lập quy hoạch, kế hoạch và triển khai các biện pháp BVMT nước. Tăng cường vai trò của các cộng đồng trong quản lý và sử dụng nguồn nước. Công khai hóa các thông tin, dữ liệu liên quan đến tình hình ô nhiễm và các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế trong quản lý và BVMT nước, đặc biệt đối với vấn đề xuyên biên giới Xây dựng các cơ chế hợp tác để ngăn ngừa, giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường nước của các dòng sông, lưu vực sông liên quốc gia. Mở rộng hợp tác quốc tế về BVMT nước nói chung, LVS nói riêng, trong phạm vi khu vực dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ nhằm tranh thủ sự hỗ trợ dưới mọi hình thức, cũng như các kinh nghiệm, kỹ thuật trong BVMT nước. 6.2.2. Các giải pháp cụ thể Giải pháp đối với các LVS miền Bắc Tập trung thực hiện các biện pháp xử lý nước thải công nghiệp và làng nghề tại các LVS trọng điểm. Cụ thể như vấn đề nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản tại Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Nội; nước thải làng nghề tại Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam... Đặc biệt, cần sớm đẩy mạnh việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 106 BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Kiểm soát chặt chẽ các khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng và sớm có biện pháp khắc phục ô nhiễm, đặc biệt là các khu vực như: hạ lưu sông Cà Lồ, sông Ngũ Huyện Khê (LVS Cầu), sông Tô Lịch và các sông hồ nội thành Hà Nội, sông Nhuệ từ Hà Đông (Hà Nội) đến Phủ Lý (Hà Nam) (LVS Nhuệ - Đáy). Tăng cường các hoạt động quan trắc, giám sát nhằm kiểm soát vấn đề ô nhiễm nước xuyên biên giới đối với LVS Hồng (trọng điểm tại khu vực địa bàn tỉnh Lào Cai). Xây dựng cơ chế các bên cùng tham gia trong kiểm soát, phòng ngừa ô nhiễm nước xuyên biên giới; cơ chế chia sẻ lợi ích, sử dụng nguồn nước... giữa Việt Nam và Trung Quốc. Song song với đó, tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm đối với việc thực hiện 02 đề án BVMT LVS Cầu và LVS Nhuệ - Đáy nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ủy ban BVMT LVS. Hạn chế cấp phép đầu tư các loại hình công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như: khai thác khoáng sản, sản xuất bột giấy, hóa chất, nhuộm, thuộc da... Ngăn chặn triệt để nạn phá rừng, tăng cường trồng rừng và phải đạt chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng phòng hộ. Đồng thời, phối hợp thực hiện việc điều tiết nước sông trong mùa khô và mùa lũ, đảm bảo đủ nguồn nước sạch cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, tiêu thoát lũ và tăng khả năng tự làm sạch của các sông. Giải pháp đối với các LVS vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Sớm có xây dựng các quy hoạch khai thác và sử dụng nước cho các LVS khu vực miền Trung nhằm đảm bảo nhu cầu khai thác và sử dụng nguồn nước cho vùng thượng lưu và hạ lưu, đồng thời kiểm soát và phòng chống các nguy cơ ô nhiễm môi trường nước, khô hạn, thiếu nước trên diện rộng vào mùa khô và vấn đề lũ lụt vào mùa mưa tại khu vực hạ lưu các sông. Cần tính toán xây dựng quy trình vận hành các hồ chứa, lưu lượng xả nước phù hợp, phân phối và điều hòa nguồn nước trong mùa khô kiệt... cho sông Ba, để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cho người dân và và vấn đề phát triển kinh tế vùng hạ lưu sông Ba. Đồng thời khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường do cạn kiệt nguồn nước khu vực hạ lưu sông. Có các giải pháp phù hợp để khắc phục vấn đề ô nhiễm công nghiệp và sinh hoạt trên LVS Vu Gia - Thu Bồn... Thành lập các Ủy ban BVMT LVS Vu Gia - Thu Bồn, LVS Ba... để thực hiện chức năng phối hợp giải quyết và giám sát liên ngành, liên tỉnh đối với các hoạt động quy hoạch, khai thác, sử dụng, bảo vệ, điều hòa, phân phối nguồn nước và phòng, chống, khắc phục hậu quả của các hoạt động gây ô nhiễm môi trường nước hiện nay. Giải pháp đối với các LVS vùng Tây Nguyên Xem xét một cách nghiêm túc và đầy đủ các dự án về thủy điện, khai thác khoáng sản... đã và đang được triển khai trên các LVS khu vực miền Trung và Tây Nguyên để có những chính sách và giải pháp phù hợp vừa đảm bảo phát triển kinh tế địa phương và đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Thực hiện các giải pháp khắc phục, điều tiết nước như việc thiết kế cống điều tiết tại tuyến đập thủy điện Đăk Mi 4 (Quảng Nam) trở lại sông Đăk Mi để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng nước hạ lưu sông Vu Gia. Có các giải pháp phù hợp để khắc phục vấn đề ô nhiễm công nghiệp và sinh hoạt trên LVS Sêsan - Srêpốk, Vu Gia - Thu Bồn... Thành lập Ủy ban LVS xuyên biên giới phối hợp với Campuchia và Lào cho LVS Sesan Srepok. Giải pháp đối với các LVS vùng Đông Nam Bộ Tập trung xử lý nước thải sinh hoạt tại Tp. Hồ Chí Minh và các thành phố đô thị lớn trong vùng; vấn đề nước thải công nghiệp tại các tỉnh trong khu kinh tế trọng điểm phía Nam như Bình Dương, Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu. NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 107BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Kiểm soát chặt chẽ và có biện pháp xử lý kịp thời các khu vực bị ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như: khu vực cầu La Ngà (sông Đồng Nai), từ cầu Phú Cường đến khu vực Tân Thuận (sông Sài Gòn), sông Thị Vải, các sông, kênh rạch trong nội thành Tp. Hồ Chí Minh... Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện Đề án BVMT cũng như hoạt động của Ủy ban BVMT của lưu vực hệ thống sông Đồng Nai để có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu trong giai đoạn tiếp theo. Giải pháp cho các LVS vùng Đồng bằng sông Cửu Long Tăng cường giám sát các hoạt động phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên LVS Tiền Giang và Hậu Giang nhằm kiểm soát chặt chẽ vấn đề ô nhiễm hóa chất trong môi trường nước LVS do dư lượng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật. Có những giải pháp phù hợp để quản lý hoạt động khai thác nước dưới đất sử dụng cho sinh hoạt và tưới tiêu (đặc biệt đối với hơn 300 nghìn giếng khoan hiện có) để phòng ngừa ô nhiễm môi trường nước (ô nhiễm arsenic) cũng như nguy cơ gây sụt lún các khu vực lân cận. Sớm có những nghiên cứu đầy đủ và cụ thể đối với vấn đề khai thác nuôi trồng thủ sản trên sông gây cản trở dòng chảy sông, hạn chế khả năng tự làm sạch, tích tụ ô nhiễm môi trường tại các khu vực có hoạt động nuôi trồng thủy sản. Có kế hoạch điều chỉnh kịp thời việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu, thiết kế và vận hành hệ thống đê điều không hợp lý để giải quyết vấn đề xâm nhập mặn, ngập mặn do hạn hán kéo dài đối với vùng hạ lưu các LVS trong khu vực. Tiếp tục tăng cường và chủ động tham gia có hiệu quả vào thực hiện các chương trình hợp tác Mê Công, góp phần thiết thực thực hiện quản lý và BVMT nước trên toàn lưu vực. Trước mắt, tập trung cùng các nước trong khu vực xây dựng Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp nguồn nước và trình các cấp có thẩm quyền từ các quốc gia và Ủy hội sông Mê Công phê chuẩn. Tăng cường các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myama, Việt Nam...) trong khai thác, sử dụng nguồn nước; ngăn ngừa, giải quyết các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường nước đối với hệ thống sông Mê Công. Giải pháp cho các hồ Đối với hệ thống hồ tự nhiên, hồ thủy lợi, thủy điện, mặc dù chất lượng nước còn tương đối tốt nhưng vẫn cần được giảm sát thường xuyên để theo dõi thường xuyên diễn biến chất lượng nước. Đồng thời cần kiểm soát chặt chẽ các nguồn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước hồ. Đối với hệ thống hồ nội thành, cần tiếp tục triển khai các biện pháp khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm hồ như: thu gom toàn bộ nước thải sinh hoạt, dịch vụ, công nghiệp bằng cách xây dựng hệ thống cống xung quanh hồ để thu gom nước thải; cải tạo, đảm bảo vệ sinh lòng hồ; bổ sung nước trong mùa khô; tăng cường quá trình tự làm sạch trong hồ...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchuong_6_1_0414_2140724.pdf
Tài liệu liên quan