Tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 5: Quản lí môi trường nước mặt: 79BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
CHƯƠNG 5
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
81BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
5.1. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
5.1.1. Ban hành các định hướng chiến lược và
tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý
môi trường nước mặt
Trong nhiều năm qua, công tác quản lý và
BVMT nước mặt luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Nhiều chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật đã được ban hành như Luật BVMT
2005, Luật Tài nguyên nước năm 1998 (sửa đổi
năm 2012), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc
gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 20201,
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020 tầm nhìn đến năm 20302. Đặc biệt, năm
2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến
lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 202032.
Luật Bảo vệ môi trường đã đưa ra các điều
khoản quy định việc quản lý chất lượng nước và
bảo vệ môi trường nước sông bao gồm các vấn đề
về nguyên tắc bảo vệ môi tr...
19 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 5: Quản lí môi trường nước mặt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
CHƯƠNG 5
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
81BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
5.1. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
5.1.1. Ban hành các định hướng chiến lược và
tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý
môi trường nước mặt
Trong nhiều năm qua, công tác quản lý và
BVMT nước mặt luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Nhiều chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật đã được ban hành như Luật BVMT
2005, Luật Tài nguyên nước năm 1998 (sửa đổi
năm 2012), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc
gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 20201,
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020 tầm nhìn đến năm 20302. Đặc biệt, năm
2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến
lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 202032.
Luật Bảo vệ môi trường đã đưa ra các điều
khoản quy định việc quản lý chất lượng nước và
bảo vệ môi trường nước sông bao gồm các vấn đề
về nguyên tắc bảo vệ môi trường nước sông; quy
định về kiểm soát, xử lý ô nhiễm, suy thoái môi
trường nước LVS; trách nhiệm của UBND cấp
tỉnh đối với BVMT LVS và quy định về tổ chức
BVMT nước của LVS.
Luật Tài nguyên nước từ năm 1998 đã có
những quy định chi tiết về bảo vệ tài nguyên
nước. Luật Tài nguyên nước năm 2012 được sửa
đổi bổ sung, thống nhất với quan điểm của Luật
BVMT 2005. Luật đã cụ thể hóa các quy định
1. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ
môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020.
2. Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về
tài nguyên nước đến năm 2020.
về quản lý LVS; về tổ chức và điều phối hoạt
động quản lý tài nguyên nước trong LVS; phòng,
chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt và ứng phó,
khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước lưu vực
sông; trách nhiệm, thẩm quyền quản lý nhà
nước về LVS.
Nghị định số 120/2008/NĐ-CP43 đã quy định
cụ thể về các biện pháp BVMT nước; phòng,
chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây
ra trên LVS; kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm và
bảo vệ chất lượng nước trên lưu vực; kế hoạch
phòng, chống ô nhiễm môi trường nước và phục
hồi các nguồn nước bị ô nhiễm trên LVS.
Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến
năm 2020 đặt mục tiêu tổng quát là bảo vệ, khai
thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên
nước quốc gia trên cơ sở quản lý tổng hợp, thống
nhất tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước
cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; chủ động phòng, chống, hạn chế đến
mức thấp nhất tác hại do nước gây ra; từng bước
hình thành ngành kinh tế nước nhiều thành phần
phù hợp với nền kinh tế thị trường; nâng cao hiệu
quả hợp tác, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các
nước có chung nguồn nước với Việt Nam.
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 203044 đưa ra các mục
tiêu và nội dung nhằm giải quyết cơ bản các vấn
đề môi trường tại các LVS; nội dung và biện pháp
hướng tới mục tiêu nâng tỷ lệ đô thị, khu, cụm công
nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải
tập trung đạt yêu cầu; cải tạo, phục hồi môi trường
các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái, đẩy mạnh
cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường...
4. Nghị định số 120/2008/NĐ-CP ngày 01/12/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về quản lý lưu vực sông.
CHƯƠNG 5
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
82 83BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô
nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012 -
2015555 đã đặt mục tiêu khắc phục ô nhiễm và cải
thiện môi trường đối với 47 làng nghề đang bị ô
nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng; triển
khai thực hiện các dự án thu gom, xử lý nước thải
từ các đô thị loại II trở lên, xả trực tiếp ra 3 LVS
Nhuệ - Đáy, Cầu và hệ thống sông Đồng Nai
với tổng vốn đầu tư của Chương trình là 5.863
tỷ đồng.
Ngoài các chính sách, chiến lược nêu trên,
Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản khác
có liên quan, như Nghị định số 179/1999/NĐ-
CP66 về thi hành Luật TNN; Nghị định số 67/2003/
NĐ-CP77 về phí BVMT đối với nước thải; Nghị
định số 149/2004/NĐ-CP8 8 về cấp phép, thăm
dò, khai thác sử dụng tài nguyên nước, xả thải
vào nguồn nước.
Bộ TN&MT cũng đã ban hành các Thông tư
hướng dẫn, quy định đánh giá khả năng tiếp nhận
nước thải, định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra,
đánh giá hiện trạng khai thác sử dụng nước, xả
nước thải và khả năng tiếp nhận nước thải của
nguồn nước...; ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn
phục vụ công tác quản lý, bảo vệ môi trường nước.
Song song với việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sông, hồ;
quy chuẩn nước thải sinh hoạt, nước thải đối với
các ngành công nghiệp... đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc đẩy mạnh công tác BVMT nước. Đặc
biệt, việc ban hành các quy chuẩn cụ thể đối
với nước thải của từng loại hình sản xuất cũng sẽ
5. Quyết định số 1206/QĐ-TTg ngày 02/9/2012 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn
2012 - 2015.
6. Nghị định số 179/1999/NĐ-CP ngày 30/12/1999 của
Thủ tướng Chính phủ quy định việc thi hành Luật TNN.
7. Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Thủ
tướng Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
8. Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/4/2004 quy
định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
Khung 5.1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến môi trường nước
Tính đến cuối năm 2012, đã có hơn 130 văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan đến BVMT
nước được ban hành, trong đó có 92 văn bản còn
hiệu lực. Trong lĩnh vực TNN, đã có 32 văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành, tạo hành lang
pháp lý quan trọng nhằm thực hiện Luật TNN có
hiệu quả, bao gồm 07 Nghị định của Chính phủ,
08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 15 Quyết
định, Thông tư của Bộ trưởng; 02 Thông tư liên tịch.
Ở địa phương, đã có 55/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ban hành được trên 100 văn bản
quy phạm pháp luật quy định cụ thể về cấp phép
thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn nước, xả nước
thải vào nguồn tiếp nhận và quy định về quản lý và
BVMT nước trên địa bàn.
Bộ TN&MT, 2012
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
82 83BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
giúp cho việc đánh giá, so sánh được sát hơn với
tình hình thực tế.
Trên cơ sở các Chiến lược, Kế hoạch quốc
gia về BVMT nước, các địa phương cũng đã
triển khai xây dựng và đưa vào thực hiện các
kế hoạch, quy hoạch, văn bản cũng như các
chỉ thị ở cấp địa phương nhằm tăng cường công
tác BVMT nước của địa phương. Điển hình như
Đồng Nai, Bình Phước đã ban hành quy định
phân vùng môi trường tiếp nhận nước thải và khí
thải trên địa bàn tỉnh; Đồng Nai đã phê duyệt
và triển khai Quy hoạch TNN sông Đồng Nai
5.1.2. Tồn tại, hạn chế
Các quy định chưa đầy đủ và còn chồng chéo
trong hệ thống văn bản
Về BVMT nước và quản lý tài nguyên nước,
theo chức năng nhiệm vụ được phân công, Bộ
TN&MT đã xây dựng và trình Quốc hội ban
hành Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Luật Tài
nguyên nước 2012. Hai bộ Luật này đã góp phần
tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước
cũng như đẩy mạnh công tác BVMT nói chung,
môi trường nước nói riêng. Tuy nhiên, giữa hai
hệ thống Luật này vẫn còn tồn tại một số quy
định chồng chéo.
Hệ thống các văn bản dưới Luật cũng chưa
đầy đủ và hoàn thiện. Mặc dù Luật BVMT đã
quy định khá đầy đủ cách tiếp cận kiểm soát
ô nhiễm và hệ thống liên quan đến kiểm soát
ô nhiễm nước, tuy nhiên, các văn bản dưới
Luật phần lớn lại chỉ tập trung cách tiếp cận
bằng ĐTM, thanh tra môi trường, xử phạt hành
chính và một phần cách tiếp cận bằng công
cụ kinh tế (thu phí nước thải). Trong khi đó,
một biện pháp kiểm soát ô nhiễm quan trọng
đó là việc điều tra, thống kê, đánh giá nguồn
thải lại chưa có văn bản nào quy định, hướng
dẫn cụ thể. Mặt khác, cho đến nay, việc xây
dựng quy hoạch BVMT cho các LVS vẫn chưa
được ban hành.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến BVMT nước còn thiếu các quy định về
Khung 5.2. Công tác xây dựng, ban hành và triển
khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến môi trường nước tại một số địa phương
Tp. Hà Nội: năm 2010, UBND thành phố đã
ban hành Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND quy
định về việc cấp phép khai thác tài nguyên nước,
xả nước thải vào lưu vực nguồn nước trên địa bàn
thành phố. Hiện nay, Hà Nội cũng đang hoàn thiện
cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia xử lý nước thải và dịch vụ môi
trường, Quy định về BVMT trên địa bàn thành phố.
Bình Phước: năm 2011, UBND tỉnh đã ban
hành Quyết định số 1469/QĐ-UBND về phân vùng
môi trường tiếp nhận nước thải và khí thải trên địa
bàn tỉnh đến năm 2020. Trong đó, phân vùng môi
trường các nguồn nước mặt để tiếp nhận các nguồn
nước thải công nghiệp được quy định theo QCVN
24:2009.
Đồng Nai: từ năm 2007, UBND tỉnh Đồng Nai
đã ban hành quy định về môi trường tiếp nhận nước
thải và khí thải trên địa bàn tỉnh, cơ sở của việc phân
vùng dự trên tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5945:2005.
Đến năm 2010, Quyết định trên được thay thế bằng
Quyết định số 16/2010/QĐ-UBND ngày 19/3/2010,
sử dụng QCVN làm căn cứ phân vùng môi trường
nước theo mục đích sử dụng khác nhau. Ngoài ra,
năm 2010, UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết
định số 07/2010/QĐ-UBND về quản lý TNN trên
địa bàn tỉnh.
Cần Thơ: năm 2009, UBND thành phố đã phê
duyệt đề cương Quy hoạch TNN mặt tp. Cần Thơ,
năm 2010 đã được phê duyệt dự toán chi phí và
ghi vốn thực hiện Quy hoạch. Đến nay, Quy hoạch
TNN mặt Tp. Cần Thơ đang trong giai đoạn chỉ
định thầu để thực hiện quy hoạch.
Nguồn: Sở TN&MT Hà Nội, Bình Phước, Đồng Nai, Cần Thơ,
2012.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
84 85BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
sự tham gia của cộng đồng, cung cấp và phổ biến
thông tin trong quản lý và BVMT nước...
Sự chồng chéo trong các quy định giữa các
văn bản cũng làm cho việc triển khai áp dụng
gặp nhiều khó khăn.
Tính thực thi của một số văn bản còn thấp
Hiện nay, việc áp dụng triển khai một số văn
bản pháp luật trong thực tế còn nhiều bất hợp lý
dẫn tới hiệu quả thấp. Một số văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý và BVMT nước chưa thực sự
sát với tình hình thực tế, gây khó khăn khi triển
khai thực hiện.
Ở các địa phương, công tác triển khai thi
hành pháp luật về quản lý và BVMT nước còn
chậm, có nhiều quy định cụ thể chưa được triển
khai. Điển hình như những quy định về cấp
phép, xử phạt vi phạm hành chính đối với môi
trường nước... đã được ban hành, hướng dẫn cụ
thể từ nhiều năm trước đây, nhưng, do tổ chức
bộ máy chưa hợp lý, nguồn lực hạn chế nên có
một số địa phương gần đây mới bắt đầu triển
khai thực hiện.
5.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ PHÂN
CÔNG TRÁCH NHIỆM QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG NƯỚC
5.2.1. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về
môi trường nước đã được xây dựng và ngày
càng hoàn thiện
Trong những năm qua, Nhà nước đã từng bước
xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý
BVMT nước trên toàn quốc, từ cấp trung ương,
liên vùng và địa phương.
Cấp Trung ương
Ở cấp Trung ương, Bộ TN&MT được giao
trách nhiệm quản lý thống nhất về tài nguyên
nước, môi trường nước, một số Bộ, ngành khác
được giao trách nhiệm quản lý, khai thác và sử
dụng nước theo mục tiêu phát triển của ngành.
Tham mưu cho Bộ TN&MT thực hiện các chức
năng quản lý nhà nước nói trên là Tổng cục Môi
trường và Cục Quản lý Tài nguyên nước. Hai
đơn vị này được phân công chịu trách nhiệm
xây dựng và trình ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh
vực tài nguyên nước, BVMT nước; chiến lược,
quy hoạch phát triển, kế hoạch trong lĩnh vực
tài nguyên nước, BVMT nước; quy định về giám
sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước;
xác định, công bố ngưỡng giới hạn khai thác
nước đối với các sông; xây dựng, tổ chức thực
hiện các chương trình, dự án, đề án BVMT khắc
phục, cải tạo cảnh quan môi trường LVS liên
tỉnh bị ô nhiễm; đầu mối quốc gia về BVMT các
LVS liên quốc gia...
Cấp liên vùng và địa phương
Thực hiện Nghị định số 120/2008/NĐ-CP của
Chính phủ và trước thực tế về tình trạng ô nhiễm
Khung 5.3. Trách nhiệm liên quan đến
quản lý môi trường nước của một số Bộ, ngành
Bộ TN&MT: quản lý tài nguyên nước, chất lượng
nước; xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển,
kế hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước và BVMT
nước; giám sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên
nước; quản lý các LVS liên quốc gia.
Bộ NN&PTNT: tưới tiêu, phòng chống lụt bão,
cấp nước sinh hoạt nông thôn, quản lý các công trình
thủy lợi và đê điều; quản lý nước dùng cho nuôi trồng
và chế biến thủy sản.
Bộ Công thương: quy hoạch, xây dựng các dự án
thủy điện, quản lý việc vận hành khai thác các công
trình thủy điện.
Bộ Xây dựng: quản lý các công trình công cộng
đô thị; thiết kế và xây dựng các công trình cấp thoát
nước đô thị.
Bộ GTVT: quản lý và phát triển giao thông đường
thủy; quản lý công trình thủy và hệ thống cảng.
Bộ Y tế: quản lý chất lượng nước uống; chịu trách
nhiệm thiết lập và giám sát các tiêu chuẩn chất
lượng nước uống.
Bộ Tài chính: xây dựng các chính sách về thuế và
phí đối với môi trường nước.
Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, 2012.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
84 85BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
môi trường xảy ra ở một số LVS lớn, với yêu cầu
của các địa phương về việc triển khai những giải
pháp cấp bách để phục hồi môi trường và hệ sinh
thái LVS, Bộ TN&MT đã phối hợp với các tỉnh,
thành phố trên LVS Cầu, Nhuệ - Đáy và Đồng
Nai xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ thành
lập 03 Ủy ban BVMT LVS, gồm LVS Cầu, Nhuệ
- Đáy và hệ thống sông Đồng Nai. Bộ TN&MT
được giao chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trên các LVS triển khai các Đề án BVMT LVS. Để
giúp việc cho các Ủy ban, Bộ TN&MT cũng đã
thành lập Văn phòng Ủy ban BVMT LVS đặt tại
Tổng cục Môi trường.
Ủy ban BVMT các LVS hàng năm đều tổ chức
các đoàn công tác làm việc với các địa phương
thuộc 3 LVS, đánh giá tình hình triển khai các
nhiệm vụ, tiến độ xây dựng, phê duyệt và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ, dự án ưu tiên.
Các Ủy ban BVMT LVS cũng đã đề xuất một
số kiến nghị nhằm tạo điều kiện triển khai các
Đề án BVMT LVS như: kiến nghị ban hành các
cơ chế tài chính đặc thù cho công tác BVMT LVS;
xây dựng quy định về các ngành nghề cấm hoặc
hạn chế đầu tư trên LVS;...
Ở cấp địa phương, các Sở TN&MT cũng từng
bước kiện toàn bộ máy quản lý. Theo đó, trực
thuộc Sở TN&MT có 03 đơn vị có chức năng
nhiệm vụ liên quan đến BVMT nước và quản
lý tài nguyên nước, bao gồm: Chi cục BVMT
là đơn vị giúp Sở thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về môi trường; Phòng Tài nguyên nước
(hoặc Phòng Tài nguyên nước và Khoáng sản)
giúp Sở thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
về tài nguyên nước và Trung tâm Quan trắc
môi trường (trực thuộc Sở TN&MT hoặc Chi cục
BVMT) là đơn vị thực hiện công tác quan trắc,
giám sát chất lượng môi trường của địa phương,
trong đó có môi trường nước.
5.2.2. Tồn tại, hạn chế
Chưa thống nhất trong phân công trách
nhiệm quản lý Nhà nước về LVS
Trong một thời gian khá dài, việc phân công
quản lý nhà nước về BVMT nước mặt nói chung,
môi trường nước LVS nói riêng, giữa một số Bộ,
ngành đã không rõ ràng, thậm chí còn chồng
chéo. Sự chồng chéo này đã gây ra rất nhiều khó
khăn, tốn kém công sức và kinh phí của Nhà
nước khi thực hiện công tác quản lý. Đặc biệt
đối với công tác cấp phép, thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm... ở cấp Trung ương và địa phương.
Ở cấp Trung ương, vẫn còn sự giao thoa, chồng
chéo giữa Bộ TN&MT với Bộ NN&PTNT và một
số Bộ, ngành khác. Đó là sự thiếu thống nhất trong
chức năng quản lý Nhà nước đối với các LVS,
trong đó bao gồm việc lập quy hoạch và quản lý
môi trường nước LVS. Bộ TN&MT quản lý thống
nhất về môi trường nước, nhưng các Bộ chuyên
ngành đang quản lý, khai thác, sử dụng nguồn
nước cho các mục đích khác nhau, với lực lượng
ngành dọc, như thủy nông, khai thác công trình
thủy lợi, thủy điện, giao thông thủy nội địa. Giữa
các đơn vị quản lý cũng còn thiếu sự phân định
rõ ràng về trách nhiệm cụ thể và cơ chế phối hợp.
Khung 5.4. Phân công trách nhiệm của các ngành
trong quản lý hồ chứa
Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ TN&MT) được
giao nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước nói chung.
Tuy nhiên, các ngành khác cũng được giao trách
nhiệm quản lý và khai thác hồ theo mục tiêu phát
triển của ngành. Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT)
được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác nước vào
mục đích tưới tiêu và quản lý việc nuôi trồng thủy
sản trong lòng hồ. Bộ Công thương quản lý, khai
thác các công trình thủy điện. Bộ xây dựng quản lý
hoạt động cấp nước sinh hoạt...
Nguồn: Báo cáo Đánh giá hiện trạng quản lý nhà nước về
BVMT nước LVS và đề xuất giải pháp hoàn thiện,
Cục Quản lý TNN, 3/2012.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
86 87BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Ở cấp LVS, trong các mô hình quản lý LVS
hiện nay có 2 tổ chức tham gia điều phối gồm:
Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và Ủy ban
quản lý quy hoạch LVS. Riêng đối với 3 LVS Cầu,
Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai còn thêm
Ủy ban BVMT LVS. Các tổ chức này đều được
thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ. Ngoài ra, với quốc tế, Việt Nam còn có một
số tổ chức như: Ủy ban sông Mê Công Việt Nam
là đơn vị đầu mối thực hiện các hoạt động hợp
tác với Ủy hội sông Mê Công quốc tế; Ủy ban liên
Chính phủ Việt Nam - Hà Lan về thích ứng với
biến đổi khí hậu và quản lý nước.
Ở cấp địa phương, về cơ bản, phân cấp quản
lý môi trường nước mới tới cấp tỉnh. Hầu hết
các tỉnh chưa có quy định cụ thể để phân cấp
các nhiệm vụ quản lý môi trường nước đến cấp
huyện. Vì vậy, chưa huy động được hệ thống quản
lý các cấp để thực hiện quản lý môi trường nước,
đặc biệt là công tác bảo vệ môi trường nước tại
địa bàn địa phương, cơ sở.
Các Ủy ban BVMT LVS và Văn phòng LVS
chưa phát huy được vai trò
Từ năm 2006, trong Báo cáo môi trường quốc
gia đã có đề xuất về việc thành lập các Ủy ban
BVMT LVS. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, các Ủy
ban BVMT LVS Cầu, Nhuệ - Đáy và hệ thống
sông Đồng Nai đã lần lượt được thành lập và đi
vào hoạt động từ năm 2006. Tuy nhiên, năng lực
quản lý cũng như quyền hạn của các Ủy ban này
còn nhiều hạn chế. Các quyết định, kết luận của
Ủy ban mang tính đồng thuận, chưa có tính ràng
buộc về pháp lý, chưa giải quyết được các vấn đề
môi trường cụ thể, đặc biệt là các vấn đề bức xúc
về môi trường mang tính liên vùng; các thành
viên Ủy ban BVMT LVS là lãnh đạo các Bộ, lãnh
đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tham
gia không đầy đủ các hoạt động do hoạt động
kiêm nhiệm.
Quy chế làm việc của Ủy ban cũng như Văn
phòng LVS chưa chặt chẽ. Hiện nay, phần lớn
Ban chỉ đạo và các thành viên làm công tác kiêm
nhiệm nên không có nhiều thời gian tập trung
cho trách nhiệm được phân công. Thêm vào đó,
việc thiếu cơ sở vật chất (chưa có trụ sở riêng
cho Văn phòng Ủy ban BVMT LVS), thiếu cán bộ
cũng là nguyên nhân hạn chế việc phát huy năng
lực và hiệu quả thực hiện của các đơn vị này.
Cơ chế phối hợp liên tỉnh (trong cùng LVS)
chưa khả thi. Nguyên nhân chính từ quy định
luân phiên các Chủ tịch UBND tỉnh thuộc LVS
giữ trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS theo
nhiệm kỳ, dẫn đến thiếu những chỉ đạo có tầm
ảnh hưởng lớn, tạo sự đồng thuận giữa các địa
phương đối với các vấn đề liên vùng.
5.3. THỰC HIỆN QUY HOẠCH CÁC LƯU
VỰC SÔNG
5.3.1. Bước đầu xây dựng quy hoạch bảo vệ
môi trường nước LVS và quy hoạch khai thác, sử
dụng, bảo vệ môi trường nước của địa phương
Theo Nghị định số 120/2008/NĐ-CP, trong đó
quy định cụ thể việc lập, thẩm định, phê duyệt,
công bố và tổ chức thực hiện quy hoạch tài
nguyên nước trên các lưu vực sông và phân công,
phân cấp cụ thể việc quản lý LVS và thực hiện
quy hoạch. Đến nay, Bộ TN&MT đã xây dựng
và đang hoàn tất thủ tục trình quy hoạch BVMT
nước cho 3 LVS: Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai...
Ngoài ra, các quy hoạch khai thác, sử dụng, bảo
vệ môi trường nước các vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, miền Trung, phía Nam, vùng cực Nam
Trung Bộ, vùng bán đảo Cà Mau và đảo Phú Quốc
cũng đang được triển khai xây dựng.
Tại một số địa phương như: Bắc Giang, Quảng
Bình, Long An, Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang...
cũng đã xây dựng quy hoạch khai thác, sử dụng
và bảo vệ môi trường nước để triển khai thực hiện
trên địa bàn.
5.3.2. Việc triển khai các quy hoạch về LVS
còn chậm, thiếu các quy hoạch phân vùng;
quy hoạch của các ngành liên quan đến môi
trường nước mặt còn nhiều chồng chéo
Luật BVMT, Luật Tài nguyên nước đã xác
định vai trò của việc xây dựng và thực hiện quy
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
86 87BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
hoạch tài nguyên nước, LVS; quy định mọi hoạt
động bảo vệ, khai thác, sử dụng môi trường nước
và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra phải tuân thủ quy hoạch tài nguyên
nước. Tuy nhiên, công tác quy hoạch còn chậm,
do Luật chỉ quy định về nguyên tắc, thiếu các
quy định cụ thể về nội dung, trình tự thủ tục
lập, thẩm định, thẩm quyền phê duyệt... Nhiều
quy hoạch mặc dù đã được phê duyệt nhưng
quá trình triển khai lại thiếu sự tuân thủ theo
bản được duyệt, dẫn tới tình trạng sau nhiều
năm triển khai, mục tiêu đặt ra của quy hoạch
vẫn không đạt được.
Bên cạnh đó, chưa có cơ chế, biện pháp cụ thể
để bảo đảm quy hoạch khai thác, sử dụng nước
của các ngành, lĩnh vực có liên quan đến sử dụng
nguồn nước phù hợp với các quy hoạch về môi
trường nước LVS, bảo đảm sử dụng hiệu quả và đa
mục tiêu các nguồn nước. Việc thiếu quy hoạch,
cùng với thiếu một tổ chức đủ mạnh để điều phối
các hoạt động trên lưu vực đã phát sinh những vấn
đề liên ngành, liên tỉnh cần giải quyết nhưng chưa
được phối hợp xử lý kịp thời.
Hiện nay, Việt Nam còn thiếu các quy hoạch
phân vùng mục đích sử dụng nước, phân vùng
nguồn nước cho các lưu vực sông, tính toán các
ngưỡng chịu tải, khả năng tiếp nhận nguồn nước
cho các đoạn sông... dẫn đến việc đánh giá chất
lượng của nguồn nước cũng như đưa ra các giải
pháp cụ thể để quản lý và BVMT nước gặp nhiều
khó khăn.
Một vấn đề nổi cộm trong quy hoạch liên
quan đến môi trường nước mặt hiện nay là sự
chồng chéo trong quy hoạch sử dụng nước giữa
các ngành. Chính từ sự phân công trách nhiệm
liên quan đến quản lý môi trường nước mặt giữa
các Bộ ngành còn nhiều chồng chéo đã dẫn đến
việc, theo chức năng nhiệm vụ được phân công,
các Bộ ngành đều xây dựng quy hoạch phát triển
ngành theo yêu cầu đặt ra. Cụ thể, Bộ NN&PTNT
xây dựng quy hoạch thủy lợi; Bộ Công thương
xây dựng quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
(trong đó bao gồm hệ thống thủy điện); Bộ Giao
thông Vận tải xây dựng quy hoạch phát triển hệ
thống giao thông (trong đó bao gồm giao thông
thủy)... Chính sự chồng chéo trong quy hoạch
của các ngành liên quan đến việc sử dụng môi
trường nước mặt cho các mục đích khác nhau
dẫn đến những xung đột trong khai thác sử dụng
nước, làm gia tăng nguy cơ thiếu nước và ô nhiễm
môi trường nước mặt.
5.4. THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG, CẤP PHÉP XẢ NƯỚC
THẢI VÀ ĐIỀU TRA CƠ BẢN, DỰ BÁO
5.4.1. Thực hiện công tác đánh giá tác động
môi trường
Đánh giá tác động môi trường là một trong
những công cụ giúp các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường đánh giá và có những yêu
cầu điều chỉnh kịp thời đối với những dự án có
nguy cơ, rủi ro cao đối với môi trường. Trong các
báo cáo ĐTM, luôn quy định về việc các doanh
nghiệp phải xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn trước
khi thải ra môi trường.
Theo thống kê, giai đoạn 2005 - 2010, đã
có khoảng 7.000 dự án đầu tư đã thực hiện lập
báo cáo ĐTM, trong đó Bộ TN&MT thẩm định,
phê duyệt đối với khoảng 500 báo cáo; các bộ
ngành và địa phương thẩm định, phê duyệt đối
với khoảng 6.500 báo cáo, chưa kể rất nhiều dự
án, hoạt động đầu tư đã thực hiện đăng ký cam
kết BVMT.
Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn
bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất lượng
cũng như việc tuân thủ quy định pháp luật.
Đối với việc thẩm định và phê duyệt báo cáo
ĐTM, mặc dù năng lực thẩm định đã được nâng
cao đáng kể do được đào tạo, tập huấn và tích
lũy kinh nghiệm từ thực tiễn công việc, nhưng ở
nhiều địa phương, đội ngũ cán bộ thẩm định vẫn
còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đa
dạng về kiến thức khoa học môi trường có liên
quan đến nhiều ngành khác nhau.
Công tác giám sát và thực hiện các quy định
kiểm tra, xác nhận sau thẩm định báo cáo ĐTM
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
88 89BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
cũng còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá sơ bộ,
công tác giám sát, kiểm tra sau thẩm định ở cấp
trung ương mới chỉ thực hiện được khoảng 4%
tổng số dự án đã được thẩm định lập báo cáo
ĐTM. Hiện nay, phần lớn các cơ quan quản lý
môi trường không có đủ nhân lực, trang thiết bị
và thời gian để giám sát môi trường trong quá
trình xây dựng và hoạt động của dự án, cũng
chưa có đủ quyền để cưỡng chế việc thực thi các
yêu cầu được ghi trong quyết định phê duyệt báo
cáo ĐTM.
5.4.2. Công tác cấp phép khai thác, sử dụng
tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước
Công tác cấp phép thăm dò, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn
nước được thực hiện theo quy định tại Nghị định
số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 của Chính
phủ và Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày
24/6/2005 của Bộ TN&MT.
Tính đến tháng 4/2011, Bộ TN&MT đã cấp
366 giấy phép, trong đó có 80 giấy phép thăm dò
nước dưới đất; 88 giấy phép khai thác nước dưới
đất; 88 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt; 15
giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; 95 giấy
phép hành nghề khoan nước dưới đất. Tuy nhiên,
đến cuối năm 2012, Bộ TN&MT đã tạm dừng việc
tiếp nhận hồ sơ, cấp phép tài nguyên nước để chờ
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Tài nguyên
nước mới có những điểu chỉnh phù hợp.
Theo thống kê sơ bộ từ 55 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, đến nay các tỉnh đã cấp
được 5.484 giấy phép về khai thác, sử dụng và
xả nước thải vào nguồn nước. Trong đó có 1.452
giấy phép thăm dò nước dưới đất; 2.814 giấy
phép khai thác nước dưới đất; 280 giấy phép
khai thác, sử dụng nước mặt; 444 giấy phép xả
nước thải vào nguồn nước và 258 giấy phép hành
nghề khoan nước dưới đất.
Các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Tây Nguyên
và Nam Bộ là những khu vực có số lượng giấy
phép được cấp lớn nhất, chiếm gần 93% số giấy
phép do các tỉnh cấp, trong đó các tỉnh phía
Nam cấp phép nhiều nhất trong cả nước (chiếm
71% tổng số giấy phép). Trong khi nhiều tỉnh,
thành phố đã cấp tới hàng trăm giấy phép các
loại (Tp. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang,
Đồng Tháp, Cà Mau, Lâm Đồng) thì có một số
tỉnh việc triển khai cấp phép còn hạn chế (Sơn
La, Tuyên Quang, Quảng Ngãi, Ninh Thuận).
Đến nay, các tỉnh, thành phố như Nam Định,
Hà Nội, Long An, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang,
Tiền Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bà Rịa -
Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh... đã uỷ quyền cấp
phép cho Sở TN&MT.
Biểu đồ 5.1. Tình hình cấp giấy phép khai thác sử dụng
nước mặt và xả nước thải vào nguồn nước của Bộ TN&MT
giai đoạn 2007 - 2011
Nguồn: Bộ TN&MT, 2011
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
88 89BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Công tác cấp phép khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước còn
nhiều bất cập
Hiện nay, công tác lập quy hoạch, kế hoạch
phát triển thủy lợi, thủy điện và thiết kế xây dựng
các công trình hồ đập, quy trình vận hành hồ
đập... đều do đơn vị quản lý theo ngành dọc
(ngành thủy điện, thủy lợi...) tổ chức thẩm định.
Mặc dù, công tác thẩm định các quy hoạch, kế
hoạch nói trên đều có sự tham gia của cơ quan
BVMT hoặc quản lý tài nguyên nước nhưng các
đơn vị này chưa thực sự phát huy hết vai trò của
mình. Mặt khác, một số quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật về cấp phép, thăm dò,
khải thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước chưa phù hợp với tình hình thực
tế dẫn đến công tác triển khai còn gặp nhiều khó
khăn. Thêm vào đó, giữa các đơn vị tham gia vẫn
chưa có sự phối hợp, trao đổi thông tin thường
xuyên dẫn tới giảm hiệu quả thực hiện của công
tác thẩm định và cấp phép.
Ngoài ra, việc thực hiện các quy định trong
giấy phép chưa được các tổ chức, cá nhân quan
tâm như: chế độ báo cáo về kết quả khai thác, sử
dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước; lắp đặt
thiết bị đo lưu lượng nước khai thác...
5.4.3. Công tác điều tra cơ bản, dự báo, kiểm
kê và đánh giá môi trường nước
Công tác điều tra cơ bản về môi trường nước
đã được triển khai trên tất cả các mặt: điều tra
đánh giá nước mặt, nước dưới đất; tình hình khai
thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn
nước; lập bản đồ LVS. Đến nay, một số LVS lớn
và vùng trọng điểm (lưu vực sông Hồng, sông
Cầu, hệ thống sông Mã, sông Cả, sông Hương,
sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Trà Khúc - sông Vệ,
sông Kôn - Hà Thanh, sông Ba, sông Cái Nha
Trang, sông Đồng Nai - Sài Gòn; các vùng KTTĐ
phía Bắc, vùng cực Nam Trung Bộ, vùng Tây
Nguyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tứ Giác
Long Xuyên, một số các đảo lớn quan trọng như
Phú Quý, Phú Quốc) đã hoặc đang được điều tra,
đánh giá tổng quan về TNN, tình hình khai thác,
sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước và
tình trạng ô nhiễm nguồn nước.
Điều tra cơ bản, dự báo, kiểm kê, đánh giá môi
trường nước và thông tin, dữ liệu về môi trường
là cơ sở của công tác quy hoạch, quản lý các
hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ và phòng,
chống tác hại do nước gây ra. Tuy nhiên, chưa
có quy định cụ thể trong Luật, mới chỉ quy định
các nguyên tắc về trách nhiệm thực hiện điều tra
cơ bản; thiếu các quy định về nguyên tắc, nội
dung, yêu cầu, phân công, phân cấp trách nhiệm
thực hiện...
Ngoài ra, hạ tầng kỹ thuật, công nghệ phục vụ
điều tra cơ bản, cảnh báo lũ, lụt, hạn hán, thiếu
nước còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm chủ động
trong việc kiểm soát lũ hay hạn hán ở nhiều lưu
vực sông. Chưa có ngân hàng dữ liệu tài nguyên
nước quốc gia. Chế độ báo cáo, cung cấp dữ liệu,
thông tin về môi trường nước, về khai thác, sử
dụng nước của các ngành, các địa phương và các
tổ chức, cá nhân chưa được coi trọng.
5.5. ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ
Trong thời gian qua, công tác quản lý môi trường
đã chú trọng nhiều hơn tới việc sử dụng các công
cụ kinh tế, bao gồm các loại thuế, phí môi trường
hay các hình thức xử phạt, đền bù thiệt hại
5.5.1. Triển khai Nghị định số 67/2003/
NĐ-CP về thu phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí BVMT
đối với nước thải được Chính phủ ban hành năm
2003. Trong 10 năm qua, các cơ quan ở Trung
ương và địa phương đã tích cực triển khai quy
định về phí BVMT đối với nước thải và Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 04/2007/NĐ-
CP và Nghị định số 26/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số nội dung của Nghị định 67/2003/
NĐ-CP. Hiện nay tại các địa phương, phí BVMT
được triển khai theo hai đối tượng là nước thải
sinh hoạt và nước thải công nghiệp.
Theo báo cáo của các Sở TN&MT, trong
năm 2009, tổng số phí thu được khoảng 42,5
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
90 91BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
tỷ đồng. Năm 2010, cả nước đã thu được hơn
47,7 tỷ đồng. Tuy nhiên, số phí thu được tập
trung cao nhất tại 5 địa phương: Tp. Hồ Chí
Minh (18,5%), Đồng Nai (10,5%), Bắc Giang
(8,1%) và Sóc Trăng (8,04%). Có thể thấy công
tác thực hiện thu phí BVMT đối với nước thải
đã có những kết quả nhất định, tổng số phí thu
được đã có sự gia tăng theo từng năm, điều đó
thể hiện được ý thức chấp hành quy định của
nhà nước đối với mỗi cá nhân, tổ chức ngày
càng cao. Công tác thu phí BVMT đối với nước
thải cũng góp phần tích cực vào việc giảm ô
nhiễm môi trường do quá trình xả thải từ sinh
hoạt và hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ra.
Tuy nhiên, việc triển khai Nghị định còn gặp
rất nhiều khó khăn, bất cập.
Về đối tượng nộp phí, tất cả các cơ sở công
nghiệp đều phải tính toán phí dựa theo hàm
lượng chất ô nhiễm, lưu lượng nước thải và
môi trường tiếp nhận nước thải. Tại một số địa
phương, việc tính toán phí gặp khó khăn đối với
một số đối tượng như nước thải từ các cơ sở khai
thác khoáng sản. Một số đối tượng xả thải khác
chưa được áp dụng phí như các cơ sở giết mổ gia
súc, gia cầm.
Về các chất ô nhiễm tính phí, hiện tại cả
6 chất ô nhiễm (COD, TSS, Hg, As, Pb và Cd)
đều được áp dụng cho mọi loại nước thải công
nghiệp của các ngành sản xuất dẫn đến vượt
quá khả năng về nguồn lực của các địa phương,
nhất là đối với việc phân tích kim loại nặng.
Mặt khác, mức thu hiện tại áp dụng với các
chất ô nhiễm là rất thấp nên số phí thu được
từ nước thải công nghiệp không nhiều, không
khuyến khích được doanh nghiệp trong việc
đầu tư xử lý nước thải.
Việc quản lý và sử dụng phí BVMT đối với
nước thải cũng đang gặp một số khó khăn vướng
mắc. Từ tháng 6/2010, theo các quy định về phí
BVMT đối với nước thải, Sở TN&MT được giữ lại
20% để sử dụng cho công tác thu phí, phần còn
lại nộp 100% vào ngân sách địa phương để sử
dụng cho việc bảo vệ môi trường, đầu tư mới, nạo
vét cống rãnh, duy tu, bảo dưỡng hệ thống thoát
nước tại địa phương, bổ sung vốn hoạt động cho
Quỹ Bảo vệ môi trường của địa phương, trả nợ
vay đối với các khoản vay của các dự án thoát
nước thuộc nhiệm vụ chi ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều địa phương,
phần 20% phí trích lại không đủ trang trải chi
phí cho các hoạt động thu phí.
Bảng 5.1 Tổng số phí BVMT đối với nước thải
đã chuyển về Quỹ BVMT giai đoạn 2006 - 2010
Năm
Số phí chuyển về
Quỹ BVMT (đồng)
25/01/2006 475.487.372
15/10/2008 25.842.365.973
23/12/2008 14.442.976.728
13/5/2009 21.650.514.461
18/3/2010 114.189.986.039
14/5/2010 (*) 63.634.000.000
Tổng 240.235.330.573
Nguồn: Quỹ BVMT, 2011
(*): Theo Nghị định số 26/2010/NĐ-CP109, bắt đầu từ ngày
01/6/2010, phí BVMT đối với nước thải không còn chuyển về Quỹ
BVMT Việt Nam.
Ngoài một số khó khăn liên quan đến việc áp
dụng phí BVMT đối với nước thải công nghiệp như
đã nêu trên, chính các quy định của phí BVMT
cũng đang gây ra những vướng mắc đối với việc
triển khai tại các địa phương. Một trong những
vướng mắc lớn nhất là sự mâu thuẫn giữa Nghị
định 67/2003/NĐ-CP và Nghị định số 88/2007/
NĐ-CP1110. Việc Nghị định 88/2007/NĐ-CP định
nghĩa phí thoát nước là phí BVMT đối với nước
thải, cơ sở đã nộp phí thoát nước thì không phải
nộp phí BVMT đối với nước thải đã và đang gây
khó khăn cho việc triển khai phí BVMT đối với
nước thải tại các địa phương.
10. Nghị định số 26/2010/NĐ-CP ngày 22/3/2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều
8 Nghị định số 67/2003/NĐ-CP.
11. Nghị định số 88/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về thoát nước đô thị và khu công nghiệp.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
90 91BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Như vậy, mặc dù việc thu phí BVMT đối với
nước thải đều tăng qua các năm (Năm 2010 số
tiền phí thu được so với năm 2009 tăng gần 10%)
nhưng số phí thu được còn thấp và có rất nhiều
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang
phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Nghị định
thay thế Nghị định 67/2003/NĐ-CP.
5.5.2. Triển khai Nghị định 117/2009/NĐ-CP
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT và Nghị định số 34/2005/NĐ-CP về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước
Một hình thức khác của công cụ kinh tế là xử
phạt và đền bù thiệt hại. Trong giai đoạn 2005-
2009, chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT còn quá nhẹ. Cưỡng chế thi hành
là mấu chốt cho việc thực thi pháp luật một cách
nghiêm minh. Hình thức và mức độ xử phạt
theo Nghị định 81/2006/NĐ-CP1211 là chưa thoả
đáng, chưa đủ mức răn đe; dễ khuyến khích tình
trạng chấp nhận bị xử phạt. Khắc phục vấn đề
trên, ngày 31/12/2009 Chính phủ đã ban hành
Nghị định 117/2009/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày
01/3/2010) thay thế cho Nghị định 81/2006/
NĐ-CP, trong đó mức phạt tiền tối đa lên tới 500
triệu đồng, cao gấp 7 lần so với quy định đã được
ban hành trước đây.
Từ năm 2005, Chính phủ cũng đã ban hành
Nghị định số 34/2005/NĐ-CP xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước, theo
đó mức xử phạt cao nhất được áp dụng là 100
triệu đồng. Qua 8 năm triển khai thực hiện,
việc triển khai áp dụng Nghị định này cũng còn
gặp nhiều khó khăn, bất cập. Trong đó, ngay từ
trong các quy định của Nghị định này đã có sự
chồng chéo với một số văn bản khác (Nghị định
179/1999/NĐ-CP, Nghị định 67/2003/NĐ-CP)
cũng gây khó khăn đối với việc xác định đối
tượng áp dụng văn bản tương ứng.
Năm 2012, Luật xử lý vi phạm hành chính
được ban hành đã có nhiều điểm mới mà một
trong những nội dung quan trọng là nâng mức
phạt tiền cao nhất đối với hành vi vi phạm pháp
12. Nghị định 81/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về Xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT.
luật về BVMT của cá nhân lên 1 tỷ đồng và tổ
chức là 2 tỷ đồng. Do vậy, các nghị định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT và lĩnh
vực tài nguyên nước đang được sửa đổi cho phù
hợp với tình hình thực tế hiện nay, dự kiến sẽ ban
hành trong năm 2013.
Ngoài ra, việc triển khai thực hiện hoạt động
ký quỹ môi trường trong khai thác khoáng sản đã
cũng thu được những kết quả đáng ghi nhận. Qua
thống kê, đã có 92 dự án thực hiện ký quỹ môi
trường tại Quỹ Bảo vệ môi trường với tổng số tiền
hơn 32 tỷ đồng. Ở cấp địa phương, đã có 1.367
dự án cải tạo, phục hồi môi trường tại 39 tỉnh,
thành phố tiến hành ký quỹ với tổng số tiền hơn
715 tỷ đồng.
5.6. CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA
VÀ QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG NƯỚC
5.6.1. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật về BVMT đối với môi trường nước
Việc triển khai công tác thanh tra, kiểm tra đã
góp phần thúc đẩy việc thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật, phát hiện và xử lý
các hành vi vi phạm, đồng thời cũng phát hiện
những tồn tại, yếu kém trong quản lý để tập trung
chỉ đạo, khắc phục.
Những năm vừa qua, công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT đối với
môi trường nước ở cấp Trung ương đã được Bộ
TN&MT triển khai thường xuyên.
Trong năm 2011, Thanh tra Tổng cục Môi
trường đã chủ trì phối hợp với các đơn vị liên
quan triển khai 03 đoàn thanh tra trên địa bàn 23
tỉnh, thành phố trên các lưu vực sông Cầu, Nhuệ
- Đáy, hệ thống sông Đồng Nai đối với 269 cơ sở,
khu công nghiệp. Kết quả thanh tra đã lập biên
bản đối với 73/269 cơ sở đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xử phạt với tổng số tiền 10.931.250.000
đồng (lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy: thanh tra
59 cơ sở ngoài khu công nghiệp và 14 khu công
nghiệp trên địa bàn 05 tỉnh, thành phố, lập biên
bản 26 cơ sở vi phạm, đề nghị xử phạt 1.274.000
đồng; lưu vực sông Cầu: thanh tra 79 cơ sở ngoài
khu công nghiệp và khu công nghiệp trên địa bàn
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
92 93BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
06 tỉnh, lập biên bản 36 cơ sở vi phạm, đề nghị
xử phạt 3.358.295.500 đồng; lưu vực hệ thống
sông Đồng Nai: thanh tra việc chấp hành pháp
luật về bảo vệ môi trường đối với 119 cơ sở, khu
công nghiệp).
Ngoài ra, việc thành lập và đi vào hoạt động
của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm
về môi trường đã góp phần điều tra, phát hiện
và xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về BVMT.
Tính đến tháng 11/20111412, lực lượng cảnh sát
môi trường đã điều tra hơn 18.400 vụ, làm rõ
6.973 tổ chức, 12.427 cá nhân vi phạm pháp
luật về BVMT. Hoạt động của lực lượng cảnh sát
môi trường đã thể hiện là một công cụ rất hiệu
quả trong công tác quản lý môi trường và đảm
bảo an ninh trật tự trong lĩnh vực BVMT.
Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg1513, trên
địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc lưu vực sông
Nhuệ - sông Đáy có 39 cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng phải thực hiện xử lý triệt để,
trong đó Hà Nội có 19 cơ sở, Hà Nam có 4 cơ
sở, Hòa Bình có 2 cơ sở, Ninh Bình có 8 cơ sở và
Nam Định có 6 cơ sở. Tính đến cuối năm 2011,
đã có 32/39 cơ sở này được chứng nhận đã hoàn
thành việc xử lý triệt để ô nhiễm môi trường theo
quy định, chiếm 82%. Trên địa bàn các tỉnh,
thành phố thuộc lưu vực sông Cầu có 52 cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng phải thực hiện xử lý triệt để,
trong đó Bắc Kạn có 4 cơ sở, Bắc Giang có 11 cơ
sở, Bắc Ninh có 5 cơ sở, Hải Dương có 11 cơ sở,
Thái Nguyên có 15 cơ sở và Vĩnh Phúc có 6 cơ
sở. Tính đến cuối năm 2011, đã có 33/52 cơ sở
này được chứng nhận đã hoàn thành việc xử lý
triệt để ô nhiễm môi trường theo quy định, chiếm
63,5%. Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có 62
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải
hoàn thành việc xử lý triệt để trong giai đoạn
2003 - 2007. Đến nay, đã có 49 cơ sở cơ bản đã
14. Báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 5 năm công tác phòng
ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi
trường, tháng 11/2011.
15. Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của
Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý triệt để các cơ sở gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
hoàn thành các biện pháp xử lý và không còn ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ 79%
(trong đó có 35 cơ sở đã được cấp chứng nhận
hoàn thành xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 56,4%;
14 cơ sở đang lập hồ sơ đề nghị chứng nhận hoàn
thành, chiếm 22,6%), còn lại 13 cơ sở đang triển
khai xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 21%. Như vậy,
nếu xét đến kiến nghị, đề xuất trong Báo cáo môi
trường quốc gia 2006 về môi trường nước 3 lưu
vực sông thì vấn đề này vẫn chưa được giải quyết
triệt để.
Có thể thấy rằng, mặc dù trong thời gian gần
đây, công tác thanh tra, kiểm tra đã được tăng
cường một bước so với trước đây nhưng do lực
lượng thanh tra, kiểm tra còn mỏng, nguồn nhân
lực làm công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu...
nên hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng
yêu cầu của thực tế. Công tác thanh tra, kiểm tra
mới dừng ở việc phát hiện vi phạm, còn chưa
quyết liệt trong xử lý vi phạm. Thêm vào đó ý
thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp chưa
Khung 5.5. Công tác thanh tra của Bộ TN&MT
tại các KCN, tại một số LVS trọng điểm năm 2010
Năm 2010. Bộ TN&MT đã tiến hành chương
trình thanh tra, kiểm tra 122 KCN thuộc các LVS
Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai và Thị Vải. Theo báo
cáo, chỉ có 82/122 KCN đang hoạt động hoặc đang
xây dựng cơ sở hạ tầng. Tỷ lệ các KCN đã có hệ
thống xử lý nước thải rất thấp (22/82 cơ sở chiếm
26,8%). Mặt khác, nhiều trường hợp các KCN đã lập
báo cáo ĐTM nhưng không thực hiện đúng, đầy đủ
các nội dung trong báo cáo ĐTM được phê duyệt (tỷ
lệ 63,3%). Tỷ lệ các KCN vi phạm các quy định về
BVMT chiếm 83% số lượng các KCN được thanh tra
với tống số tiền đề nghị xử phạt là 6.772.425.000
đồng. Việc xử lý ô nhiễm môi trường tại các KCN
còn mang tính đối phó, chưa đạt hiệu quả cao. Qua
thanh tra cho thấy nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường lớn nhất của các KCN là việc xử lý nước thải
không đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra ngoài môi
trường, tỷ lệ các KCN xả nước thải vượt QCVN từ 5
lần trở lên chiếm tỷ lệ 51,8%.
Nguồn: Báo cáo kết quả kiểm tra, thanh tra công tác BVMT
đối với các cơ sở, KCN, CCN gây ô nhiễm môi trường
trên các LVS Cầu, Nhuệ - Đáy, Sài Gòn - Đồng Nai và Thị
Vải, Tổng cục Môi trường, 2010.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
92 93BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
được nâng cao; còn nhiều tổ chức vi phạm pháp
luật về BVMT; Tình trạng khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước còn
diễn ra khá phổ biến, việc chấp hành các quy
định về BVMT nước còn chưa nghiêm túc. Công
tác thanh tra, kiểm tra chưa được quan tâm đúng
mức nên hiệu quả của công tác còn hạn chế.
Chính vì vậy, chưa phát huy được tác dụng của
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong việc nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật về BVMT nước của
các tổ chức, cá nhân.
Một trong những vấn đề khác gây khó khăn
cho công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường đó chính là các quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn
một số hạn chế. Cụ thể như: cơ quan thanh tra
phải báo trước cho đối tượng bị thanh tra trước
khi tiến hành thanh kiểm tra. Việc này tạo điều
kiện cho chủ nguồn thải tìm cách đối phó đối với
hoạt động thanh tra. Như vậy, kết quả thanh tra
thường không phản ánh đúng thực trạng gây ô
nhiễm của đối tượng bị thanh tra.
Mặc dù hoạt động của lực lượng cảnh sát
phòng chống tội phạm về môi trường đã mang
lại một số kết quả tích cực, tuy nhiên, giữa khối
cảnh sát môi trường và Bộ TN&MT vẫn còn
những chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, dẫn
đến những chồng chéo trong vấn đề xử lý các vụ
vi phạm pháp luật về BVMT.
Ngoài công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm pháp luật về BVMT đối với môi trường
nước, trong thời gian qua, trước tình hình hạn
hán, thiếu nước trên diện rộng trong mùa khô, Bộ
TN&MT cũng đã tổ chức 02 đoàn kiểm tra tình
hình vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn trên
lưu vực sông Hồng, các sông ở miền Trung và
Tây Nguyên. Qua đó, đã phát hiện một số vấn đề
về phối hợp vận hành, điều tiết nước để phòng,
giảm lũ, cấp nước cho hạ du.
5.6.3. Quan trắc môi trường nước mặt
Hoạt động quan trắc môi trường nói chung,
quan trắc môi trường nước mặt nói riêng, hiện
nay được phân công cho nhiều đơn vị thực
hiện. Ở cấp Trung ương, công tác quan trắc môi
trường nước mặt do Tổng cục Môi trường và một
số trạm trong mạng lưới quan trắc môi trường
quốc gia thực hiện. Ở cấp địa phương cũng xây
dựng chương trình quan trắc của địa phương để
đánh giá, giám sát chất lượng môi trường nói
chung, môi trường nước nói riêng trong phạm
vi của địa phương. Bên cạnh đó, còn có nhiều
chương trình nghiên cứu, quan trắc môi trường
nước do các viện nghiên cứu, các tổ chức quốc
tế thực hiện.
Ngoài ra, nhằm cung cấp số liệu liên tục và tự
động tại các LVS, đặc biệt tại các LVS bắt nguồn
từ nước ngoài chảy vào, trong thời gian qua, Bộ
TN&MT đã đầu tư, lắp đặt các Trạm quan trắc
nước mặt tự động, liên tục. Tính đến nay đã có
một số trạm quan trắc nước mặt tự động được lắp
đặt và vận hành tại các địa phương như Hà Nam,
Lào Cai, Đồng Nai, An Giang, Đắk Lắk.
Khung 5.6. Triển khai hoạt động quan trắc
môi trường nước mặt cấp quốc gia và địa phương
Chương trình quan trắc thuộc mạng lưới trạm quan
trắc môi trường quốc gia: hiện nay có 4/21 trạm quan
trắc thực hiện chương trình quan trắc nước mặt hàng
năm với tần suất 4-6 đợt/năm.
Chương trình quan trắc do Trung tâm Quan trắc
môi trường (Tổng cục Môi trường) chủ trì thực hiện:
triển khai 10 chương trình quan trắc nước mặt (3
chương trình quan trắc 03 vùng KTTĐ, 7 chương trình
quan trắc LVS) với tần suất 4 đợt/năm.
Chương trình quan trắc của địa phương: hiện nay
đã có 54/63 địa phương thành lập Trung tâm Quan
trắc môi trường (thuộc Sở TN&MT). Theo đó, các
chương trình quan trắc môi trường của địa phương đã
được triển khai hàng năm. Hầu hết các địa phương đã
triển khai các chương trình quan trắc từ rất nhiều năm
trước với nguồn khi phí được duy trì ổn định như: Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Thanh Hóa,
Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương
Các địa phương khác trong thời gian gần đây cũng đã
xây dựng các chương trình cũng như duy trì hoạt động
quan trắc định kỳ hàng năm của địa phương.
Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2012.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
94 95BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Qua nhiều năm triển khai, các kết quả quan
trắc môi trường nước mặt từ các chương trình quan
trắc do Trung ương, địa phương thực hiện và các
kết quả quan trắc tự động, liên tục đã góp phần
cung cấp bộ số liệu liên tục và đáng tin cậy. Các số
liệu này đã góp phần hỗ trợ việc xác định và đánh
giá các nguồn ô nhiễm, giúp các nhà quản lý đưa
ra những chính sách nhằm quản lý và giám sát
chất lượng nước mặt lục địa. Đây cũng là nguồn
số liệu quan trọng cung cấp cho việc xây dựng các
Báo cáo môi trường quốc gia hàng năm.
Mặc dù hoạt động quan trắc, giám sát chất
lượng môi trường nước đã được triển khai mở
rộng phạm vi cũng như chiều sâu, tuy nhiên vẫn
cần tiếp tục được hoàn thiện. Nhiều chương
trình quan trắc còn chồng chéo, gây lãng phí
kinh phí và nguồn lực trong quá trình thực hiện
quan trắc và phân tích môi trường. Việc lưu trữ
số liệu quan trắc cũng bị phân tán ở nhiều đơn
vị khác nhau, gây khó khăn cho việc khai thác,
sử dụng số liệu.
Một vấn đề khác đang gặp phải trong giai
đoạn hiện nay đó là chất lượng số liệu quan
trắc. Mặc dù trong nhiều năm qua, Bộ TN&MT
đã xây dựng và ban hành rất nhiều các văn bản
pháp quy liên quan đến thống nhất quy trình
kỹ thuật trong quan trắc môi trường nước như
Thông tư số 29/2011/TT-BTNMT1614, Thông tư số
10/2007/TT-BTNMT1715... Tuy nhiên, do hạn chế
về năng lực, cán bộ, trong thiết bị... các số liệu
quan trắc môi trường hiện nay chưa thực sự đáp
ứng các yêu cầu thực tế. Hiện nay, năng lực của
các đơn vị tham gia hoạt động quan trắc chưa
được kiểm tra, xác nhận dẫn đến chất lượng
của một số chương trình quan trắc không cao.
Đây là những vấn đề gây rất nhiều khó khăn
cho cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
tại địa phương và Trung ương. Hiện nay, Bộ
TN&MT đang trong quá trình hoàn thiện và
16. Thông tư số 29/2011/TT-BTNMT ngày 01/8/2011 của
Bộ TN&MT quy định Quy trình kỹ thuật quan trắc môi
trường nước mặt lục địa.
17. Thông tư số 10/2007/TT-BTNMT ngày 22/10/2007 của
Bộ TN&MT về hướng dẫn đảm bảo chất lượng và kiểm
soát chất lượng (QA/QC) trong quan trắc môi trường.
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định
quy định điều kiện tham gia hoạt động quan
trắc môi trường. Điều này sẽ góp phần cải thiện
và nâng cao chất lượng của hoạt động quan trắc
môi trường trong thời gian sắp tới.
Một vấn đề nữa cũng cần được quan tâm hiện
nay, đó là việc đầu tư xây dựng hệ thống quan
trắc chất lượng môi trường nước tự động. Mặc
dù đã có khá nhiều các dự án nghiên cứu, đánh
giá về hiệu quả của hệ thống, nhưng việc đầu tư,
lắp đặt và vận hành hệ thống quan trắc nước tự
động chưa được triển khai mở rộng ở Việt Nam,
mà mới chỉ dừng lại trong phạm vi một số dự án,
chương trình cụ thể.
Ngoài ra, vấn đề kinh phí đầu tư cho hoạt động
quan trắc cả ở cấp Trung ương và địa phương còn
thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra dẫn đến các
chương trình quan trắc định kỳ hàng năm thực
hiện cũng chỉ được duy trì giới hạn từ 4-6 đợt/
năm, số lượng thông số quan trắc cũng hạn chế,
dẫn đến việc theo dõi diễn biến chất lượng môi
trường nước chưa được đầy đủ và toàn diện.
Theo yêu cầu của Báo cáo ĐTM đối với các
KCN, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất công
nghiệp phải tiến hành công tác quan trắc tuân
thủ tại cơ sở và báo cáo định kỳ, tuy nhiên, hầu
hết các đơn vị đều chưa thực hiện đầy đủ yêu cầu
này. Đa phần các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa
tiến hành các chương trình giám sát môi trường
đúng theo quy định, không lắp đặt hệ thống xử
lý nước thải, khí thải; xả nước thải, khí thải vượt
QCVN về chất thải...
5.7. XÂY DỰNG NGUỒN LỰC
5.7.1. Xây dựng nguồn nhân lực
Hiện nay, nguồn nhân lực làm công tác quản
lý môi trường ở Việt Nam mặc dù vẫn tăng qua
các năm nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế
đặt ra. Ở cấp Trung ương, việc thiếu nhân lực làm
công tác quản lý môi trường nói chung, quản lý
môi trường nước ở cấp LVS nói riêng là một trong
những nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản lý
môi trường nước.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
94 95BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Khung 5.7. Nguồn nhân lực
ngành tài nguyên và môi trường
Theo số liệu thống kê đến năm 2011, Bộ TN&MT
có khoảng 1.200 công chức đang công tác tại khối các
đơn vị quản lý nhà nước trực thuộc Bộ, trong đó có
khoảng 8% là trình độ tiến sỹ, 23% thạc sỹ, 61% đại
học. Ngoài ra còn có khoảng hơn 12.000 viên chức,
người lao động làm việc tại các đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp, trong đó có 2% là trình độ tiến sỹ, 5%
thạc sỹ, 43% đại học.
Đội ngũ công chức, viên chức ngành TN&MT tại
các địa phương có khoảng 34.000 người, đại học và sau
đại học chiếm 15%, trung học chuyên nghiệp 48,1%,
sơ cấp 10,8% và chưa qua đào tạo chiếm 26,1%.
Nguồn: Bộ TN&MT, 2011.
Ở cấp địa phương, phổ biến là tình hình thiếu
nhân lực, năng lực chuyên môn, kỹ năng quản
lý chưa đáp ứng yêu cầu. Lực lượng cán bộ, công
chức thuộc Sở TN&MT trực tiếp làm công tác
quản lý nhà nước về môi trường nói chung, môi
trường nước nói riêng của các tỉnh, thành phố
còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế;
thiếu các cơ quan chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật.
Ở cấp huyện, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 172/2004/NĐ-CP quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo đó, hệ thống
quản lý TN&MT được tổ chức thống nhất đến
cấp huyện là Phòng TN&MT. Tuy nhiên, cán bộ
tại Phòng TN&MT cấp huyện còn thiếu về số
lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm. Điều
này đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý
nhà nước về môi trường tại địa phương.
Ở cấp xã, nhiệm vụ quản lý TN&MT nói chung
chưa được phân cấp cụ thể. Ở mỗi xã, phường đều
có cán bộ địa chính thực hiện nhiệm vụ quản lý
đất đai là chủ yếu. Nhiệm vụ quản lý môi trường
ở cấp xã hầu như chưa được triển khai.
Đầu tư nguồn lực cho lĩnh vực quản lý môi
trường nước ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu
tập trung cho khai thác, sử dụng. Đối với công
tác quản lý, mức độ đầu tư còn thấp xa so với yêu
cầu, khối lượng nhiệm vụ quản lý được đặt ra.
5.7.2. Nguồn lực tài chính
Trong những năm qua, nguồn tài chính đầu tư
cho công tác quản lý và BVMT nước nói chung,
LVS nói riêng đã được đa dạng hóa, bao gồm:
nguồn ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, đầu
tư từ cộng đồng và khu vực tư nhân. Tuy nhiên,
nguồn kinh phí chủ yếu vẫn tập trung vào nguồn
ngân sách nhà nước.
Nguồn chi cho quản lý và BVMT nước nói
chung, BVMT LVS nói riêng từ ngân sách không
được phân bổ thành mục chi riêng, như đã phân
tích trong Mục 5.2, chức năng quản lý và BVMT
nước liên quan đến nhiều Bộ ngành khác nhau,
do đó các khoản chi cũng được phân bổ theo
chức năng tương ứng của của Bộ. Tuy nhiên,
khoản chi này chủ yếu nằm trong ngân sách của
Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT (đối với cấp Trung
ương) và Sở TN&MT, Sở NN&PTNT (đối với cấp
địa phương).
Một vấn đề cũng đang phải đối mặt hiện nay
đó là hiệu quả sử dụng vốn còn hạn chế, đầu tư
còn trùng lặp, vấn đề đầu tư trọng điểm chưa
thực sự phát huy hiệu quả.
5.8. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VÀ SỰ
THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
5.8.1. Hoạt động truyền thông
Trong những năm qua, hoạt động truyền thông
BVMT LVS đã thu được nhiều kết quả tích cực,
góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường nước nói
chung và môi trường các LVS Cầu, Nhuệ - Đáy,
hệ thống sông Đồng Nai nói riêng. Đến nay, đã
có khoảng 70 văn bản liên quan đến quản lý,
BVMT LVS sau khi ban hành được đăng tải trên
các báo, tạp chí, trang thông tin điện tử của các
Bộ ngành, địa phương.
Cùng với đó, Bộ TN&MT đã ký 08 Nghị quyết
liên tịch với các tổ chức chính trị - xã hội và 5
Quy chế phối hợp với các cơ quan truyền thông
để tăng cường các hoạt động truyền thông về
BVMT nói chung và BVMT LVS nói riêng.
Tuy nhiên, công tác truyền thông BVMT nước
trong những năm qua còn gặp nhiều hạn chế.
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
96 97BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Đó là các vấn đề như: nguồn nhân lực tham gia
truyền thông còn yếu và thiếu về chuyên môn;
nội dung và phương thức truyền thông chậm
đổi mới, chưa phù hợp với điều kiện phát triển
mới, thiếu các chiến lược, kế hoạch hành động
về thông tin môi trường... Chính vì vậy, trong
thời gian tới, hoạt động truyền thông BVMT nói
chung và môi trường nước nói riêng cần được
tăng cường và đổi mới.
5.8.2. Sự tham gia của cộng đồng
Quản lý môi trường nói chung, quản lý môi
trường nước nói riêng dựa vào cộng đồng là một
trong những cách tiếp cận hiện nay được nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng. Ở Việt Nam, kinh
nghiệm quản lý môi trường nước đã ghi nhận và
đánh giá cao vai trò quan trọng của cộng đồng
địa phương với tư cách là người trực tiếp sử dụng
nước, đồng thời là người quản lý và bảo vệ môi
trường nước.
Trong một số văn bản quy phạm pháp luật
đã được ban hành cũng đã đề cập tới vấn đề sự
tham gia của cộng đồng đối với công tác giám
sát, bảo vệ môi trường nước. Điển hình, trong
Chiến lược quốc gia về TNN đến năm 2020 đã
Khung 5.8. Đẩy mạnh hoạt động
truyền thông BVMT LVS ở cấp Trung ương
Trong năm 2012, Bộ TN&MT đã phối hợp với
Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt
Nam tổ chức sản xuất và phát sóng 35 phóng sự,
62 chuyên mục, chuyên đề, 12 buổi tọa đàm về
chủ đề BVMT LVS; hàng nghìn tin, bài liên quan
đến BVMT các LVS được đăng tải trên báo viết, báo
điện tử, tạp chí. Bộ TN&MT cũng đã tổ chức nhiều
chuyến đi tiếp cận thực tế tại các tỉnh LVS và chỉ
đạo các đơn vị truyền thông của Bộ tập trung tuyên
truyền các hoạt động BVMT LVS.
Mặt khác, Tổng cục Môi trường đã tổ chức 18
hội thảo, tập huấn nâng cao năng lực kỹ năng truyền
thông môi trường cho 1.400 cán bộ của các Sở,
ngành, đoàn thể, Ban quản lý các khu, cụm công
nghiệp, làng nghề, đô thị của 22 tỉnh thuộc 3 LVS
Cầu, Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai.
Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2012.
nêu rõ: huy động sự tham gia của nhân dân nhằm
bảo vệ TNN, đặc biệt là ở các thành phố lớn,
vùng đông dân cư và các vùng đang bị ô nhiễm
nguồn nước nghiêm trọng; xây dựng các cơ chế
phù hợp huy động khả năng của cộng đồng trở
thành những người hỗ trợ chính cho việc giám
sát bảo vệ nguồn nước và ngăn chặn các hành vi
tiêu cực làm cho nguồn nước bị ô nhiễm và suy
thoái; tăng cường sự tham gia của các tổ chức,
cá nhân trong quá trình lập kế hoạch, kiểm tra
và giám sát việc thực hiện các kế hoạch LVS và
dự án về môi trường nước.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự tham gia của
cộng đồng trong các mô hình quản lý môi
trường nước hiện nay mới chỉ phổ biến ở một
số hình thức: được mời tham gia các buổi “họp
tư vấn” khi bắt đầu triển khai mô hình; đóng
góp ý kiến xây dựng kế hoạch và thực hiện cấp
nước của địa phương; chỉ định và bầu ra đại
diện cho cộng đồng có trách nhiệm đối với các
vấn đề liên quan đến cấp nước cho địa phương;
đóng góp công lao động và các đóng góp tài
chính để xây dựng, hoạt động, duy tu và bảo vệ
các công trình nước ở địa phương; thanh toán
chi phí nước theo mức tiêu thụ thực tế hoặc
thỏa thuận của hộ gia đình.
Về khía cạnh tổ chức, những mô hình phổ
biến của quản lý môi trường nước có sự tham
gia của cộng đồng thường là hợp tác xã hoặc hội
những người sử dụng nước được thành lập dưới
hình thức các tổ chức cộng đồng hoặc tổ chức
nông dân có phối hợp với cơ quan nhà nước.
Nước được xem là hàng hóa và người sử dụng
thường phải trả phí sử dụng nước. Tuy nhiên,
các cộng đồng bản địa (miền núi) không tham
gia quản lý môi trường nước dưới dạng các thể
chế chính thức bởi vì đối với họ nước vẫn là
tài sản chung, có giá trị về mặt tinh thần, được
quản lý theo các tập tục, luật lệ truyền thống
của họ.
Với mô hình đề cập ở trên, trách nhiệm
của cộng đồng được xác định tương đối cụ thể,
nhưng quyền sở hữu của họ lại chưa được làm
rõ mặc dù họ có đóng góp đáng kể. Đối với
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
96 97BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012
MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Khung 5.9. Mô hình quản lý môi trường nước dựa
vào cộng đồng ở tỉnh Quảng Nam
Xã Tam Thanh (huyện Tam Kỳ) có 2.209 hộ gia
đình với 4.486 khẩu ở 10 thôn. Xã có 2 hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp: Hợp tác xã số 1 có 4 thôn và
Hợp tác xã số 2 có 6 thôn. Mỗi hợp tác xã có Bộ phận
quản lý hành chính và Ban kiểm soát. Họ có trách
nhiệm cung cấp các dịch vụ nông nghiệp như thủy
lợi; nguyên liệu và vật tư nông nghiệp; hướng dẫn kế
hoạch sản xuất và khuyến nông; quản lý và phân phối
điện đến từng hộ gia đình; dịch vụ sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ. Hợp tác xã này đã chuyển đổi từ hợp
tác xã mô hình cũ (có chức năng lập kế hoạch, quản
lý và tổ chức sản xuất - do đất thuộc hợp tác xã) sang
chức năng cung cấp dịch vụ, tư vấn cho nông dân
(đất đai đã được giao cho các hộ gia đình quản lý và
sử dụng lâu dài).
Với mô hình này, chính quyền địa phương không
trực tiếp tham gia quản lý và cấp dẫn nước. UBND xã
chỉ tham gia giải quyết các xung đột và tranh cãi trong
phạm vi chức năng của mình. Mô hình này chỉ phù
hợp với các công trình cấp nước nhỏ hoạt động trong
một thôn hoặc liên thôn, do đó, dễ dàng thích hợp với
khả năng thực tế của bà con nông dân trong quản lý
và cấp dẫn nước. Tuy nhiên, mô hình này cũng lộ rõ
những bất cập trong việc thu phí thủy lợi vì người sử
dụng nước (các hộ gia đình) không ký hợp đồng dùng
nước với công ty thủy nông.
Nguồn: Báo cáo Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng ở
Việt Nam, Nguyễn Việt Dũng, Nguyễn Danh Tĩnh, 2006.
những mô hình này, chính quyền địa phương
hay tổ chức nhà nước mới là người sở hữu chính
thức các phần cứng của hệ thống cấp nước (trạm
bơm, kênh mương...), đặc biệt là các công trình
do nhà nước đầu tư.
Vai trò của cộng đồng trong quá trình ra quyết
định về quản lý môi trường nước được thể hiện
khá rõ ràng, nhưng họ cũng chỉ mới tham gia ở
mức thấp như lựa chọn và bầu ban quản lý, chọn
địa điểm lắp đặt công trình nước,... Do hạn chế
về năng lực nên cộng đồng ít khi được tham gia
ra quyết định ở mức cao hơn như lựa chọn công
nghệ hay thiết bị vận hành.
5.9. VẤN ĐỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC
Mặc dù có mạng lưới sông ngòi dày đặc
nhưng hầu hết các sông, LVS của Việt Nam đều
có lưu vực liên quốc gia với Trung Quốc, Lào
hoặc Campuchia với phần diện tích lưu vực
ở ngoài biên giới Việt Nam lớn hơn rất nhiều
so với diện tích lưu vực trong nước. Thêm vào
đó, Việt Nam lại nằm ở phần hạ lưu các sông,
chính vì những lý do nêu trên mà vấn đề hợp
tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề xuyên
biên giới về kiểm soát ô nhiễm, quản lý tổng
hợp và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, an ninh
nguồn nước... là một trong những vấn đề đặc
biệt quan trọng trong quản lý môi trường nước
của Việt Nam.
Các vấn đề về hợp tác quốc tế giữa Việt Nam
và các quốc gia trong quản lý môi trường nước bao
gồm các nội dung về tăng cường chính sách và
thực thi các nguyên tắc pháp luật quốc tế, khu vực
và địa phương hiện nay về nước trong cộng đồng
quốc tế; ký kết các văn bản mới để nâng cao chất
lượng quản lý môi trường nước; phát triển và cải
thiện các cơ chế hợp tác quốc tế; tạo lập cơ chế
tài chính bền vững cho các tổ chức liên quốc gia
về môi trường nước; tăng cường đào tạo cán bộ
quản lý và các nhà hoạch định chính sách; soạn
thảo các văn bản hợp tác, biên bản ghi nhớ giữa
các quốc gia có chung LVS; phát triển việc chia sẻ
thông tin và dữ liệu trong lĩnh vực này.
Từ năm 2005, các nước ASEAN đã thông qua
Kế hoạch chiến lược hành động ASEAN về quản
lý tài nguyên nước với mục tiêu nhằm giải quyết
các vấn đề có liên quan đến phân bổ cung cầu,
chất lượng nước và vệ sinh môi trường, các sự
kiện thảm hoạ và tăng cường quản trị năng lực.
Kế hoạch chiến lược là một phản ứng chủ động
và tích cực của khu vực ASEAN (trong đó Việt
Nam đóng vai trò tích cực) đối với những thách
thức về nguồn nước để bổ sung và hỗ trợ các hoạt
động tại cấp địa phương và quốc gia.
Việt Nam cũng tham gia cùng nhóm các nước
tiểu vùng sông Mê Công xây dựng các chương
trình, kế hoạch nhằm quản lý vào bảo vệ nguồn
nước LVS Mê Công. Theo đó, Ủy ban sông Mê
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
98 BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
Công Việt Nam là đơn vị đầu mối thực hiện các
hoạt động hợp tác với Ủy hội sông Mê Công quốc
tế, hợp tác với các quốc gia trong lưu vực, các
nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
quốc tế cùng nghiên cứu và đề xuất giải pháp
giảm thiểu tác động của các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia thượng nguồn
tới các vùng lãnh thổ của Việt Nam có sông Mê
Công chảy qua.
Năm 2010, Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ Hà Lan đã thỏa thuận đối tác chiến lược
thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý tài
nguyên nước. Để triển khai thực hiện thỏa thuận,
hai nước đã thành lập Ủy ban liên Chính phủ
Việt Nam - Hà Lan về thích ứng biến đổi khí hậu
và quản lý nước. Ủy ban này sẽ họp luân phiên
thường kỳ tại Việt Nam và Hà Lan ít nhất một
năm một lần.
Ngoài ra, vấn đề hợp tác quốc tế nhằm đa
dạng hóa nguồn đầu tư cho các dự án về môi
trường nước cũng đang được các nhà quản lý môi
trường của Việt Nam chú trọng. Đã có khá nhiều
dự án hợp tác với nguồn tài trợ quốc tế được đầu
tư đối với môi trường nước ở Việt Nam. Điển hình
như dự án Tăng cường năng lực thể chế cho kiểm
soát ô nhiễm nước ở Việt Nam (Ngân hàng thế
giới tài trợ, thực hiện từ 2006 - 2008); dự án Tăng
cường năng lực quản lý môi trường nước tại Việt
Nam được triển khai tại Hà Nội, Hải Phòng, Thừa
Thiên - Huế, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu
(JICA tài trợ, triển khai từ năm 2010 - 2013). Mới
đây nhất là dự án Quản lý ô nhiễm các KCN
thuộc LVS Đồng Nai và Nhuệ - Đáy, sắp được
triển khai tại 4 địa phương: Hà Nam, Nam Định,
Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu (Ngân hàng thế
giới cho vay, thực hiện giai đoạn 2013 - 2018).
Tuy nhiên, một trong những hạn chế hiện
nay của các dự án là tính bền vững và hiệu quả
thực hiện. Rất nhiều dự án, chương trình khi hết
nguồn kinh phí tài trợ cũng đồng nghĩa với việc
kết thúc các hoạt động duy trì kết quả. Nhiều
chương trình mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm,
chưa được nghiên cứu, đánh giá để triển khai
nhân rộng do thiếu nguồn kinh phí duy trì.
Khung 5.10. Thỏa thuận xác định các ưu tiên hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan trong lĩnh vực thích ứng
với biến đổi khí hậu và quản lý nước
1. Xây dựng Kế hoạch đồng bằng sông Cửu Long;
2. Phát triển Tp. Hồ Chí Minh hướng ra biển;
3. Kiểm soát lũ Đồng bằng sông Cửu Long
4. Cấp nước, xử lý nước thải và vệ sinh Đồng bằng sông Cửu Long;
5. Quản lý nước trong tương lai cho khu kinh tế trọng điểm phía Nam;
6. Phát triển cảng chiến lược, quản lý cảng, vận tải hậu cần, hàng hải nội địa;
7. Tăng cường tiếp xúc kinh doanh và thương lại giữa Việt Nam - Hà Lan trong lĩnh vực quản lý nước;
8. Quản lý nước khu vực đồng bằng sông Hồng và vùng duyên hải Việt Nam.
Nguồn: Bộ TN&MT, 2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_5_6686_2140723.pdf