Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 4: Tác động của ô nhiễm môi trường nước mặt

Tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 4: Tác động của ô nhiễm môi trường nước mặt: CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 69BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 4.1. TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT ĐẾN SỨC KHOẺ CON NGƯỜI Bệnh tật có liên quan đến ô nhiễm nguồn nước đã từ lâu được xem là một mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt các bệnh như: bệnh ung thư, bệnh thiếu máu, bệnh Antai- Antai, bệnh viêm gan A, bệnh tả, bệnh đường tiêu hóa và các bệnh ngoài da... Tác hại ô nhiễm môi trường nước đối với sức khỏe con người chủ yếu do môi trường nước bị ô nhiễm vi trùng, vi khuẩn và các chất ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm kim loại nặng (Asen, Cadimi, thủy ngân,...) và ô nhiễm các hóa chất độc hại. Hiện nay, vẫn còn nhiều hộ dân sử dụng nước sông, ao hồ, kênh rạch để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Do đó ảnh hưởng đến sức khỏe, nguy cơ nhiễm các bệnh về đường tiêu hóa là rất lớn. Việc tắm nước sông, thậm chí cả nước ao hồ bị nhiễm nhiều loại mầ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 729 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Môi trường Quốc gia 2012 - Chương 4: Tác động của ô nhiễm môi trường nước mặt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 69BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 4.1. TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT ĐẾN SỨC KHOẺ CON NGƯỜI Bệnh tật có liên quan đến ô nhiễm nguồn nước đã từ lâu được xem là một mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt các bệnh như: bệnh ung thư, bệnh thiếu máu, bệnh Antai- Antai, bệnh viêm gan A, bệnh tả, bệnh đường tiêu hóa và các bệnh ngoài da... Tác hại ô nhiễm môi trường nước đối với sức khỏe con người chủ yếu do môi trường nước bị ô nhiễm vi trùng, vi khuẩn và các chất ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm kim loại nặng (Asen, Cadimi, thủy ngân,...) và ô nhiễm các hóa chất độc hại. Hiện nay, vẫn còn nhiều hộ dân sử dụng nước sông, ao hồ, kênh rạch để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Do đó ảnh hưởng đến sức khỏe, nguy cơ nhiễm các bệnh về đường tiêu hóa là rất lớn. Việc tắm nước sông, thậm chí cả nước ao hồ bị nhiễm nhiều loại mầm bệnh là nguyên nhân gây đau mắt, viêm da, viêm tai, ghẻ lở, nấm da và nhiều loại bệnh khác. Theo báo cáo của Cục Quản lý Tài nguyên nước năm 2010, 80% trường hợp bệnh lỵ và tiêu chảy là do nguồn nước bị ô nhiễm gây ra, chủ yếu ở các địa phương nghèo. Đã có những trường hợp bị tử vong do sử dụng nước bẩn và ô nhiễm (chủ yếu là trẻ em). Ảnh hưởng của ô nhiễm nước đối với sức khỏe con người có thể thông qua hai con đường: một là do ăn uống phải nước bị ô nhiễm hay các loại rau quả và thủy hải sản được nuôi trồng trong nước bị ô nhiễm; hai là do tiếp xúc với môi trường nước bị ô nhiễm trong quá trình sinh hoạt và lao động. Theo thống kê của Bộ Y tế, gần một nửa trong số 26 bệnh truyền nhiễm có nguyên nhân liên quan tới nguồn nước bị ô nhiễm. Điển hình nhất là bệnh tiêu chảy cấp. Ngoài ra, có nhiều bệnh khác như tả, thương hàn, các bệnh về đường tiêu hoá, viêm gan A, viêm não, ung thư,... Các con sông là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chính cho đô thị và nông thôn. Đặc biệt người dân ở vùng nông thôn và những người có thu nhập thấp thường sử dụng trực tiếp nước sông. Khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm thì đây chính là yếu tố làm gia tăng bệnh tật của người dân tại các tỉnh thuộc LVS, đặc biệt là các tỉnh chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nguồn nước bị ô nhiễm (Biểu đồ 4.1). Năm 2007 cả nước có 992.137 người dân nông thôn bị bệnh tiêu chảy, 38.529 người mắc bệnh lỵ trực khuẩn, 3.021 người mắc bệnh thương hàn do sử dụng nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh, trong đó 88% trường hợp mắc bệnh là do thiếu nước sạch*. Tên bệnh Số người mắc bệnh 2006 2007 2008 2009 2010 Lỵ (lỵ trực trùng, lỵ Amipe, hội chứng lỵ) 6.073 4.977 4.043 5.855 11.355 Tiêu chảy 12.448 10.668 11.171 14.457 9.609 Nhiễm khuẩn da và mô dưới da 135 134 199 240 250 Nấm 2 2 2 4 0 Ngộ độc hay ảnh hưởng của chất độc 2 21 36 41 12 Bênh do tiếp xúc với động vật và thực vật có chất độc 0 99 131 110 34 Bảng 4.1. Các bệnh liên quan đến môi trường nước tại Kon Tum Nguồn: Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh Kon Tum, 2011 * Hội thảo khoa học “Môi trường nông nghiệp - nông thôn và đa dạng sinh học ở miền Trung Việt Nam”, 2008 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 70 71BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến chất lượng nước mặt tại các xã ven sông thường cao hơn so với các xã không bị ảnh hưởng của nước sông (Biểu đồ 4.2). Bên cạnh các bệnh về đường tiêu hóa như: tiêu chảy, lỵ,... ô nhiễm nguồn nước còn gây bệnh thiếu máu, ung thư, bệnh về da. Nguyên nhân chủ yếu do nguồn nước bị nhiễm kim loại nặng như chì, cadimi, asen,... Hậu quả chung của tình trạng ô nhiễm nước là tỉ lệ người chết do các bệnh liên quan đến ô nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư ngày càng tăng lên. Ngoài ra, tỷ lệ trẻ em tử vong tại các khu vực bị ô nhiễm nguồn nước là rất cao. Tại các làng nghề, tỷ lệ mắc các bệnh về tiêu hóa, đau mắt, ngoài da cao hơn rất nhiều so với làng không làm nghề (Biểu đồ 4.3). Nước bị ô nhiễm kí sinh trùng là do việc quản lý phân và chất thải không tốt, làm tăng tỉ lệ mắc bệnh trong dân cư, đặc biệt các bệnh ngoài da. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Đau mắt Tiêu chảy Ngoài da % Làng làm nghề Làng không làm nghề Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ người dân mắc bệnh tiêu hóa tại một số tỉnh trong LVS Nhuệ - Đáy các năm 2006 - 2009 (tỷ lệ mắc bệnh trên tổng dân số) Nguồn: Bộ Y tế, 2009 Biểu đồ 4.2. So sánh tỷ lệ mắc bệnh lỵ trực trùng tại các xã thuộc tỉnh Hà Nam năm 2009 Nguồn: Sở Y tế Hà Nam, 2009. Biểu đồ 4.3. Tỷ lệ mắc bệnh của các làng nghề và các làng không làm nghề tại Hà Nam Nguồn: Sở TN&MT Hà Nam, 2008 Các bệnh ngoài da do ô nhiễm nguồn nước TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 70 71BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 4.2. TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM NƯỚC MẶT TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ 4.2.1. Thiệt hại kinh tế do gia tăng gánh nặng bệnh tật Bệnh lỵ, tả và các bệnh tiêu chảy khác vẫn còn rất phổ biến là do nguồn nước bị ô nhiễm gây ra, chủ yếu ở các địa phương nghèo có nguồn nước bị ô nhiễm nặng. Chi phí khám chữa bệnh cho các bệnh này đã lên đến con số hàng trăm tỷ đồng. Chỉ trong vòng bốn năm gần đây đã có khoảng 6 triệu ca bệnh liên quan đến nước tính trên phạm vi toàn quốc, chi phí trực tiếp cho việc khám chữa bệnh tả, thương hàn, lỵ và sốt rét khoảng 400 tỷ đồng. Thêm vào đó, bệnh liên quan đến ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến người thân, tạo nên chi phí gián tiếp do nghỉ học, nghỉ làm khi người thân bị ốm. Đa số người dân được hỏi sau khi nghỉ ốm để điều trị bệnh hoặc có người thân bị ốm thì bị giảm khoảng 20% thu nhập và suy giảm về sức khỏe khoảng 20% so với trước khi bị bệnh. Kéo theo đó, là những ảnh hưởng tâm lý bất ổn, khiến người ta khó có thể tập trung cho công việc và học hành khiến hiệu quả năng suất không cao, thậm chí ở nhiều nghề nghiệp, sự mất an tâm lao động sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, tính mạng. Bên cạnh việc ước tính các chi phí cho chăm sóc sức khỏe, khái niệm “gánh nặng bệnh tật” còn được sử dụng khi đánh giá tác động của ô nhiễm môi trường đối với sức khỏe của con người. Gánh nặng bệnh tật được hiểu là tổng số năm sống mất đi vì mang bệnh, tai nạn thương tích và số năm mất đi vì chết sớm so với tuổi thọ kỳ vọng, tính trên 1.000 người dân sống trong khu vực điều tra. Môi trường khu vực bị ô nhiễm khiến “gánh nặng bệnh tật” của cộng đồng tại đó cũng sẽ gia tăng, điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của chính những người lao động và cả cộng đồng dân cư sống ở các khu vực lân cận (Biểu đồ 4.4). Biểu đồ 4.4. Gánh nặng bệnh tật tại làng nghề Tống Xá và khu vực đối chứng Yên Phong Nguồn: Chương trình điều tra, đánh giá tác động sức khỏe môi trường tại làng nghề đúc cơ khí Tống Xá (Nam Định), Cục BVMT, 2007 Khung 4.1. Ô nhiễm nguồn nước tại huyện Ba Tơ - Quảng Ngãi Nguồn nước sinh hoạt của người dân tại làng Rêu, thôn Gò Nghênh và thôn Hi Long của xã Ba Điền lấy từ suối bắt nguồn từ núi Gò Khế bị ô nhiễm nặng (chỉ số vi sinh vật trong mẫu nước quá cao, vượt 1,3-3 lần cho phép.) Trung tâm Y tế huyện Ba Tơ ghi nhận khoảng 240 lượt bệnh nhân viêm da lạ nhập viện, 45 người bị tái phát, 23 người tử vong. Do chưa tìm được căn nguyên của bệnh, nên nhiều người bị bệnh “lạ” đang điều trị tại các bệnh viện nản chí, và đã có 34 người trốn viện hoặc không chịu tiếp tục điều trị mặc dầu bệnh chưa dứt hẳn, trong đó có 2 trường hợp rất nặng. Nguồn: Cổng thông tin Báo nông nghiệp Việt Nam, 2012 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 72 73BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 4.2.2. Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến thủy sản và nông nghiệp Ô nhiễm môi trường nước cũng gây những thiệt hại kinh tế không nhỏ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và khai thác, nuôi trồng thủy sản. Theo số liệu thống kê, sản lượng nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi cá bè trên sông) đã bị giảm sút nhiều do vấn đề ô nhiễm nước sông, đặc biệt khi xảy ra các sự cố về môi trường nước. Với đặc thù về điều kiện tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, vấn đề ô nhiễm nước mặt đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của toàn vùng. Nguồn nước sông Đồng Nai bị ô nhiễm bởi các chất xả thải của hàng chục nhà máy chế biến thủy sản, các KCN đã gây thiệt hại không nhỏ tới kinh tế của các hộ gia đình nuôi trồng thuỷ sản. Khung 4.3. Thiệt hại về thuỷ sản do ô nhiễm trên sông Nhuệ Trong 3 ngày từ 13-17/3/2009, hàng chục tấn cá (chủ yếu là cá rô và cá dọn bể - loài có khả năng chịu đựng tốt trong vùng bị ô nhiễm) đã chết nổi trắng trên sông Nhuệ, đoạn từ khu vực Mễ Trì (huyện Từ Liêm) đến quận Hà Đông (Hà Nội) kéo dài khoảng 7 km. Nguyên nhân chính là do dọc sông Nhuệ có rất nhiều cửa cống thải của các làng nghề, các cụm công nghiệp. Tại khu vực cá chết nhiều nhất là nơi có các cửa xả từ làng nghề dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông) - một trong những nghề có mức độ ô nhiễm rất cao. Ngay cạnh đó là CCN nhỏ ở Từ Liêm với 36 doanh nghiệp nhưng mới đang làm thủ tục xin xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Tháng 6/2010, nước thải của Hà Nội đổ về Hà Nam qua sông Nhuệ nhưng không được pha loãng do mực nước trên sông Nhuệ, sông Hồng đều trong tình trạng cạn nước nên dẫn đến tình trạng cá chết hàng loạt trên sông Châu Giang. Gia đình ông Ngô Văn Kha (thôn Hòa Lạc, xã Lam Hạ) bị thiệt hại 2 tấn cá giống, tương đương với 24 triệu đồng. Riêng tại thôn Quang Ấm có 11 hộ nuôi cá, với khối lượng cá bị chết khoảng 27,5 tấn. Xã Châu Sơn (Duy Tiên) tổng số cá bị chết khoảng 45 tấn, có gia đình thiệt hại đến 10 tấn cá. Đầu tháng 11 năm 2012, tại sông Đáy đoạn từ cầu Khuất tiếp giáp giữa Ninh Bình và Hà Nam xuất hiện cá chết rải rác trên sông. Chi cục Bảo vệ Môi trường Sở Tài nguyên và Môi trường Ninh Bình đã lấy mẫu nước tại 03 điểm: cầu Khuất, cầu Non Nước và nhà máy đạm Ninh Bình, kết quả cho thấy hàm lượng chì cao gấp 20,8 - 27,4 lần, cadimi cao gấp 3,2 - 5,3 lần quy chuẩn cho phép. Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2010; Sở Tài nguyên và Môi trường Ninh Bình Khung 4.2. Thiệt hại của nuôi cá bè do ô nhiễm nước tại Đồng Nai Vào thời điểm tháng 4/2007 có hàng loạt bè cá đang gần ngày thu hoạch ở La Ngà đột ngột chết trắng do nước sông La Ngà bị ô nhiễm từ nguồn nước thải của hai Công ty Men Mauri Việt Nam và Công ty cổ phần mía đường La Ngà... Theo thông tin từ UBND huyện Định Quán (Đồng Nai) cho biết hai Công ty trên đã thỏa thuận đền bù cho các hộ nuôi cá bè bị thiệt hại do ô nhiễm sông La Ngà số tiền bồi thường là 2 tỷ đồng. Theo báo cáo của Chi cục Thủy sản Đồng Nai, trong 3 ngày (từ 06 - 08/6/2010), đã xảy ra sự cố cá bè chết hàng loạt trên sông Đồng Nai đoạn thuộc các phường: Tân Mai, An Bình, Thống Nhất và xã Hiệp Hòa (Tp. Biên Hòa). Chỉ trong 3 ngày với lượng cá chết lên đến gần 55 tấn, trong đó các bè ở phường Thống Nhất cá chết khoảng 34 tấn, xã Hiệp Hòa 15 tấn, phường An Bình khoảng 3,5 tấn, phường Tân Mai 2 tấn. Cá chết là do nguồn nước ô nhiễm bởi nhiều nhà máy xả nước thải ra sông. Trước đó, người dân đã xác định một số điểm súc rửa đường ống xả thải bằng axit và xút. Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2010 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 72 73BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Môi trường nước mặt (sông hồ, kênh mương) là nguồn tưới tiêu chính trong hoạt động nông nghiệp. Khi chất lượng nước của hệ thống này bị ô nhiễm dẫn tới những thiệt hại đáng kể tới hoạt động nông nghiệp tại các khu vực nông thôn. 4.2.3. Thiệt hại kinh tế do tổn thương môi trường nước Việc xây dựng các công trình thuỷ điện mặc dù đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận đối với nền kinh tế và đối với cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng, tuy nhiên, những ảnh hưởng và tác động của những công trình này đối với nguồn nước cũng không nhỏ. Thiệt hại do tổn thất môi trường nước từ thuỷ điện cũng là vấn đề cần được các cấp chính quyền quan tâm. Trong những năm qua, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp, kinh phí dùng để khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường nước mặt do các KCN gây ra đã làm thiệt hại không nhỏ tới nền kinh tế nước ta. Khung 4.4. Thiệt hại thủy sản do ô nhiễm nước tại một số tỉnh ĐBSCL Tại nhiều địa phương ở ĐBSCL, tôm đang bị chết hàng loạt do ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng: Tại tỉnh Sóc Trăng bị thiệt hại đến trên 500 ha. Riêng tôm sú cũng bị thiệt hại hơn 30% (tháng 2, 3 năm 2012). Tại tỉnh Trà Vinh, vụ tôm năm 2012 diện tích nuôi trồng khoảng 6.000 ha, mới hơn 1 tháng, tôm đã bị chết trong khoảng 600 ha nuôi trồng thủy sản do dịch bệnh và chưa có dấu hiệu dừng. Tỉnh Cà Mau, diện tích nuôi trồng khoảng 3.500 ha, hơn 20% diện tích đó đã bị dịch bệnh. Đặc biệt, ở nhiều nơi như huyện Phú Tân, Đầm Dơi diện tích có tôm bị chết lên đến 50% diện tích thả nuôi. Nguồn: Cổng thông tin điện tử địa phương: Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, 2012 Khung 4.5. Ô nhiễm nước thải tại một số làng nghề gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Tại xã Dương Nội - huyện Hoài Đức (Hà Nội), nước thải từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp dệt, tẩy nhuộm chưa được xử lý đổ thẳng xuống kênh dẫn chảy ra sông Nhuệ khiến nước bị ô nhiễm nặng. Vào mùa khô lòng mương cạn, nước bốc lên mùi hắc khó chịu, những hôm trời mưa, nước thải dệt nhuộm chảy tràn xuống ruộng canh tác khiến lúa bị “lốp” nhiều lá, ít hạt. Người dân ở làng nghề Vân Chàng thuộc xă Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cho biết “ Ở những thửa ruộng bị ô nhiễm do dòng nước thải của thôn Vân Chàng chảy vào, năng suất giảm ít nhất là 30 - 50 kg một sào”. Nguồn: Báo cáo môi trường Quốc gia 2008 Môi trường làng nghề VN, Bộ TN&MT, 2008. Khung 4.6. Thiệt hại kinh tế do sự cố ô nhiễm môi trường công nghiệp tại Bình Dương Ngày 25/7/2009, sự cố vỡ bờ bao hồ chứa nước thải của Công ty San Miguel Pure Foods gây ra khiến 230.000 m3 nước thải đổ ra khu vực thượng nguồn sông Thị Tính thuộc xã Lai Hưng, huyện Bến Cát. Nhà máy nước Tân Hiệp đã phải mở tối đa công suất các máy châm clo - một loại hóa chất khử trùng - để đảm bảo chất lượng nước sau xử lý, cung cấp cho người dùng. Lượng hóa chất loại này so với thời điểm bình thường tăng 80-180 kg/giờ. Như vậy, mỗi ngày đêm Nhà máy nước Tân Hiệp phải tăng thêm 2.400 kg clo, tính ra tốn thêm hơn 26 triệu đồng/ ngày. Việc tăng hóa chất clo xử lý nước liên tục trong một tuần nên số tiền mua hóa chất cũng tăng lên tương ứng, ở mức trên 184 triệu đồng. Nguồn: Báo cáo môi trường Quốc gia 2009 Môi trường khu công nghiệp, Bộ TN&MT, 2009. TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 74 75BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Các thiệt hại kinh tế từ việc khắc phục sự cố môi trường do khai thác, chế biến khoáng sản cũng đã trở thành gánh nặng đối với nhiều địa phương. Quá trình đào, khoan, nổ mìn làm phá vỡ các tầng đất đá, cùng với hoạt động hòa tan, rửa trôi các thành phần chứa trong quặng và đất đá đều tác động làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hóa học của nguồn nước xung quanh khu mỏ. Nhiều nơi môi trường tại khu vực khai khoáng, đặc biệt môi trường nước, đã bị suy thoái nghiêm trọng. Muốn phục hồi môi trường nơi đây đòi hỏi một lượng kinh phí rất lớn. 4.3. ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGUỒN NƯỚC CẤP Mặc dù, trong thời gian gần đây, Chính phủ đã có những chính sách, đầu tư cung cấp nước sạch, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân nghèo. Một bộ phận người dân sinh sống tại vùng nông thôn và núi cao vẫn không được tiếp cận với hệ thống nước sạch hoặc thiếu nước cho sinh hoạt. Giữa các nhóm có thu nhập khác nhau, mức độ được tiếp cận với nước sạch cũng khác nhau. Tổn thất kinh tế Số tiền (triệu đồng) 2006 2007 2008 2009 2010 (tính tới tháng 9) Mức thiệt hại do sự cố môi trường và ô nhiễm môi trường 68.572 74.213 74.016 3.463.315 34.777 + Thiệt hại do thiên tai 21.800 31.248 36.881 3.415.161 Chưa thống kê + Phí chi trả khám, chữa bệnh do ô nhiễm 46.772 42.964 37.135 48.154 34.777 Chi phí khắc phục (thiên tai, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản) 1.095 10.658 5.543 250.461 195 + Khắc phục thiên tai 1.095 10.641 5.505 250.000 Chưa thống kê + Phục hồi môi trường 0 17 38 461 195 Tổng cộng 69.667 84.871 79.559 3.713.776 229.777 Nguồn: Chi cục Bảo vệ môi trường Kon Tum, 2011 Bảng 4.2.Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường và khai thác khoáng sản tại tỉnh Kon Tum Vùng Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh (%) Vùng Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh (%) Phân theo thành thị - nông thôn Phân theo vùng Thành thị 97,7 Đồng bằng sông Hồng 98,6 Nông thôn 87,4 Trung du và miền núi phía Bắc 80,2 Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 91,0 Tây Nguyên 82,8 Đông Nam Bộ 98,1 Đồng bằng sông Cửu Long 81,6 Nguồn: TCTK, 2011 Bảng 4.3.Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh phân theo vùng TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 74 75BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Tỷ lệ nguồn cung cấp nguồn nước chính cho khu vực thành thị là 63,5% nước máy; 30,4% nước giếng khoan và nước giếng đào được bảo vệ; 2,4% nước mưa; 3,7% nước khe, nước giếng đào không được bảo vệ và các nguồn nước khác. Tỷ lệ nguồn cung cấp nước chính cho khu vực nông thôn là 8,6% nước máy; 57,8% nước giếng khoan và nước giếng được bảo vệ; 16% nước mưa; 17,5% nước khe, nước giếng đào không được bảo vệ và các nguồn nước khác. Ví dụ, tại đồng bằng sông Hồng, chỉ có khoảng hơn 80% số dân nghèo được tiếp cận với nguồn nước sạch trong khi đó những người ở nhóm có thu nhập cao chiếm tỷ lệ 96%. Tại khu vực đô thị, mặc dù tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch cao hơn, nhưng với những người dân nghèo, khả năng tiếp cận với nước sạch vẫn rất hạn chế. Việc đầu tư hệ thống xử lý nước sinh hoạt cho một hộ gia đình thường vượt quá mức thu nhập bình quân và mức sống của người dân nông thôn. Do đó, phần lớn người dân nông thôn vẫn khai thác và sử dụng trực tiếp nước sông hoặc các thủy vực xung quanh phục vụ cho sinh hoạt. Khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm đây chính là yếu tố gia tăng bệnh tật của người dân tại các tỉnh thuộc LVS, đặc biệt là các tỉnh phía hạ lưu. Ô nhiễm nguồn nước mặt, khai thác quá mức, cộng thêm việc giữ nước của các công trình thủy điện dẫn đến nỗi lo thiếu nước của người dân, không những người dân nông thôn mà ngay cả những người dân sống ở thành thị. Do nguồn nước mặt ngày càng ít hơn, nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân ngày càng tăng, cùng với khung giá nước sinh hoạt cũng tăng. Đây cũng là nỗi khổ của người dân nghèo. 4.4. TÁC ĐỘNG CỦA CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC SÔNG Mê CÔNG ĐỐI VỚI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Sự khan hiếm và ô nhiễm nguồn nước mặt không những gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến môi trường, hệ sinh thái mà còn làm phát sinh các vấn đề xã hội, tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội... Khung 4.7. Dân khổ vì thiếu nước Không có nước sạch, nguồn nước sinh hoạt chủ yếu của người dân hai huyện Ba Vì, Thạch Thất (Hà Nội) là nước mưa, nước giếng. Hiện đang là mùa mưa nhưng hàng ngàn người dân ở nhiều xã thuộc hai huyện này vẫn thiếu nước sinh hoạt. Nguồn: Trung tâm Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 2012 Khung 4.8. Khung giá nước sạch sinh hoạt sẽ tăng Từ ngày 11 tháng 7 năm 2012, so với quy định hiện hành, khung giá nước sạch đã có biến động khá lớn. Cụ thể, nước sạch ở đô thị đặc biệt, đô thị loại 1 sẽ có giá tối đa là 18.000 đồng/m3 và tối thiểu là 3.500 đồng/m3 (khung giá hiện hành giá tối đa là 12.000 đồng/m3, và tối thiểu là 3.000 đồng/m3). Giá tối đa nước sạch ở đô thị loại 2, loại 3, loại 4, loại 5 sẽ có mức mới 15.000 đồng/m3 thay vì 10.000 đồng/m3 như trước. Giá tối thiểu ở khu vực này cũng sẽ tăng thêm 1.000 đồng/m3 lên thành là 3.000 đồng/m3. Ở khu vực nông thôn, khung giá nước sạch sinh hoạt mới sẽ dao động ở ngưỡng 2.000-11.000 đồng/m3 thay vì 1.000- 8.000 đồng/m3. Nguồn: Trung tâm Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 2012 Đập Tam Hiệp (Trung Quốc) TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 76 77BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Dòng sông Mê Công được “phân lô” để ngăn đập xây dựng gần 30 nhà máy thủy điện ở cả thượng và hạ lưu vào những năm tới. Hàng chục triệu cư dân của 6 quốc gia nằm ven bờ sông Mê Công sẽ đảo lộn, môi trường sinh thái sẽ bị tàn phá nặng nề và thiệt hại về an ninh nguồn nước, lương thực sẽ hết sức nghiêm trọng. Lào, Campuchia, Việt Nam và Thái Lan cũng phải đối mặt với vấn đề thiếu nước do việc xây dựng các đập thủy điện của Trung Quốc trên sông Mê Công. Ngoài ra, sông Mê Công sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới khi hơn 21% lưu vực bị xói mòn, 31% rừng đầu nguồn bị phá hoại. Sự gia tăng dân số hơn 20% trong vòng 50 năm tới, kết hợp với sự biến đổi về môi trường, sự ô nhiễm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng chảy và phương kế sinh nhai của hàng triệu người sống dựa vào con sông này. Việt Nam đã và đang tiếp tục bị ảnh hưởng do hoạt động thủy điện của các nước vùng thượng nguồn. Nhiều khu vực thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam bị thiếu nước ngọt, nước biển xâm thực, gây ảnh hưởng tới sinh hoạt của người dân và hoạt động sản xuất lương thực. Vấn đề chuyển nước trên các dòng sông cũng đang làm phát sinh nhiều vấn đề cần quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu nước cho hoạt động phát triển vùng Đông Bắc (thuộc lưu vực sông Mê Công) và vùng đồng bằng trung tâm (thuộc lưu vực sông Chao Phrya), Chính phủ Thái Lan đang đẩy nhanh nghiên cứu và triển khai thực hiện các giải pháp tăng cường sử dụng nguồn nước từ lưu vực sông Mê Công. Tổng lượng nước dự kiến được chuyển là 15,2 tỷ m3/năm, theo Đề án được nghiên cứu: 1) chuyển nước từ lưu vực sông Mê Công sang lưu vực sông Chao Phrya khoảng 6,2 tỷ m3/năm; 2) chuyển nước từ dòng chính sông Mê Công vào trữ trong các hồ chứa vùng Đông Bắc (chuyển nước trong lưu vực) khoảng 6,5 tỷ m3/năm) chuyển nước từ dòng nhánh phía Lào sang vùng Đông Bắc Thái Lan khoảng 2,5 tỷ m3/năm. Các quốc gia hạ lưu gồm Việt Nam và Campuchia quan tâm đến việc chuyển nước của Thái Lan từ dòng chính trong mùa khô, do có thể làm suy giảm dòng chảy xuống hạ lưu, gây tác động đến môi trường sinh thái khu vực hạ lưu và gia tăng xâm nhập mặn vùng đồng bằng; ảnh hưởng trực tiếp tới vùng ĐBSCL nước ta. Về mặt an ninh và chủ quyền quốc gia, sau khi có các đập thủy điện trên dòng chính và các công trình chuyển nước của các quốc gia ở thượng nguồn (Lào, Thái Lan, Trung Quốc), dòng chảy phía hạ lưu phụ thuộc nhiều vào chế độ vận hành của các đập thủy điện và các công trình chuyển nước của các nước thượng nguồn. Điều này cho thấy mức độ lệ thuộc của các quốc gia vùng hạ du (Việt Nam và Camphuchia) vào quốc gia vùng thượng lưu sẽ cao hơn, có thể sẽ được các nước thượng nguồn sử dụng như các đối trọng trong các quan hệ hợp tác khác. Khung 4.9. Thiệt hại do suy thoái nguồn dinh dưỡng môi trường nước bởi các công trình thuỷ điện tại lưu vực sông Mê Công Lưu vực sông Mê Công có 12 nhà máy thủy điện đã và đang triển khai. Trong đó, có 11 đập thủy điện lớn được dự kiến xây dựng xây dựng chặn dòng chảy chính. Bởi những đập này có nguy cơ gây tổn hại không thể phục hồi sinh thái sông Mê Công, đồng thời đặt sinh kế và an ninh nguồn nước, lương thực của hàng chục triệu dân cư sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên của dòng sông vào tình trạng đe dọa. Theo các nhà khoa học hiện có khoảng 1.200 loài cá nhưng với việc ngăn đập để xây dựng thủy điện bằng mọi giá sẽ dẫn đến nguy cơ hủy diệt khi môi trường sống của các cá thể này khi bị thay đổi. Đối với những loài cá có thể chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại cũng dần biến mất do không thể sinh sản mà không có dòng chảy. Cụ thể tổn thất tài nguyên cá sẽ khoảng 550.000 - 880.000 tấn mỗi năm, không chỉ người dân bị ảnh hưởng mà các công ty sản xuất, cảng cá... cũng bị ảnh hưởng. Lượng tổn thất về thủy sản ước đạt gần 500 triệu USD mỗi năm; 54% đất trồng trọt ven sông Mê Công sẽ bị mất, cộng với tổn thất đất nông nghiệp do các hồ chứa dòng chính và các đường dẫn điện ước khoảng 25,1 triệu USD/năm. Việc giảm dinh dưỡng đòi hỏi phải bù tương đương 24 triệu USD/năm để duy trì năng suất nông nghiệp của đồng bằng ngập lụt. Nguồn: Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và Mạng lưới sông ngòi Việt Nam, 2012 TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT 76 77BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2012 MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT Khung 4.10. Ô nhiễm tại làng dệt Dương Nội (Hà Nội) gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Tại xã Dương Nội, số lao động làm nghề dệt, nhuộm khoảng 2.000 người, một năm sản xuất trung bình gần 11.000m vải. Nước thải từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp dệt, tẩy nhuộm chưa được xử lý đổ thẳng xuống kênh dẫn chảy ra sông Nhuệ khiến nước bị ô nhiễm nặng. Vào mùa khô lòng mương cạn, nước bốc lên mùi hắc khó chịu, những hôm trời mưa, nước thải dệt nhuộm chảy tràn xuống ruộng canh tác khiến lúa bị “lốp” nhiều lá, ít hạt. Nguồn: Trang thông tin Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 07/3/2008 4.5. PHÁT SINH CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI Bên cạnh các vấn đề liên quốc gia, các mâu thuẫn môi trường giữa các cộng đồng sử dụng chung nguồn nước cũng đang trở thành vấn đề nổi cộm hiện nay. Công trình thủy điện Đắk Mi 4 phần thượng nguồn phía Phước Sơn - Quảng Nam không thực hiện xả nước theo quy định, khiến vùng hạ du sông Vu Gia - Đà Nẵng thiếu nước trầm trọng, nước nhiễm mặn rất nặng, ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho những người dân sống ở các vùng hạ du như Cẩm Lệ, Thanh Khê, Sơn Trà, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn (TP. Đà Nẵng) và các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam), nguy cơ thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Thêm vào đó, một loạt các công trình thuỷ điện lần lượt được xây dựng trên sông Vu Gia, khiến tình hình thiếu nước ở cuối nguồn sông càng thêm nghiêm trọng. Nước sông Đăk Mi được chuyển về sông Thu Bồn, mà không trả lại cho sông Vu Gia. Bởi vì, trên thực tế, tuy có một lượng nhỏ nước sông Thu Bồn chảy về sông Hàn qua sông Vĩnh Điện, nhưng đã không sử dụng được, do sông Vĩnh Điện bị nhiễm mặn quanh năm. Xung đột môi trường giữa cộng đồng làm nghề và cộng đồng không làm nghề trong bản thân làng nghề. Đây là xung đột lợi ích điển hình khi quyền lợi và lợi ích kinh tế của cộng đồng không làm nghề bị ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường bởi hoạt động làng nghề gây nên. Đây là loại xung đột phổ biến nhất. Sự hình thành các cơ sở sản xuất nghề nằm trong các khu dân cư, đặc thù hơn là tổ chức sản xuất ngay tại trong nhà mình, do vậy, các loại chất thải phát sinh đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hộ xung quanh, gây ra những xung đột, khiếu kiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchuong_4_1_1952_2140721.pdf
Tài liệu liên quan