Tài liệu Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 223
BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH NHI
XUẤT HUYẾT GIẢM TIỂU CẦU MIỄN DỊCH SAU TIÊM PHÒNG
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 2016 – 2017
Trần Thu Thủy*, Dương Thị Hưng*, Hoàng Thị Hồng**, Trần Quỳnh Mai*, Mai Lan*, Bạch Quốc Khánh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm của loạt ca bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng
và bước đầu đánh giá kết quả điều trị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng ở trẻ em tại Viện
Huyết học – Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 45 ca bệnh nhi xuất huyết
giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng.
Kết quả: Giới nam chiếm ưu thế, phần lớn nằm trong độ tuổi 1-6 tháng tuổi; vaccine Quinvaxem và vaccine
BCG là 2 tác nhân chủ yếu (44,5% và 31,1%).Thời điểm xuất hiện triệu chứng bệnh thay đổi theo loại vaccine, ở
nhóm tiêm ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 223
BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH NHI
XUẤT HUYẾT GIẢM TIỂU CẦU MIỄN DỊCH SAU TIÊM PHÒNG
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 2016 – 2017
Trần Thu Thủy*, Dương Thị Hưng*, Hoàng Thị Hồng**, Trần Quỳnh Mai*, Mai Lan*, Bạch Quốc Khánh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm của loạt ca bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng
và bước đầu đánh giá kết quả điều trị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng ở trẻ em tại Viện
Huyết học – Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 45 ca bệnh nhi xuất huyết
giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng.
Kết quả: Giới nam chiếm ưu thế, phần lớn nằm trong độ tuổi 1-6 tháng tuổi; vaccine Quinvaxem và vaccine
BCG là 2 tác nhân chủ yếu (44,5% và 31,1%).Thời điểm xuất hiện triệu chứng bệnh thay đổi theo loại vaccine, ở
nhóm tiêm Quinvaxem phần lớn triệu chứng bệnh xuất hiện sớm trước 7 ngày (45%), ở nhóm tiêm vaccine BCG
chủ yếu lại xuất hiện muộn sau 28 ngày (57,2%). Hầu hết bệnh nhi có biểu hiện xuất huyết dưới da và niêm mạc
(82%), không có trường hợp nào bị xuất huyết nội sọ. Số lượng tiểu cầu lúc nhập viện thấp, với số trung vị là
khoảng 10 G/L. Hai phương pháp điều trị chủ yếu là corticoid (64,4%) và IVIG (22,65%). Tỷ lệ đáp ứng khỏi
bệnh cao (93%).
Kết luận: Ghi nhận loạt ca bệnh nhi bị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch có tiền sử tiêm phòng gần thời
điểm phát bệnh. Hầu hết diễn biên cấp tính và đáp ứng tốt với điều trị. Chúng tôi chưa có bằng chứng chứng
minh tình trạng Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở những bệnh nhi này là do tiêm phòng. Cần có các nghiên
cứu sâu hơn, rộng hơn về mối liên quan giữa tiêm phòng và Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em.
Từ khóa: xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, tiêm phòng vaccine
ABSTRACT
CASE SERIES REPORT OF IMMUNE THROMBOCYTOPENIA PURPURA IN CHIDREN FOLLOWED
VACCINATION IN NATIONAL INSTITUTE OF HEMATOLOGY AND BLOOD TRANSFUSION, 2016-2017
Tran Thu Thuy, Duong Thi Hung, Hoang Thi Hong, Tran Quynh Mai, Mai Lan, Bach Quoc Khanh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 223 - 229
Objectives: Describe some characteristics of the series of pediatric patient with ITP followed
vaccination and initially assess the results of treatment at the National Institute of Hematology - Blood
Transfusion period 2016-2017.
Methods: The study describes a series of 45 pediatric patients with ITP followed vaccination.
Results: Male gender predominates, mostly in the age of 1-6 months; Quinvaxem vaccine and BCG vaccine
are two main agents (44.5% and 31.1%). At the time of the occurrence of disease, symptoms varying according to
the type of vaccine, for Quinvaxem, ITP mostly appear before 7 days (45%); For BCG vaccine, it mainly occurs
later than 28 days (57.2%). Most pediatric patients present with subcutaneous and mucosal hemorrhage (82%),
with no cases of intracranial hemorrhage. The platelet count at admission is low, with a median number of about
10 G/L. The two main methods are corticosteroids (64.4%) and IVIG (22.65%). The response rate is high (93%).
*Viện Huyết học Truyền máu Trung Ương **Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Thu Thủy ĐT: 0902282824 Email: bsthuthuy@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 224
Conclusion: Record series of pediatric patients with ITP after a recent vaccination. Most are acute and
respond well to treatment. We have no evidence to prove that ITP in these patients is due to vaccination. Further
and more extensive research is necessary for clarify the relationship between vaccination and ITP.
Key words: immune thrombocytopenic purpura, vaccination
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch
(Immune thrombocytopenic purpura – ITP) là
một trong những bệnh bất thường chảy máu
phổ biến nhất ở trẻ em, với tỷ lệ khoảng 4/100
000 trẻ/ năm(2,6). Theo tác giả Mai Lan và cộng
sự, bên cạnh Lơ xê mi cấp, Xuất huyết giảm
tiểu cầu miễn dịch là một trong hai bệnh chiếm
tỷ lệ cao nhất trong mô hình bệnh tật và trong
nhóm mới mắc tại khoa Bệnh máu trẻ em, Viện
Huyết học–Truyền máu Trung ương (32,9%)(7).
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em
thường có biểu hiện cấp tính, lành tính, đáp
ứng hoàn toàn 80-90% sau 6 tháng dùng thuốc
hay không điều trị, tuy nhiên trong giai đoạn
cấp nếu có xuất huyết não – màng não bệnh
nhân có thể tử vong(9). Xuất huyết giảm tiểu
cầu miễn dịch ở trẻ em có thể xuất hiện sau
nhiễm virus như EBV, CMV, thủy dậu, sởi,
Rubella, các virus viêm gan (A, B, C), sau
nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm dạ dày
ruột... hoặc sau tiêm phòng(13), cho đến nay chỉ
có duy nhất một loại vaccin được chứng minh
có mối liên quan thực sự gây ra Giảm tiểu cầu
miễn dịch ở trẻ em là vaccine Sởi- quai bị-
rubella (MMR) với tỷ lệ 1 - 3/100 000 liều
vaccine được tiêm(11). Tuy nhiên cũng có nhiều
báo cáo trong nước và ngoài nước nghiên cứu
và mô tả các ca bệnh Xuất huyết giảm tiểu cầu
miễn dịch ở trẻ em xuất hiện sau tiêm phòng
một số loại vaccine khác. Tiêm chủng là một
hoạt động phổ biến ở trẻ em từ khi sinh ra, vì
vậy bên cạnh những biến chứng khác, Xuất
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch cần được đặc
biệt chú ý, do đó chúng tôi thực hiện “Báo cáo
loạt ca bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn
dịch sau tiêm phòng tại Viện Huyết học–
Truyền máu Trung Ương giai đoạn 2016-
2017”, với mục tiêu như sau:
Mô tả một số đặc điểm của loạt ca bệnh nhi
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng.
Bước đầu đánh giá kết quả điều trị của các
bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau
tiêm phòng.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
Tất cả trẻ em (độ tuổi từ 0 đến 16 tuổi) được
chẩn đoán Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch
lần đầu nhập điều trị tại Viện Huyết học- Truyền
máu Trung Ương.
Bệnh nhi có tiền sử tiêm phòng trong vòng
42 ngày trước đó (từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 42
sau tiêm phòng).
Tiêu chuẩn loại trừ
Không mắc các tình trạng nhiễm trùng cấp
tính (nhiễm trùng đường hô hấp, viêm dạ dày
ruột, nhiễm EBV, CMV) tại thời điểm chẩn đoán,
hoặc sau khi tiêm phòng đến lúc chẩn đoán.
Sử dụng các thuốc có nguy cơ gây giảm
tiểu cầu.
Có các dị tật bẩm sinh (do không loại trừ bất
thường đáp ứng miễn dịch hay các hội chứng
bẩm sinh có giảm tiểu cầu).
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả loạt ca.
Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2016 đến
tháng 12/2017, chúng tôi chọn được 45 trường
hợp đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu
chuẩn loại trừ.
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Bệnh máu trẻ
em, Viện Huyết học – Truyền máu trung ương.
Quản lý và xử lý số liệu
Số liệu được quản lý và xử lý bằng Excell và
phần mềm SPSS 20.0.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 225
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Hình 1. Phân bố bệnh nhi theo lứa tuổi
Độ tuổi trung bình là 4,21 tháng (n = 45),
chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh nhi 1-3 tháng tuổi
(Hình 1).
Hình 2. Tỷ lệ bệnh nhi theo giới tính
Tỷ lệ trẻ nam chiếm phần lớn trong các bệnh
nhi nghiên cứu (83%) (Hình 2).
Hình 3. Tỷ lệ giảm tiểu cầu theo nhóm vaccine tiêm
phòng (n=45)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ Xuất
huyết giảm tiểu cầu sau tiêm phòng Quinvaxem
và tiêm phòng lao chiếm tỷ lệ cao nhất (44,5%;
31,1%) (Hình 3).
Đặc điểm giảm tiểu cầu và đặc điểm xuất huyết
ở bệnh nhi trong nghiên cứu
Thời gian xuất hiện triệu chứng xuất huyết
kể từ khi tiêm phòng không giống nhau, đối với
vaccine BCG 57,2% xuất hiện sau 28 ngày, cũng
có những trường hợp xuất hiện rất sớm dưới 7
ngày (14.2%); vaccine Quinvaxem 20% xuất hiện
muộn, còn 45% xuất hiện sớm. Theo thống kê
của chúng tôi có 6 trường hợp xuất hiện chỉ sau
tiêm phòng 2 ngày (Hình 4).
Hình 4. Thời gian xuất hiện giảm tiểu cầu sau tiêm phòng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 226
Hình 5. Đặc điểm xuất huyết của BN lúc vào viện
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ em bị
xuất huyết giảm tiểu cầu sau tiêm phòng vào
viện chủ yếu với biểu hiện xuất huyết dưới da
(82%), 12% có xuất huyết dưới da kèm theo xuất
huyết niêm mạc miệng và 6% kèm đi ngoài phân
có máu, không có trưởng hợp nào vào viện trong
tình trạng bị xuất huyết sọ não (Hình 5).
Bảng 1. Số lượng tiểu cầu của bệnh nhi lúc vào viện
Số lượng tiểu cầu (G/L)
Trung vị Thấp nhất Cao nhất
BCG (n=14) 9 3 15
Quinvaxem (n= 20) 11 5 65
Pentaxim (n= 4) 6 3 77
Infanrix Hexa (n=1) 6
BH- HG- UV (n=1) 10
Sởi (n=3) 11 3 13
MMR (n=1) 5
VNNB (n =1) 3
Số lượng tiểu cầu tại thời điểm nhập viện
của nhóm bệnh nhi nghiên cứu thấp nhất là 3G/l,
cao nhất là 77 G/L (trường hợp nàyđã được điều
trị tại bệnh viện tuyến dưới trước đó) (Bảng 1).
Điều trị và kết quả điều trị
Truyển khối tiểu cầu và điều trị corticoid là
phương pháp điều trị phổ biến nhất (60%)
(Hình 6).
Số ngày điều trị trung bình để số lượng tiểu
cầu trên 100 là 5,44 ngày. Giảm tiểu cầu sau tiêm
phòng sởi có thời gian điều trị trung bình dài
nhất (11 ngày) (Bảng 2).
Bảng 2. Số ngày điều trị để đạt số lượng tiểu cầu
>100 G/L
Trung bình Ngắn nhất Dài nhất
BCG (n=14) 4,11 2 6
Quinvaxem (n= 20) 7,62 1 20
Pentaxim (n= 4) 3,50 2 6
Infanrix Hexa (n=1) 7,0
BH- HG- UV (n=1) 1,0
Sởi (n=3) 11 4 18
MMR (n=1) 5
VNNB (n =1) 2
Số lượng tiểu cầu trung bình sau một
tháng khám lại đối với mỗi loại vaccine đều
>100 G/L. Có 3 trường hợp bệnh nhi tiểu cầu
vẫn thấp sau 1 tháng, 1 trường hợp TC chỉ
được 13 G/L và phải nhập viện tiếp tục điều trị
(Bảng 3).
Bảng 3. Số lượng tiểu cầu sau 1 tháng khám lại
Số lượng tiểu cầu (G/l)
Trung bình Thấp nhất Cao nhất
BCG (n=14) 425,57 310 532
Quinvaxem (n= 20) 303,8 13 455
Pentaxim(n= 4) 322.5 143 422
Infanrix Hexa (n=1) 123
BH- HG- UV (n=1) 554
Sởi (n=3) 186 110 262
MMR (n=1) 272
VNNB (n =1) 356
Hình 7. Tỷ lệ bệnh nhi đáp ứng điều trị sau một tháng
Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị cao
(93%) (Hình 7).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 227
Hình 6. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị theo các phương pháp
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi là 4,21 tháng, thấp hơn các nghiên cứu khác,
như nghiên cứu của Phan Thị Thu Trang và Lâm
Thị Mỹ tại Bệnh viện Nhi đồng 2 (28,5 tháng)(12),
nghiên cứu của Kuhne (5,7 tuổi)(5), nghiên cứu
của Nguyễn Hồ Mai Anh là 50,8 tháng tuổi(10).
Trẻ nhũ nhi trong nghiên cứu của chúng tôi
chiếm tỷ lệ khá cao 84,45%, đặc biệt là độ tuổi 1-3
tháng, là độ tuổi bệnh nhi bắt đầu được tiêm
phòng các mũi như 5 trong 1, vaccine BCG.
Theo nghiên cứu, chúng tôi thống kê được
tới 83% bệnh nhi là trẻ nam. Kết quả này cao hơn
nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa và Nguyễn Anh
Tú(4), hay nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng 2,
tỷ lệ nam/ nữ lần lượt là 1,2 và 1,26; nghiên cứu
của Kuhne T, Imbach P, Bolton-Maggs PHB
cũng thấy tỷ lệ nam cao hơn nữ (2:1)(5).
Chúng tôi thống kê được 8 loại vaccine có
tiền sử được tiêm phòng trước khi trẻ bị xuất
huyết giảm tiểu cầu phải nhập viện, trong đo cao
nhất là vaccine 5 trong 1 theo chương trình tiêm
chủng quốc gia (Quinvaxem, 44,5%), sau đó là
vaccine BCG (31,1%), có 1 trường hợp sau tiêm
MMR. Theo nhiều nghiên cứu đã ghi nhận
XHGTC có thể xuất hiện sau tiêm1 số loại
vaccine: Ở Mỹ từ 1990 đến 2008 báo cáo 478 ca
XHGTC sau MMR đơn độc hoặc kết hợp, 32 ca
sau tiêm phòng viêm gan A, 47 ca sau tiêm
phòng Thủy đậu(11); ở Đài Loan: 5 ca sau Viêm
gan B, 4 ca sau BH-HG-UV, 2 ca sau MMR, 1 ca
sau tiêm phòng Thủy đậu. Tuy nhiên mới chỉ
duy nhất vaccine MMR đã được chứng minh có
sự liên quan trực tiếp với tình trạng xuất huyết
giảm tiểu cầu ở trẻ em với tỷ lệ 1/ 30 000, người
ta tìm thấy sự gia tăng nguy cơ gấp 6 lần xuất
huyết giảm tiều cầu ở trẻ 13-24 tháng trong vòng
6 tuần sau tiêm phòng MMR (sởi, quai bị,
rubella) và 7/8 trường hợp xảy ra ở tuần thứ 2 và
tuần thứ 4 sau khi tiêm phòng(1).
Đặc điểm giảm tiểu cầu và đặc điểm xuất huyết
Thời gian xuất hiện bệnh
Trên các đối tượng bệnh nhi trong nghiên
cứu. Qua Hình 4, thời gian xuất hiện triệu
chứng xuất huyết kể từ khi tiêm phòng không
giống nhau, đối với vaccine BCG 57,2% xuất
hiện sau 28 ngày, cũng có những trường hợp
xuất hiện rất sớm dưới 7 ngày (14.2%); vaccine
Quinvaxem 20% xuất hiện muộn, còn 45%
xuất hiện sớm.Theo E.J. Woo và cộng sự, phân
chia các đối tượng thành 4 nhóm: nhóm 1-tiêm
1 loại vaccine sống, nhóm 2-tiêm 1 loại vaccine
bất hoạt, nhóm 3- tiêm nhiều hơn 1 loại trong
đó có ít nhất 1 loại là vaccine sống, nhóm 4-
tiêm nhiều hơn 1 loại trong đó không có loại
nào là vaccine sống; đồng thời phân thành các
nhóm xuất hiện triệu chứng theo thời gian
(dưới 7 ngày, 7 đến ≤14, 14 đến ≤28, ≥28 ngày);
tác giả nhận thấy giữa các nhóm không có sự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 228
khác biệt nhiều, triệu chứng xuất huyết có thể
xuất hiện sớm (dưới 7 ngày) hoặc muộn (trên
28 ngày), chỉ duy nhất trong nhóm 4 tỷ lệ xuất
huyết sớm dưới 7 ngày cao hơn các khoảng
thời gian khác(13).
Đặc điểm xuất huyết của các bệnh nhi trong
nghiên cứu
Xuất huyết do giảm tiểu cầu thường chỉ xuất
hiện khi tiểu cầu dưới 100 G/L, xuất huyết do
giảm tiểu cầu ở trẻ em thường được chia thành 3
mốc: xuất huyết dưới da, xuất huyết niêm mạc
và xuất huyết nội sọ. Tại thời điểm nhập viện, số
trung vị của số lượng tiểu cầu là trên dưới 10 G/l,
thấp nhất là 3G/l – đây là mức tiểu cầu nguy
hiểm, ngoài tình trạng xuất huyết dưới da, niêm
mạc còn có thể gây xuất huyết nội sọ dẫn đến tử
vong. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các
bệnh nhi đều có biểu hiện xuất huyết dưới da,
đa phần là dạng chấm, nốt, 12% kèm thêm xuất
huyết niêm mạc miệng, 6% kèm đi ngoài có máu
và chưa có trường hợp nào có biểu hiện xuất
huyết nội sọ.Tuy nhiên, trên lâm sàng, do phần
lớn các bệnh nhi ở độ tuổi rất nhỏ nên tình trạng
xuất huyết cũng khá nặng, hầu hết là biểu hiện
xuất huyết dưới da toàn thân với các chấm, nốt
xuất huyết dày đặc. Theo nhiều nghiên cứu khác
cũng cho thấy đa phần bệnh nhi có biểu hiện
XHDD và niêm mạc, như nghiên cứu của Black
C, Kaye JA, Jick H chủ yếu là XHDD,1 số đi
ngoài phân đen, tiểu máu, 1 trường hợp xuất
huyết não (tuy nhiên trường hợp này có liên
quan đến chấn thương vùng đầu)(1).
Thực tế phần lớn có tiểu cầu giảm ở ngưỡng
rất nặng nhưng ít khi có xuất huyết nặng. Như
vậy không thể chỉ dựa vào số lượng tiểu cầu để
đánh giá bệnh nhân luôn có xuất huyết nặng
kèm theo, nhưng cần thận trọng trước các
trường hợp có xuất huyết nặng kèm theo tiểu
cầu quá thấp.
Số lượng tiểu cầu lúc vào viện
Theo nghiên cứu, chúng tôi thấy có những
bệnh nhi vào viện với tình trạng tiểu cầu giảm
rất nặng, thấp nhất 3 G/L. Một số trường hợp
tiểu cầu cao hơn (cao nhất là 65 G/L và 77 G/L),
đây là các bệnh nhi đã được truyền Khối tiểu
cầu cấp cứu và dùng corticoid ở bệnh viện
tuyển dưới trước khi chuyển lên Viện chúng tôi.
Điều trị và đáp ứng điều trị
Có nhiều phương pháp để điểu trị Xuất
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, bao gồm phương
pháp nội khoa và phẫu thuật cắt lách. Trong
điều trị nội khoa, 2 thuốc thường được lựa chọn
đầu tay là corticoid và IVIG (Itravenous
immunous immunoglobulin). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, phần lớn các bệnh nhi được điều
trị bằng corticoid (64,44%); 22,65% dùng IVIG;
đa phần được truyền Khối tiểu cầu kết hợp với
thuốc nhằm mục đích nâng nhanh số lượng tiểu
cầu khỏi mức nguy hiểm; 2% bệnh nhi có số
lượng tiểu cầu >50G/l và không có triệu chứng
xuất huyết mới nên được theo dõi số lượng tiểu
cầu. Theo nghiên cứu khác của tác giả Neunert,
tỷ lệ dùng corticoid đơn độc và IVIG đơn độc
tương tự nhau, 24,44% vs 24%(8).
Trung bình sau 5,44 ngày chúng tôi nâng
được số lượng tiểu cầu >100G/l, có trường hợp
chỉ cần 1 hoặc 2 ngày, số ngày điều trị dài nhất là
20 ngày tiểu cầu mới lên được ngưỡng an toàn.
Sau một tháng kiểm tra lại, số lượng tiểu cầu
trung bình đạt 196,14G/l, tuy nhiên còn 7% bệnh
nhi có tiểu cầu <100G/l. Nghiên cứu tại Bệnh
viện Nhi đồng 2, đánh giá sau 28 ngày điều trị, 5
trường hợp ngưng theo dõi, 3 trường hợp sử
dụng lại IVIG lần 2, 2 BN chuyển sang dùng
corticoid, Tỷ lệ đạt mức an toàn là 86,9%. Kết
quả tại Bệnh viện Nhi đồng 2, tỷ lệ thất bại là
13,1%, tương tự với nghiên cứu của Huỳnh
Nghĩa, tỷ lệ đáp ứng là 80%, phù hợp với nghiên
cứu của chúng tôi(4). Cũng theo nghiên cứu của
France EK, Glanz J, Xu S, Hambidge S và cộng
sự: trên 90% đáp ứng hoàn toàn, dưới 10% phát
triển thành XHGTC mạn tính, trẻ từ 12- 23
tháng tỷ lệ tiến triển thành XHGTC mạn tính
tương tự nhau ở nhóm tiêm và không tiêm
vaccine (7% so với 10%)(3).
Như vậy nhóm Xuất huyết giảm tiểu cầu
miễn dịch có tình trạng xuất huyết nhiều, nặng,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 229
số lượng tiểu cầu thấp, khi được chú ý can thiệp
điều trị phối hợp sớm, tích cực, theo dõi sát vẫn
có thể cho kết quả đáp ứng rất tốt (ngay cả
trường hợp không thể dùng IVIG vì lý do chi phí
cao). Nhóm không đáp ứng là những trường
hợp tiểu cầu tăng chậm và dao động, đây là
những trường hợp cần theo dõi sát để tìm ra lựa
chọn điều trị phù hợp.
KẾT LUẬN
Chúng tôi ghi nhận loạt ca bệnh nhi bị Xuất
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch có tiền sử tiêm
phòng trong vòng 42 ngày trước thời điểm phát
bệnh. Hầu hết diễn biên cấp tính, chủ yếu chỉ có
biểu hiên xuất huyết dưới da, và đa số đáp ứng
tốt với điều trị. Chúng tôi chưa có bằng chứng
chứng minh tình trạng Xuất huyết giảm tiểu cầu
miễn dịch ở những bệnh nhi này là do tiêm
phòng. Cần có các nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn
về mối liên quan giữa tiêm phòng và xuất huyết
giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Black C, Kaye JA, Jick H (2003). MMR vaccine and idiopathic
thrombocytopaenic purpura. British Journal of Clinical
Pharmacology, 55(1):107–111.
2. Bolton-Maggs PHB (2000). Idiopathic thrombocytopenic
purpura. Arch Dis Child, 83:220–222.
3. France EK, Glanz J, Xu S, Hambidge S, Yamasaki K, Black SB, et
al. (2008). Vaccine Safety Datalink Team. Risk of immune
thrombocytopenic purpura after measles-mumps-rubella
immunization in children. Pediatrics, 121:687-92.
4. Huỳnh Nghĩa, Nguyễn Tú Anh (2011). Đánh giá hiệu quả của
immunoglobulin truyền tĩnh mạch và prednisone trong điều trị
xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch giai đoạn cấp ở trẻ em tại
BV. Truyền máu Huyết học TP.HCM. Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, 15(4):121–126.
5. Kühne T., Buchanan G.R., Zimmerman S., et al. (2003). A
prospective comparative study of 2540 infants and children
with newly diagnosed idiopathic thrombocytopenic purpura
(ITP) from the intercontinental childhood ITP study group.
Journal of Pediatrics, 143(5):605–608.
6. Labarque V, Van Geet C. (2014). Clinical practice: immune
thrombocytopenia in paediatrics. Eur J Pediatr, 173(2):163-72.
7. Mai Lan, Hoàng Thị Hồng, Trần Thu Thủy và cộng sự (2018).
Nghiên cứu mô hình bệnh tật tại khoa bệnh máu trẻ em, Viện
Huyết học - Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017. Y học
Việt Nam, 408(5):72–80.
8. Neunert C.E., Buchanan G.R., Imbach P, et al. (2008). Severe
hemorrhage in children with newly diagnosed immune
thrombocytopenic purpura. Blood, 112(10):4003–4008.
9. Nguyễn Công Khanh, Bùi Văn Viên (2009). Hội chứng xuất
huyết ở trẻ em. - Bài giảng Nhi khoa, 102–117. Nhà xuất bản Y
học Hà Nội, pp.102–117.
10. Nguyễn Hoàng Mai Anh (2008). Đánh giá hiệu quả của phác đồ
dùng prednisolone uống liều cao với methylprednisolone tĩnh
mạch trong điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu cấp tính lần đầu
mức độ nặng ở trẻ em. Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y
dược TP Hồ Chí Minh.
11. O’Leary ST, Glanz JM, McClure DL, Akhtar A, Daley MF,
Nakasato C, et al. (2012). The risk of immune thrombocytopenic
purpura after vaccination in children and adolescents. Pediatrics,
129:248-55.
12. Phan Thị Thu Trang, Lâm Thị Mỹ (2012). Khảo sát đáp ứng điều
trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch cấp ở trẻ em có tiểu cầu
dưới 20.000/ml tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ 15-03-2011 đến 15-
08-2011. Y học Việt Nam, 8(396):27–36.
13. Woo Emily Jane Woo, Wise Robert P. Wise, Wise Robert P.
Wise, ey et al. (2011). Thrombocytopenia after vaccination: Case
reports to the US Vaccine Adverse Event Reporting System,
1990–2008. Vaccine, 29:1319–1323.
Ngày nhận bài báo: 25/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 04/09/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 223_5196_2213374.pdf