Báo cáo Kỹ năng đàm thoại trong tiếng anh những kinh nghiệm hữu ích cho giao tiếp hàng ngày

Tài liệu Báo cáo Kỹ năng đàm thoại trong tiếng anh những kinh nghiệm hữu ích cho giao tiếp hàng ngày: I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giao tiếp trong mối quan hệ liên nhân được thể hiện dưới rất nhiều hình thức; ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cử chỉ, cơ thể, ngôn ngữ của ánh mắt, khoảng cách, của giọng nói, thái độ, v.v... Thậm chí, một khoảng lặng trong một lần giao đáp cũng có thể nói lên rất nhiều điều. Người có khả năng giao tiếp tốt là người nắm bắt được tất cả những yếu tố thuộc về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách cân bằng, điều hòa các yếu tố này sao cho phù hợp với từng đối tượng trong từng ngữ cảnh giao tiếp. Và đó là quá trình học hỏi, tích lũy lâu dài, có khi cả một đời người. Trong phạm vi của bài báo này, tác giả chỉ giới hạn nội dung ở những kỹ năng đàm thoại trong ngữ cảnh giao tiếp thông thường hàng ngày, với các yếu tố liên quan đến ngôn ngữ nói, nhất là từ góc độ lớp vỏ ngôn ngữ và những tầng nghĩa phái sinh có thể có. Nói một cách đơn giản, tác giả cố gắng trình bày bản chất của vấn đề ‘ý tại, ngôn ngoại’ là gì. Qua đó, những mẹo...

pdf7 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Kỹ năng đàm thoại trong tiếng anh những kinh nghiệm hữu ích cho giao tiếp hàng ngày, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giao tiếp trong mối quan hệ liên nhân được thể hiện dưới rất nhiều hình thức; ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cử chỉ, cơ thể, ngôn ngữ của ánh mắt, khoảng cách, của giọng nói, thái độ, v.v... Thậm chí, một khoảng lặng trong một lần giao đáp cũng có thể nói lên rất nhiều điều. Người có khả năng giao tiếp tốt là người nắm bắt được tất cả những yếu tố thuộc về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách cân bằng, điều hòa các yếu tố này sao cho phù hợp với từng đối tượng trong từng ngữ cảnh giao tiếp. Và đó là quá trình học hỏi, tích lũy lâu dài, có khi cả một đời người. Trong phạm vi của bài báo này, tác giả chỉ giới hạn nội dung ở những kỹ năng đàm thoại trong ngữ cảnh giao tiếp thông thường hàng ngày, với các yếu tố liên quan đến ngôn ngữ nói, nhất là từ góc độ lớp vỏ ngôn ngữ và những tầng nghĩa phái sinh có thể có. Nói một cách đơn giản, tác giả cố gắng trình bày bản chất của vấn đề ‘ý tại, ngôn ngoại’ là gì. Qua đó, những mẹo vặt, bài học rút ra được sẽ giúp độc giả củng cố thêm kỹ năng giao tiếp của mình trong đời sống hàng ngày. Đây cũng là một phần nội dung chương trình tập huấn về Kỹ năng đàm thoại mà tác giả có dịp được tham gia tại RELC, Singapore. KỸ NĂNG ĐÀM THOẠI TRONG TIẾNG ANH NHỮNG KINH NGHIỆM HỮU ÍCH CHO GIAO TIẾP HÀNG NGÀY ThS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học Cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Nắm bắt và làm chủ những kỹ năng giao tiếp hàng ngày đóng góp không nhỏ vào thành công của các mối quan hệ liên nhân trong cộng đồng. Bài báo giới thiệu những kỹ năng đàm thoại trong tiếng Anh, nhất là khía cạnh phân tích ngữ dụng, qua đó rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Summary: Acquisition and mastery of daily communication skills do contribute to the success of interpersonal relations in the community. This article introduces the oral communication skills in English, particularly from the aspect of pragmatics analysis, thereby, proposes useful tips for daily life conversations. II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM Để tập trung vào nội dung chính của bài báo, tác giả thấy cần thiết phải làm rõ một số khái niệm sau đây: • Đàm thoại (oral communication): Như đã nói ở trên, giao tiếp giữa con người với nhau có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức. “Đàm thoại” là một trong những hình thức đó, được thực hiện bằng ngôn ngữ nói (speech). • Giao tiếp hàng ngày (daily conversation): Các cuộc đàm thoại diễn ra hàng ngày nhằm đạt được những mục đích khác nhau; giao dịch công việc, chuyện phiếm, thăm hỏi, phỏng vấn, v.v… Và do đó, phong cách thể hiện cũng rất khác nhau, sử dụng loại ngôn ngữ nói thay đổi cách thức từ rất xã giao, trịnh trọng (very formal) đến mức độ thân tình, thậm chí suồng sã (very informal). Bài báo này giới hạn vấn đề tìm hiểu ở mục đích đàm thoại quanh các chủ đề giao tiếp thông thường như thăm hỏi, chuyện phiếm… giữa những người quen biết nhau, trong những mối quan hệ liên nhân như bạn bè, đồng nghiệp, láng giềng, bạn học, … Do vậy, loại ngôn ngữ nói được sử dụng ở đây thuộc về phong cách thân mật, không xã giao (formal). • Ngữ dụng (pragmatics): Theo Hornby (2000:990), ‘ngữ dụng’ được định nghĩa là “việc nghiên cứu cách thức ngôn ngữ được sử dụng để diễn tả điều người ta thực sự muốn nói trong một hoàn cảnh cụ thể, nhất là khi những lời được thốt ra có vẻ như lại mang một ý nghĩa khác”. Bài báo trình bày vấn đề đàm thoại hàng ngày từ góc độ phân tích ngữ dụng là nhằm mục đích chỉ ra những yếu tố liên quan mà khi giao tiếp, chúng ta không để ý, hoặc coi nhẹ. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính của việc hiểu nhầm nội dung giao tiếp, dẫn đến hiểu sai về nhau, hay thực hiện khác đi, thậm chí có thể gây bất hòa, xung đột. III. KỸ NĂNG ĐÀM THOẠI TRONG TIẾNG ANH Đàm thoại được thực hiện giữa hai đối tượng, hoặc hai nhóm đối tượng; người nói và người nghe. Tuy nhiên, trong suốt quá trình đàm thoại, hai đối tượng này thường xuyên đổi chỗ cho nhau. Những kỹ năng trình bày dưới đây có thể áp dụng khi nói, hoặc khi nghe và có lúc dành cho cả hai đối tượng. Do vậy, chúng cùng được nêu chung ở trong mục này, có sự lưu ý cụ thể dành cho từng đối tượng. Theo Oral Communication Skills Training của RELC, việc rèn luyện kỹ năng nói một cách lưu loát, hàm súc là một công việc phức tạp, liên quan đến hai tiêu chí sau đây: 3.1. Tính chính xác Thể hiện ở việc người nói phát âm rõ ràng và chính xác các từ, sử dụng các từ, ngữ hay câu một cách thích hợp cả về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trong thực tế, mỗi nhóm cộng đồng hay nhóm nghề nghiệp có thể có riêng một lượng từ vựng chỉ sử dụng trong cộng đồng đó (jargon). Chẳng hạn, thuật ngữ ngành y khác nhiều thuật ngữ ngành luật, ngành máy tính; những từ ngữ tuổi thanh thiếu niên thường dùng có những khác biệt so với vốn từ người trung niên hay có tuổi sử dụng. Ví dụ: a table (cái bàn) trong nhóm đồ đạc nội thất có nghĩa rất khác với a table (một bảng/ biểu) trong thuật ngữ tin học hay tài chính, kế toán. Tương tự như vậy, bát tiết (play truant) là từ sinh viên, học sinh thường nói với nhau khi chúng bỏ giờ học, trốn tiết. Nhưng giáo viên khi báo về cho phụ huynh chỉ có thể nói là con em họ đã bỏ giờ (miss a lesson/ play truant), chứ không thể dùng từ bát tiết. Phương ngữ (dialect) và cách phát âm của từng vùng miền (accent) cũng có thể đạt được sự chính xác trong cùng một cộng đồng, nhưng lại gây khó khăn cho người nghe đến từ cộng đồng khác, từ vùng dân cư khác. Điều này đặc biệt thấy rõ trong cách phát âm của người Hà Nội vùng Sơn Tây, Ba Vì, hay so với giọng phát âm, cách dùng từ của người dân Quảng Trị, Quảng Nam. Một vài ví dụ trên cho thấy là tính chính xác khi nói không bao trùm sự chính xác về phát âm, từ vựng và ngữ pháp chung cho mọi đối tượng nói và nghe, ở mọi vùng miền. Chừng nào người nói chuyển tải được thông điệp họ muốn nói tới người nghe (get the message across) thì đã có thể coi là thông tin được truyền đi chính xác. 3.2. Tính trôi chảy Thể hiện ở việc giao đáp (exchange) mạch lạc, gắn kết liên tục trong toàn bộ cuộc đàm thoại. Điều này đòi hỏi cả hai đối tượng giao tiếp biết cách sử dụng linh hoạt, chuẩn xác những từ nối, ngữ điệu phù hợp, lựa chọn và thay đổi đề tài một cách thích hợp, khôn khéo. Sử dụng có mức độ các hư từ (oh, ah, hmm, …) cũng là một cách để tạo sự liên kết khi thoại và lấp đầy những khoảng lặng. Trong thực tế, đây là một kỹ năng cần phải lưu ý rèn luyện lâu dài mới có thể thành thạo được. Vì thế, trong chúng ta có những người rất “hoạt ngôn”, “khéo nói”, song lại có những người “rất kiệm lời” hoặc “vụng về” khi giao tiếp. Để một cuộc đàm thoại thành công cần phải đạt được cả hai tiêu chí “chính xác” và “trôi chảy”. Nhưng nhiều khi, trong giao tiếp hàng ngày thường không quá chú ý tới mục đích giao tiếp, để đạt được sự lưu loát, trôi chảy trong đàm thoại, người ta có thể bỏ qua, hoặc không cần chú ý lắm tới các lỗi về ngữ pháp, từ vựng, miễn là các giao đáp được thực hiện liên tục, thông tin được gửi và nhận với sự tung hứng, luân phiên vị trí người nói và người nghe, mà không dừng lại quá lâu để tìm cách diễn đạt, làm giảm sự hứng thú của cuộc đàm thoại. Trên thị trường đã có những cuốn cẩm nang được biên soạn cho từng tình huống giao tiếp hàng ngày dành cho người học Tiếng Anh. Nhưng loại sách tương tự dành cho người học Tiếng Việt thì chưa thấy phổ biến bằng. Nếu có, đây sẽ là một nguồn tham khảo hữu ích cho những ai, dù là người Việt, muốn trau dồi, phát triển hơn nữa khả năng giao tiếp của mình. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể tham khảo loại sách song ngữ về đàm thoại Tiếng Anh bằng cách xem phần dịch Tiếng Việt. Một cách tham khảo hiệu quả hơn là chú ý học cách diễn đạt, ứng xử khi giao tiếp từ chính các cuộc đàm thoại hàng ngày của chúng ta và rèn luyện, vận dụng các kỹ năng này vào thực tế cuộc sống. 3.3. Phân tích ngữ dụng Trong nhiều trường hợp khi người nói đã phát âm rất chuẩn xác, sử dụng đúng từ, đúng ngữ pháp, người nghe vẫn có thể không hiểu hoàn toàn thông điệp của người nói, thậm chí còn hiểu sai. Vì sao vậy? Theo Tiến sĩ Lim, B.S., RELC, đàm thoại trên thực tế diễn ra đồng thời ở hai lớp nghĩa: - Lớp thứ nhất, từ những âm tiết phát ra (articulation), người ta hiểu được ngữ nghĩa của các âm tiết đó (comprehension); - Lớp thứ hai, từ việc phân tích ngữ nghĩa của các từ trong ngữ cảnh (pragmatics), người ta phiên dịch được ý của người nói (interpretation), mà không phải lúc nào người nói cũng muốn nói rõ, hoặc có khả năng diễn đạt rõ ý mình muốn nói. Theo Austin (1962), hành vi ngôn ngữ (speech acts) có thể diễn ra ở ba cấp độ khác nhau: - Hành vi tạo lời: là ngữ nghĩa bề mặt hay nghĩa đen của các phát ngôn (locution); - Hành vi ngôn trung: là ngữ nghĩa tiềm ẩn hay hàm ý của người nói (illocution); - Hành vi mượn lời: người nói mong đợi người nghe sẽ có phản ứng hay hành động nào đó (perlocution). Hãy xem xét ví dụ sau đây: A: D’you want to go to town? (A. Cậu muốn ra phố không?) B: It looks like it’s going to rain. (B. Có vẻ như trời sắp mưa.) Trong câu trả lời của B, có thể thấy một thực tế là “trời sắp mưa” với mây đen kéo đến Æ locution. Cũng có thể hiểu ý B muốn nói là “chúng ta có thể bị ướt” Æ illocution (bày tỏ sự lo ngại). Hoặc hàm ý “chúng ta không nên đi” Æ illocution (đưa ra một lời khuyên). Hay “để lúc khác đi” Æ perlocution (muốn A thay đổi ý định). Điều thường xảy ra khi giao tiếp là khi chúng ta nói ra một điều gì thì đã đồng thời hàm ý một điều gì đó khác, có thể chỉ ở cấp độ hành vi ngôn trung, hay xa hơn nữa là hành vi mượn lời. Trừ trường hợp các phát ngôn chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin, thì hành vi ngôn ngữ có thể dừng ở cấp độ hành vi tạo lời. Ví dụ: A: Where are you from? (A: Anh quê ở đâu? (Anh từ đâu đến?)) B: Hoa Binh. (B: Tôi người Hòa Bình. (Hòa Bình)). Với đặc thù về văn hóa và ngôn ngữ của Tiếng Việt, các hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp đồng thời xảy ra ở cả ba cấp độ là chuyện rất thường xuyên. Vì lẽ đó, trên thực tế, chúng ta vẫn gặp những trường hợp phản ứng quá mức từ phía người nghe, hay sự “bằng mặt mà không bằng lòng”, một phần cũng là do sự nhạy cảm quá mức khi giao tiếp hay phiên dịch không sát ý người nói. Trong ngữ dụng học, các nhà nghiên cứu như Austin (1962) hay Searle (1968) có những quan điểm khác nhau về hành vi ngôn ngữ. Searle tuy đồng tình với Austin, nhưng đã có một bước phát triển hiện đại, thông thoáng hơn khi ông cho rằng không cần phải phân biệt giữa hành vi tạo lời và hành vi ngôn trung bởi vì trên thực tế giao tiếp, hai hành vi này hầu như luôn đồng thời xảy ra. Searle phân loại các hành vi ngôn ngữ khi giao tiếp theo các nhóm chức năng sau đây: • Thể hiện, miêu tả (Representatives): là việc người nói trình bày sự thực về sự vật, sự việc xung quanh, nhằm chuyển tải thông tin đến người nghe (VD 1). Nói chung, những điều gọi là “sự thực” này cũng có khi chỉ là những điều chúng ta quả quyết về một thực tế của một “giá trị giả” (VD 2: Có những loài chó bé hơn mèo rất nhiều). VD 1: A dog is an animal. (Chó là một loài động vật). VD 2: A dog is bigger than a cat. (Chó lớn hơn mèo). • Chỉ thị, cầu khiến (Directives): là việc người nói muốn người nghe làm điều gì. Hành vi này thường gặp trong loại câu mệnh lệnh, yêu cầu hay câu hỏi. VD: Please, close the door for me. (Anh làm ơn đóng hộ tôi cái cửa). When will she arrive? (Bao giờ thì chị ấy đến?). • Cam kết (Commissives): là việc người nói muốn khẳng định với người nghe là anh ta sẽ làm điều gì đó (VD 1). Hành vi ngôn ngữ này có thể dẫn đến sự thay đổi tình trạng, cải thiện quan hệ giữa người nói và người nghe (VD 2). VD 1: I plan to go to HCMC tomorrow. (Mai tôi có kế hoạch đi thành phố HCM rồi). VD2: I promise I will bring you for dinner sometime. (Anh hứa lúc nào đó sẽ đưa em đi ăn tối). • Tuyên bố (Declarations): là việc người nói tuyên bố những điều sẽ có thể gây ra những thay đổi lập tức về tình trạng, cải thiện mối quan hệ (VD 1), hay việc người nói có quyền lực nhất định để thực hiện tuyên bố đã phát ra (VD 2). VD 1: I did say I loved you. (Anh đã nói yêu em rồi mà). VD 2: I hereby declare you man and wife. (Sau đây tôi xin tuyên bố hai người là vợ chồng). • Diễn cảm (Expressives): là việc người nói giãi bày, thổ lộ trạng thái tình cảm, tâm lý. VD: I am troubled by what has happened. (Tôi áy náy vì việc đã xảy ra). I love Martha. (Mình yêu Martha). (Tất cả những ví dụ trên đây được dẫn từ các bài giảng của tiến sĩ Lim, B.S. giảng viên của Trung tâm Tiếng Anh khu vực, Singapore và của thạc sĩ Hoàn Xuân Thơm, giảng viên đại học Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội.) Bàn về kỹ năng đàm thoại, ngoài những điều trình bày ở trên còn có rất nhiều vấn đề liên quan, chẳng hạn; những điều kiện (Felicity) để các phát ngôn có nghĩa (making sense) và có giá trị (valid), những hành vi gây mất thể diện (Face Threatening Acts), hay lý thuyết về hàm ý, hàm ngôn (Conversational Implicature Theory), v.v... Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả chỉ giới thiệu những yếu tố gây ảnh hưởng tức thì, rõ rệt nhất đến hiệu quả giao tiếp. Những nội dung khác sẽ được trình bày rõ hơn ở các bài báo sau. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Thật không đơn giản và dễ dàng chút nào để trở thành một người hoạt ngôn, khéo nói, tuy nhiên, đây là việc có thể rèn luyện được. Từ những kỹ năng đàm thoại cơ bản trình bày trên đây, có thể rút ra một vài bài học kinh nghiệm như sau: ) Cần nắm được các tiêu chí Chính xác và Trôi chảy trong giao tiếp, trong đó có liên quan đến việc sử dụng nhuần nhuyễn các yếu tố ngôn ngữ như các loại từ nối, lựa chọn ngữ điệu, tông giọng phù hợp với nội dung muốn diễn đạt, lựa chọn ngôn từ và cách thức diễn tả thích hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp, và dùng đúng cấu trúc ngữ pháp để diễn tả nội dung. Trong trường hợp người nói và người nghe không có chung một vốn thuật ngữ (jargon), hay có sự khác biệt về cách phát âm, phương ngữ thì cần thiết phải làm rõ ý mình muốn nói, muốn hiểu. Ví dụ: người nói khi thấy vẻ băn khoăn trên nét mặt của người nghe, thì có thể trình bày lại hoặc giải thích rõ ý của mình: What I mean is … (Ý tôi muốn nói là …). I want to tell you that … (Tôi muốn nói với chị là …). Còn khi người nghe không nghe rõ, hay không hiểu hết ý của người nói thì cần hỏi lại cho rõ nghĩa: You mean …? Is that right that…? (Có phải anh định nói là …? Có đúng là…?). What do mean by saying that…? (Chị nói thế nghĩa là sao?). Việc phải giải thích hay hỏi lại này có thể làm kéo dài thời gian trao đáp, nhưng vẫn là một giải pháp tích cực thay vì để mặc sự phiên dịch sai (misinterpretation) xảy ra, dẫn đến hiểu sai nội dung (miscommunication) hay hiểu lầm lẫn nhau (misunderstanding). Những hiểu biết nhất định về Ngữ dụng học cũng rất hữu ích cho khả năng truyền tải và hiểu đúng nội dung giao tiếp. Ngoài ra, kiến thức về văn hóa (phong tục, tập quán) giữa các vùng, miền, dân tộc; về ngôn ngữ cử chỉ, hình thể, ánh mắt, khoảng cách cũng giúp ích rất nhiều cho khả năng giao tiếp lưu loát giữa hai đối tượng. Trên thực tế, vẫn xảy ra trường hợp khi người nói cố tình diễn đạt lấp lửng, để mặc người nghe muốn hiểu sao thì hiểu, còn người nghe, vì ngại ngần, tự ti hay vì lý do này khác, lại không muốn hỏi rõ ra. Thế nên mới có câu ca dao rằng: “Người khôn ăn nói nửa chừng Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Dẫu sao đây cũng là “muôn mặt đời thường”, tạo nên sự phong phú, phức tạp nhưng thú vị của cuộc sống. ) Từ thực tế cuộc sống, có thể hình dung một cuộc đàm thoại ‘có đầu có cuối’ bao gồm các phần như sau: - Phần mở đầu (opening): Các chủ đề được lựa chọn cho phần mở đầu câu chuyện rất khác nhau, tùy thuộc vào giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội, văn hóa, v.v... của những người tham gia đàm thoại. Phụ nữ thường bắt đầu câu chuyện về giá cả, mỹ phẩm, thời trang,… trong khi nam giới hay nói về bóng đá, công việc, quan chức, chứng khoán,… Thiếu niên gặp nhau “buôn chuyện” về trường, lớp, bạn bè, games, hip - hop, … còn các cụ ông cụ bà hay nói nhiều về bệnh tật, cách đối xử của con cái, … Cần lưu ý là những nền văn hóa khác nhau có những sự cấm kỵ (taboo) khác nhau. Người Việt Nam hầu như không kiêng kỵ điều gì về các chủ đề đàm thoại, nhất là giao tiếp thực hiện giữa những người quen biết, trừ trường hợp nói chuyện to, cười đùa nơi đám tang. Phụ nữ Myanmar không được phép nhìn lên khi nói chuyện với nam giới, còn nói chuyện về công việc với người Timor Leste là điều nên tránh. Theo thuyết Lịch sự âm tính và dương tính, người phương Tây không thích chuyện trò về các chủ đề riêng tư, có thể bị coi là soi mói. - Phần nội dung (body): Khi hai đối tượng đã cùng hòa nhịp vào một chủ đề đàm thoại, cần lưu ý đến cách duy trì câu chuyện; người nghe cần có những cách thể hiện sự quan tâm đến câu chuyện của người nói bằng cử chỉ, ánh mắt, diễn tả nét mặt hay dùng ngôn từ (cảm thán, hư từ, câu hỏi đuôi, …) thay vì chỉ im lặng. Ngược lại, người nói cũng không nên độc thoại quá lâu, khiến cho người nghe không có cơ hội để ngắt lời hay có ý kiến gì. Hơn thế nữa, người nói phải rất tinh ý để nhận ra chủ đề nào có thể/ hình như đang gây mất thể diện (FTA) cho người nghe, hay đã “nhạt” mất rồi và khéo léo chuyển đề tài. - Phần kết thúc (closing): Đây là kỹ năng mà người Việt ít để ý, nên thường có cách kết thúc rất đột ngột, đôi khi thô thiển, làm giảm đi sự thú vị hay ấn tượng dễ chịu của cuộc giao tiếp. Cần chọn thời điểm thích hợp để đưa ra lý do kết thúc. Hãy nêu lý do nào có lý nhất, dễ nghe nhất, dù có thể chỉ là ngụy tạo, bởi vì không mấy ai kiểm chứng xem lý do đó có xác thực không. Trường hợp người nói đang say sưa câu chuyện, mà người nghe đang phải vội đi, thì người nghe hãy khéo léo biểu lộ cử chỉ nào đó cho người nói thấy mình còn đang dở việc khác, không nói chuyện lâu được (VD: liếc nhìn đồng hồ, tỏ vẻ không còn hứng thú, nhìn đi chỗ khác …), hoặc thẳng thắn ngắt lời bằng cách nói, giọng nói, ngôn từ mềm dẻo nhất có thể được (VD: Ê này, mai gặp, “buôn” tiếp nhé. Mình phải vào lớp bây giờ. Sinh viên đang chờ…). Tóm lại, để đàm thoại thành công, ngoài việc nắm vững các kỹ năng, cần có sự tương tác ăn ý, tung hứng nhịp nhàng giữa người nghe và người nói, điều này phụ thuộc nhiều vào khả năng nhạy cảm, tinh ý, khéo léo của mỗi người khi tham gia giao tiếp. V. KẾT LUẬN Bàn về giao tiếp bằng ngôn ngữ nói là một vấn đề nghiên cứu rất rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều khía cạnh; ngôn ngữ, văn hóa, giới tính, xã hội, tâm sinh lý, ... Bài báo này chỉ tập trung vào một vài yếu tố cơ bản, dễ nhận biết, có thể rèn luyện được nếu để tâm lưu ý. Đặc biệt, những khái niệm khái quát về ngữ dụng sẽ giúp người đọc chú ý hơn đến các phát ngôn của mình, từ đó rút ra những bài học hữu ích cho việc đàm thoại trong đời sống hàng ngày. Tài liệu tham khảo [1]. Austin, J.L. 1962. How to do things with words. OUP. [2]. Oral Communication Skills Training, tài liệu tập huấn của RELC, SEAMEO. Tháng 9 năm 2007. [3]. Hornby, A.S. 2000. Oxford Advanced Learner’s Dictionary. OUP. [4]. Searle, J.R. 1968. Austin on locutionary and illocutionary acts. Phylosophical Review, 77, 405-424♦

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKỸ NĂNG ĐÀM THOẠI TRONG TIẾNG ANH NHỮNG KINH NGHIỆM HỮU ÍCH CHO GIAO TIẾP.pdf
Tài liệu liên quan