Tài liệu Báo cáo Khoa học kinh tế thế giới và khu vực châu á từ sau khủng hoảng đến nay: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU Á
TỪ SAU KHỦNG HOẢNG ĐẾN NAY
Phạm Quang Lực
Vụ trưởng Vụ Kinh tế-VPTW
1- Tình hình triển kinh tế thế giới
Việc kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến do tốc độ tăng trưởng kinh
tế mạnh tại châu á trong 6 tháng đầu năm 2010 và nhu cầu của khu vực kinh tế của
Mỹ phục hồi là cơ sở quan trọng để Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trong tháng 7 đã
nâng dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2010, từ mức 4,2% theo dự báo
trước đây lên 4,6%.
Những lo ngại về một cuộc khủng hoảng kép bắt nguồn từ vấn đề về nợ công
của Hy Lạp hiện đã được đẩy lùi. Theo nhận định của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ
không trải qua đợt suy thoái lần thứ 2. Sau khi vấn đề khủng hoảng nợ Hy Lạp lan
ra toàn cầu khiến các nhà đầu tư hoang mang, thị trường chứng khoán đi xuống, đã
có một dấu hiệu cho thấy khu vực Châu Âu đang lấy lại đà tăng trưởng : Kinh tế Bồ
Đào Nha tăng trưởng tốt 1, thị trường việc làm ở Đức phục hồi mạnh 2 và tình hình
ngành ngân hàng châu...
10 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Khoa học kinh tế thế giới và khu vực châu á từ sau khủng hoảng đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU Á
TỪ SAU KHỦNG HOẢNG ĐẾN NAY
Phạm Quang Lực
Vụ trưởng Vụ Kinh tế-VPTW
1- Tình hình triển kinh tế thế giới
Việc kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến do tốc độ tăng trưởng kinh
tế mạnh tại châu á trong 6 tháng đầu năm 2010 và nhu cầu của khu vực kinh tế của
Mỹ phục hồi là cơ sở quan trọng để Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trong tháng 7 đã
nâng dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2010, từ mức 4,2% theo dự báo
trước đây lên 4,6%.
Những lo ngại về một cuộc khủng hoảng kép bắt nguồn từ vấn đề về nợ công
của Hy Lạp hiện đã được đẩy lùi. Theo nhận định của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ
không trải qua đợt suy thoái lần thứ 2. Sau khi vấn đề khủng hoảng nợ Hy Lạp lan
ra toàn cầu khiến các nhà đầu tư hoang mang, thị trường chứng khoán đi xuống, đã
có một dấu hiệu cho thấy khu vực Châu Âu đang lấy lại đà tăng trưởng : Kinh tế Bồ
Đào Nha tăng trưởng tốt 1, thị trường việc làm ở Đức phục hồi mạnh 2 và tình hình
ngành ngân hàng châu Âu không xấu như dự báo 3. Hy Lạp đã giảm được 40%
thâm hụt ngân sách trong 5 tháng đầu năm. Đây là dấu hiệu khiến thị trường có thể
lạc quan với tốc độ phục hồi trong năm nay.4
Mặc dù xuất hiện nhiều dấu hiệu tích cực, nhng kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn
nhiều rủi ro.
1 Theo số liệu của Cục Thống kê châu Âu (Eurostat), tốc độ tăng trưởng kinh tế quý 1/2010 của Bồ Đào
Nha nhanh thứ 2 tại EU, sau Thụy Điển. Kinh tế nước này tăng 1,8% trong quí 1/2010 so với cùng kỳ năm
ngoái và tăng 1% so với quý 4/2009, và xuất khẩu là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế nước này.
2 Tỷ lệ thất nghiệp tại Đức tháng 6/2010 giảm xuống mức 7,5% nhờ kinh tế tăng trưởng tốt.
3 Tình trạng thiếu hụt tiền mặt của Ngân hàng Trung ương Hy Lạp đã cải thiện. Moody nhận định ngân
hàng châu Âu có thể ứng phó tốt với khủng hoảng: Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody đã tiến hành thanh
tra các ngân hàng châu Âu và kết luận các ngân hàng châu lục này đủ mạnh để ứng phó với bất kỳ khoản
thua lỗ nào từ việc nắm giữ trái phiếu chính phủ Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland. Châu Âu cũng sẽ tiến
hành thanh tra các ngân hàng và kết quả thanh tra ngân hàng châu Âu sẽ đợc công bố vào nửa sau tháng
7/2010. ECB tuyên bố sẽ cho phép các ngân hàng vay 131,9 tỷ EUR, tương đương 161,5 tỷ USD trong
khoảng thời gian 3 tháng. Nhu cầu tài chính của các ngân hàng như vậy thấp hơn nhiều so với lo sợ của thị
trờng.
4 Năm 2009, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp là 13,6% GDP, Hy Lạp đặt mục tiêu giảm thâm hụt xuống
mức 8,1% GDP trong năm nay.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, hội nghị thượng đỉnh
G20 diễn ra cuối tháng 6 vừa qua cũng được đánh giá là sẽ mở ra những định
hướng quan trọng cho nền kinh tế toàn cầu trong thời gian tới. Các nhà lãnh đạo đã
ghi nhận thách thức đối với nền kinh tế thế giới về sự không đồng đều và cha ổn
định của tăng trưởng kinh tế các nước. Thất nghiệp ở nhiều nước vẫn còn ở mức
cao. Hội nghị cũng đã nhất trí với mục tiêu giảm nửa thâm hụt ngân sách vào năm
2013. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo đều nhất trí rằng khu vực tài chính cần phải có sự
đóng góp công bằng và đáng kể vào việc giải quyết những gánh nặng của chính phủ
liên quan đến việc can thiệp nhằm cứu giúp ngành tài chính. Tuy nhiên, mỗi quốc
gia cần có chính sách riêng, nh : áp dụng công cụ thuế;...
IMF nhận định, kinh tế châu Âu có nguy cơ tăng trưởng thấp trong nhiều
năm, trong bối cảnh các nền kinh tế các nước châu á, châu Phi và Mỹ đang phục
hồi, sẽ dẫn đến tình trạng sức mua giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, phát sinh những
vấn đề trong các hệ thống trợ giúp xã hội, trong đó có hệ thống hu trí và y tế. IMF
cũng cho rằng sự yếu kém ở châu Âu sẽ tác động tiêu cực tới châu á thông qua cả
hai kênh thương mại và tài chính.
2- Diễn biến tại hai nền kinh tế chủ chốt :
a. Kinh tế Mỹ : Phục hồi với những nền tảng không vững chắc
Số liệu mới nhất cho thấy GDP Mỹ tăng 3,0% trong quý I năm 2010, tiếp tục
duy trì đà phục hồi, song thất nghiệp vẫn ở mức cao 9,7%. Bước sang quý II/2010
và tháng 5 này, nền kinh tế Mỹ không có nhiều dầu hiệu cải thiện căn bản, do nhu
cầu tiêu dùng vẫn yếu. Mỹ là nước nhập khẩu nhiều nhất thế giới, do đó tổng cầu
của Mỹ yếu sẽ ảnh hởng tới các động lực phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới.
Kinh tế Mỹ đang chịu áp lực ngày càng tăng từ khủng hoảng nợ châu Âu.
Chỉ số kinh tế dẫn trước (LEI) đã giảm lần đầu tiên trong tháng 4/2010 sau 12
tháng tăng liên tục kể từ tháng 3-4-2009 khi chỉ số này bắt đầu đi lên báo hiệu sự
xuất hiện điểm uốn mang tính bước ngoặt. Mặc dù mức giảm của LEI trong tháng 4
là khá nhỏ (0,1%), nhng cho thấy sự đổi hướng đáng lo ngại của các thành tố tạo
nên chu kỳ kinh tế Mỹ : quá trình phục hồi đang tiến tới điểm nhạy cảm - nếu vợt
qua thì có thể đi lên mạnh mẽ, nếu không vợt qua thì có thể "hụt hơi" dẫn tới khủng
hoảng "hai đáy".
Từ cuối 2009 đến nay đồng USD bước vào giai đoạn tăng giá, vừa cho phép
Mỹ tiếp tục thu hút các dòng vốn vay từ bên ngoài, vừa cho thấy tình trạng vay nợ
của Mỹ sẽ còn kéo dài.5 Nguy cơ lan rộng của khủng hoảng nợ châu Âu càng làm
tăng xu thế trên, kích động các dòng vốn rút khỏi các thị trường bất ổn để chuyển
về nơi an toàn là trái phiếu chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa Mỹ
sẽ "miễn nhiễm" trước nguy cơ lan rộng cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu.6 Chuyên
gia kinh tế của JP Morgan đánh giá, khi đồng Euro mất giá 10%, tăng trưởng GDP
của Mỹ sẽ co "bốc hơi" 0,3%, đồng thời còn khiến chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ thu
hẹp mất 0,1%.
Bên cạnh đó, tình trạng thâm hụt ngân sách của Mỹ lên tới 10% GDP (1420
tỷ USD) trong tài khóa 2009, gấp ba lần mức thâm hụt trong tài khóa năm 2008, và
sẽ còn duy trì ở mức cao trong vài năm tới cho thấy mầm mống khủng hoảng nợ
công của Mỹ mới chỉ bắt đầu. Rõ ràng, nền kinh tế Mỹ đã và đang phục hồi trên
một nền tảng vĩ mô không vững chắc.
Trật tự tài chính quốc tế ngày càng được chú ý, đặc biệt là các vấn đề về tiền
tệ và tỷ giá. Biến động mạnh của đồng USD trên thế giới được đánh giá là hệ quả
của việc Mỹ đã theo đuổi hai mục tiêu đầu tiên của chính sách tài chính quốc tế là
mở cửa nền kinh tế trước các dòng vốn ngoại và sử dụng chính sách tiền tệ nh một
công cụ để ổn định nền kinh tế. Giá trị đồng USD gần đây biến động một phần do
sự phục hồi kinh tế của Mỹ, và mặt khác là do lựa chọn về chính sách tài chính tiền
tệ của Mỹ với việc tăng cung tiền thông qua các gói cứu trợ thời gian qua. Trong
thời gian tới, sự biến động của đồng USD có thể diễn ra theo 3 kịch bản hồi phục
của nền kinh tế Mỹ : (1) Nếu nền kinh tế Mỹ không hồi phục, Mỹ sẽ tiếp tục chính
sách tăng cung tiền để kích thích kinh tế, do đó đồng USD sẽ tiếp tục giảm giá; (2)
Nếu kinh tế Mỹ hồi phục nhng với mức nhẹ và cung tiền vẫn tiếp tục tăng thì có thể
việc USD lên giá không bù đắp được việc USD xuống giá do tăng cung tiền; và (3)
Nếu kinh tế Mỹ hồi phục mạnh và Cục dữ trữ liên bang Mỹ dừng tăng cung tiền thì
giá USD sẽ tăng. Ngoài ra, giá đồng USD biến động còn phụ thuộc vào mức độ
phục hồi kinh tế của các nước sử dụng đồng EUR và Nhật Bản.
5 Vào giữa tháng 5/2010, lợng cầu các loại trái phiếu chính phủ Mỹ đã đạt mức cao nhất kể từ sau vụ sụp
đổ Lehman Brothers vào tháng 9/2009. Tổng lợng trái phiếu Chính phủ Mỹ do các chủ nợ nước ngoài nắm
giữ đã tăng 3,5% trong tháng 3, lên 3.900 tỷ USD. Xem thêm "Trái phiếu Mỹ hút hàng nhờ... khủng hoảng
nợ châu Âu" tại [
hoang-no-chau-au.htm]
6 16 nước thành viên khu vực Eurozone đều chiếm tới 14% tổng kim ngạch xuất khẩu Mỹ. Do đó, khủng
hoảng Hy Lạp sẽ ảnh hởng gián tiếp tới nền kinh tế Mỹ. Nhiều chuyên gia khác cũng có cùng quan điểm
này. Theo họ, khủng hoảng nợ Hy Lạp có thể thông qua nhiều kênh để lan sang Mỹ. Theo Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế (BIS), khối ngân hàng Mỹ sở hữu hơm 1.000 tỷ USD trái phiếu châu Âu,
[]
Vấn đề cải cách hệ thống tài chính đã trở thành một trong những vấn đề đáng
quan tâm hàng đầu của các nước sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, trước tiên là
Mỹ. Ngày 15/7 vừa qua, Quốc hội Mỹ đã thông qua Dự luật đại cải tổ ngành tài
chính Mỹ nhằm mục đích ngăn chặn sự lặp lại của cuộc khủng hoảng tài chính
2007 - 20097.
b. Kinh tế Trung Quốc : Kích thích kinh tế ngắn hạn đe dọa chất lợng
tăng trưởng trung hạn.
Mặc dù đạt được tốc độ phục hồi tăng trưởng ấn tợng8, thặng d thương mại
trở lại trong tháng 4/20109, nền kinh tế Trung Quốc bước vào quý II với hai nguy
cơ lớn cha giải quyết được là (a) bong bóng tài sản vẫn phình to10 và (b) nguy cơ
lạm phát càng hiện hữu.11 Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
(NHTW) đã tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ bằng việc lần thứ ba nâng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc lên mức 17%.12 Theo các chuyên gia phân tích, việc NHTW điều chỉnh
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho thấy chính sách tiền tệ đang từng bước trở lại bình th-
ờng; một mặt phản ánh NHTW lo ngại tính thanh khoản quá mức của đồng NDT
trong tình hình hiện nay, mặt khác cũng cho thấy Chính phủ Trung Quốc đã tăng c-
ờng quản lý, đề phòng lạm phát, phòng ngừa bong bóng tài sản và kinh tế tăng
trưởng quá nóng.
7 Đây là dự luật cứng rắn nhất từ thời Đại Suy thoái 1930 đối với các ngân hàng và tổ chức tài chính phố
Wall. Dự luật quy định, các ngân hàng sẽ phải giảm bớt hoạt động giao dịch và đầu t rủi ro; thành lập một
cơ chế thuộc Chính phủ cho việc thanh lý các Công ty tài chính có vấn đề; thiết lập một cơ quan bảo vệ
ngời tiêu dùng. Các ngân hàng sẽ nằm dưới hàng loạt quy chế giám sát mới và khó có thể đạt mức lợi
nhuận lớn như trớc.
8 Theo số liệu đã công bố của Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc, thì quý I-2010 tốc độ tăng trưởng
GDP đạt tới 11,9%, tăng nhanh rõ rệt so với mấy quý trớc đó.
9 Theo số liệu của Tổng cục Hải quan công bố ngày 10-5-2010, tháng 4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Trung Quốc đạt 238,16 tỷ USD, tăng trưởng 39,4%, xuất siêu đã quay trở lại trong tháng 4 đạt 1,68 tỷ
USD, giảm 87%. Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 4 đạt 119,92 tỷ USD, tăng trưởng
30,5%; kim ngạch nhập khẩu đạt 118,24 tỷ USD, tăng trưởng 49,7%.
10 Giá nhà ở vẫn tiếp tục nóng lên. Theo Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc ngày 11-5-2010, trong
tháng 4/2010, giá nhà ở tại 70 thành phố lớn và vừa của Trung Quốc tăng 12,8% so với cùng kỳ năm
2009, mức độ tăng mở rộng 1,1 điểm % so với tháng 3 và vợt qua mức 11,3% của tháng 1-2008 - tháng đ-
ợc coi là có mức tăng giá nhà cao nhất trong lịch sử kể từ năm 2005.
11 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 4/2010 tăng trưởng 2,8%, tăng 0,4 điểm % so với tháng trớc,
đây mức cao nhất trong 18 tháng kể từ tháng 11-2009. Chỉ số giá sản xuất (PPI) trong tháng 4 cũng có
mức tăng cao, đạt 6,8%, mở rộng 0,9 điểm % so với tháng trớc.
12 Ngày 2/5/2010, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã quyết định kể từ ngày 10/5/2010 nâng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tài khoản tiền gửi bằng đồng NDT thêm 0,5 điểm, sau lần điều chỉnh này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tài
khoản tiền gửi ở các ngân hàng lớn sẽ đạt tới 17%, còn cơ cấu tổ chức tín dụng vừa và nhỏ như tín dụng
nông thôn... tạm thời không điều chỉnh, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các tổ chức tín dụng này vẫn là 13,5%.
[]
Giới phân tích cho rằng mọi dự báo lạc quan cần phải cẩn trọng với tính bền
vững tăng trưởng từ sự bùng nổ chi tiêu nhà nước và tín dụng ngân hàng quá nhanh,
vì hiện nay nền kinh tế Trung Quốc còn hàm chứa các mất cân bằng, rủi ro trong
dài hạn13. Trước mắt, Trung Quốc đang đứng trước một tình thế khó khăn, khi vừa
phải duy trì đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ vừa phải kiểm soát lạm phát, ngăn
chặn bong bóng tài sản, kiềm chế đầu t không hiệu quả nhằm tránh nguy cơ nợ xấu.
Khó khăn sẽ còn gia tăng đối với lĩnh vực xuất khẩu - động lực tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc - khi đồng NDT đã lên giá với 14% - 17% so với đồng Euro, vì NDT
được "neo" vào USD trong khi Euro đã mất giá mạnh (17,6%) so với USD trong 6
tháng qua.
Từ đầu năm đến nay, từ Trung ơng đến địa phơng, các biện pháp kiểm soát
tập trung đối với thị trường bất động sản đã được đa ra. Tháng 4/2010 đã trở thành
tháng trọng điểm điều tiết thị trường bất động sản. Chính sách mới này gồm 10
điểm ban hành ngày 17/4/2010 được coi là "chính sách điều tiết thị trường bất động
sản nghiêm khắc nhất trong lịch sử". Hệ quả là thị trường bất động sản dờng nh
đang đứng trước thời điểm "đông lạnh", khối lợng giao dịch giảm xuống điểm
"đóng băng". Đây là diễn biến rất đáng theo dõi vì nó có thể ảnh hởng tới tốc độ
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc và các nền kinh tế khác.
Tóm lại, kinh tế Trung Quốc các tháng đầu năm 2010 đã cho thấy xu thế
nóng dần lên, áp lực lạm phát đang tăng dần, đặc biệt giá nhà vẫn tăng quá nhanh.
Trước tình hình này, Trung Quốc đã đa ra nhiều biện pháp khống chế bao gồm điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hàng loạt các chính sách điều chỉnh thị trường bất
động sản. Sau 3 lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, việc tăng lãi suất NDT có thể chỉ còn
là vấn đề thời gian. Rõ ràng, Trung Quốc đang đứng trước những lựa chọn điều
chỉnh chính sách vĩ mô quan trọng vào các tháng tới đây.
3. Khủng hoảng nợ công trở thành vấn đề toàn cầu :
Những vấn đề về nợ công của châu Âu vẫn là một nguy cơ đối với đà phục
hồi của kinh tế toàn cầu. Diễn biến phục hồi của nền kinh tế thế giới trong tháng
5/2010 cho thấy vẫn còn đó những điểm "dễ tổn thương" trong hệ thống kinh tế
quốc tế. Cuộc khủng hoảng nợ công tại một quốc gia như Hy Lạp đã trở thành vấn
đề "cấp bách" của cả một khu vực kinh tế nh EU và là chủ đề nghị sự "nóng" của
13 Một số nhà phân tích cho rằng, Trung Quốc hiện nay giống hệt Nhật Bản cuối thập niên 1980: Đầu t
quá mức dẫn tới dư thừa công suất ở nhiều ngành kinh tế khiến lợi nhuận suy giảm, cho vay quá nhiều đe
dọa gia tăng nợ xấu trong tương lai, giá bất động sản và cổ phiếu vợt xa giá trị thực - từ đó có ngời chỉ
rằng, nếu Chính phủ Trung Quốc không siết chặt chính sách tiền tệ, tương lai tăng trưởng kinh tế của nước
này sẽ bị chặn đứng, thậm chí ngay trong năm 2010 sẽ xảy ra khủng hoảng nợ xấu.
các định chế kinh tế toàn cầu và nhiều nền kinh tế chủ chốt trong việc ngăn chặn
một "ngòi nổ khủng hoảng" kiểu như trường hợp Lehman Brothers năm 2008.
Kinh tế Nhật Bản : Nợ công tới ngưỡng "tiến thoái lưỡng nan"
Đầu tháng 7/2010, nợ công của Nhật Bản đã vượt mức 860 nghìn tỷ yên,
tương đương 200% GDP và cao hơn gấp nhiều lần so với nợ công của Hy Lạp. Đây
là mức nợ công cao nhất trong số các nước G20. Tuy nhiên, so với các nước khác,
nợ Nhật Bản chủ yếu là nợ trong nước, chiếm khoảng 85 - 90%, dưới hình thức phát
hành trái phiếu để chi trả các khoản tiêu dùng. Mặc dù vậy, trong bối cảnh giảm
phát và tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp hiện nay thì khả năng vỡ nợ của Nhật
Bản khi nợ công gia tăng và niềm tin vào thị trường trái phiếu giảm sút là đáng báo
động và cần theo dõi chặt chẽ.
Kinh tế Nhật Bản duy trì đà phục hồi ở mức 4,9% trong quý I/2010 và giúp
kéo tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức 5% vào tháng 3/2010. Với đà phục hồi tích
cực này, Ngân hàng TW Nhật Bản (BOJ, ngày 21/5/2010) đã nhận định "nền kinh
tế Nhật Bản bắt đầu phục hồi". Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 6/2006, BOJ dùng
từ "phục hồi" trong đánh giá tình hình kinh tế, khả quan hơn nhận định "đang được
cải thiện" của ngân hàng này vào tháng 4/2010. Sự phục hồi của kinh tế Nhật Bản
chủ yếu là nhờ vào tăng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu sang Trung Quốc và một
số nước châu á mới nổi. Tình trạng giảm phát kéo dài sẽ cha thể đảm bảo một sự
phục hồi bền vững dựa vào nhu cầu trong nước.14
Nhật Bản sẽ phải mất thêm thời gian để đạt được sự phục hồi cân bằng, vì bài
toán đặt ra cho giới hoạch định chính sách là phải giải quyết các nhiệm vụ hết sức
mâu thuẫn : Vừa bơm tiền kích thích kinh tế nhưng phải kiểm soát và cắt giảm
công nợ (200% GDP); Vừa chống thiểu phát nhưng phải để mắt tới lạm phát; Củng
cố hệ thống ngân hàng nhưng phải giữ cho dòng chảy tín dụng thông suốt. Nếu xử
lý tốt các tình thế "tiến thoái lưỡng nan" trên thì tiến trình phục hồi có thể theo hình
chữ V, nếu làm sai thì hình chứ W sẽ lại xuất hiện.
Kinh tế EU : Liệu có thành "tâm bão" khủng hoảng nợ công toàn cầu?
Những số liệu thống kê cho thấy nền kinh tế khu vực đồng Euro phục hồi
tăng trưởng rất "phập phù", vì trong quý IV năm 2009 thì GDP của khu vực đã
không tăng và chỉ đạt 0,2% trong quý I/2010. Triển vọng quý II/2010 không có gì
14 Theo Báo cáo của BOJ ngày 20/5, mức chi tiêu theo hộ gia đình chỉ tăng 0,3% trong quý I/2010, tốc độ
tăng chậm hơn 0,7% so với giai đoạn trớc đó. Chỉ tiêu trong kinh doanh tăng 1%, ít hơn quý 4 năm 2009
(1,35). Đầu tư nhà đất 0,3%, mức tăng đầu tiên trong vòng 5 quý.
sáng sủa khi cả EU và khu vực đồng Euro đang tập trung xử lý khủng hoảng nợ Hy
Lạp và ngăn chặn nguy cơ lan rộng tới một loạt quốc gia thành viên khác.
Nhìn lại năm 2009, nền kinh tế EU và khu vực đồng Euro bước vào đầu năm
với nhiều dự báo "cuộc khủng hoảng sẽ không tác động mạnh nh ở Mỹ", với những
lập luận về sự ưu việt của mô hình ngân hàng Châu Âu trước cơn bão tài chính và
cho vay dưới chuẩn. Nếu như nửa đầu năm, tâm lý này vẫn còn ngự trị thì đến cuối
năm 2009, tình hình kinh tế EU đã xấu đi nhanh chóng do vấn đề nợ công ngày
càng trở thành ngòi nổ khủng hoảng kinh tế khu vực. Những rạn nứt đầu tiên đã bắt
đầu từ tình trạng khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp.15
Nguy cơ về cuộc khủng nợ công ở khu vực đồng Euro đã tác động mạnh đến
niềm tin của giới đầu tư vào đồng Euro. Đồng Euro sụt giảm mạnh trong quý
I/201016 (giảm khoảng 14% so với USD), khi cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy
Lạp trở thành vấn đề cấp bách của toàn nền kinh tế EU cũng như toàn cầu. Điều mà
giới đầu tư lo lắng là cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp sẽ lan rộng sang các
"nước yếu" ở châu Âu. Theo nhiều chuyên gia, sau Hy Lạp, quốc gia có khả năng
"lâm nạn" cao nhất là Tây Ban Nha, đất nước đang chìm sâu trong suy thoái. Quốc
gia láng giềng của Tây Ban Nha là Bồ Đào Nha cũng là một mắt xích dễ đứt17.
Trong bối cảnh như vậy, những hành động phối hợp chính sách cứu trợ Hy Lạp và
ngăn ngừa hiệu ứng đôminô khủng hoảng nợ công của EU, IMF, ECB và FED như
trình bày ở trên là kịp thời và đảm bảo ổn định hệ thống.
Xu hướng "Euro mất giá, USD lên giá" càng rõ nét : Vấn đề khủng hoảng nợ
công tại EU nói chung18 và tại Hy lạp nói riêng đã làm suy yếu mạnh độ tín nhiệm
và giá trị của đồng Euro, khiến đồng tiền này giảm giá xuống mức thấp nhất so với
đồng USD trong vòng 4 năm qua.19 Trên thị trường ngoại hối quốc tế, xu hướng
15 Ngày 8/12/2009, hãng xếp hạng tín dụng quốc tế Fitch đã hạ thấp xếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ "A-
" xuống "BBB+"; Nợ công của Hy Lạp dự đoán ở mức 125% trong năm 2010. Thâm hụt ngân sách của Hy
Lạp có thể là 13%GDP.
16 Trong quý I/2010, tỷ giá EUR/USD đã sụt giảm nhanh từ 1 Euro đổi 1,3495USD xuống còn 1 Euro đổi
1,254USD, gần mức thấp kỷ lục 1 Euro đổi 1,25USD của 14 tháng trước. Ngày 18/5/2010 tại New York,
USD. Trên thị trường New York vào cuối phiên, đồng Euro chỉ đổi được 1,2162USD - mức thấp nhất kể từ
ngày 17/4/2006. Sang ngày 19/5/2010 tại thị trường châu á, đồng Euro tiếp tục chịu sức ép giảm xuống
mức thấp kỷ lục mới 1,2144USD.
17 Thông thường, mức thâm hụt tương đương 10% GDP ở giới hạn nguy hiểm và có thể khiến chi phí lãi
vay tăng vọt. Tính đến cuối năm 2009, thâm hụt ngân sách/GDP của Tây Ban Nha là 11,2%GDP và dự
kiến sẽ tăng vọt trong năm 2010. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp của Tây Ban Nha giờ lên tới 20%. Ước
tính Tây Ban Nha cần khoảng 150 tỷ euro để bù đắp cho ngân sách trong năm tài chính hiện nay.
18 Hiện 13 trong số 16 nước thành viên khu vực này có mức thâm hụt ngân sách quá cao, trong đó nghiêm
trọng nhất là (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia, Ai-len (Nhóm PIIS).
19 Trong 6 tháng qua, đồng Euro đã mất giá tới 17,6% so với đồng USD. Tỷ giá đồng tiền chung của khối
rơi xuống mức một Euro chỉ còn đổi được 1,2237 USD vào lúc 14 giờ chiều 17/5/2010 (giờ Hà Nội) trên
"Euro mất giá, USD lên giá" đã xuất hiện rõ nét. Sự đảo chiều của tỷ giá USD/Euro
chắc chắn sẽ có những tác động sâu rộng đối với quan hệ kinh tế quốc tế trong thời
gian tới.
Phối hợp chính sách ứng phó khủng hoảng nợ công diễn ra đồng loạt và
mạnh trên quy mô toàn cầu : Tình trạng khủng hoảng nợ Hy Lạp diễn biến xấu đi
nhanh chóng đã "kích hoạt" hàng loạt các hành động chính sách phối hợp ứng phó
khẩn cấp trên quy mô toàn cầu trong tháng 5/2010. Các bước hành động mau lẹ,
quyết đoán này đã bước đầu ngăn chặn nguy cơ "vỡ nợ quốc gia" của Hy Lạp, sự
sụp đổ niềm tin vào đồng Euro và cơn hoảng loạn trên thị trường tài chính toàn cầu.
Chuỗi hành động này cũng cho thấy các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, các nền
kinh tế chủ chốt và các Ngân hàng TW lớn đã rút được nhiều bài học từ cuộc khủng
hoảng suốt 2 năm qua và phối hợp chính sách ứng phó khủng hoảng toàn cầu tốt
hơn.
Các tổ chức quốc tế và khu vực vẫn lạc quan về triển vọng kinh tế năm 2010
bất chấp nguy cơ khủng hoảng nợ công vẫn lớn : Điều đáng lưu ý là trong bối cảnh
khủng hoảng nợ công Châu Âu khẩn cấp như vậy, các tổ chức quốc tế và khu vực
vẫn đa ra những dự báo lạc quan cho tăng trưởng kinh tế EU và toàn cầu năm 2010
và nhận định đồng Euro sẽ không sụp đổ như giới bình luận nhận định. Đây có thể
là một cách "trấn an" công chúng và giới đầu tư trong cơn hoảng loạn. Tuy nhiên,
những tác động của tình trạng khủng hoảng nợ công tại EU và đồng "Euro yếu" đối
với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là tác động với một độ trễ nhất định tới các nền
kinh tế hướng xuất khẩu vào thị trường EU, là không thể xem nhẹ.
Mặc dù những nguy cơ đối với sự ổn định tài chính toàn cầu đã giảm bớt do
tác động từ quá trình hồi phục kinh tế, nhưng lo lắng về rủi ro nợ ở các nước phát
triển có thể hủy hoại những cải thiện về ổn định và kéo dài giai đoạn sụp đổ tài
chính. Bốn nhóm biện pháp chính sách được IMF khuyến nghị cho việc quản trị
nền kinh tế thế giới hiện nay gồm : (1) Xử lý thận trọng thâm hụt ngân sách nhằm
tránh đẩy cuộc khủng hoảng sang giai đoạn mới; (2) Thực hiện tốt chiến lược thoát
khủng hoảng, đảm bảo tạo ra một hệ thống tài chính lành mạnh và có quy mô thích
hợp để có thể cung cấp nguồn tín dụng cho khu vực tư nhân; (3) Triển khai các
công cụ tài chính để xử lý hiểm họa từ các nguồn vốn đầu t mạnh; (4) Thúc đẩy cải
tổ quy chế, cải thiện thị trường vốn, tăng cường xử lý rủi ro, giảm chi phí cứu trợ
các thể chế tài chính.
thị trường hối đoái quốc tế. Đồng Euro bắt đầu được giao dịch từ tháng 01/1999 với tỷ giá
1,1837USD/Euro, giảm kỷ lục vào tháng 10/2000 ở mức 0,8230USD/Euro và sau đó đã tăng trở lại với
mức kỷ lục 1,6038 USD/Euro vào tháng 07/2008, khi các nhà đầu tư bỏ qua đồng USD trong cuộc khủng
khoảng tài chính toàn cầu.
Giảm bớt tình trạng nợ nần của thế giới là một nhiệm vụ đầy gian nan. Việc
rút lui khỏi các biện pháp kích thích tăng trưởng sẽ chỉ giúp giảm chi tiêu công một
khoản tương đương 1,5% GDP và các nước sẽ phải giảm chi tiêu công nhiều gấp 3
lần con số này để ổn định tỷ lệ nợ công/GDP. Để làm được điều đó, các nước sẽ
phải thực hiện thêm các biện pháp quyết liệt như tăng thuế và cắt giảm các chương
trình phúc lợi. Rõ ràng, để bù đắp cho nhu cầu giảm sút trong nước, các nước giàu
có thể sẽ cần phải giảm tỷ giá đồng nội tệ để kích thích xuất khẩu. Mặt khác, các
nền kinh tế mới nổi sẽ chịu sức ép nâng giá đồng nội tệ để hỗ trợ giảm bớt những
mất cân đối toàn cầu. Đây là xu hướng chính sách vĩ mô mà các chính phủ cần
quan sát và có biện pháp ứng phó phù hợp.
4- Nhận định chung
Mặc dù đà phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn đang duy trì trong nửa
đầu năm 2010, một trong những điểm dễ tổn thương nhất của quá trình phục hồi
kinh tế thế giới hiện nay chính là nguy cơ về một cuộc khủng hoảng nợ công toàn
cầu với tâm bão là EU. Tính bền vững của cán cân tài khóa đang là câu hỏi thường
trực của nhiều chính phủ. Các gói kích thích kinh tế đã đẩy tổng số nợ công toàn
cầu lên con số 35.000 tỷ USD trong năm nay và dự báo có thể lên tới 45.000 tỷ
USD vào năm 201020. Đáng lo ngại là mức thâm hụt tài khóa của một loạt nền kinh
tế lớn đã tăng vọt trong năm 2008 - 2009 như là một hệ quả tất yếu của những gói
cứu trợ và kích thích kinh tế khổng lồ.21 Để phòng tránh nó, nhiều chính phủ bắt
đầu lên các chơng trình "thắt lưng buộc bụng" cắt giảm chi tiêu để không làm cho
các "quả bom nợ công" phìng to lên. Do đó, khả năng tốc độ tăng trường kinh tế thế
giới chậm lại vào nửa cuối năm 2010 hoặc trong năm 2011 vẫn không thể loại trừ.
(Theo nguồn tài liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Ngoại giao; Viện Khoa
học và Xa hội Việt Nam).
20 Xem TTXVN (18/9/2009): "Nợ công của thế giới lên tới hơn 35.000 tỷ USD";
21 Theo ước tính của IMF (T.4/2009), tỷ lệ nợ công/GDP của các nền kinh tế phát triển sẽ tăng 20 điểm %
trong năm 2009, khoảng 1/4 của sự gia tăng này là do các gói hỗ trợ tài chính. Đối với các nền kinh tế
phát triển trong G.20, cán cân tài khóa sẽ xấu đi nghiêm trọng, thâm hụt ngân sách trung bình sẽ ở mức
9,75% GDP, tăng tới 8,0 điểm % so với năm 2007, trong đó các gói hỗ trợ khu vực tài chính và kích thích
kinh tế đóng góp một nửa vào sự "xấu đi" này. Đối với các nền kinh tế mới nổi trong Nhóm G.20, cán cân
tài khóa xấu đi ít hơn và chủ yếu là do giá hàng hoá và tài sản giảm. IMF cũng ước tính nếu tăng trưởng
GDP giai đoạn 2009-2010 thấp hơn, giảm thêm 1 điểm %/năm, thâm hụt ngân sách trung bình sẽ tăng
thêm tương ứng 1 điểm %/năm và tỷ lệ nợ công/GDP sẽ tăng tương ứng thêm 6 điểm % năm vào năm
2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo khoa học KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU Á TỪ SAU KHỦNG HOẢNG ĐẾN NAY.pdf