Tài liệu Báo cáo Khái quát về công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội: Lời mở đầu
Trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mọi doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác phải biết đổi mới cho phù hợp từ việc nghiên cứu xem sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào đến việc tổ chức điều hành sản xuất ra sao để với chi phí thấp nhất sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Đứng trước thực tế như vậy Hacatex cũng không ngừng vận động luôn bám sát để nắm bắt sự thay đổi của thị trường, mạnh dạn áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tổ chức điều chỉnh lại cơ cấu lao động, tác phong làm việc công nghiệp trong công ty … Với mục tiêu chất lượng sản phẩm đặt lên hàng đầu, sản phẩm của HACATEX dù còn mới mẻ nhưng đã nhanh chóng được thị trường nội địa chấp nhận và trong tương lai khô...
140 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Khái quát về công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mọi doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác phải biết đổi mới cho phù hợp từ việc nghiên cứu xem sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào đến việc tổ chức điều hành sản xuất ra sao để với chi phí thấp nhất sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Đứng trước thực tế như vậy Hacatex cũng không ngừng vận động luôn bám sát để nắm bắt sự thay đổi của thị trường, mạnh dạn áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tổ chức điều chỉnh lại cơ cấu lao động, tác phong làm việc công nghiệp trong công ty … Với mục tiêu chất lượng sản phẩm đặt lên hàng đầu, sản phẩm của HACATEX dù còn mới mẻ nhưng đã nhanh chóng được thị trường nội địa chấp nhận và trong tương lai không xa sản phẩm của công ty sẽ vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Trong thời gian ngắn ngủi chỉ có 7 tuần thực tập tại Công ty nhưng em đã thấy một không khí làm việc rất sôi nổi, nó giúp em hiểu được thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất nói chung và của công ty nói riêng trong cơ chế thị trường, giúp em so sánh, kiểm nghiệm và áp dụng những gì mình đã được lĩnh hội từ các thầy cô đến thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú trong công ty nhất là các cô chú trong phòng Tổ chức hành chính đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Mạnh Hùng - giảng viên khoa Kinh tế đã nhiệt tình hướng dẫn em, giúp em hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2004
Sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Dương
Phần I:
khái quát về cônG ty dệt vải công nghiệp hà nội
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội.
Năm 1967 trong giai đoạn Miền Bắc đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, một nhà máy dệt chăn thuộc Liên hiệp dệt Nam Định đã sơ tán lên Hà Nội và tạo cơ sở xản xuất chăn chiên tại xã Vĩnh Tuy huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Bước khởi đầu này nhà máy gặp không ít khó khăn như quy trình công nghệ thủ công lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ ngèo nàn, hơn nữa trước kia nhà máy tận dụng nguồn nguyên liệu từ phế liệu bông sợi rối của Liên hiệp dệt Nam Định thì bây giờ để có nguyên liệu đảm bảo tiếp tục sản xuất nhà máy phải thu mua nguyên liệu từ nhiều nguồn khác nhau như Dệt 8-3, Dệt Kim đông xuân…nhưng nguồn nguyên liệu này cũng được cung cấp thất thường không đều đặn. Chính vì vậy mà trong thời gian này nhà máy liên tục làm ăn thua lỗ và phải trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước.
Cho đến năm 1970 trong công cuộc miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự giúp đỡ to lớn của nước bạn Trung Quốc một dây chuyền sản xuất vải mành từ sợi bông để làm lốp xe đã được lắp đặt tại nhà máy, đến năm 1972 dây chuyền này chính thức đi vào hoạt động và sản xuất ổn định đã mở ra một trang sử mới, một hướng đi mới đầy triển vọng cho nhà máy.
Sản phẩm của nhà máy cung cấp cho nhà máy cao su Sao Vàng để làm lốp xe đạp và cung cấp cho một số công ty thương mại khác ở miền Bắc. Sản phẩm này đã mang lại lợi nhuận cho nhà máy và góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh năm 1973 nhà máy lắp thêm dây chuyền sản xuất vải bạt để làm bạt, giầy vải… Trong cùng thời gian này nhà máy đã chuyển giao lại dây chuyền sản xuất chăn chiên cho Liên hiệp Dệt Nam Định sau đó đổi tên lại thành nhà máy Dệt vải công nghiệp Hà Nội.
Với công nghệ mới và hướng đi đúng đắn đã giúp nhà máy từ chỗ làm ăn thua lỗ, quy mô nhỏ với tổng vốn đầu tư ban đầu chỉ 475.406VNĐ (thời giá năm 1968), số cán bộ công nhân viên chỉ 174 người trong đó có 144 công nhân trực tiếp sản xuất, đến năm 1988 -sau hơn 10 năm hoạt động tổng vốn đầu tư đă lên tới trên 5 tỷ VNĐ (thời giá năm 1968), tổng sản lượng đạt trên 10 tỷ VNĐ và số cán bộ công nhân viên lên tới 1.079 người trong đó có 986 công nhân trực tiếp sản xuất. Điều này chứng tỏ mặc dù trong cơ chế bao cấp sản xuất kinh doanh dưới sự chỉ đạo của Nhà nước nhưng nhà máy đã không lệ thuộc mà luôn nỗ lực phấn đấu để ngày càng phát triển.
Năm 1988 nhà máy đạt đỉnh cao về tiêu thụ sản phẩm, gồm có: 3,308 triệu m2 vải mành và 2,8 triệu m2 vải bạt các loại. Song song với việc sản xuất nhà máy tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng như: văn phòng, nhà xưởng, kho bãi, khuôn viên trong nhà máy cùng với việc không ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt hơn cho công nhân. Đây có thể coi là thời kỳ tăng trưởng của nhà máy.
Trước thực trạng đất nước vào giữa thập kỷ 1980 đầy những khó khăn gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế nước nhà. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã có sự đổi mới về tư duy kinh tế, cụ thể là trong chỉ thị số 10 của Bộ Chính Trị đã nêu rõ: xoá bỏ cơ chế hành chính bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh dưới sự quản lý của Nhà nước.
Vào những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 tình hình trên thế giới cũng hết sức phức tạp, sự khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và nhất là sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền chính trị và kinh tế Việt Nam, các yếu tố đầu vào bị hạn chế như vốn, nguyên liệu…, các sản phẩm đầu ra bị thu hẹp thị trường tiêu thụ truyền thống.
Trước những thực tế như vậy đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam không ít những cơ hội phát triển nhưng cũng đầy những khó khăn và thử thách, nó đòi hỏi phải có sự thay đổi để thích ứng với một thời cuộc mới.
Trong bối cảnh như vậy, để bóc tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước, tự chủ trong việc sản xuất và kinh doanh nhà máy đã đề ra hàng loạt các giải pháp như: tinh giản bộ máy, tổ chức sắp xếp lại cơ cấu lao động, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tìm tòi áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, tập chung vào những cái thị trường cần để đáp ứng được mọi nhu cầu đa dạng của thị trường…. Bằng tất cả những nỗ lực đó nhà máy đã hạn chế được những khó khăn và tận dụng được những cơ hội mới để phát triển. Với cơ chế kinh tế mới nhà máy đã dần dần khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
Ngày28 tháng 8 năm 1994 để phù hợp với việc sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, Bộ công nghiệp đã quyết định đổi tên Nhà máy Dệt vải công nghiệp Hà Nội thành Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội. Tên giao dịch của công ty là: haicatex viết tắt của: Ha noi Intrustrial Cavas Textile Company.
Hiện nay Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội là một thành viên của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, vẫn thuộc loại hình Công ty Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp Nhà nước (trước đây là Luật Công ty) và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty. Tổng công ty tạo điều kiện cho công ty mở rộng thị trường ra nước ngoài về xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu nguyên vật liệu vì phần lớn nguyên liệu của Công ty phải nhập từ nước ngoài.
Tuy vậy, Công ty vẫn hoạt động theo cơ chế hạch toán độc lập và chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình không ngừng cải tiến về bộ máy quản lý cũng như công nghệ để nâng cao năng xuất sản xuất và chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Cuối những năm 1990 mặt hàng vải bạt của Công ty đã bước vào giai đoạn suy thoái và vải mành phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm ngoại nhập cả về chất lượng và giá cả. Đứng trước thực trạng đó vào đầu những năm 2000, Công ty đã nghiên cứu và mạnh dạn đầu tư, thay thế hàng loạt các máy móc thiết bị mới. Cụ thể năm 2002 đã có ba dự án đi vào hoạt động:
-Tháng 1/2002 đầu cuộn vải của dây chuyền nhúng keo được thay thế với tổng mức đầu tư trên 2 tỷ đồng và kết quả là chấm dứt được lỗi ngoại quan của vải mành nhúng keo như lồi, lõm bề mặt nhũn xốp, mặt bên không phẳng, giảm 99% lỗi loại B&C….
- Tháng 9/2002 Công ty đầu tư thêm hai máy xe allmasaurer của Cộng hoà liên bang Đức và một máy dệt mành picanol của Bỉ vào sản xuất với tổng vốn đầu tư 21.970.494.400 VNĐ. Dây chuyền này có năng suất tăng gấp từ 5 đến 7 lần so với dây chuyền cũ.
- Và đặc biệt phải kể đến là dây chuyền sản xuất vải không dệt lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam, dây chuyền này được khởi công lắp đặt vào tháng 11/2001 và đến tháng 10/2002 được đưa vào sản xuất để kỷ niệm ngày Giải phóng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư cho dây chuyền này lên tới 63.622.939.000VNĐ. Đây là dây chuyền khá hiện đại có mặt lần đầu tiên tại Việt Nam với quy trình sản xuất hoàn toàn tự động. Vải không dệt được sử dụng cho các ngành công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, đồ gia dụng (như làm thảm)….
Mặc dù mới đi vào sản xuất được hơn một năm nhưng sản phẩm Vải không dệt đã trở thành ngành hàng chủ lực của Công ty. Quý IV/2002- 412.342 m2 thành phẩm đã được tiêu thụ và đem lại doanh thu là 2.908 triệu đồng, năm 2003 tiêu thụ được 4.960.000 m2 tương ứng với 26.181 triệu đồng. Tuy nhiên đây là sản phẩm lần đầu tiên được sản xuất trong nước, nguyên liệu hoàn toàn nhập ngoại nên cũng còn rất nhiều khó khăn trước mắt đòi hỏi Công ty phải có một chiến lược phù hợp để tìm được chỗ đứng trên thị trường…
Năm 2004 dự tính Công ty sẽ đầu tư thêm 4 máy dệt mành của Trung Quốc và thay thế bộ chỉnh tâm, miệng hút keo của máy nhúng keo…
Sau gần 40 năm hình thành và phát triển Công ty Dệt vải Công nghiệp đă từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường cũng như trong công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành để thay thế hàng ngoại nhập và ngày càng vươn xa hơn nữa ra thị trường khu vực và thế giới. Bên cạnh đó công tác tổ chức luôn được đặc biệt quan tâm nhằm tạo lập tác phong công nghiệp cho người lao động hoàn thiện bộ máy quản lý gọn nhẹ cơ cấu sản xuất kinh doanh năng động, hiệu quả thích ứng cao hơn trong cơ chế thị trường. Năm 2002 Công ty đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000.
Vượt qua hàng ngàn những khó khăn và thử thách từ một nhà máy sản xuất lạc hậu với quy mô nhỏ tới nay sau gần 40 năm trưởng thành Công ty đã có 9 chi nhánh giới thiệu sản phẩm trải rộng khắp ba miền đất nước. Công ty cũng đã hai lần nhận được huân chương lao động hạng II và hạng III của Nhà nước trao tặng cùng nhiều danh hiệu cao quý tại các hội chợ, triển lãm trong nước. Hàng năm công ty đã tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động dư thừa góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội ....
Hiện nay Công ty gồm 4 xí nghiệp:
Xí nghiệp sản xuất vải bạt.
Xí nghiệp sản xuất vải mành.
Xí nghiệp sản xuất vải không dệt.
Xí nghiệp may.
(Như đã nói ở trên sản phẩm vải bạt đã bước vào giai đoạn suy thoái
nên sớm muộn nó sẽ được thay thế bằng một mặt hàng khác)
Tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 782 người (tính đến hết 31/12/2003) trong đó có 672 công nhân sản xuất. Lao động của công ty đa phần là lao động nữ chiếm khoảng 75%. Trình độ của người lao động được Công ty rất chú trọng: Trình độ ĐH và trên ĐH chiếm 6,5%; THCN& CĐ chiếm:6.79%; thợ bậc 6+7là:11,69%; thợ bậc 5 là:20,69%; thợ bậc 3+4là :17,29%. Tuy nhiên tỷ lệ này chưa cao, Công ty cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động ngày càng được quan tâm …
Thành công của Haicatex đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển của ngành dệt may Việt Nam và trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
II. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của haicatex :
1-Nhiệm vụ sản xuất sản phẩm của Công ty:
Công ty chuyên sản xuất các loại vải công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp khác như giao thông, thuỷ lợi, sản xuất đồ dân dụng….Tuỳ vào tính năng của mỗi loại mà nó đáp ứng cho mỗi ngành nghề khác nhau. Công ty sản xuất 4 loại sản phẩm:
Vải Mành :Vải mành được sản xuất để cung cấp cho ngành công nghiệp làm lốp ô tô, xe máy, xe đạp…Sản phẩm của Công ty được tiêu thụ bởi Công ty Cao su SaoVàng, Công ty Cao su Đà Nẵng…
Vải Bạt : Sản phẩm này được sử dụng làm bạt, bao tải hàng nhẹ, làm giầy vải trong quân đội, găng tay, quần áo bảo hộ lao động…
Vải Không Dệt: gồm Vải địa kỹ thuật và Vải lót giầy –Vải địa kỹ thuật được sử dụng để làm đường chống lún, đê kè thuỷ lợi…
--Vải lót giầy được cung cấp cho nhà sản xuất giầy, làm thảm, lót thành ô tô,…
Sản phẩm May: Ngoài các sản phẩm may mặc thông thường Công ty thường xuyên nhận các hợp đồng may quần áo bảo hộ cho các Công ty lớn như Dệt 8/3, Honda, Lilama…, hợp đồng may áo Jaket cho Hàn Quốc, Anh…Trong những năm gần đây sản phẩm của Công ty đã xâm nhập vào thị trường Mỹ và EU với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Các sản phẩm của công ty được sản xuất chủ yếu từ sợi Nylon6.6.6, PA (sản xuất vải mành), xơ PES, PP (sản xuất vải không dệt),sợi Cotton,PC, PE (sản xuất vải bạt)…Các loại sợi này được nhập từ Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…….
Sử dụng nhiên liệu là điện và than.
Hoá chất nhúng keo là VP latex, SBR latex và Resorcinol.
Hiện là công ty duy nhất tại Việt Nam sản xuất các loại vải công nghiệp nên chiếm khá nhiều ưu thế kinh doanh. Tuy nhiên sản phẩm của công ty vẫn bị canh tranh bởi một số hàng ngoại nhập cả về giá cả và chất lượng, một phần do máy móc thiết bị của ta chưa sánh kịp một phần do nguyên vật liệu của ta phải nhập từ nước ngoài nên giá cả sản phẩm còn cao.Trong thời gian tới công ty sẽ gặp không ít khó khăn khi Hiệp định cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được áp dụng vào năm 2006 đối với các nước ASEAN khi đó thuế nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 0-5% và tiến tới Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2005 sẽ mở ra không ít cơ hội nhưng cũng đầy khó khăn và thách thức.
Cùng với việc cố gắng hoàn thành tốt các mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình công ty cũng cố gắng hoàn thành tốt nhịệm vụ của mình đối với nhà nước, dưới đây là tình hình thực hiện nghĩa đóng góp vào Ngân sách nhà nước(NSNN) của công ty trong ba năm gần đây:
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
02/01(%)
03/02(%)
Nộp NSNN(tr.đ)
11.715
12.89
23.8465
110.03
185
Nhìn bảng trên ta thấy chỉ tiêu nộp NSNN của công ty tăng khá cao trong mấy năm vừa qua, nó thể hiện sự lỗ lực không ngừng của công ty.
2- Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty:
Haicatex bao gồm 4 xí nghiệp thành viên:
Xí nghiệp Bạt
Xí nghiệp Mành
Xí nghiệp Vải Không Dệt
Xí nghiệp May
Tương ứng sản xuất 4 loại sản phẩm mỗi sản phẩm có một quy trình sản xuất khác nhau, công nghệ sản xuất độc lập, mức độ phức tạp của mỗi quy trình phụ thuộc vào yêu cầu sản xuất của từng loại sản phẩm.
* Quy trình sản xuất Vải Mành Nhúng Keo: Với nguyên liệu từ sợi PA, Nylon6.6.6 (hiện nay vẫn phải nhập từ nước ngoài) trải qua ba công sản xuất chính: xe, dệt , nhúng keo ta có thành phẩm là: Vải mành 840D/1; 840D/2; 1260D/2 được sử dụng để làm lốp ô tô, xe máy, xe đạp…
* Quy tình sản xuất vải không dệt: Vải không dệt được sản xuất từ sơ PES, PP nhập từ nước ngoài với các sản phẩm HD130, HD180, HD200,... được sử dụng trong giao thông, thuỷ lợi, đồ gia dụng,... Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại, tự động hoá từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm cuối cùng dây chuyền này được chuyển giao từ tập đoàn DILO-CHLB Đức( tập đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất vải không dệt theo công nghệ xuyên kim. Với công suất đạt khoảng 10.000.000 m2/năm sản phẩm của dây chuyền này đang là một trong các ngành hàng chủ lực của công ty. Sản phẩm này đã có mặt ở một số công trình tiêu biểu như: Đường Cầu Rào -Đồ Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tp. Hồ Chí Minh....
* Quy trình sản xuất vải bạt: Vải bạt được sử dụng làm giầy vải, bao tải, bảo hộ,... đượoc chế xuất từ sợi cotton, PC, PE sản phẩm có các loại vải Bạt3x3, Bạt 178, Bạt 3419. Hiện nay quy mô của dây chuyền này đang được công ty thu nhỏ lại vì chu kỳ sống của sản phẩm này đã bước vào giai đoạn suy thoái.
* Quy trình sản xuất sản phẩm may: Đây là ngành hàng còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm, không đồng bộ nên quy mô còn nhỏ chưa cạnh tranh đưowcj với thị trường trong nươc . Tuy nhiên trong hai năm vừa qua sản phẩm của công ty đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ và Châu Âu với tổng sản lượng tăng đáng kể cụ thể năm 2003 tăng 210% so với 20002 và dự kiến năm 2004 sẽ tăng 130% so với 2003.
Các quy trình sản xuất được mô tả như sau:
Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Vải mành nhúng keo
Sợi dọc
Xe lần 1
Sợi đơn
Xe lần 2
Sợi đơn
Sợi ngang
Kiểm tra
Nhập kho
Xe suốt
Kiểm tra
Kiểm tra vải
Dệt vải mành
Sâu go
Nhúng keo
Đóng gói, nhập kho thành phẩm
Chỉnh sửa
Chỉnh sửa
Lỗi
Đạt
Đạt Lỗi
Đạt
Đạt
Lỗi
Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Vải Bạt
Sợi
Lờ , dồn
Đánh ống
Xe suốt
Đậu sợi
Suốt ngang
Sợi ngang
Đóng kiện
Hoàn thiện
Dệt
Go
Nhập kho
Quy trình sản xuất vải không dệt
Xơ P.P, P.E
Hệ thống máy xuyên kim
Máy xếp chống
Máy xé trộn
Nhập kho thành phẩm
Máy trải
Đóng gói
Máy hoàn thiện
Quy trình công nghệ may
Nguyên liệu
( Vải)
Giáp mẫu , cắt
Kiểm tra
Chỉnh sửa
Vắt sổ
May
Hoàn thiện
(khuy cúc )
Là
Nhập kho
Đóng gói
Chỉnh sửa
Kiểm tra
Lỗi
Đạt
III. Đánh gía công nghệ sản xuất sản phẩm của Haicatex:
1. Một số lý luận chung về công nghệ sản xuất sản phẩm:
Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất hoặc thông tin. Công nghệ gồm hai phần:
Phần cứng : Bao gồm máy móc thiết bị cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ còn được gọi là phần vật chất.
Phần mềm: hay còn gọi là phần phi vật chất bao gồm những kỹ năng , kỹ xảo, kiến thức quản lý điều hành, phương pháp sản xuất bí quyết kỹ thuật.
Với định nghĩa như trên thì công ghhệ bao gồm:
Trang thiết bị (Technoware)
Kỹ năng (Humanware)
Thông tin (Infoware)
Tổ chức (Organware)
Trên đây là quan niệm về công nghệ của tổ chức kinh tế xã hội Thái Bình Dương-ESCAP. Theo tổ chức UNCTAD thì một số hoạt động sau đây cũng thuộc phạm trù công nghệ:
1-Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư. Đây là việc làm quan trọng vì nó giúp cho nhà đầu tư biết được liệu có khả năng đầu tư vào thị trường đó không ? Thị trường đó có đặc điểm gì? Sản phẩm của công nghệ có đủ sức cạnh tranh trên thị trường không ? Môi trường đầu tư thế nào?...Tất cả những hoạt động này sẽ hạn chế rủi ro trong quyết định đầu tư.
2-Thu thập thông tin về một số kỹ thuật sẵn có và sẽ có trong tương lai gần. Trên cơ sở đó nhà đầu tư phải tìm hiểu, lựa chọn kỹ thuật thuộc công nghệ nào cho phù hợp với dự định phát triển sản xuất hàng hoá của mình. Những thông tin kỹ thuật này còn là tiền đề quan trọng cho sự lựa chọn đúng đắn chiến lược kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp.
3-Thiết kế kỹ thuật là làm cho máy móc thiết bị kỹ thuật sẵn có phù hợp với quy trình công nghệ, phù hợp với đăc điểm điêù kiện tự nhiên tạinơi xây dựng nhà máy.
4-Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị. Trên cơ sở các thiết kế sẵn có tiến hành xây dựng và lắp đặt trang thiét bị như : xây dựng nhà xưởng, hệ thông giao thông, thoát nước lắp đặt máy móc thiết bị chính, phụ trợ, hệ thống điệ cấp nước,….
5-Phát triển công nhân tức là tri thức về bản thân quá trình vận hành sản xuất bao gồm quản lý điều hành, đào tạo công nhân kỹ thuật, bồi dưỡng kỹ năng, kỹ xảo, thông tin về thị trường liên quan đến sản phẩm, năng lực cải tiến để nâng cao hiệu quả sản xuất và hiệu quả sử dụng bí quyết kỹ thuật.
Công nghệ không phải là khái niệm bất biến, mà nó luôn lôn biến đỏi sao cho phù hợp và thích ứng với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật trong một giai đoạn cụ thể. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật như hiện nay công nghệ rất nhanh chóng bị lạc hậu bởi công nghệ mới tiên tiến không ngừng xuất hiện. Nắm rõ quy luật này Công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội đã không ngừng đầu tư đổi mới trang thiết bị, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, cập nhật thông tin để có sự thay đổi linh hoạt và đặc biệt là cách thức tổ chức quản lý khoa học… Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Trang thiết bị: Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Để cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, khẳng định vị trí của mình ở thị trường trong nước và có cơ hội nắm bắt thị trường nước ngoài, công ty đã đầu tư hàng loạt máy móc thiết bị mới.Nổi bật nhất là năm 2002 có nhiều dự án đầu tư đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng như: Thay thế bộ Loadcell đo lực căng mới của Đức, bộ tín hiệu cũ của Trung Quốc được thay thế bằng bộ khuyếch đại kỹ thuật số đảm bảo các thông số đo lực căng của vải ổn định, cải tạo hệ thống lò dầu, hai máy xe sợi của tập đoàn ALLMA SAURER- CHLB Đức và Một máy dệt cao tốc PICANOL của Bỉ có công suất tăng từ 5 đến 7 lần so với máy cũ của Trung Quốc góp phần nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm, tạo khả năng sản xuất thên nhièu mặt hàng mới mang tính chiến lược như: vải lốp xe máy, ô tô tải nặng 1260D/2; 1260D/3; 1890D/2... Thị phần vải mành của công ty ngày càng cao có mặt tại các công ty Cao su lớn trên khắp đất nước như Công ty Cao su Sao Vàng; Cao su Đà Nẵng; Cao su Miền Nam và một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài như: Công ty Shinfa,Công ty Thời ích và Fungkeong của Malaysia... Đặc biệt là dây chuyền sản xuất Vải không dệt có vốn đầu tư là 63.622.939.000 VNĐ, đây là dây chuyền hiện có duy nhất tại Việt Nam. Quy trình sản xuất hoàn toàn tự động, tuy mới đi vào sản xuất nhưng đã đem lại doanh thu khá cao cho công ty...
Vải mành và Vải không dệt tuy có ưu thế là đơn vị duy nhất ở Việt Nam sản xuất hai mặt hàng này, được đằu tư trang thiết bị và dây chuyền sản xuất hiện đại nhưng còn gặp nhiều trở ngại như: chịu áp lực của hàng ngoại nhập với giá thành hạ, sự biến động của giá dầu mỏ trên thế giới và việc cắt giảm sản lượng lắp giáp xe máy dẫn đến giảm sản lượng tiêu thụ lốp xe... Tuy nhiên cũng có những dấu hiệu đáng mừng cho sản phẩm vải địa kỹ thuật vì hệ thống giao thông phát triển trên khắp đất nứơc từ nông thôn đến thành thị, hệ thống đê kè thuỷ lợi cũng ngày được quan tâm áp dụng những kỹ thuật cao... Đứng trước thực tế đó công ty đã không ngừng tìm hiểu xu thế của thị trường để nắm bắt thông tin, khảo sát tìm nguồn nguyên liệu tốt để hạ giá thành sản phẩm, nghiên cứu thị hiếu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm mới phù hợp hơn... Song song với việc nâng cao hiệu quả của công tác sau đầu tư, công tác tổ chức cũng luôn được công ty quan tâm, đổi mới.
Công tác tổ chức: để thích ứng cao hơn với cơ chế thị trường và để phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật công ty đã luôn cố gắng để hoàn thiện cơ cấu lao động của mình như:
- Tinh gỉam lao động, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả
- Phân công lao động hợp lý đúng người đúng việc.
- Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên như: Nhân viên văn phòng không dưới trình độ Trung cấp; Công nhân trực tiếp sản xuất phải có tay nghề trình độ nhất định và say mê công việc; Nhân viên kỹ thuật phải có tay mghề cao được đào tạo từ những trường CĐ, ĐH có chất lượng.Thực tế trong những năm gần đây cán bộ kỹ thuật của công ty được tuyển dụng từ các trường ĐH Bách Khoa, CĐ KT KT CNI,....
- Tuyển dụng khi thật cần thiết, tránh tình trạng thân quen kém chất lượng vì điều này ảnh hưởng đến chất lượng công việc.
- Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân để họ nắm bắt kịp thời tình hình phát triển của khoa học kỹ thuật, nghiêm khắc loại bỏ những lao động kém hiệu quả ra khỏi chuyền.
- Xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động, nghiêm khắc loại bỏ những lao động kém hiệu quả ra khỏi chuyền.
- Có chế độ khen thưởng kỷ luật rõ ràng, quan tâm hợp lý đến bản thân và gia đình người lao động để khuyến khích họ hăng say làm việc. Luôn luôn tạo cơ hội cho họ phát huy hết khả năng của mình
.............
Mặc dù có nhiều cố gắng để kiện toàn bộ máy cuả mình song nói chung tỷ lệ CĐ, ĐH của công ty còn thấp chiếm dưới 10%, nên cần có biện pháp điều chỉnh thiết thực hơn nữa.
Công ty cần thừơng xuyên có sự hợp tác, trao đổi thông tin với người lao động để phát huy sự sáng tạo và khả năng tiềm ẩn trong mỗi người.
Quan tâm hơn nữa đến đời sống người lao động.
Thông tin (Infowave): Thông tin đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Thông tin là căn cứ để tiến hành xây dựng chiến lược của doanh nghiệp. Trong quá trình xác định các chỉ tiêu chiến lược, cần thiết tiến hành các tính toán dựa trên những thông tin xác thực về số lượng sức lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư , tiền vốn ...và sự kết hợp tối ưu giữa sức sản xuất với tư liệu sản xuất, để làm ra sản phẩm lớn nhất bằng chi phí nhỏ nhất. Xác định được vai trò đó công ty đã luôn bám sát thị trường mục tiêu nghiên cứu, tìm hiểu và sàng lọc xử lý thông tin về máy móc thiết bị, phương pháp sản xuất và về cả khách hàng ... từ đó sẽ giảm thiểu các rủi ro khi đưa ra quyết định sản xuất kinh doanh. Ví dụ như Vải không dệt hiện là một sản phẩm mới của công ty và cũng là sản phẩm lần đầu tiên được sản xuất trong nước, để sản phẩm của mình có thể thay thế hàng ngoại nhập thì công ty đã phải thu thập thông tin về thị trường, phân tích, xử lý để đưa ra chính sách về chất lượng và giá cả hợp lý .... đó cũng là một phần công nghệ
Như đã nói ở trên công nghệ luôn phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên trình độ phát triển của nó trong từng ngành lại có sự khác nhau, vì mỗi ngành lại bị chi phối bởi môi trường kinh doanh khác nhau nên lại có chỉ tiêu đánh giá riêng. Mỗi công nghệ sản xuất sản xuất sản phẩm lại có sự đánh giá khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất, đặc thù của từng sản phẩm.
IV- Cơ cấu sản xuất của công ty:
Là một đơn vị sản xuất kinh doanh nên bộ phận sản xuất trong công ty được chia làm ba phận chủ yếu: Bộ phận sản xuất chính; Bộ phận sản xuất phụ và Bộ phận phụ trợ. Các bộ phận tác động qua lại hỗ trợ cho nhau thành một hệ thống không thể tách rời.
Bộ phận sản xuất chính: Bộ phận sản xuất chính bao gồm các phân xưởng trực tiếp sản xuất
- Phân xưởng sợi: Có nhiệm vụ kéo sợi để cung cấp cho các phân xưởng dệt.
- Phân xưởng dệt: Có nhiệm vụ dệt thành các mảnh vải theo mẫu mã kích thước của phòng kỹ thuật đưa xuống.
- Phân xưởng nhúng keo:Có nhiệm vụ đưa những mảnh vải đã được dệt xong nhúng vào dung dịch keo và đưa vào nhập kho.
- Phân xưởng may: Có nhiệm vụ may các sản phẩm theo mẫu mã kích thước của phòng kỹ thuật đưa xuống.
- Phân xưởng vải không dệt: có nhiệm vụ sản xuất ra những tấm vải không dệt theo kích thước, mẫu mã và đóng gói theo quy định.
Bộ phận sản xuất phụ:
-Phân xưởng chuẩn bị: Có nhiệm vụ chuẩn bị nguyên liệu cho phân xưởng dệt.
Bộ phận phụ trợ:
- Trạm điện: Cung cấp điện năng cho sản xuất và sửa chữa máy móc bị hỏng.
- Xưởng cơ khí: Có nhiệm vụ sửa chữa các máy móc thiết bị khi có sự cố và trong điều kiện cho phép chế tạo ra các phụ tùng thay thế cho máy móc thiết bị của công ty.
Phòng Gian hàng Nhà xe
Bảo Vệ giới thiệu
sản phẩm
Nhà kho
P.
B.V
Xí nghiệp Mành- Nhúng Keo
Phân xưởng Mành
Xí nghiệp Bạt
Xí nghiệp Mành - Nhúng Keo
Phân xưởng Nhúng Keo
Nhà kho Công ty
Khu xử lý nước thải nhúng keo
Xí nghiệp May
Phân xưởng II
Nhà ăn công ty
Xí nghiệp Vải Không Dệt
Xí nghiệp May
Phân xưởng I
Xưởng Cơ Khí
PCCC
Y tế
C. ty
Nhà trẻ
Công ty
Mặt Bằng Sản Xuất Của Công Ty
V. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội:
1. Các cấp quản lý của công ty:
Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức thành hai cấp quản lý với mô hình trực tuyến chức năng. Đi kèm với với mỗi cấp quản lý là các phòng ban chức năng tham mưu cho mỗi cấp, cụ thể như sau:
Cấp I: Cấp công ty: Bao gồm Giám đốc công ty, hai phó giám đốc công ty cùng các phòng ban chức năng trợ giúp giám đốc. Các phòng ban chức năng kiểm tra và đưa ra các thông tin của toàn công ty về lĩnh vực mà mình theo dõi để báo cáo giám đốc. Giám đốc tên cơ sở những thông tin thu thập được hoặc trức tiếp hoặc gián tiếp sẽ đưa ra các quyết định. Các phòng ban gồm có:
- Phòng Tài chính - Kế toán
- Phòng Tổ chức - Hành chính
- Phòng Sản xuất - Kinh doanh
- Phòng Kỹ thuật - Đầu tư
- Phòng Bảo vệ quân sự
- Phòng dịch vụ đời sống
Cấp xí nghiệp : Công ty gồm có bốn xí nghiệp thành viên:
- Xí nghiệp Mành- Nhúng keo
- Xí nghiệp Bạt
- Xí nghiệp Vải không dệt
- Xí nghiệp May
Mỗi xí nghiệp đều có các giám đốc và phó giám đốc thực hiện chức năng quản lý và chức năng kỹ thuật đảm bảo sản xuất ổn định. Nhìn tổng quát cấp xí nghiệp gồm có: Phòng quản lý; Phòng kỹ thuật và Các tổ sản xuất.
2. Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận quản lý trong công ty:
Trong công ty tuỳ theo trách nhiệm và lĩnh vực cụ thể mà các thành viện trong ban giám đốc, các phòng ban chức năng, cũng như giám đốc các xí nghiệp có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng lại phối hợp chặt chẽ vơí nhau để đảm bảo cho sự hoạt động của công ty được nhịp nhàng ăn khớp.
Giám đốc công ty là người nắm quyền hành cao nhất và chịu trách nhiệm giám sát, điều hành mọi hoạt động của công ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước cấp trên về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Phó giám đốc có nhiệm vụ cố vấn trợ giúp cho giám đốc công ty trong công tác chỉ huy và điều hành các hoạt động của công ty, cụ thể như sau:
*Phó giám đốc Kỹ thuật sản xuất: Là người chỉ đạo trực tiếp các công tác kỹ thuật như: công nghệ sản xuất sản phẩm, máy móc thiết bị, kiểm tra chất lượng nguyên, nhiên vật liệu đầu vào , chất lượng sản phẩm đầu ra. Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất phụ trách các phòng: Sản xuất-Kinh doanh-Xuất nhập khẩu; Phòng Kế toán- Tài chính; Phòng Kỹ thuật- Đầu tư.
* Phó giám đốc tổ chức hành chính: Là người chỉ đạo trực tiếp các công việc về tổ chức hành chính như tuyển dụng, đào tạo lao động, chănm lo đời sống cán bộ công nhân viên và phụ trách các phòng: Tổ chức hành chính; Phòng Bảo vệ; Phòng Dịch vụ đời sống.
Phòng Kỹ thuật- Đầu tư: Hướng dẫn tổ chức và giám sát thực hiện các quy trình công nghệ. Lập kế hoạch sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị toàn công ty. Lập các dự án về đầu tư mở rộng quy mô sản xuất và đầu tư đổi mới công nghệ.
Phòng Sản xuất- Kinh doanh - Xuất,nhập khẩu: Lập kế hoạch sản xuất chịu trách nhiệm mua vật tư đầu vào và thực hiện phân phối tiêu thụ sản phẩm, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, xem xét các hợp đồng và cung cấp các thông tin về sản phẩm cho khách hàng.
Phòng Tài chính- Kế toán: Theo dõi tình hình tài chính của công ty, tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá thành sản phẩm từ đó tổng hợp số liệu và phân tích tình hình tài chính và lập báo cáo tài chính cho công ty.
Phòng Tổ chức -Hành chính: Chịu trách nhiệm về mặt tổ chức nhân sự, kết hợp với các phòng ban khác tổ chức sắp xếp phân công lao động hợp lý, chịu trách nhiệm về quản lý tiền lương, bảo hộ lao động và các chế độ khác với người lao động.
Phòng Bảo vệ quân sự: Chịu trách nhiệm về công tác an ninh, trật tự, phòng cháy, chữa cháy bảo vệ tài sản của công ty và thực hiện công tác quân dân, tự vệ.
Phòng dịch vụ đời sống: Chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty, gồm có các chức năng như nấu ăn, trông trẻ... giúp cán bộ công nhân viên yên tâm sản xuất.
Bộ phận quản lý các xí nghiệp thanh viên có trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của xí nghiệp mình. Lập kế hoạch, kiểm tra, kiểm soát, việc thực hiện kế hoạch sản xuất được giao theo đúng tiến độ và chất lượng, chịu trách nhiệm về an toàn lao động cho người và thiết bị rong xí nghiệp, kết hợp với phòng sản xuất kinh doanh về mua bán nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đâù ra.
3. Đánh giá bộ máy tổ chức quản lý của công ty:
Với mô hình quản lý trực tuyến chức năng, các chức năng trong công ty được chuyên môn hoá cao. Mỗi phòng ban có nhiệm vụ riêng nhưng không rời rạc mà liên kết thành một hệ thống không thể tách rời. Những quyết định ở các phòng ban chỉ có hiệu lực khi đã thông qua giám đốc hoặc được giám đốc uỷ quyền. Trong những năm gần đây để phù hợp với nền kinh tế thị trường công ty đã liên tục thực hiện công tác tinh giảm, sàng lọc lao động, giảm thiểu lao động gián tiếp, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh hoạt... Công tác này cần được tiếp tục phát huy trong những năm tới nhất là vào năm 2005 nước ta ra nhập Tổ chức thương mại thế giới và 2005 ra nhập khối mậu dịch tự do ASEAN. Tuy nhiên công ty cũng cần phải quan tâm hơn nữa tới công tác đào tạo cán bộ quản lý vì hiện tại cán bộ quản lý trong công ty có trình độ ĐH, trên ĐH và CĐ còn hạn chế.
Bộ máy tổ chức quản lý của công ty được mô tả như sau:
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty
Tổ sản xuất 2
Tổ sản xuất 1
Tổ sản xuất N
Giám Đốc
P. GĐ Tổ chức
P. GĐ Kỹ thuật
Phòng Kế toán T.chính
Phòng Kỹ thuật Đầu tư
Phòng T.chức H.chính
Phòng SXKD- XNK
Phòng Bảo vệ Quân sự
Phòng Dịch vụ Đ.sống
Xí nghiệp Bạt
Xí nghiệp
Vải Không Dệt
Xí nghiệp May
Xí nghiệp Mành
Giám đốc xí nghiệp
Phòng QL
Phòng KT
Phần II
Quản trị các hoạt động của doanh nghiệp
Chương I: Công tác hoạch định chiến lược
của công ty dệt vải công nghiệp
I-Lý luận chung về chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp:
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác mỗi doanh nghiệp là một phân hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi trường kinh doanh trong nước mà còn tính đến cả tác động tích cực cũng như tiêu cực của môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế .Môi trường kinh doanh này càng mở rộng, tính chất cạnh tranh và biến độngcủa môi trường ngày càng mạnh mẽ, việc vạch hướng đi trong tương lai càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là công cụ định hướng và điều khiển các hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh môi trường và do đó nó đóng vai trò quyết định sự thành, bại của doanh nghiệp. Vậy chiến lược kinh doanh là gì? Chiến lược kinh doanh là một bản phác thảo tương lai bao gồm các mục tiêu mà doanh nghiệp phải đạt được cũng như các phương tiện cần thiết để thực hiện mục tiêu đó,chiến lược boa hàm các mục tiêu dài hạn, các chính sách và các biện pháp chủ yếu để sản xuất kinh doanh về vấn đề tài chính và vấn đề giải quyết nhân tố con người nhằm để đưa doanh nghiệp đi lên một bước phát triển cao hơn về chất. Để hoạch định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp ta phải sử dụng các phương pháp, công cụ và kỹ thuật thích hợp xác định chiến lược kinh doanh cuả doanh nghiệp và từng bộ phận.Trong từng thời kỳ , giai đoạn chiến lược xác định. Trong mỗi giai đoạn thời kỳ đó ta phải phân tích, tìm hiểu môi trường kinh doanh của doanh nghiệp để thấy được điểm mạnh điểm yếu cũng như những cơ hội và những thách thức cần phải khắc phục. Môi trường kinh doanh của mỗi doanh nghiệp bao gồm :môi trường kinh tế quốc dân và môi trường nghành.
1. Môi trường kinh tế quốc dân: Môi trường kinh tế quốc dân là tổng thể các yếu tố, các nhân tố bên ngoài và bên trong vận động tương tác lẫn nhau, tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố cấu thành kinh doanh luôn luôn tác động theo chiều hướng khác nhau, với các mức độ khác nhau đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Chính sự phức tạp đó mà doanh nghiệp cần phải phân tích, để tìm hướng đi đúng cho mình để giảm thiểu các nguy cơ, khắc phục điểm yếu tận dụng hết được những cơ hội và những thế mạnh của mình để bứt phá.
a) Môi trường kinh tế: Có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp.Khi phân tích môi trường nền kinh tế quốc dân ta cần phân tích những vấn đề sau:
a,ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế: Nếu nền kinh tế quốc dân tăng trưởng với tốc độ cao tức thu nhập của người dân tăng, mức cầu về sản lượng hàng hoá và dịch vụ tăng lên điều này sẽ kích thích sức sản xuất của doanh nghiệp, đầu tư mở rộng kinh doanh,da dạng hoá sản phẩm từ đó tạo khả năng tích luỹ vốn nhiều hơn ,tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh còn khi nền kinh tế quốc dân ổn định các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng giữ ở mức ổn định. Nếu nền kinh tế quốc dân rơi vào tình trạng suy thoái nó sẽ làm giảm sức cầu giảm khả năng thanh toán của người tiêu dùng điều này kéo theo hậu quả xấu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ gía hối đoái...cũng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, có thể gây bất lợi hoặc cũng có thể tạo ra cơ hội mới cho doanh nghiệp.
b) Tác động của các nhân tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế:
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống pháp luật có chất lượng và đưa vào đời sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành mạnh.
Phân tích sự ổn định hay không ổn định về chính trị, sự thay đổi luật pháp doanh nghiệp sẽ phán đoán những cơ hội hay những nguy cơ sẽ xảy ra trong tương lai. Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu...sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
c) Tác động của những nhân tố kỹ thuật công nghệ:
Trong phạm vi môi trường kinh tế quốc dân, nhân tố kỹ thuật công nghệ đóng vai trò ngày càng quan trọng, mang tính chất quyết định đối với khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong xu thế toàn càu hoá nền kinh tế hiện nay, sự phát triển nhanh chóng mọi lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ đều tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của mọi doanh nghiệp liên quan. Với trình độ khoa học kỹ thuật hiện tại ở nước ta hiệu quả của các hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ đã đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiẹp nước tamuốn nhanh chóng vươn lên, tạo khả năng cạnh tranh để có thể tiếp tục đứng vững trên thị trường trong nước và vươn ra thị trừơng khu vực và quốc tế sẽ không thể không chú ý nâng cao nhanh chóng khả năng nghiên cứu và phát triển, không chỉ là chuyển giao làm chủ công nghệ ngoại nhập mà phải có khả năng sáng tạo được kỹ thuật -côngnghệ tiên tiến Kỹ thuật công nghệ mới thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phat triển thoe hướng taưng nhanh tốc độ, đảm bảo sự ổn định bền vững trong hoạt động kinh doanh và bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, cần chú ý rằng xu thế ảnh hưởng của nó đối với các nghành, các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau nên phải phân tích tác động trưc tiếp tac động của nó đến hoạt đông kinh doanhcủa doanh nghiệp thuộc nghanh cụ thể nhất định.
d) ảnh hưỏng của các nhân tố phân hoá xã hội.
Các vấn đề phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân tri tôn giáo tin ngưỡng,... có ảnh hưởng rất sâu sắc đến cơ cấu của cầu trên thị trường nhân tố này tác động mạnh mẽ đến viêc thiết kế và sản xuất các sản phẩm may mặc. Văn hoá xã hội còn tác động trực tiếp đến việc hinh thành môi trương văn hoá doanh nghiệp, văn hoá nhóm cũng như thai độ cư sử, ứng sử của các nha quản trị, nhân viên tiếp xúc với các đối tác kinh doanh cũng như khách hàng,...
Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứ kỹ các nhân tố này để có sự quản lý phù hợp đối với người lao động của mình nhằm khai thác được tối đa khả năng của họ...
e) ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên
Cac nhân tố tự nhiên bao gồm các nguần lực tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác, các điều kiện về địa lý như địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu... ở trong nước cũng như ở từng khu vực. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng ở mức độ khác nhau cường độ khác nhau đối với từng loại doanh nghiệp ở các địa điểm khác nhau và nó cũng tác động theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực.
2, Tác động của môi trường cạnh tranh ngành:
Trong ngành
Sự tranh đua của các DN hiện có
Các đối thủ cạnh canh
Sản phảm thay thế
Người cung cấp
Khách hàng
Nguy cơ các đối thủ cạnh tranh mới
KN ép giá
khả năng ép giá
Nguy cơ bị các sản phẩm thay thế
a, Khách hàng:
Khách hàng của doanh nghiệp là những người có cầu về sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng không chỉ là các khách hàng hiện tại mà phẩi tính đến cả những khách hàng tiềm ẩn. Khách hàng là ngưòi tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Cầu về sản phẩm và dịch vụ là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ nhất định, số cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động đến mức độ va cường độ canh tranh giữa các doanhnghiệp cùng ngành. Thị hiếu của khách hàng cũng như các yêu cầu cụ thể của khách hàng về chất lượng sản phẩm, tính nhạy cảm của khách hàng về giá cả,... đều tác động trức tiếp có tính quyết định đến việc thiết kế sản phẩm. Doanh nghiệp đáp ứng đúng các yêu cầu của khách hàng sẽ giành được thắng lợi trong kinh doanh. Nhu cầu của khách hàng là một phạm trù không giới hạn, doanh nghiệp nào biết khai thác và biến nhu cầu của họ thành cầu thì soa nh nghiệp đó nắm chắc phần thắng trong kinh doanh. Doanh nghiệp nào không chú ý đến điều này trước sau cũng sẽ bị thất bại.
b, Các đối thủ cạnh tranh trong ngành:
Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp đang kinh doanh cùng ngành nghề cùng khu vực thị trường với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp . Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong một ngành tạo ra cung sản phẩm trên thị trường. Số lượng , quy mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh trạnh đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Có nhà kinh tế cho rằng những vấn đề sau ảnh hưởng rất lớn đến sự cạnh tranh giữa các đối thủ:
1- Số lượng đối thủ cạnh tranh là nhiều hay ít ?
2- Mức độ tăng trưởng của ngành nhanh hay chậm ?
3- Chi phí lưu kho hay chi phí cố đnhj cao hay thấp ?
4- Các đối thủ cạnh tranh có đủ ngân sách để khác biệt hoá sản phẩm hay chuyển hướng kinh doanh không ?
5- Năng lực sản xuất của các đối thủ có tăng hay không và có tăng thì khả năng tăng ở tốc độ nào?
6- Tính chất đa dạng sản xuất kinh doanh của các đối thủ cạnh trnh ở mức độ nào ?
7- Mức độ kỳ vọng của các đối thủ cạnh tranh vào chiến lược kinh doanh của họ và sự tồn tại các raò cản rời bỏ ngành ?
Bên cạnh những đối thủ cạnh tranh hiện tại các doanh nghiệp phải quan tâm đến những đối thủ tiềm ẩn đây là các đối thủ mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động. Sự xuất hiện của các đối thủ mới này còn làm thay đổi sức cạnh tranh ngành, dù thay đổi cục diện cạnh tranh kiểu nào thì sự xuất hiện của chúng cũng làm gia tăng sức cạnh tranh ngành.
c, Sức ép từ phía các nhà cung cấp:
Các nhà cung cấp hình thành các thị trượng cung cấp các yếu tố đầu vào khác nhau bao gồm cả người bán thiết bị, nguyên vật liệu , người cấp vốn và những người cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Tính chất của các thị trường cung cấp khác nhâu sẽ ảnh nhưởng ở mức độ khác nhau đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường mang tính chất cnhj tranh, cạnh tranh không hoàn hảo hay độc quyền sẽ tác động ở mức độ khác nhau đến hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp . Thị trường có hay không có sự điều tiết của nhà nước cũng như mức độ , tính chất điều tiết cũng tác động trực tiếp đến hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp. Mặt khác, tính chất ổn định hay không ổn định của thị trường cũng tác động trực tiếp, theo các xu hướng khác nhau đến hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp.
Các nhân tố cụ thể dới đay sẽ tác động trực tiếp và tạo ra sức ép từ phía các nha cung cấp tới hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp :
- Số lượng nhà cung cấp ít hay nhiều ?
- Tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào là khó hay dễ?
- Tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cụ thể đối với hoạt động của doanh nghiệp như thế nào?
- Khả năng của các nhà cung cấp và vị trí quan trọng đến mức độ nào của doanh nghiệp đối với các nha cung cấp ?
d, Sức ép của các sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế là một những nhân tố quan trọng tác động đến quả trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Kỹ thuật -Công nghệ càng phát triển sẽ càng tạo ra khả năng tăng số loại sản phẩm thay thế. Càng nhuiêù laọi sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức eps lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhêu . Đặc điểm của sản phẩm thay thế như : San rphẩm sẽ được tiếp tụdưa vao sản xuất hay sẽ được sử dụng trong tiêu dùng cũng như tính chất của sản phẩm thay thế đều tác động trực tiếp tạo ra sức ep ađối với doanh nghiệp. Để giảm sức ép của sản phẩm thay thế doanh nghiệp cần có các giả pháp cụ thẻ như:
- Luôn chú ý đến khâu đầu tư đổi mới kỹ thuật - công nghệ
- Có các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượn sản phẩm để cạnh tranh với các sản phẩm thay thế.
- Luôn chú ý đến các giải pháp khác biệt hoá sản phẩm cũngnhư trong từng giai đoạn phát triển cụ thể phẩi biết tìm và rút về phân đoạn thị trường hay thị trường ngách phù hợp.
2, Môi trường nội bộ doanh nghiệp:
Phân tích nội bộ doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố sau:
a, Phân tích sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm :
-Mặt hàng kinh doanh
-Cơ cấu mặt hàng
-Chu kỳ sống của sản phẩm
-Nhãn hiệu sản phẩm
b, Phân tích hoạt động Marketing
Có thể hiểu Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực hiện các ý tưởng liên quanliên quan đến việc hình thành, xác định giá cả xúc tiến và phân phối dịch vụ để tạo ra sự trao đổi nhằm thoả mãn các mục tieu của mọi cá nhân và tổ chức.
Mục tiêu của Marketing là thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, đảm bảo được cung cấp sản phẩm ổn định với chất lượng theo yêu cầu của sản xuất và giá cả phù hợp nhằm giúp doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn. Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện cho đến ngày nay hoạt động Marketing luôn avf ngày càng đóng vai trò rất quan trọng của mọi doanh nghiệp. Hoạt động Marketing của doanh nghiệp càng có chất lượng và ở phạm vi rộng bao nhiêu doanh nghiêpj càng có thể tạo ra các lợi thế chiến thắng các đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu.
c, Tác động của khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển:
Khả năng sản xuất là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng sản xuất của doanh nghiệp thương tập chung chủ yếu vào các vấn đề năng lực sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ kỹ thuật sản xuất, hình thức tổ chức quá trình sản xuất... Các nhân tố trên tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời hạn sản xuất và đáp ứng nhu cầu về sản phẩm. Đây là một trong các điều kiện không thể thiếu tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
d, ảnh hưởng của nguồn nhân lực:
Nhân lực là lực lượng lao động sáng tạo của doanh nghiệp. Tòan bộ lựclượng loa động của doanh nghiệp bao gồm cả loa động quảnt trị , lao động nghiên cứu và phát triển , đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp tham gia vao các quả trình sản xuất tác động rất mạnh và mang tính chất quyết định đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do vai trò ảnh hưởng có tính chất quyết định của nguồn nhân lực, doanh nghiệp cần luôn chú trọng trước hết đến đảm bảo số lượng , chất lượng và cơ cấu của ba loại lao động:
- Các nhà quản trị cao cấp
- Các nhà quản trị cấp trung gian và cấp thấp
- Đội ngũ các thợ cả, nghệ nhân và công nhân có tay nghề cao.
Bên cạnh đó doanh nghiệp phải đảm bảo được các điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết và tổ chức lao đông sao ch tạo động lực phát huy hết tiềm năng của đội ngũ lao động này.
e, Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị là tổng hợp các bộ phận khác nhau có môi liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhất định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có bộ máy tổ chức gọn nhẹ và làm việc năng động hiệu qủa sẽ giảm bớt được chi phí và tăng khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
f, Tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Tình hình tài chính tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư mua sắm, dự trữ, lưu kho, ... cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của nó. Khi đánh gia tình hình tài chính doanh nghiệp cần tập chung vào các vấn đề chủ yếu như: Cầu về vốn và khả năng huy động vốn, việc phân bổ vốn (cơ cấu vốn), hiệu quả sử dụng vốn sản xuất - kinh doanh chung ở doanh nghiệp và từng bộ phận của nó, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp đánh giá vị thế của doanh nghiệp,...
II- Thực trạng công tác hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển của công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội.
1- Những cơ hội và thách thức từ môi trường kinh doanh:
Khi nói đến môi trường kinh doanh ta phải xét đến tất cả các tác động từ hệ thống chính trị , pháp luật, sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, vấn đề lạm phát hay tỷ giá hối đoái ...Nói chung nước ta có hệ thống chính trị khá ổn định, đây là nền tảng rất tốt cho các nhà kinh tế phát huy tốt khả năng của mình, tự do kinh doanh , tự do cạnh tranh dưới sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên hệ thống pháp luật về kinh tế và nhất là luật đầu tư nước ngoài chưa được hoàn chỉnh, còn nhiều thủ tục rườm rà gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư, thứ nữa là vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để khống chế hàng nhập lậu chốn thuế nhất là hàng từ Trung Quốc. Điều này thể hiện sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng... Sản phẩm của Haicatex cũng bị cạnh tranh về giá bởi hàng hoá chốn thuế này.
Nền kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển đã mở ra cho các doanh nghiệp sản xuất noí chung và công ty nói riêng không ít những cơ hội. Khi nền kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của hệ thống giao thông từ nông thôn đến thành thị, đây là cơ hội tốt cho hai sản phẩm chủ lực của công ty phát triển đó là vải mành nhúng keo được sử dụng để làm lốp ôtô, xe máy , xe đạp....và sản phẩm vải không dệt được sử dụng để làm đường, đê kè chống lún. Hội nhập kinh tế tạo cơ hội cho sản phẩm dệt may của công ty có mặt trên một số thị trường lớn như EU và Mỹ.
Tuy nhiên công ty còn gặp một số khó khăn sau: Thứ nhất hầu hết máy móc thiết bị và nguyên vật liệu của công ty còn phải nhập từ nước ngoài nên nó phụ thuộc trực tiếp vào tỷ giá hối đoái trong từng thời kỳ và nhất là sự biến động của giá dầu mỏ trên thế giới; Thứ hai là thị trường lắp giáp xe máy có xu hướng giảm dẫn tới việc tiêu thụ lốp xe giảm điều này ảnh hưởng đến việc tiêu thụ vải mành làm lốp xe máy; Thứ ba Vải không dệt vừa phải cố gắng thay thế hàng ngoại nhập vừa đứng trước một thách thức mới đó là sự xuất hiện của đối thủ tiềm ẩn trong nước; Thứ tư là trong những năm tới Việt Nam sẽ ra nhập Tổ chức thương mại thế giới- WTO vào năm 2005 và ra nhập khu mậu dịch tự do các nước Đông Nam á- AFTA váo năm 2006, khi đó thuế nhập khẩu chỉ còn từ 0-5% đây là một thách thức lớn cho công ty vì phải cạnh tranh về cả giá cả và chất lượng. Vì vậy công ty cần phải xây dựng các chiến lược thích hợp cho giai đoạn tới.
Với nền kinh tế thị trường như hiện nay, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng chịu tác động rất lớn từ môi trường bên ngoài, trong đó có cả những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực. Vấn đề đặt ra là các nhà quản trị phải dự báo và lựa chọn được những tác động tích cực để hình thành các ý tưởng chiến lược khai thác triệt để các cơ hội đó va giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra.
2- Các thế mạnh và điểm yếu trong Công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội:
Khi hoạch định bất kỳ một chiến lược kinh doanh nào cũng đòi hỏi các nhà quản trị không những phải phân tích môi trường bên ngoài mà còn phải phân tích nội bộ doanh nghiệp để thấy rõ được những thế mạnh và những hạn chế của mình để có những biện pháp khắc phục.
Công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội vẫn thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước nên vẫn được hỗ trợ một phần vốn từ ngân sách nhà nước, hơn nữa là một thành viên của Tổng công ty Dệt may Việt Nam nên công ty khá thuận lợi trong việc huy động vốn, việc vay vốn từ các ngân hàng vì hầu hết nguồn vốn đầu tư của công ty là vốn vay từ ngân hàng. Tổng công ty Dệt may còn mở ra cho công ty nhiều cơ hội trong kinh doanh như ký được các đơn đặt hàng lớn, việc xuất khẩu hàng hoá hay nhập khẩu nguyên vật liệu. Tổng công ty thường xuyên cập nhật những thông tin về thị trường tiêu thụ( thông tin về khách hàng) cũng như sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh. Một điểm mạnh của công ty nữa là dây chuyền sản xuất sản phẩm của công ty khá hiện đại và là những dây chuyền đầu tiên và hiện tại là dây chuyền duy nhất tại Việt Nam nên không chịu áp lực cạnh tranh từ phía thị trường trong nước. Tuy nhiên vẫn không thể loại trừ sự xuất hiện của các đối thủ tiềm ẩn.
Bên cạnh đó công ty vẫn còn một số hạn chế sau:
-Nguyên vật liệu của công ty phải nhập từ nước ngoài- giá cả phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và sự biến động của giá dầu mỏ trên thế giới.
-Chất lượng lao động chưa cao cả về trình độ và ý thức trách nhiệm, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng xuất lao động. Chưa biết kết hợp và phát huy hết khả năng sáng tạo của người lao động.
-Công ty vẫn chưa huy động hết được công xuất của máy móc thiết bị vào sản xuất. Thực tế năm 2003 thiết bị nhúng keo chỉ được huy động 52%, dây chuyền vải không dệt được huy động 40%,...
-Sản phẩm của công ty tiêu thụ gián tiếp, phụ thuộc vào sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp sản xuất khác.
3- Hoạch định chiến lược phát triển của công ty.
* Kết hợp thế mạnh về vốn với sự tăng trưởng kinh tế đất nước, bám sát thị trường mạnh dạn đầu tư theo chương trình tăng tốc của Tổng công ty Dệt may Việt Nam.
* Mở rộng thị trường bằng sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, chú trọng đặc biệt tới công tác xuất khẩu.
*Tìm nguồn nguyên liệu tốt, rẻ để giảm bớt chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
* Tiếp tục duy trì và phát triển các hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU và Mỹ.
*Tận dụng tối đa năng xuất thiết bị, đa dạng hoá ngành hàng, nâng cao năng xuất chất lượng sản phẩm tạo tiền đề cho sự hội nhập. Thường xuyên tu bổ thiết bị cũ, không ngừng cải tiến phát huy sáng kiến tận dụng tối đa năng lực hiện có.
*Tinh giảm biên chế sắp xếp lại lao động xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, tạo lập tác phong công nghiệp cho người lao động, đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho người lao động giúp họ nắm bắt kịp thời sự phát triển của máy móc thiết bị, đổi mới phương pháp quản lý.
*Giữ vững thị phần hiện có, tăng cường chiến lược Marketing, tích cực quảng bá sản phẩm và kiếm thị trường mới cho sản phẩm hiện tại.
Trên cơ sở cơ hội, nguy cơ từ môi trường kinh doanh và những thế mạnh và điểm yếu từ nội bộ doanh nghiệp như trên có thể được mô tả như sau:
Các yếu tố
nội bộ CT
Các yếu tố
môi trường KD
-Được hỗ trợ vốn từ Nhà nước và Tổng công ty.
-Là thành viên của Tổng CTDM VN.
-Có quy trình công nghệ hiện đại và hiện có đầu tiên tại thị trường trong nước.
-Có uy tín lâu năm trên thị trường....
-Nguyên vật liệu phải nhập từ nước ngoài.
-Chất lượng lao động thấp.
- Chưa huy động được hết công suất máy móc thiết bị.
...
-Kinh tế đất nước đang trên đà tăng trưởng & phát triển thúc đẩy các ngành công nghiệp, giao thông phát triển.
-Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU & Mỹ tăng.
-Việt Nam ra nhập WTO & AFTA vào 2005,2006...
-Thâm nhập sâu hơn vào thị trường hiện tại.
-Mở rộng thị trường bằng sản phẩm có chất lượng ngày càng cao.
-Mạnh dạn đầu tư, thay thế thiết bị máy móc.
-Tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị.
- Nâng cao trình độ lao động bằng cách tuyển mới, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức cho người lao động để năm băt kịp thời trình đọ phát triển của khoa học kỹ thuật. Xây dựng tác phong làm việc công nghiệp cho người lao động.
-Tìm nguồn nguyên liệu mới
-Xoá bỏ hàng rào thuế quan khi ra nhập WTO và AFTA
(mức thuế nhập khẩu chỉ còn từ 0-5%)
-Giá dầu mỏ thế giới biến động.
-Sự xuất hiện đối thủ canh tranh tiềm ẩn.
-Thị trường xe máy bị hạn chế lắp giáp.
-Sản phẩm may mặc bị canh tranh bởi nhiều đối thủ.
-Giữ vững thị phần
-Tận dụng thế mạnh từ phía nhà nước
- Tăng cường chiến lược Marketing, tích cực quảng bá sản phẩm, bám sát thị trường để tìm thị trường tiêu thụ mới.
- Đầu tư, thay thế trang thiết bị
-Tìm kiến thị trường mới cho sản phẩm hiện tại.
-Nâng cao chất lượng lao động.
-Tìm nguồn nguyên liệu mới, tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước.
-Tăng cường chiến lược Marketing .
-Tổ chức lại cơ cấu quản lý
-Giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm....
III-Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty trong năm 2004
Năm 2004 công ty hoặch định mục tiêu sản xuất kinh doanh như sau:
Đ.V:Triệu đồng
Giá trị sản xuất công nghiệp : 92.000
Tổng doanh thu trước thuế : 120.000
Lợi nhuận : 500
Tỷ suất LN/Vốn :4.0
Các khoản nộp ngân sách :2.783
XK:- KN XK(giá thanh toán):483(1000$)
-KNXK(tính đủ NPL): 2.517 (1000$)
NK: -KNNK(giá thanh toán):2.700(1000$)
KNNK(giátính đủ):4500(1000$)
Sản phẩm chủ yếu:
- Vải dệt thoi thành phẩm :20.000 m2
- Vải mành : 990 Tấn
-Vải bạt :880.000 m
-Vải không dệt :5000.000 m2
-Sản phẩm may dệt thoi:364.000 Sp
Khấu hao cơ bản:9553 (triệu )
Thu nhập bình quân đầu người là: 800.000 đ
Tổng số công nhân trong công ty là: 832 Người.
Chương II : Quản trị tài chính trong
công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội
Quản trị tài chính là việc lựa chọn và dưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đó là tối đa hoá lợi nhuận không ngừng làm tăng giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác tài chính doanh ngiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Khi phân tích hoạt đông tài chính cua doanh nghiệp cần phân tích các vấn đè sau:
Tình hình doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
Tình hình biến động vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp
Tình hình chi phí sản xuất vàgiá thành sản phẩm
Tình hình thực hiện các dự án đầu tư của doanh nghiệp
I- Tình hình biến động vốn và nguồn vốn của công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội
A- Một số lý luận cơ bản về vốn kinh doanh trong doanh nghiệp:
Vốn là một phạm trù kinh tế nó gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều bắt đầu bằng việc huy động vốn. Vốn sản xuất kinh doanh quyết định đến hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp đặc biệt là quy mô sản xuất, doanh thu, lợi nhuận...
Hiện nay còn nhiều quan niệm về vốn khác nhau nhưng đứng trên góc độ tài chính kế toán của doanh ngiệp hiện nay thì vốn chính là nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Như vậy vốn chính là biểu hiện bằng tiền là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ.
Trong nền kinh tế hị trường người ta coi vốn như các giá trị ứng ra ban đầu và các quả trình tiếp theo của doanh nghiệp hay vốn chính là các giá trị đầu vào của quá trình sản xuất. Vốn không chỉ đóng vai trò trong các quả trình sản xuất ban đầu riêng buiệt mà có thể tham gia voà mọi quả trình tái sản xuất liên tục trong doanh nghiệp.
Như vậy vốn là biểu hiện bằng tiền đại diện cho một lượng giá trị tài sản hay nói cách khác vốn là nguồn hình thành tài sản từ những khoản tiền ban đầu như vốn chủ sở hữu, vốn pháp định, lợi nhuận giữ lại, máy móc thiết bị va cả con người nhằm đem lạikhả năng sinh lời trong tương lai. Vón luôn gắn liền với chủ sở hữu bởi mỗi nguồn vốn của doanh ngiệp luôn gắn trực tiếp với lợi ích kinh tế, quyền lợi và trách nhiệm củanhiều phía khác nhau. Nguồn vốn đó gắn trực tiếp với doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ đảm boả nâng cao hiệu quả sử dụngvốn vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng sinh lời, các doanh ngiệp chỉ đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh khi đảm bao rkhả năng sinh lời trong tương lai.
Trong quá trình hoạt động vốn có thẻ thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm suối cùng của vòng tuần hoàn phải lớn hơn điểm xuất phát đây chính là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Nếu vôna bị ứ đọng lại một khâu nào đó như tiền mặt dự trữ, hàng tồn kho, nợ khó đòi... hay không đảm bảo thu hồi đầy đủ vốn sản xuất kinh doanh đều làm ảnh hưởng đến công tác bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vốn có giá trị về mặt thời gian và chịu ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Giá trị thời gian của vốn liên quan trực tiếp đến lạm phát, tăng trởng kinh tế, sự bỏ lỡ của các cơ hội đầu tư. Do đó không nhất thiết tạo ra sự ổn định của đồng vốn mà cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với sự thay đổi của giá trị đồng tiền với sự tăng trưởng kinh tế. Nói chung thời gian càng dài thì giá trị của một đồng vốn càng giảm.
Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể huy động từ mọi nguồn lực của xã hội và biểu hiện dưới nhiều dạng vật chất khác nhau. Do yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất doanh nghiệp không chỉ khai thác nguồn vốn mà vay vốn, góp vốn liên doanh, liên kết,... Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định hữu hình như đất đai , nhà xưởng, thiết bị,... mà còn biểu hiện dưới dạng tài sản cố định vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, bí quyết công nghệ,...
Nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn tài trợ đều có những thế mạnh riêng. Do đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh mà lựa chọn nguồn tài trợ cho phù hợp. Việc xác định phân chia đúng nguồn tài trợ sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý và giảm thiểu các rủi ro...
Phân loại vốn đầu tư:
a/ Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn gồm có :
*Vốn ngắn hạn:
Vốn ngắn hạn có thời gian đáo hạn trong vòng một năm và lãi suất vay thường thấp hơn lãi suất dài hạn do độ rủi ro thấp hơn và thời gian đầu tư ngắn hơn. Thông thường để hình thành nguồn vốn ngắn hạn các doanh nghiệp thường đi vay từ ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian khác...Mọi hoạt dộng như trao đổi rmua bán vốn ngắn hạn được thực hiện trên thị trường tiền tệ. Giá trên thị trường tiện tệ khá ổn định ít rủi ro và chi phí thấp.
*Vốn trung và dài hạn:
Nguồn vốn này có thời gian đáo hạn trên một năm, lãi suất cho vay thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Do tính chất rủi ro của các khoản vay ngưòi đi vay phải trả thêm một chi phí cư hội gọi là phần bù kỳ hạn
Thông thường các doanh nghiệp đi huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu từ ngân hàng thương mại hoặc phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp ít khi huy động vốn từ các tổ chức tài chính trung gian. Các nguồn vốn dài hạn này chủ yếu đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Các công cụ trung và dài hạn được trao đổi mua bán trên thị trường vốn với thời gian lưu hành dài độ rủi ro cao, giá cả biến đông phắc tạp. Các quan hệ trao đổi mua bán ở đây không phải là một số lượng nhất định các khoản tiền mặt, các tư liệu sản xuất mà là các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền.
b/ Phân loại theo công dụng kinh tế của vốn gồm có;
*Vốn cố định:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh biểu hiện vật chất của vốn cố định là tài sản cố định. Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Khi tham gia vào quả trình sản xuất kinh doanh giá trị của nó lại hao mòn dần và chuyển dịch dần vào chi phí sản xuất kinh doanh.Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh daonh và giữ nguyên hình thái giá tri ban đầu cho đến lúc loại bỏ.
Tài sản cố định bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
+ TSCĐ hữu hình là những tài sản co hình thái vật chất, có giá trị lớn được sử dụng lâu dài trong quá trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp như maý móc, thiết bị, nhà xưởng , vật kiến trúc...
+ TSCĐ vô hình lầ tài sản không có hình thái vật chất thể hiện một lượng giá trị có quy mô lớn đã được đầu tư chi trả nhằm đem lại lợi ích kinh tế lâu dài cho doanh nghiệp như băng phát minh sáng chế, quyền sử dụng, lợi thế thương mại, vị trí địa lý... Hiện nay TSCĐ vô hình là TSCĐ có giá trị lớn hơn hoặc bằng 500.000 Thời gian sử dụng lớn hơn hoặc bằng 1 năm mà không hình thành TSCĐ hữu hình.
* Vốn lưu động:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nhgiệp cần có một khoản vốn lưu động để đầu tư vào tư liệu lao động, đối tượng lao động. Đây là khoản vốn lưu thông của doanh nghiệp. Đứng dưới góc độ tài sản biểu hiện vật chất của vốn lưu động là tài sản lưu động( TSLĐ). TSLĐ là tài sản sử dụng cho quả trình sản xuất kinh doanh có thời gian luân chuyển, thu hồi trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. TSLĐ có thể là tư liệu lao động trong sản xuất hoặc tư liệu lao động trong lưu thông.TLLĐ trong sản xuất chủ yếu alf tài sản được dự trữ trong quá trình sản xuất như nguyên vật liệu dự trữ, hàng tồn kho, sản phẩm dở dang... TLLĐ trong lưu thông chủ yêulà sản phẩm hàng hoá trong lưu thông hoặc vốn bằng tiền của các khoản phải thu.
c/ Căn cứ vào quyền sở hữu vốn bao gồm:
* Nợ phải trả:
Vốn nợ được tài trợ bởi những người không phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Việc trao đổi mua bán được diễn ra trên thị trường tài chính và được thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay mượn mà người đi vay cam kết trả cho người cho vay. Như vậy khi huy động các công cụ nợ để hình thành vốn nợ, người đi vay phải trả lãi cho các công cụ nợ( các khoản tiền vay). Mức lãi suất phải trả cho các khoản tiền vay phụ thuộc vào mức cung cầu trên thị trường, đó chính là giá cả của vốn hàng hoá, các mức lãi suất này thường ổn định và được thoả thuận khi vay. Các khoản vay này đều có thời hạn nhất định, hết thời hạn doanh nghiệp phải trả cả gốc và lãi hoặc được ra hạn mới nếu doanh nghiệp có nhu cầu. Khuyến khích các doanh nghiệp vay dài hạn để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng là điều rất cần thiết, lãi xuất phải trả khi vay được tính vào chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu được tài trợ bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua việc trao đổi mua bán các cổ phiếu. Hoạt động của các cá nhân tổ chức hình thành vốn chủ sở hữu không phản ánh mối quan hệ giữa người đi vay và cho vay mà là mối quan hệ giữa những người đồng sở hữu. Các khoản tài trợ này hầu như không có thời hạn, doanh nghiệp không phải trả các khoản tiền đã huy động trừ khi có sự giả thể, phá sản thì tài tài sản được chia cho các chủ sở hữu theo thứ tự ưu tiên theo quy định.
Hiệu qủa sử dụng vốn và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế nói lên yêu cầu sử dụng đồng vốn của doanh nghiệp được hợp lý có nghĩa đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra như nâng cao giá trị doang nghiệp, tăng năng xuất lao động, duy trì khả năng cạnh tranh... Mỗi doanh ngiệp có một mục tiêu hoạt động khác nhau nhưng đều cần đạt được hiệu quả sử dụng vốn tối ưu. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có thể được hiểu là với một lượng vốn nhất định đầu tư vào sản xuất kinh doanh phải làm sao mang lại hiệu quả cao nhất làm cho đồng vốn luôn được bảo toàn và sinh sôi nảy nở.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp:
a. Các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận:
Khả năng
sản xuất kinh doanh
=
Doanh thu thực hiện trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Hệ số sinh lời
Vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
Hệ số sinh lời của
Tài sản
=
Lợi nhuận sau thuế + Tiền lãi phải trả
Tổng tài sản
b. Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài sản và nguồn vốn:
TSCĐ( TSLĐ)
Hệ số cơ cấu TSCĐ( TSCĐ) =
Tổng Tài Sản
Hệ số cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu ( Nợ phải trả)
=
Nguồn vốn chủ sở hữu (Nợ phải trả)
Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ trên
tổng tài sản
=
Tổng nợ phải trả
Tổng tài sản
Hệ số nợ trên
vốn chủ sở hữu
=
Tổng nợ phải trả
Nguồn vốn chủ sở hữu
c. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
=
Tổng tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán
nợ dài hạn
=
Tổng tài sản cố định
Nợ dài hạn
Khả năng thanh
toán tức thời
=
Vốn bằng tiền
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh
toán nhanh
=
Vốn bằng tiền + Các khoản phải trả
Nợ ngắn hạn
d. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động:
Tỷ suất
lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Hiệu quả sử dụng
Vốn lưu động (Vốn CĐ)
=
Doanh thu trong kỳ
Vốn lưu động bình quân (Vốn CĐbq)
Số vòng quay của
vốn lưu động
=
Tổng doanh thu
Vốn lưu động bình quân
Dựa vào các chỉ tiêu trên ta sẽ đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh của công ty và trên cơ sở đó sẽ lập được kế hoạch sản xuất kinh doanh cho kỳ tiếp theo.
B. Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn trong công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội.
1.Sự biến động về cơ cấu vốn của công ty trong những năm gần đây:
Biểu:...
Cơ cấu vốn của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Tổng nguồn vốn
Vốn cố định
Tỷ trọng (%)
Vốn lưu động
Tỷ trọng (%)
(1)
(2)
(3)
(4)=[(3)/(2)]*100
(5)
(6)= [(5)/(2)]*100
2001
83284
31052
37
52216
63
2002
167923
102249
61
65674
39
2003
150502
96907
64
53595
36
Nhìn bảng trên ta thấy tỷ trọng giữa vốn cố định và vốn lưu động của công ty có sự chênh lệch đáng kể nhất là hai năm vừa qua 2002 và 2003. Nguyên nhân là do trong năm 2002 công ty đã trang bị thêm một số máy móc thiết bị mới cho xí nghiệp mành, đầu tư vào xí nghiệp vải không dệt và trang bị thêm một số máy may công nghiệp. Tuy nhiên, công ty cần đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ trong sản xuất, bởi quá trình sản xuất là sự hoạt động thống nhất của tất cả các yếu tố vật chất. Vì vậy để quá trình sản xuất được tiến hành liên tục đòi hỏi phải có sự cân đối giữa các yếu tố sản xuất, trong đó sự cân đối giữa tài sản cố định và tài sản lưu động cần được thực hiện nghiêm ngặt. Giữa TSCĐ và TSLĐ cần được cân đối trên hai mặt: bằng tiền
và bằng hiện vật. Khi cần đánh giá một cách tổng quát sự cân đối của toàn bộ vốn sản xuất thì phải biểu hiện bằng tiền. Song vì việc đánh giá các loại vốn này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan cho nên để chính xác thì phải cân đối theo hiện vật của từng loại TSCĐ và từng loại TSLĐ.
Phân tích cơ cấu vốn dựa vào nguồn hình thành
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Tổng nguồn vốn
Nợ phải trả
Tỷ trọng
(%)
Nguồn vốn Chủ sở hữu
Tỷ trọng
(%)
(1)
(2)
(3)
(4)= [(3)/(2)]*100
(5)
(6) =[(5)/(2)]*100
2001
83284
67921
81.5
15363
18.5
2002
167923
151925
90.5
15998
9.5
2003
150502
134029
89.05
16473
10.95
Bảng trên cho thấy nguồn vốn của công ty trong những năm vừa qua hầu hết là vốn vay, nguồn vốn vay này để thực hiện những dự án đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mua sắn máy móc trang thiết bị như hai máy xe ALLMASAURE của Đức và một máy dệt mành PICANOL của Bỉ với tổng vốn đầu tư trên 21 tỷ đồng, đầu tư dây chuyền vải không dệt của Đức với tổng số vốn là gần 64 tỷ đồng,... Tuy hiện tại công ty phải trả mức chi phí lãi vay là rất lớn song trong những năm tới khi những quy trình mới này đi vào hoạt động ổn định thì thời gian hoàn vốn sẽ không lâu. Hiện tại công ty vẫn là một công ty nhà nước, nên hàng năm công ty vẫn được ...% vốn từ ngân sách nhà nước. Hơn nữa công ty là thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam nên có khá nhiều thuận lợi về khả năng huy động vốn từ phía Tổng công ty hay sẽ dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng. Điều này cho thấy công ty có nhiều thuận lợi về khả năng tài chính, tuy nhiên cần phát huy tối đa tiềm năng nội lực để thực hiện cổ phần hoá vào thời gian tới.
* Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cuả công ty trong năm 2003:
Các chỉ tiêu thanh toán
Chỉ tiêu
2002
2003
1. Kết cấu Tài sản / Nguồn vốn
Tài sản cố định / Tổng Tài sản
60.81
64.39
Tài sản lưu động / Tổng Tài sản
39.19
35.61
Nợ phải trả / Tổng nguồn vốn
90.46
88.86
Nguồn vốn chủ sở hữu / Tổng nguồn vốn
9.54
11.14
2. Chỉ tiêu khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán hiện hành
1.07
1.09
Khả năng thanh toán nợ dài hạn
1.143
1.15
Khả năng thanh thoán nhanh
0.625
0.63
Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động
Khả năng thanh toán tức thời
Biểu:....
Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành đầu kỳ là 1.07 cuối kỳ là 1.09 cho thấy công ty hoàn toàn có khả năng thnah toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ dài hạn đầu kỳ là 1.143 và cuối năm là 1.15 cho thấy công ty cũng hoàn toàn đủ khả năngthanah toán nợ dài hạn.
Tuy nhiên khả năng thanh toán của công ty còn thấp số cuối năm là 0.64 cho thấy với 1 đồng nợ công ty chỉ có thể thanh toán được 0.64 đồng. Khả năng thanh toán tức thời và số vòng quay của vốn lưu động của công ty còn thấp điều này cho thấy công ty cần có sự điều chỉnh hợp lý giữa vốn lưu động và vốn cố định.
Bảng Cân Đối Kế Toán
tài sản
Đơn vị: đồng
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
53535004803
I. Tiền
101148200
II. Các khoản đầu tài chính ngắn hạn
27199982146
III. Các khoản phải trả
22445379296
IV. Hàng tồn kho
315085988
V. Tài sản lưu động khác
3473409173
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
96967758767
I. Tài sản cố định
II. Các khoản đầu t tài chính dài hạn
III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
12949109
IV. Các khoản ký quỹ, ký cợc dài hạn
80000000
V. Chi phí trả trớc dài hạn
169190050
Tổng tài sản
150502763570
nguồn vốn
A. Nợ phải trả
I. Nợ ngắn hạn
48226826569
II. Nợ dài hạn
85241032089
III. Nợ khác
561771527
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
16473133385
I. Nguồn vốn- quỹ
16373353387
II. Nguồn kinh phí và quỹ khác
99779998
Tổng nguồn vốn
150502763570
II- Tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
1. Cơ sở lý luận
Chi phí kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Nói cách khác chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quả trình sản xuất vầ tiêu thụ sản phẩm. Chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn- chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào đối tượng tính giá. Gắn liền với chi phí kinh kinh doanh là giá thành sản phẩm. Chi phí phản ánh mặt hao phí còn giá thành phản ánh mặt kết quả. Thực chất giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Có thể nói giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường hiệu quả kinh doanh. Đồng thời chỉ tiêu giá thành còn chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin va kiểm tra về chi phí, giúp cho người quản lý có cơ sở để ra quyết định đúng đắn, kịp thời.
Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công tác như chất lượng công nghệ sản xuất, chất lượng vật liệu, trình độ thành thạo của người lao động, trình độ tổ chức, quản lý điều hành hoạt động kinh doanh.
Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành được thể hiện qua công thức sau:
Tổng
giá thành
sản phẩm
=
CPXS
dở dang
đầu kỳ
+
CPSX
phát sinh
trong kỳ
-
CPSX
dở dang cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang( chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ:
Giá thành sản xuất( GTSX) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
GTSX= CP NVLtt+ CP NCtt+ CP SXC
Giá thành toàn bộ( GTTB) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Theo quy định hiện hành giá thành toàn bộ của sản phẩm gồm năm khoản mục chi phí sau:
Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp( CPNVL): Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp là những chi phí về nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu,.... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm, hay thực hiện các dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp( CPNC): Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương( phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, độc hại, làm ca đêm, làm thêm giờ,...). Ngoài ra chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
Chi phí sản xuất chung( CPSXC): Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng( CPBH): Chi phí bán hàng là những khoản chi mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dụng cụ bán hàng, chi phí quảng cáo,...
Chi phí quản lý doanh nghiệp( CPQLDN): Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào. Thuộc chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác.
Vậy:
GTTB = GTSX + CPBH + CPQLDN
2. Tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội:
Bộ phận trực tiếp sản xuất của công ty gồm bốn xí nghiệp chịu trách nhiệm sản xuất bốn loại sản phẩm chính là: Vải mành nhúng keo; Vải bạt; Vải không dệt; Sản phẩm may mặc. Do đó để phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, đối tượng để tập hợp chi phí sản xuất được xác định là từng xí nghiẹp cụ thể. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được công ty thực hiện theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp sản xuất bởi theo phương pháp này theo dõi liên tục chính xác. Chi phí sản xuất của công ty theo quy định gồm năm khoản mục chi phí như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp.
a) Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Chi phí nguyên vật liệu chính của công ty khi tiến hành tập hợp được chia làm hai loại là chi phí nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ, trong đó chi phí nguyên vật liệu chính được kê khai trực tiếp khi xuất dùng còn chi phí nguyên vật liệu phụ được phân bổ cho từng mặt hàng.Trong trường hợp công ty nhận may gia công cho một số công ty khác hoặc cho nước ngoài, bên thuê sẽ chuyển nguyên vật liệu cho công ty thì công ty không theo dõi về mặt giá trị mà chỉ theo dõi về mặt số lượng, do vậy khi nhận làm gia công thì trong chi phí sản xuất sẽ không có khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tại mỗi xí nghiệp thì nội dung của loại chi phí này sẽ khác nhau, cụ thể như sau:
* Tại xí nghiệp vải mành- nhúng keo:
- NVL chính trực tiếp: Sợi PA, Ne840D/1, Ne840D/2, hợp chất hoá học nhúng keo,...
- NVL phụ trực tiếp: Các hợp chất hoá học, dầu vít, trục mành,...
* Tại xí nghiệp bạt:
- NVL chính trực tiếp: Sợi cotton, sợi Pêcô, sợi PE,...
- NVL phụ trực tiếp: Thoi, tay dệt cứng,...
* Xí nghiệp Vải không dệt:
- NVL chính trực tiếp: Sơ PES, PP,...
- NVL phụ trực tiếp: hợp chất hoá học,...
* Xí nghiệp May:
- NVL chính trực tiếp: Vải các loại
- NVL phụ trực tiếp: Chỉ may, cúc, nhãn mác,...
Phế liệu của công ty là sợi rối các loại, vải vụn, bông vụn,... được theo dõi và bàn đi, giá trị thu hồi được chuyển qua để giảm chi phí sản xuất của các sản phẩm tương ứng.
Phòng tài chính kế toán của công ty sẽ trực tiếp theo dõi việc xuất dùng NVL qua các kho và từ các xí nghiệp thành viên. Sau đây là biểu phản ánh số lượng và giá mua nguyên, nhiên liệu chính xuất dùng tháng 10 năm 2003:
Biểu1: Số lượng và giá mua các lạoi nguyên, nhiên liệu chính
Tháng 10 năm 2003
Loại nguyên, nhiên liệu
Đơn vị tính
Quý I/2003
Quý II/2003
Quý III/2003
Số lượng
Đơn giá mua
Số lượng
Đơn giá mua
Số lượng
Đơn giá mua
I-NVL chính
Sợi PA (tấn)
USD/Tấn
275
2380
181
2336
240
2276
Xơ PES, PP( tấn)
nt
110
1180
101
1089
152
973
Sợi NE21/1(kg)
VNĐ/Kg
44.509
24501
33288
22454
31921
25455
Sợi NE20/2( kg)
nt
10.813
24630
14213
25909
Sợi NE8/1( Kg)
nt
12644
18636
10924
18636
6659
18890
Sợi NE10/1( kg)
nt
7240
18909
2550
1909
6795
19873
Sợi 32/1( kg)
nt
1058
29545
Sợi NE30/1( kg)
nt
7081
29545
II-Nhiên liệu
Điện -Kw
VNĐ
689700
987393
772600
983388
537500
980035
Than-Kg
nt
284
450000
296
470000
407
470000
III-Hoá chất- kg
Hoá chất nhúng keo-VP Latex
USD/Kg
27500
0.972
14080
0.972
27200
0.965
Hoá chất nhúng keo-SBR Latex
nt
77
0.741
3520
0.741
4800
0.740
Hoá chất nhúng keo-Resorcinol
nt
3000
4.4
3000
4.4
Nguồn: Phòng SXKD-XNK
Qua bảng trên ta thấy vì hầu hết nguyên vật liệu của công ty phải nhập từ nước ngoài nên giá mua nguyên vật liệu tăng, giảm không ổn định phụ thuộc vào sự biến động của giá dầu mỏ trên thế giới. Ta thấy rằng cũng tuỳ vào từng thời điểm giá khác nhau trên thị trường mà công ty nhập với khối lượng nguyên liệu khác nhau nhưng vẫn đảm bảo sản xuất ổn định. Giá thực tế vật liệu xuất kho được công ty tính theo phương pháp hệ số giá:
Giá thực tế vật liệu
xuất kho
=
Giá hạch toán vật liệu xuất kho
x
Hệ
số giá
Trong đó:
Hệ số giá
=
Giá thực tế vật liệu
tồn đầu kỳ
+
Giá thực tế vật liệu nhập trong kỳ
Giá hạch toán vật liệu tồn đầu kỳ
+
Giá hạch toán vật liệu nhập trong kỳ
Hệ số phân bổ
=
Tổng chi phí vật liệu phụ trực tiếp
Tổng sản lượng quy đổi
Chi phí vật liệu phụ cho từng mặt hàng
=
Hệ số
phân bổ
x
Sản lượng quy đổi
Cuồi cùng ta sẽ tính được giá trị nguyên vật liệu phụ xuất dùng:
CPNVLtt = CP NVLc + CP NVLp
Công ty dử dụng giá hạch toán trong kỳ nên khi xuất kho giá vật liệu ghi trên phiếu xuất là giá hạch toán để tính giá thực tế của nguyên vật chính xuất dùng cho sản xuất sản phẩm.
b) Chi phí nhân công trực tiếp:
Bao gồm toàn bộ tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất và các khoản phụ cấp có tính chất lương như: tiền ăn ca, lương nghỉ phép,... Ngoài ra còn trích bảo hiểm xã hội(...); Bảo hiểm y tế(...); Kinh phí công đoàn(..). Tiền lương phải trả cho mỗi công nhân trong tháng được xác định căn cứ vào đơn giá tiền lương và số lượng sản phẩm mà công nhân đã làm được ở mỗi bước, cụ thể được tính như sau:
Tiền lương phải trả cho từng
phần việc
=
Sản lượng thực tế của từng phần việc
x
Đơn giá lương từng phần việc
x
Hệ số phần mềm
Việc tính lương cho côngnhân viên còn dựa trên cơ sở bảng chấm công, mức độ hoàn thành công việc, trình độ chuyên môn của mỗi người.
c. Chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung được tổng hợp trên cơ sở toàn xí nghiệp và phân bổ theo tỷ trọng tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Việc phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng lợi sản phẩm theo công thức sau:
Chi phí sản xuất chung
=
Hệ số
phân bổ
x
Tiền lương công nhân sản xuất cho từng mặt hàng
Trong đó:
Hệ số
phân bổ
=
Tổng CP SXC phát sinh thực tế trong công ty
Tổng tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm
Sau khi tập hợp chi phí sản xuất phát sinh kế toán tính được tổng giá thành sản phẩm. Cônh ty áp dụng thực hiện phương pháp tính giá thnàh trực tiếp, kỳ tính giá được xác định là một tháng. Cuối tháng căn cứ vào số lượng số lượng thành phẩm nhập kho, kế toán tiến hành tính giá sản phẩm.
Tổng giá thành sản phẩm = Tổng chi phí phát sinh để sản xuất sản phẩm
Tổng chi phí Sản xuất
=
Chi phí NVLtt
+
Chi phí NCtt
+
Chi phí SXC
Tổng giá thành
sản phẩm
=
Chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ
Giá thành đơn vị sản phẩm
=
Tổng giá thành sản phẩm
Khối lượng sản phẩm hoàn thành
Để áp dụng công thức trên ta áp dụng tính giá thành cho vải mành 840D/2 vào tháng 2 năm 2003 như sau:
Biểu:...
Bảng tính giá thành vải mành 840D/2
Sản lượng: 17252,6Kg
Đơn vị : Đồng
Khoản mục
CPSPDD
ĐK
CP PS
Trong kỳ
CPSPDD
CK
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
NVLCtt
1252862566
1518074605
2206998057
563939114
32678,2
NVLPtt
48907325
48907325
2834,2
CPNCtt
25517312
25517312
1479
CPSXC
134428507
134428507
7791,8
Tổng
1252862566
1726927794
772792258
44792,8
* Phương pháp định giá và giá bán của một số mặt hàng hiện tại của công ty:
Việc xác định mức giá phù hợp vừa đảm bảo tính cạnh tranh vừa bù đắp mọi chi phí sản xuất cho công ty mà vẫn đảm bảo lợi nhuận là một công việc phải được tính toán một cách thận trọng và linh hoạt. Mỗi loại sản phẩm có một chu kỳ sống nhất định, tại mỗi giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm phải có một mức giá khác nhau phù hợp với điều kiện thực tế của giai đoạn đó.
Giá bán (Có thuế) = Giá thành toàn bộ + Lợi nhuận + Thuế VAT( 10%)
Phần lợi nhuận được tính toán dựa vào chu kỳ sống của sản phẩm.
Biểu:....
Giá một số mặt hàng chính của công ty trong năm 2003
Đơn vị: VNĐ
Mặt hàng
Đơn vị
Quý I/2003
Quý II/2003
QuýIII/2003
Giá thành
Giá bán
Giá thành
Giá bán
Giá thành
Giá bán
I-Vải Mành
1000Kg
840D/1
Kg
45934
47942
42631
47943
43063
47945
840D/2
Kg
44096
47397
44856
47399
41717
47405
11260D/2
Kg
38754
45982
47760
45985
43074
45987
II- Vải không dệt
1000m2
HD130
m2
3561
5654
3269
5659
2997
5663
HD180
m2
5329
6618
4866
6622
4687
6618
HD200
m2
4545
7651
4283
7661
4840
7665
III- Sản phẩm May
1000SP
18872
36934
17476
IV- Bạt
1000m
Bạt 3x3
m
7681
12247
10655
12251
9369
12252
Bạt 718
m
9835
13060
9413
13063
9734
13065
Bạt 3419
m
7541
9272
7864
9275
7868
9276
* Nhận xét chung:
Nhìn chung chính sách giá được công ty áp dụng một cách linh hoạt, tuỳ theo từng giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm mà công ty đưa ra mức giá hợp lý. Công ty cũng đang trong quá trình hoàn thiện công tác tổ chức quản lý, giảm bớt những lao động gián tiếp, loại bỏ lao động trực tiếp yếu kém ra khỏi chuyền,... để giảm chi phí,hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên công ty còn gặp phải một số khó khăn sau:
+ Nguyên vật liệu của công ty phải nhập hầu hết từ nước ngoài, giá cả nguyên vật liệu lên, xuống thất thường phụ thuộc vào giá dầu mỏ trên thế giới, nhất là năm 2003 tình hình chính trị thế giới không ổn định, giá dầu mỏ tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí nguyên vật liệu đầu vào của công ty. Thực tế này cho thấy đây là một khó khăn lớn cho công ty khi chưa tìm được nguồn nguyên liệu đầu vào trong nước để thay thế.
+ Sản phẩm của công ty còn bị thách thức bởi sự canh tranh của hàng hoá nhập lậu trốn thuế từ Trung Quốc với giá thành hạ.Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách hợp lý ngăn chặn tình trạng này để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước nói chung và công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội nói riêng.
III. Phân tích tình hình doanh thu và lợi nhuận của công ty:
* Doanh thu là toàn bộ các khoản tiền thu được từ hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác của công ty mang lại( Doanh thu bán hàng, doanh thu từ hoạt động tài chính,...).
* Lợi nhuận: Bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào thì mục tiêu cuối cùng cũng là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là gì?
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của công ty, nó phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Lợi nhuận của công ty là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất, là cơ sở để nâng cao mức thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
Về công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội trong hai năm gần đây do đã tìm được hướng đi đúng đắn mạnh dạn đầu tư vào đổi mới máy móc trang thiết bị, chú trọng vào công tác tìm hiểu thị trường, thực hiện tốt chiến lược sản phẩm mới nên doanh số bán hàng tăng lên đáng kể và lợi nhuận cũng tăng lên tương ứng được thể hiện ở bảng sau:
Bảng phản ánh doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động bán hàng.
Đơn vị: triệu đồng.
Năm
Doanh thu
Lợi nhuận
2001
79502
106
2002
83955
334
2003
112224
451.59
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2003
Đơn vị: VNĐ
1. Doanh thu thuần
112.112.638.740
2. Giá vốn hàng bán
97.781.744.574
3. Lợi nhuận gộp
14.330.894.166
4. Doanh thu hoạt động tài chính
238.652.382
5. Chi phí bán hàng
3.643.468.442
6. Chi phí tổ chức
6.494.309.347
7. Chi phí quản lý
4.104.340.722
8. Lợi nhuận thuần
327.428.038
9. Thu nhập khác
236.140.631
Tổng lợi nhuận
563.568.669
Một số chỉ tiêu phản ánh doanh thu và lợi nhuận của công ty năn 2003:
Chỉ tiêu phản ánh Tỷ suất lợi nhuận
2002
2003
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/ doanh thu
0.145
0.402
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế / doanh thu
0.098
0.274
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản
0.072
0.3
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản
0.049
0.204
Lợi nhuận sau thuế / Ng.vốn chủ sở hữu
0.511
1.864
IV. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư của công ty:
Danh mục dự án đầu tư
Đơn vị:Triệu đồng
Tên Dự án đầu tư
địa điểm xây dựng
Thời gian
Công suất thiết kế
Tổng vốn đầu tư
Khởi công
Hoàn thành
Năm 2002:
1. đầu tư thay thế đầu cuộn vải của dây chuyền nhúng keo
Xí nghiệp mành nhúng keo
2/2002
2140
2. Dây chuyền vải không dệt
C.ty DVCN HN
11/2001
10/2002
2300 Tấn/năm
63623
3. 2máyxe Allmasarer- Đức
1 máy dệt picanol-Bỉ
Phân xưởng Mành XN M-NK
26/9/2002
25/10/2002
21970
Năm 2003
Dự kiến
1. Dây chuyền sản xuất vải mành nhúng keo của Tây Âu hoặc Mỹ
C.ty DVCN hà Nội
Quý I/2003
Quý IV/2004
4300 Tấn/năm
270000
2. Dây chuyền sản xuất vải không dệt thứ hai
Khu CN T.C.Ty
Phố Nối
Quý IV/2003
6/2005
2500-3000 Tấn/ năm
120000
3. Đầu tư 20 máy dệt Kiếm
C.ty DVCN HN
Quý IV/2002
Quý II/2003
800000 m2/năm
10000
4.Cải tạo hệ thống tự động điều khiển nhiệt độ của máy nhúng keo hiện có.
nt
Quý I/2003
500
5.Thay thế hệ thống tín hiệu lực căng( Loadsel và bộ khuyếchđại lực căng) cũ của Trung Quốc bằng thiết bị của Tây Âu.
nt
Quý II/2003
500
6. Thay thế hệ thống hút keo của Trung Quốc bằng hệ thống hút keo của Tây Âu hoặc Mỹ.
nt
Quý III/2003
3000
Nhận xét về tình hình thực hiện các dự án đầu tư của công ty:
Nói chung các dự án đầu tư của công ty đã đi vào hoạt đông và cho những kết quả rất khả quan. Đặc biệt là dây chuyền vải không dệt dây chuyền đầu tiên tại Việt Nam, sản phẩm của dây chuyền này đã được thị trường chấp nhận, và đang từng bước khẳng định vị trí của mình thay thế hàng ngoại nhập, trong tương lai không xa sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Dù là mới mẻ nhưng nó đã trở thành một trong những mặt hàng chủ lực của công ty. Trong thời gian tới công ty sẽ mở rộng quy mô sản xuất cho mặt hàng này với những sản phẩm cao cấp hơn. Tuy nhiên hầu hết nguồn vốn đầu tư vào các dự án này là vốn vay, cho nên công ty cần cố gắng hơn nữa để khai thác tối đa công suất máy móc tạo khả năng hoàn vốn nhanh.
Chương III
Quản trị nhân lực trong
công ty dệt vải công nghiệp Hà nội
Con người là một trong các nguồn lực sản xuất, con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh có liên quan mật thiết đến những vấn đề lợi ích, nghệ thuật quản lý, sự nghiệp đào tạo và lao động sáng tạo, năng lực tiềm tàng trong mỗi con người. Ngày nay, tuy khoa học công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh, song việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới là điều kiện tiên quyết, để nâng cao hiệu quả sản xuất và để thực hiện nhiệm vụ đó không thể không kể đến vai trò quan trọng của con người. Máy móc thiết bị dù co hiện đại đến đâu thì cũng đều do con người sáng tạo ra, đồng thời những máy móc thiết bị đó phải phù hợp với trình độ kỹ thuật , trình độ tổ chức, trình độ sử dụng của con người thì mới mang lại hiệu quả. Bằng lao động sáng tao của mình, con người đã tạo ra những công nghệ tiên tiến, những thiết bị máy móc hiện đại, những nguyên vật liệu mới có hiệu quả tốt hơn. Con người trực tiếp sử dụng máy móc thiết bị để tạo ra những kết quả cho công ty, hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụngtối đa công xuất của máy móc thiết bị, tận dụng nguyên vật liệu nhằm tăng năng xuất lao động. Chính vì vậy, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các Công ty hiện nay. Sử dụng tốt nguần lao động biểu hiện trên các mặt số lượng và thời gian lao động, tận dụng hết trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao động, ý thức, kỷ luật lao động là một yếu tố rất quan trọng làm tăng khối lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho Công ty.
I. Khái quát về quản trị nhân lực:
1. Khái niệm về quản trị nhân lực:
Với sự phát triển của nền sản xuất mới, vai trò của con người là hết sức quan trọng. Sự thành công trong chiến lược con người của các công ty Nhật Bản là một kinh nghiệm quý báu về chính sách sử dụng đối nhân xử thế khéo léo của các doanh nghiệp. Sử dụng con người đúng khả năng của họ, đúng nơi cần họ đồng thời không ngừng bồi dưỡng nguồn vốn con người tạo điều kiện cho họ, phát huy tài năng, trí sáng tạo phục vụ công ty, phục vụ chính bản thân họ, tạo cơ hội cho họ thành đạt,.... tất cả những nội dung đó chính là các bí quyết về quản trị nhân lực. Quản trị nhân lực là một môn khoa học về quản lý con người, nó bao gồm tất cả các công việc, thủ tục mà các nhà quản trị áp dụng thực hiện để quản lý lao động của mình nhằm khai thác tối đa khả năng của họ. Quản trị nhân lực còn là một nghệ thuật chọn lựa những nhân viên mới và sử dụng những nhân viên cũ sao cho năng suất lao động và chất lượng công việc của mỗi người đều đật tới mức tối đa có thể được.
2. Chức năng của quản trị nhân lực:
Quản trị nhân lực bao gồm các chức năng sau:
- Hoạch định nguồn nhân sự để xác định đúng nhu cầu nhân sự trước mắt cũng như lâu dài. Hoạch định tài nguyên nhân sự như vậy có nghĩa là quá trình biến đổi những mục tiêu của doanh nghiệp thành những dữ kiện về nhân công nhằm đáp ứng sự hoàn thành những mục tiêu ấy.
- Tuyển dụng nguồn nhân lực: Trên cơ sở hoạch định tài nguyên nhân sự một cách cụ thể ta tiến hành tuyển dụng nguồn lực hợp lý.
- Đào tạo và huấn luyện nhân lực: Muốn có những lao động lành nghề có chất lượng cao, tiến hành công việc một cách chính xác, tinh vi, khéo léo và tạo ra giá trị lao động thì các nhà quản trị phải quan tâm chú trọng đào tạo và huấn luyện nhân lực.
- Tổ chức lao động khoa học: Trong bât kỳ hoạt động nào để nâng cao hiệu quả của nó cũng cần phải quan tâm tới công tác sắp xếp, bố trí cả về con người, cả về môi trường làm việc để sao cho con người có một điều kiện làm việc hợp lý nhất có như vậy mới nâng cao được năng xuất lao động. Đó chính là các nội dung của công tác tổ chức lao động khoa học.
- Thuyên chuyển và đề bạt lao động.
- Kích thích vật chất và tinh thần đối với người lao động: Muốn cho người lao động tập chung toàn tâm toàn ý với công việc vì doanh nghiệp, thì các nhà quản trị phải nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của người lao động để đáp ứng nhu cầu của họ.
3. Vai trò, ý nghĩa của quản trị nhân lực trong doanh nghiệp:
Quản trị nhân sự giữ vai trò đặc biệt quan trọng và ngày càng được các nhà quản trị quan tâm nghiên cứu và phân tích, xem đây là một chức năng cốt lõi và quan trọng nhất của quá trình quản trị. Việc nghiên cứu quản trị nhân sự là hết sức cần thiết bởi: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, do đó đặc trưng nổi bật là tính cạnh tranh. Các tổ chức quản trị nói chung va tổ chức kinh doanh nói riêng buộc phải cải thiện tổ chức, trong đó yếu tố con người là quyết định. Việc tìm đúng người phù hợp để giao đúng việc, hay đúng cương vị đang là vấn đề đáng quan tâm đối với mọi hình thức tổ chức hiện nay. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại cùng với sự phát triển của nền kinh tế mở buộc các nhà quản trị phải biết cách thích ứng, do đó việc tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo điều động nhân sự trong bộ máy tổ chức như thế nào nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất đang được mọi giới quan tâm. Nghiên cứu quản trị nhân sự giúp cho các nhà quản trị học được cách giao dịch với người khác, biết cách đặt câu hỏi, biết cách lắng nghe biết tìm ra ngôn ngữ chung với nhân viên, biết cách đánh giá nhân vien mốt cách tốt nhất, biết cách lôi kéo nhân viên say mê với công việc và tránh đưowcs các sai lầm trong công việc tuyển chọn và sử dụng lao động, nâng cao chất lượng công việc, nâng cao chất lượng tổ chức.
II. Phân tích công việc-Định mức lao động và năng xuất lao động:
1. Lý luận chung:
a. Phân tích công việc:
Phân tích công việc là một tiến trình xác định một cách có hệ thống các nghiệp vụ và các kỹ năng cần thiết để thực hiện các chức năng trong tổ chức. Phân tich công việc là những công việc thủ tục xác định quyền hạn và trách nhiệm, kỹ năng theo yêu cầu của công việc và xác định nên tuyển những người như thế nào để thực hiện công viêc tốt nhất. Phân tích công việc cung cấp các thông tin về yêu cầu, đặc điểm của công việc, là tài liệu cơ sở cho việc xây dựng bản mô tả công việc và bản tiêu chuẩn công việc. Trong đó bản mô tả công việc phải bao gồm những nội dung như sau: Nhận diện công việc; Tóm tắt công việc; Mối quan hệ trong công việc; hức năng ,trách nhiệm trong công việc; Quyền hành của người thực hiện công việc; Tiêu chuẩn mẫu của người thực hiện công việc; Điều kiện làm việc. Bản tiêu chuẩn công việc sẽ liệt kê tất cả các yêu cầu chủ yếu đối với nhân viên thực hiện công việc như: Trình độ văn hoá, chuyên môn vàcác khoá đào tạo đã qua; Các môn học chủ yếu của các khoá học đã được đào tạo, kết quả kết quả thi của các môn học chủ yếu và tốt nghiệp; Trình độ ngoại ngữ: Cần biết ngoại ngữ gì và yêu cầu mức độ về đọc, nghe và viết; Thâm niên công tác trong nghềvà các thành tích kỷ lục đã đạt được; Tuổi đời; Sức khoẻ; Năng khiếu; Ngoại hình; Tham vọng;... Tên cơ sở như vậy doanh nghiệp sẽ lựa chọn được ứng viên phù hợp.
b. Định mức lao động:
Sau khi có bản phân tích công việc doanh nghiệp sẽ xây dựng được định mức lao động khoa học và thực tế.
Định mức lao động là một đại lượng lao động sống quy định cho người lao động để họ hoàn thành một khối lượng công việc nhất định.
Định mức lao động gồm 3 loại:
Định mức lao động theo thời gian: Là số lượng thời gian cần thiết quy định cho một hoặc một nhóm công nhân có trình độ nhất định để họ hoàn thành một khối lượng công việc hay tọ ra một đơn vị sản phẩm dạt tiêu chuẩn chất lượng nhất định trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định
Định mức sản lượng: Là số lượng sản phẩm hay khối lượng nhất định quy định cho một hoặc một nhóm công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định
Định mức phục vụ: Là số lượng máy móc thiết bị quy định cho một hoặc một nhóm công nhân phải phục vụ hay nói khác đi là số lượng công nhân cần thiết phải phục vụ một đơn vị máy móc thiết bị.
Nói chung các định mức lao động đều thể hiện được các đặc trưng sau:
- Định mức lao động bao gồm cả sản lượng lãn chất lượng của lao động.
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT070.Doc