Tài liệu Báo cáo Đánh thuế thu nhập với cổ tức: Thực tiễn thế giới và gợi ý đối với Việt Nam: ĐÁNH THUẾ THU NHẬP VỚI CỔ TỨC:
THỰC TIỄN THẾ GIỚI VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
Báo cáo chuyên đề số 2/2011
4/25/2011
Phòng Phân tích và Dự báo thị trường
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
2
NỘI DUNG
1. Thực tiễn việc đánh thuế thu nhập cổ tức trên thế giới và Việt Nam .................... 03
1.1 Tình hình thuế thu nhập cổ tức ở các nước trên thế giới ....................................... 03
1.2 Quy định đánh thuế trên cổ tức tại Việt Nam ........................................................ 05
1.3 Các quan điểm về thuế thu nhập cổ tức tại Việt Nam ............................................ 08
2. Kết luận và gợi ý chính sách ...................................................................................... 11
3
1. Thực tiễn việc đánh thuế thu nhập cổ tức trên thế giới và Việt Nam
1.1. Tình hình áp dụng thuế thu nhập cổ tức ở các nước trên thế giới
Tại Mỹ, thuế đánh vào thu nhập từ cổ tức được bắt đầu áp dụng vào năm 1895. Cho
đến nay vẫn có nhiều ý...
16 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Đánh thuế thu nhập với cổ tức: Thực tiễn thế giới và gợi ý đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH THUẾ THU NHẬP VỚI CỔ TỨC:
THỰC TIỄN THẾ GIỚI VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
Báo cáo chuyên đề số 2/2011
4/25/2011
Phòng Phân tích và Dự báo thị trường
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
2
NỘI DUNG
1. Thực tiễn việc đánh thuế thu nhập cổ tức trên thế giới và Việt Nam .................... 03
1.1 Tình hình thuế thu nhập cổ tức ở các nước trên thế giới ....................................... 03
1.2 Quy định đánh thuế trên cổ tức tại Việt Nam ........................................................ 05
1.3 Các quan điểm về thuế thu nhập cổ tức tại Việt Nam ............................................ 08
2. Kết luận và gợi ý chính sách ...................................................................................... 11
3
1. Thực tiễn việc đánh thuế thu nhập cổ tức trên thế giới và Việt Nam
1.1. Tình hình áp dụng thuế thu nhập cổ tức ở các nước trên thế giới
Tại Mỹ, thuế đánh vào thu nhập từ cổ tức được bắt đầu áp dụng vào năm 1895. Cho
đến nay vẫn có nhiều ý kiến về việc không nên áp dụng thuế cổ tức tại Mỹ. Năm 2003, Chính
phủ Mỹ - đứng đầu là Tổng thống George W. Bush cam kết sẽ loại bỏ thuế đánh vào thu nhập
của các nhà đầu tư cổ phiếu với luận điểm chính là sự đánh trùng hai loại thuế trên cùng một
cơ sở thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, sau đó việc bãi bỏ thuế này cũng không được thực hiện
mà Quốc Hội Mỹ chỉ thông qua sắc lệnh giảm nhẹ thuế (Jobs and Growth Tax Relief
Reconciliation Act of 2003 - JGTRRA) sau nhiều tháng tranh luận. Mục tiêu của sắc lệnh
thuế này là nhằm tăng nhu cầu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hướng tới các mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Mức thuế suất khởi điểm là 10% được áp dụng cho hầu hết các nhà đầu
tư với cổ tức thông thường (ordinary dividend). Một số nhà đầu tư đáp ứng đủ các điều kiện
về thu nhập cổ tức tiêu chuẩn (qualified dividend) sẽ được áp dụng mức thuế ưu đãi thấp hơn.
Quy định về thu nhập cổ tức tiêu chuẩn được áp dụng đến 31/12/2008 nhưng sau đó được gia
hạn hai lần, đến 31/12/2012 (lần gia hạn đầu tiên kéo dài thời hạn áp dụng đến 31/12/2010).
Bảng 1: Biểu thuế thu nhập cổ tức tại Mỹ từ năm 2003
2003 - 2012
2013 -
2003 - 2007 2008 - 2012
Thu nhập
thông
thường
Cổ tức
thông
thường
Cổ tức
tiêu
chuẩn
Cổ tức
thông
thường
Cổ tức
tiêu
chuẩn
Thu nhập
thông
thường
Cổ tức
thông
thường
Cổ tức
tiêu
chuẩn
10% 10% 5% 10% 0% 15% 15% 15%
15% 15% 5% 15% 0% 28% 28% 28%
25% 25% 15% 25% 15% 31% 31% 31%
28% 28% 15% 28% 15% 36% 36% 36%
33% 33% 15% 33% 15%
39.6% 39.6% 39.6%
35% 35% 15% 35% 15%
Nguồn: IRS
Tại Nhật Bản, theo chính sách miễn giảm thuế, mức thuế suất áp dụng cho thu nhập từ
cổ tức đối với các cổ phiếu niêm yết là 10% trong giai đoạn từ đầu năm 2009 đến hết năm
2012. Sau thời gian này, tất cả các khoản thu nhập từ cổ tức đều phải chịu thuế với mức thuế
suất là 20%. Chính sách giảm thuế này chỉ áp dụng cho các nhà đầu tư cá nhân nắm giữ cổ
phiếu niêm yết và với tỷ lệ nắm giữ đối với một công ty là không quá 5%. Nếu tỷ lệ nắm giữ
của một nhà đầu tư cá nhân đối với một công ty vượt quá 5% hoặc đầu tư vào cổ phiếu chưa
4
niêm yết thì các khoản thu nhập cổ tức từ những khoản đầu tư đó đều phải chịu mức thuế suất
chung là 20%.
Canada cũng áp dụng chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ tức. Tuy nhiên, các nhà
làm chính sách tại đây cũng có những chương trình hỗ trợ tín dụng thuế nhằm hỗ trợ cho các
nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu của các công ty trong nước. Bắt đầu từ năm 2005, Canada còn
áp dụng chính sách thuế suất ưu đãi đối với các khoản thu nhập cổ tức tiêu chuẩn (eligible
dividend). Các khoản thu nhập cổ tức tiêu chuẩn là cổ tức mà nhà đầu tư cá nhân Canada
nhận được từ các công ty Canada và có chỉ định bằng văn bản từ các công ty đó. Các khoản
thu nhập cổ tức loại này được hưởng mức thuế suất thấp hơn với mục đích làm giảm tác động
đánh trùng thuế, đặc biệt đối với các công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức cao.
Bảng 2: Biểu thuế thu nhập cổ tức tại Canada năm 2010 và 2011
Thu nhập chịu thuế
năm 2011
Thuế suất năm 2011
Thu nhập chịu thuế
năm 2010
Thuế suất năm 2010
Thu nhập
khác
Lãi
vốn
Cổ tức
Thu nhập
khác
Lãi
vốn
Cổ tức
Tiêu
chuẩn
Không tiêu
chuẩn
Tiêu
chuẩn
Không tiêu
chuẩn
41.544$ đầu tiên 15.0% 7.5% -2.02% 2.08% 40.970$ đầu tiên 15.0% 7.5% -4.28% 2.08%
41.544$ - 83.088$ 22.0% 11.0% 7.85% 10.83% 40.970$ - 81.941$ 22.0% 11.0% 5.80% 10.83%
83.088$ - 128.800$ 26.0% 13.0% 13.49% 15.83% 81.941$ - 127.021$ 26.0% 13.0% 11.56% 15.83%
Trên 128.800$ 29.0% 14.5% 17.72% 19.58% Trên 127.021$ 29.0% 14.5% 15.88% 19.58%
Nguồn: Taxtips.ca
Ngoài mức thuế Chính phủ Liên bang thu theo biểu thuế suất ở trên, các bang cũng có
mức thuế riêng đánh trên thu nhập từ cổ tức của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, có thể thấy một
điểm là thuế suất thuế cổ tức thấp hơn khá nhiều so với các mức thuế thu nhập khác như
lương, thưởng... Trên thực tế đây cũng là một giải pháp mà Chính phủ Canada áp dụng nhằm
hỗ trợ các nhà đầu tư nhưng cũng đồng thời dung hòa những ý kiến ở chiều hướng ngược lại
cho rằng không nên đánh thuế vào cổ tức.
Ngoài ra, còn rất nhiều các nước khác cũng áp dụng hình thức thuế cổ tức với những
mức thuế suất khác nhau và tùy thuộc vào từng ngành nghề, loại hình công ty.
Bảng 3: Bảng tỷ suất thuế cổ tức một số quốc gia
Quốc gia Mức thuế suất
Anh 10 – 32,5%
Áo 25%
Ấn Độ 20 – 25%
5
Bỉ 15 – 25%
Bulgary 5%
Đài Loan 0% với NĐT trong nước
20% với NĐT nước ngoài
Đức 25%
Hà Lan 15%
Hàn Quốc 6 – 35%
Hồng Kông 0%
Indonesia 15%
Italia 12,5%
Malaysia 0%
Pháp 5%
Philippines 10%
Singapore 0%
Thái Lan 10%
Trung Quốc 10%
Úc 0 – 15%
Nguồn:Taxrates.cc
Nhìn chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đánh thuế trên thu nhập từ cổ tức.
Tuy nhiên, trong những trường hợp kinh tế gặp khó khăn, các nước này đã có những chính
sách ưu đãi như giảm thuế, tín dụng thuế nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư trên TTCK. Chỉ một số
ít các nước không áp dụng chính sách thuế cổ tức như Hồng Kông, Singapore, Malaysia với
quan điểm chủ đạo là chỉ đánh thuế một lần trên một khoản thu nhập.
1.2. Quy định đánh thuế trên cổ tức tại Việt Nam
Tại Việt Nam, thuế thu nhập cổ tức được coi là một loại trong thuế thu nhập. Theo
Luật Quản lý thuế của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10, số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007 thì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước, nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá
nhân. Nếu phân loại theo hình thức thu thì thuế được chia thành hai loại là thuế gián thu và
thuế trực thu. Thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một,
6
ví dụ thuế VAT, nhà nước đánh thuế vào công ty – công ty nộp thuế và công ty lại chuyển số
thuế đó vào chi phí của hàng hóa, dịch vụ - người tiêu dùng phải chịu và như vậy người tiêu
dùng mới là người chịu thuế cuối cùng. Thuế trực thu là thuế mà người chịu thuế và người
nộp thuế là một, ví dụ như thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hay thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN).
Thuế thu nhập là thuế đánh vào thu nhập của cá nhân và pháp nhân. Cơ sở để tính
thuế là thu nhập và hiện nay có nhiều cách để xác định thu nhập chịu thuế. Có thể đó là mọi
khoản thu nhập; hoặc những khoản thu nhập được xác định là thu nhập để tiêu dùng; hoặc là
những khoản thu nhập thường xuyên (thu nhập nhất thời, thu nhập ngoài kế hoạch không bị
đánh thuế)… Thời gian để xác định thu nhập chịu thuế thường là một năm tài chính. Thuế thu
nhập được tính bằng cách lấy thu nhập chịu thuế nhân với thuế suất thuế thu nhập.
Ở Việt Nam hiện nay, thuế TNCN được xác định theo Luật thuế Thu nhập cá nhân
của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 2, số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2009. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm 14 loại thu nhập và có quy
định rõ biểu thuế đối với các trường hợp. Thu nhập từ đầu tư vốn (là một trong 14 loại thu
nhập chịu thuế TNCN) áp dụng biểu thuế toàn phần với tỷ lệ thuế suất là 5%.
Sau khi Luật thuế TNCN chính thức ra đời, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, trong đó
có quy định đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán (CK) của các NĐT như sau:
- Căn cứ tính thuế đối với hoạt động chuyển nhượng CK là thu nhập tính thuế và thuế suất.
Trong đó thu nhập tính thuế được xác định bằng giá bán CK trừ giá mua và các chi phí
liên quan đến việc chuyển nhượng.
- Thuế suất: có thể áp dụng 1 trong 2 cách tính
Nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%. Cá nhân chuyển nhượng chứng
khoán đã đăng ký nộp thuế theo thuế suất 20% vẫn phải tạm nộp thuế theo thuế suất
0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần. Cách tính thuế thu nhập cá nhân
phải nộp như sau:
Thuế thu nhập cá
nhân phải nộp
=
Thu nhập tính
thuế
x
Thuế suất
20%
Trường hợp cá nhân chuyển nhượng chứng khoán không đăng ký nộp thuế theo biểu
thuế toàn phần với thuế suất là 20% thì áp dụng thuế suất 0,1% trên giá chuyển
nhượng chứng khoán từng lần. Cách tính thuế phải nộp như sau:
Thuế thu nhập cá
nhân phải nộp
=
Giá chuyển
nhượng
x
Thuế suất
0,1%
7
- Thời điểm xác định thu nhập tính thuế từ hoạt động chuyển nhượng chứng khoán được
xác định như sau:
Đối với chứng khoán niêm yết là thời điểm Trung tâm hoặc Sở giao dịch chứng
khoán công bố giá thực hiện.
Đối với chứng khoán chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại Trung
tâm Giao dịch chứng khoán là thời điểm Trung tâm công bố giá thực hiện.
Đối với chứng khoán không thuộc trường hợp nêu trên là thời điểm hợp đồng chuyển
nhượng chứng khoán có hiệu lực. Trường hợp không có hợp đồng chuyển nhượng
chứng khoán thì thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký chuyển tên sở hữu chứng
khoán.
Cũng theo Thông tư 84, thu nhập của cá nhân từ cổ tức cũng được coi là thu nhập
chịu thuế với mức thuế suất toàn phần là 5%. Trường hợp nhà đầu tư nhận cổ tức bằng tiền
mặt, thuế TNCN được tính bằng cổ tức mỗi lần trả nhân với thuế suất 5%. Trường hợp nhận
cổ tức bằng cổ phiếu hoặc nhận cổ phiếu thưởng, nhà đầu tư chưa phải nộp thuế khi nhận cổ
phiếu. Khi chuyển nhượng cổ phiếu này, nhà đầu tư mới phải thực hiện nghĩa vụ thuế và
được áp dụng tương tự như trường hợp chuyển nhượng chứng khoán và thu nhập từ đầu tư
vốn.
Ngày 6/2/2009, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 27/2009/TT-BTC về việc
Hướng dẫn thực hiện việc giãn thời hạn nộp thuế TNCN, theo đó các cá nhân được giãn nộp
thuế từ ngày 01/01/2009 đến hết ngày 31/5/2009. Số thuế được giãn nộp (đối với thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán) là số thuế TNCN phải kê khai hoặc đơn vị chi trả thu nhập
khấu trừ theo từng lần phát sinh thu nhập.
Trình tự giãn nộp thuế được quy định như sau: các tổ chức, cá nhân trả các khoản thu
nhập phải khấu trừ thuế thu nhập cá nhân cho các đối tượng được giãn nộp thuế, khi trả thu
nhập vẫn tính số thuế phải khấu trừ và thông báo cho cá nhân nhận thu nhập biết số thuế khấu
trừ được tạm giãn nộp; hàng tháng vẫn phải lập tờ khai số thuế đã khấu trừ theo quy định
hiện hành và nộp tờ khai cho cơ quan thuế để cơ quan thuế nắm được số thuế phát sinh nhưng
được giãn nộp thuế. Các cá nhân thuộc đối tượng được giãn nộp thuế có các khoản thu nhập
theo quy định phải khai thuế trực tiếp với cơ quan thuế vẫn phải lập và nộp tờ khai thuế theo
quy định hiện hành.
Thông tư cũng quy định, đối với số thuế được giãn nộp, cá nhân có thu nhập được giữ
lại trong thời gian được giãn. Trong thời gian được giãn nộp thuế, tổ chức, cá nhân khấu trừ
thuế, cá nhân có các khoản thu nhập thuộc đối tượng được giãn nộp thuế không bị coi là vi
phạm chậm nộp thuế và không bị xử phạt hành chính về hành vi chậm nộp tiền thuế đối với
số thuế được giãn nộp.
8
Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 160/2009/TT-BTC Hướng dẫn miễn thuế thu nhập cá nhân
năm 2009. Trong đó quy định đối tượng được miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày
01/01/2009 đến hết ngày 31/12/2009 bao gồm cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú có thu
nhập từ đầu tư vốn; từ chuyển nhượng vốn (bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán). Từ
ngày 01/01/2010 các đối tượng trên nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định ở Thông tư số
84/2008/BTC-TCT ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính.
Tiếp theo đó, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính ra công văn số 451/TCT-TNCN ngày
8/2/2010 về quyết toán thuế TNCN, quy định nếu chi trả các khoản thu nhập từ chứng khoán
của năm 2009 trước ngày 01/7/2010 thì các khoản thu nhập này thuộc thu nhập được miễn
thuế, nếu chi trả sau ngày 30/6/2010 thì phải tính thuế. Đồng thời, theo công văn số
15286/CH-HTr ngày 23/8/2010 của Tổng cục Thuế thì trong trường hợp tổ chức phát hành
muốn trả cổ tức cho nhà đầu tư thì tổ chức phát hành phải khấu trừ thuế Thu nhập cá nhân từ
lợi tức mà nhà đầu tư nhận được. Vì vậy, các khoản cổ tức, trái tức nhà đầu tư được nhận kể
từ ngày 01/07/2010 đã bị khấu trừ thuế TNCN là 5% trên tổng giá trị cổ tức, trái tức.
Như vậy, bắt đầu từ ngày 01/01/2010, nhà đầu tư bắt đầu phải chịu thuế theo quy định
tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC, ngoại trừ các khoản thu nhập từ đầu tư vốn của năm 2009
được trả trong 6 tháng đầu năm 2010 như đề cập ở trên.
1.3. Các quan điểm về thuế thu nhập cổ tức tại Việt Nam
Tại Việt Nam, từ khi Dự Luật thuế TNCN ra đời đã có rất nhiều ý kiến xung quanh
việc đánh thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán cũng như việc áp dụng
thuế đối với thu nhập của nhà đầu tư từ cổ tức.
Trước hết là cách tính thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán.
Nếu NĐT chọn cách nộp thuế với thuế suất 20% thì phải đăng ký với cơ quan thuế trước
ngày 31/12 của năm liền trước; phải lập, hoàn thiện chứng từ và chứng minh về những chi
phí hợp lý, hợp lệ với cơ quan thuế; phải có sổ sách kế toán ghi chép cụ thể về giá mua – giá
bán; bên cạnh đó vẫn phải tạm nộp 0,1% trên tổng giá trị mỗi lần chuyển nhượng chứng
khoán và cuối năm mới thực hiện quyết toán thuế, nếu số thuế đã nộp còn thiếu thì nộp bổ
sung và nếu thừa thì được nhận lại. Chính sự phức tạp và rất khó để thực hiện của cách nộp
thuế này đã khiến phần lớn NĐT đều chọn cách nộp thuế tính 0,1% trên tổng giá trị mỗi lần
chuyển nhượng. Bởi vì hầu hết NĐT là NĐT cá nhân nhỏ lẻ nên việc thực hiện chế độ sổ
sách kế toán cũng như việc thu thập chứng từ, hóa đơn để chứng minh chi phí bỏ ra trong
quá trình đầu tư, mua bán chứng khoán là rất khó, thậm chí là không thể. Bên cạnh đó, việc
giao dịch qua internet, qua tin nhắn hay điện thoại hiện nay rất phổ biến, việc thu thập các
hóa đơn điện tử là rất khó khả thi. Mặc dù hiện nay Việt Nam đã có Luật và Nghị định về
9
giao dịch điện tử đồng thời Bộ Tài chính cũng đã có Thông tư hướng dẫn về hóa đơn điện tử
trong lĩnh vực tài chính nên có thể áp dụng hóa đơn điện tử vào việc tính toán thuế đối với
hoạt động chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hóa đơn điện tử không
thể phản ánh đầy đủ và chính xác tổng chi phí (gồm cả chi phí hữu hình và vô hình) mà NĐT
đã bỏ ra. Hơn nữa, việc xác định giá mua, bán chứng khoán trên thị trường niêm yết cũng khá
phức tạp do cơ chế khớp lệnh tạo ra nhiều mức giá thực hiện khác nhau trong khớp lệnh liên
tục. Chính vì vậy mà cơ quan thuế đã đưa thêm cách nộp thuế thứ hai, đó là hình thức thuế
khoán (nộp 0,1% trên tổng giá trị chuyển nhượng chứng khoán mỗi lần giao dịch) và đại đa
số các NĐT chọn (hoặc bị buộc phải chọn) cách đóng thuế này. Nếu NĐT chọn cách nộp
thuế này thì chỉ việc nộp và thu thuế đơn giản hơn rất nhiều vì các công ty chứng khoán chỉ
cần trích 0,1% giá trị của mỗi lần chuyển nhượng và nộp cho cơ quan thuế. Cách nộp thuế
này giúp cho việc tính và nộp thuế được thực hiện dứt điểm sau mỗi lần giao dịch, không cần
lưu hồ sơ giấy tờ và không phải thực hiện quyết toán thuế vào cuối năm. Tuy nhiên, thực tế
này đã dẫn tới một điểm bất hợp lý, không nhất quán với tinh thần của Luật thuế TNCN là
trong hoạt động chứng khoán có lãi mới phải nộp thuế.
Mỗi lần giao dịch chứng khoán, NĐT bị tính thêm 0,1% tổng giá trị giao dịch (tương
đương với việc công ty chứng khoán tăng thêm phí giao dịch 0,1%) dù giao dịch đó mang lại
lãi hay lỗ cho NĐT. Trong thời gian qua, các NĐT bị thua lỗ không ít do tình hình đi xuống
chung của thị trường chứng khoán thì việc vẫn phải nộp thuế đã gây tâm lý bức xúc cho các
NĐT, họ cho rằng kinh doanh thua lỗ mà vẫn phải nộp thuế là một điểm rất bất hợp lý. Với
các NĐT có tổng giá trị giao dịch lớn trong năm (từ vài chục đến cả trăm tỷ đồng), dù tỷ lệ
thuế 0,1% thì khoản thuế họ phải nộp cũng không hề nhỏ. Khi thị trường thuận lợi thì khoản
thuế 0,1% có thể là không đáng kể, nhưng khi thị trường chứng khoán có diễn biến ảm đạm
như thời gian vừa qua, khoản tiền thuế phải nộp khi thua lỗ cũng trở thành gánh nặng cho các
NĐT. Việc áp thuế khi NĐT thua lỗ đã không khuyến khích NĐT bỏ thêm vốn vào TTCK,
hạn chế giao dịch dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của thị trường. Ông
Huỳnh Anh Tuấn – Tổng giám đốc CTCK SJC đã khẳng định nếu cơ quan thuế cho NĐT lựa
chọn lại thì sẽ có rất nhiều người chọn cách đóng thuế với thuế suất 20% để lấy lại những
khoản tiền đã mất do đầu tư thua lỗ trong thời gian vừa qua.
Thứ hai là việc đánh thuế 5% trên cổ tức. Hầu hết các nhà đầu tư đều cho rằng việc
đánh thuế trên cổ tức là “thuế chồng thuế”. Chưa nói tới mức thuế suất 5%, nhiều ý kiến đã
cho rằng đánh thuế cổ tức là có sự chồng chéo trong chính sách thuế, đánh thuế hai lần và đây
là sự tận thu chưa công bằng.
Khi NĐT nắm giữ cổ phiếu của một doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc họ là cổ đông
hay là một chủ sở hữu của doanh nghiệp đó. Vì vậy, khi doanh nghiệp chịu thuế TNDN cũng
có nghĩa là NĐT phải chịu. Doanh nghiệp trả cổ tức nghĩa là doanh nghiệp trích một phần
10
trong tổng thu nhập của mình để trả cho những người có tên trong danh sách cổ đông, như
vậy thì cổ tức đã phải chịu một lần thuế TNDN. Vậy thì khi cổ đông nhận cổ tức và phải chịu
thêm mức thuế 5% sẽ bị thuế chồng lên thuế và không đúng với thuế TNCN. Việc phải chịu
thuế tính trên cổ tức gây tâm lý bất bình cho các NĐT hơn là chi phí thuế mà họ phải gánh
chịu. Bên cạnh đó, nếu đánh thuế TNDN chính là đã đánh thuế vào chủ sở hữu của DN hay
chính là cổ đông của công ty – các NĐT. Vì vậy không nên phân biệt rạch ròi giữa hai chủ
thể là DN và cổ đông trong trường hợp này. Tuy nhiên, để đạt được sự thống nhất của đối
tượng chịu thuế với cơ quan quản lý cũng như các chuyên gia về vấn đề này là không đơn
giản. Vì vậy có thể đưa ra giải pháp nếu đánh thuế cổ tức thì có thể giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp xuống, nhất là trong giai đoạn TTCK đang cần những yếu tố tích cực để khuyến khích
phát triển và trở thành một trong những kênh dẫn vốn quan trọng, minh bạch cho nền kinh tế.
Khi TTCK phát triển đến một quy mô lớn hơn thì có thể xem xét tăng thuế để tăng nguồn thu
cho ngân sách.
Một bất cập nữa trong việc đánh thuế cổ tức là việc thu thuế TNCN của các NĐT chủ
yếu ở các doanh nghiệp niêm yết, trong khi giao dịch tự do, mua bán trao tay và chủ yếu bằng
tiền mặt thì không ai kiểm soát và cũng không phải đóng thuế nên nếu đánh thuế rất dễ dẫn
đến việc NĐT sẽ không tham gia thị trường giao dịch chính thức, làm chậm tiến độ cổ phần
hóa, hạn chế các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, việc tính
thuế không công bằng, không hợp lý sẽ làm cho thị trường không phát triển mà còn có khả
năng bị suy thoái như một số nước trước đây đã vấp phải.
Một điểm nữa cũng được đem ra bàn luận nhiều, đó là sự chưa công bằng khi đánh
thuế đối với cổ tức. Nếu so sánh với tiền gửi tiết kiệm, tính bảo toàn vốn cao, lãi suất cũng
tương đối cao (tính từ thời điểm đưa ra Dự thảo Luật thuế TNCN, lãi suất trên dưới 10%/năm
tới nay, lãi suất có những lúc đã tăng lên 18,19%/năm) mà chưa bị đánh thuế trên lãi tiền gửi
tiết kiệm. Trong khi cổ tức có tỷ lệ rủi ro cao hơn, phụ thuộc nhiều vào tình hình sản xuất
kinh doanh của DN, NĐT phải bỏ nhiều thời gian và chi phí nhất định để tìm những địa chỉ
đầu tư với tỷ lệ cổ tức sinh lợi cao, nhưng phần lớn các công ty cổ phần vẫn đưa ra mức cổ
tức hàng năm dưới 15%. Bên cạnh đó, cổ đông còn phải đối mặt với tình hình lạm phát liên
tục tăng cao. Xét tổng quan thì như vậy là không công bằng giữa hai ngành ngân hàng và
chứng khoán.
Phản hồi lại các ý kiến trái chiều là các ý kiến của những người trong ngành, và có
kinh nghiệm lâu năm. Các ý kiến được đưa ra nêu rõ, đây là việc đóng thuế của hai chủ thể
khác nhau, doanh nghiệp thì đóng thuế TNDN còn cá nhân thì đóng thuế TNCN. Điều này
cũng giống như người mua hàng vẫn phải chịu thuế VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt. Các sắc
thuế này khác nhau nên không thể coi là đánh thuế trùng thuế. Nếu xét trên khía cạnh kinh tế
với cách nhìn nhận đơn giản, tách bạch, cắt khúc quá trình kinh tế hay các chu kỳ sản xuất,
11
kinh doanh của DN, thì quả thật là phần cổ tức được chia cho các cổ đông chính là một phần
thu nhập của công ty và đã được xác định trong tổng thu nhập chịu thuế của công ty khi tính
thuế và nộp thuế thu nhập DN. Tức là phần thu nhập này thực tế đã bị đánh thuế. Tuy nhiên,
quá trình kinh tế của doanh nghiệp là sự liên tục của những chu kỳ sản xuất kinh doanh, và
nếu quan niệm như theo kiểu cắt khúc nói trên thì còn có thể suy ra nhiều khoản thu nhập hay
nguồn vốn khác cũng bị đánh thuế hai lần, thậm chí là rất nhiều lần.
Trên thực tế áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân đối với đầu tư chứng khoán đã bộc
lộc một số điểm bất hợp lý, nên Bộ Tài chính đang nghiên cứu để tìm biện pháp khắc phục.
Việc đưa ra mức thuế hợp lý hơn so với hiện tại, việc bổ sung các quy định về công nhận hóa
đơn điện tử, hay áp dụng mức thuế khoán theo thông lệ của nhiều nước nhưng có tính đến đặc
thù của NĐT trên TTCK Việt Nam đều sẽ được cân nhắc để sao cho Luật thuế sửa đổi sẽ thể
hiện được tư duy quan trọng của người làm chính sách thuế, đó là không vì nguồn thu trước
mắt mà cần phát triển nguồn thu ổn định và bền vững về dài hạn. Bộ Tài chính đã chính thức
kiến nghị Chính phủ đưa nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN vào
Chương trình xây dựng luật của Quốc hội năm 2012, nhưng Bộ Tư pháp muốn trình Quốc hội
xem xét sửa đổi ngay trong năm nay.
2. Kết luận và gợi ý chính sách
Thuế thu nhập cổ tức là một loại hình thuế thu nhập mà một quốc gia đánh vào cổ tức
mà một công ty trả cho cổ đông của công ty đó. Thuế cổ tức hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi
xung quanh vấn đề thuế kép (hay thuế chồng thuế) mà các quốc gia đang thực hiện gặp phải,
đặc biệt là phản ứng từ các cổ đông – người nắm giữ cổ phiếu do các công ty đã phải nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi lợi nhuận được chia cho cổ đông.
Các quan điểm đồng tình với thuế thu nhập từ cổ tức cho rằng các doanh nghiệp là
những pháp nhân độc lập, có quyền sở hữu tài sản. Vì vậy, nó được phân biệt so với chủ sở
hữu và đây là hai chủ thể riêng biệt. Việc đánh thuế vào cổ tức của các cổ đông không phải là
sự đánh thuế trùng.
Ngược lại, các quan điểm chống lại thuế thu nhập cổ tức cho rằng là sự bất bình đẳng
khi thu nhập từ cổ tức bị đánh thuế sau khi đã một lần phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng vẫn tồn tại song song hai luồng ý kiến về vấn đề thuế thu
nhập cổ tức. Một phía ủng hộ việc đánh thuế đối với thu nhập từ cổ tức của các nhà đầu tư
với quan điểm là thuế thu nhập cổ tức sẽ tăng cường tính công bằng giữa các nhà đầu tư trên
TTCK. Ngược lại, luồng ý kiến phản đối việc đánh thuế này lại cho rằng việc áp dụng thuế là
không công bằng và đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập của các nhà đầu tư. Tuy nhiên
có một thực tế là mặc dù luồng ý kiến thứ hai được nhiều các nhà đầu tư ủng hộ nhưng hầu
hết các nước trên thế giới vẫn áp dụng việc đánh thuế đối với cổ tức của các nhà đầu tư.
12
Có thể thấy một tồn tại là sự không rõ ràng giữa hai quan điểm đánh thuế trùng hoặc
không trùng khi áp dụng thuế thu nhập cổ tức. Tại Việt Nam, xác định nguyên tắc của việc
đánh thuế được xem như là một khoản phí cho việc sử dụng các nguồn lực xã hội để tạo ra lợi
nhuận. Như vậy, khi một công ty hoạt động sản xuất kinh doanh, họ phải trả thuế thu nhập
doanh nghiệp cho việc sử dụng cho việc sử dụng các nguồn lực nói trên. Việc các công ty
trong quá trình hoạt động phải trả thuế VAT, thuế TTĐB, thuế XNK... chỉ là thuế gián thu và
không phải là các công ty trả mà họ chỉ trả hộ cho người tiêu dùng. Như vậy, thuế TNDN là
trả cho việc sử dụng nguồn lực xã hội của chủ thể công ty. Đến lượt các cổ đông, tất cả trong
số họ đều chỉ đầu tư vốn vào để nhận được lợi nhuận là cổ tức. Rõ ràng, nếu theo quan điểm
về nguyên tắc đánh thuế, họ cũng phải trả phí cho việc sử dụng các nguồn lực xã hội trong
việc đầu tư vốn. Ít nhất, các nhà đầu tư cũng hoạt động trong một thị trường được tổ chức và
quản lý bởi Nhà nước. Hai chủ thể công ty và cổ đông cùng hai hoạt động sản xuất kinh
doanh và đầu tư vốn rõ ràng là phân biệt, mặc dù cùng phải nằm trong một quy trình chung.
Như vậy, khó có thể nói việc đánh thuế trên thu nhập cổ tức là “đánh thuế trùng” hay đánh
thuế hai lần. Do đó, trước hết có thể khẳng định việc áp dụng thuế thu nhập cổ tức là có cơ
sở.
Tuy nhiên, vấn đề áp dụng thuế thu nhập cổ tức ở Việt Nam cần phải xem xét các
mục tiêu khi sử dụng loại thuế này như: phân phối lại và công bằng về thu nhập, định hướng
kinh tế vĩ mô.
Thứ nhất, xét về khía cạnh phân phối lại và công bằng thu nhập. Giữa nhà đầu tư trái
phiếu, nhà đầu tư cổ phiếu, người gửi tiền rõ ràng có mục đích và động cơ tương tự nhau là
giảm thiểu rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy, nếu chỉ đánh thuế trên thu nhập từ cổ tức và
lãi vốn (capital gains) thì sẽ là không công bằng giữa các nhà đầu tư cùng hoạt động trên thị
trường vốn – tiền tệ. Nếu đã áp dụng thì cần phải áp dụng cho tất cả các đối tượng trên và
ngược lại. Định hướng mục tiêu cho từng mảng thị trường có thể được thực hiện thông qua
các chính sách ưu đãi khác miễn, giảm thuế, tín dụng thuế. Trong điều kiện thu nhập từ lãi
tiền gửi (hay ngoại tệ trên thị trường không chính thức) của các cá nhân không bị đánh thuế
thì mức thuế suất đánh vào cổ tức càng cao sẽ càng làm mất dần động cơ tham gia vào TTCK
của các nhà đầu tư. Dòng tiền vào TTCK sẽ bị hạn chế và bị các kênh đầu tư khác thu hút.
Tuy nhiên, nếu tất cả các hình thức đầu tư vốn đều phải chịu thuế thu nhập thì có thể sử dụng
vai trò của thuế như một công cụ hỗ trợ cho một mảng thị trường riêng biệt nào đó, ví dụ như
định hướng mục tiêu thị trường vốn thông qua miễn, giảm thuế thu nhập cổ tức và chuyển
nhượng chứng khoán tại từng thời điểm.
Một vấn đề khác liên quan đến sự bình đằng giữa các đối tượng nộp thuế đó là trong
khi các nhà đầu tư cá nhân mua cổ phiếu phải chịu thuế trên cổ tức nhận được thì các doanh
nghiệp có thu nhập cổ tức từ hoạt động đầu tư liên doanh liên kết lại không phải chịu thuế
13
cho phần thu nhập từ hoạt động đó. Theo thông lệ tại Mỹ và các nước OECD, các doanh
nghiệp đều được hưởng những ưu đãi về thuế thu nhập từ cổ tức. Tuy nhiên, không có quốc
gia nào trong số này miễn toàn bộ thuế đánh trên cổ tức cho các doanh nghiệp (Damodaran,
2003).
Thứ hai là việc định hướng mục tiêu kinh tế vĩ mô từ sự phát triển của các thị trường
tài chính, trong đó có thị trường cổ phiếu. Về mặt lý thuyết, việc chi trả cổ tức cao nhờ tác
động của thuế thu nhập cổ tức giảm sẽ làm giảm lợi nhuận giữ lại, tăng chi phí vốn cổ phần
của các doanh nghiệp và vì vậy làm giảm hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh tương lai
của các doanh nghiệp. Điều này được giải thích bởi sự tăng lên của tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ làm
tăng chi phí vốn cổ phần hiện hành đồng thời làm cho nguồn vốn tái đầu tư bị thu hẹp, đặc
biệt trong điều kiện khả năng tiếp cận với các nguồn vay nợ bị hạn chế. Tuy nhiên, tỷ lệ cổ
tức cao cũng sẽ khuyến khích các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp tham gia TTCK và các
doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn cổ phần (cả về thời gian và chi phí)
thông qua phát hành trên thị trường sơ cấp. Như vậy, những doanh nghiệp có nhiều cơ hội
đầu tư sẽ sẵn sàng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm hơn cho nền
kinh tế. Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, hầu hết các doanh nghiệp đều có nhiều cơ
hội đầu tư và tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với nhiều nước và khu vực khác. Vì thế,
sẽ là thuận lợi hơn cho các công ty niêm yết nếu huy động được nguồn vốn cổ phần thông
qua TTCK, đặc biệt là trong điều kiện thắt chặt tín dụng đồng thời thị trường trái phiếu chưa
phát triển như hiện nay. Như vậy, việc chi trả cổ tức cao sẽ có tác động hai mặt bù trừ nhau
và cần phải tiến hành các khảo sát chi tiết để có những đánh giá chính xác. Trên thị trường
Mỹ, vấn đề này có thể được tham khảo qua các bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa việc cắt
giảm thuế thu nhập cổ tức tại Mỹ năm 2003 và chính sách cổ tức của các công ty niêm yết
(Jabbour và Liu (2003), Chetty và Saez (2005) và Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED – 2005).
Qua các phương pháp kiểm định thực nghiệm, các nghiên cứu trên đã rút ra kết luận về mối
tương quan ngược giữa thuế thu nhập cổ tức và tỷ lệ chi trả cổ tức cũng như giá cổ phiếu.
Tức là, chương trình giảm thuế thu nhập cổ tức bắt đầu từ năm 2003 của Chính phủ Mỹ đã
khiến các công ty Mỹ tăng tỷ lệ trả cổ tức cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các công ty có tỷ
suất lợi nhuận cao. Cùng với đó, giá cổ phiếu trên TTCK Mỹ cũng tăng lên.
Tuy nhiên có thể thấy tỷ lệ chi trả cổ tức cao không luôn luôn đồng nghĩa với thuế
suất thuế thu nhập cổ tức thấp bởi tỷ lệ phân chia lợi nhuận và tái đầu tư còn phụ thuộc vào
môi trường kinh tế của các quốc gia, chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và do Đại
hội đồng cổ đông quyết định.
Do vậy, dưới góc nhìn vĩ mô, hiệu ứng có thể thấy rõ rệt nhất là hệ quả của việc áp
dụng mức thuế thu nhập cổ tức cao. Trong môi trường này, thuế suất cao đánh trên thu nhập
từ cổ tức có thể làm giảm ý muốn của các nhà đầu tư trên TTCK, đặc biệt là trong điều kiện
14
thị trường đi xuống và kèm theo những khó khăn của nền kinh tế khiến các công ty bất lợi
trong việc huy động vốn cổ phần và phải tìm kiếm các nguồn vốn vay thay thế khác (vay
ngân hàng, phát hành trái phiếu) hơn là vốn cổ phần cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh.
Mức vay nợ cao thường dẫn tới việc sa thải công nhân nhiều hơn trong những thời điểm kinh
tế gặp khó khăn so với những công ty sử dụng nhiều vốn cổ phần.
Ngoài ra, khi đề cập đến việc đánh thuế trên cổ tức, một vấn đề liên quan cũng vấp
phải khá nhiều quan điểm đối chọi nhau là đánh thuế vào cổ phiếu thưởng. Dưới góc độ
nghiên cứu, chúng tôi cho rằng cần xác định rõ cổ phiếu thưởng là cổ tức bằng cổ phiếu hay
là cổ phiếu tách như một số ý kiến trên thị trường về tên gọi. Nếu xét về nguồn tài trợ để phát
hành cổ phiếu thưởng, rõ ràng cổ phiếu thưởng xuất phát từ nguồn thặng dư vốn hoặc lợi
nhuận. Do đó cổ phiếu thưởng chính là một tên gọi khác của cổ tức bằng cổ phiếu nếu dùng
nguồn lợi nhuận (hoặc trong trường hợp khác sẽ là cổ phiếu tách nếu dùng nguồn thặng dư
vốn). Khi đó, vấn đề đánh thuế trên cổ tức chắc chắn sẽ phải bao gồm đánh thuế trên cổ phiếu
thưởng vì cổ tức có thể được coi gồm hai hình thức: tiền mặt hoặc cổ phiếu. Tuy nhiên, do
vấn đề chưa có một định nghĩa rõ ràng về cổ phiếu thưởng nên những tranh luận về đánh thuế
trên cổ tức sẽ vẫn còn tiếp diễn.
Tóm lại, xét về mặt cơ sở lý luận, việc đánh thuế trên thu nhập từ cổ tức là có cơ sở và
có thể được áp dụng nhằm mục tiêu phân phối lại thu nhập và tăng nguồn thu cho ngân sách.
Tuy nhiên, từ khía cạnh phát triển các thị trường tài chính nhằm phục vụ các định hướng mục
tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt là phát huy đầy đủ vai trò của thị trường chứng khoán như là một
kênh huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp và trở thành một thước đo cho sức khỏe của
nền kinh tế, một số nội dung sau đây có thể được lưu ý trong quá trình hoạch định chính sách
thuế thu nhập trên cổ tức:
- Vẫn có thể tiếp tục chủ trương áp dụng thuế đánh trên thu nhập từ cổ tức, nhưng cần
cung cấp thông tin liên quan và có giải thích đầy đủ cho các đối tượng nhà đầu tư
khác nhau nhằm đạt sự đồng thuận của thị trường. Đặc biệt, các cơ quan quản lý cần
nêu rõ quan điểm, nguyên tắc đánh thuế và lộ trình dự kiến áp thuế cổ tức trong tương
lai để giúp các doanh nghiệp có thêm cơ sở hoạch định được chiến lược kinh doanh và
huy động vốn, đồng thời nhà đầu tư có góc nhìn bao quát hơn về vấn đề này.
- Cần xác định rõ lại khái niệm và tính chất cơ bản của cổ tức trên cổ phiếu làm cơ sở
tính thuế, trong đó xác định rõ cổ phiếu thưởng là cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu
tách; cơ sở của sự phân chia này là việc xác định được loại hình thu nhập chịu thuế
chỉ là cổ phiếu thưởng phát hành từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp mà thôi
(không đánh thuế trên cổ phiếu tách).
15
- Có thể nghiên cứu phân định ra hai loại đối tượng nhà đầu tư khác nhau là cổ đông
lớn và nhà đầu tư nhỏ lẻ; trong đó cổ đông lớn là nhà đầu tư nắm giữ từ 5% cổ phiếu
có quyền biểu quyết của doanh nghiệp và nhà đầu tư nhỏ lẻ là dưới 5%. Khi đó, thuế
suất đánh trên thu nhập từ cổ tức có thể áp khác nhau giữa hai loại nhà đầu tư này
theo hướng nhà đầu tư lớn được ưu đãi thuế hơn. Tác dụng của việc này là khuyến
khích đầu tư, huy động vốn cho doanh nghiệp và hạn chế hoạt động “lướt sóng”; đồng
thời cũng khắc phục tâm lý cảm thấy thiệt hại vì bị đánh thuế trùng của các cổ đông
lớn. Tất nhiên, sự phân biệt hai loại cổ đông này có thể xung đột với nguyên tắc quản
trị công ty tốt, song các mức thuế suất khác nhau như trên có thể được áp dụng trong
những giai đoạn thích hợp nhằm mục tiêu khuyến khích phát triển thị trường chứng
khoán nói chung./.
16
Tài liệu tham khảo
1. Chetty R. và Saez E. (2005), “The Effects of the 2003 Dividend Tax Cut on Corporate
Behavior: Interpreting the Evidence”, University of California, Department of
Economics, 2005
2. Damodaran A. (2003), “Dividends and Taxes: An Analysis of the Bush Dividend Tax
Plan”, Stern School of Business, March 2003
3. FED (2005), “How did the 2003 Dividend Tax cut Affect Stock Price and Corporate
Payout Policy”, Finance and Economics Discussion Series, Divisions of Research &
Statistics and Monetary Affairs, 2005
4. Jabbour G., M. và Lui Y. (2006), “The Effect of Tax Rate change on Dividend
Payout”, Journal of Business and Economics Research, 2006
5. Torrez Z. (2006), “The effect of Dividend Tax Policy on Corporate Investment”,
Forum empresarial, 2006
6. Đầu tư Chứng khoán, ““Kêu trời” vì thuế chứng khoán bất hợp lý”, 2011
7. Kinh tế Đầu tư, “Thuế thu nhập chứng khoán: Lỗ vẫn phải nộp?”, 2010
8. VnEconomy, “Thuế chứng khoán: Làm sao để lỗ không phải nộp?”
9. VnExpress, “Thuế chứng khoán „bòn rút‟ vốn đầu tư”
10. www.gdt.gov.vn
11. www.irs.gov
12. www.mof.gov.vn
13. www.taxrates.cc
14. www.taxtips.ca
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo- ĐÁNH THUẾ THU NHẬP VỚI CỔ TỨC- THỰC TIỄN THẾ GIỚI VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM.pdf