Tài liệu Báo cáo Đánh giá rủi ro các sản phẩm của công nghệ nano: Đánh giá rủi ro các sản phẩm của công nghệ nano
Nhóm vô cực Trang 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
MÔN: ĐÁNH GIÁ RỦI RO MÔI TRƯỜNG
Báo cáo :
ĐÁNH GIÁ RỦI RO
CÁC SẢN PHẨM CỦA CÔNG NGHỆ NANO
GVHD: TS Lê Thị Hồng Trân
Th S Trần Thị Hồng Hạnh
SVTH: Lê Thị Kim Diệu 0717018
Lã Thị Thu Hiền 0717026
Võ Xuân Huy 0717035
Đặng Vũ Nhân 07170
Nguyễn Thị Thùy Trinh 0717125
Nguyễn Thị Hoàng Yến 0717140
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 12 năm 2010
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của công nghệ nano
Nhóm vô cực Trang 2
Mục lục
TÓM TẮT .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
1. Bối cảnh .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
2. Điều khoản tham chiếu ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3. Cơ sở khoa học........................................
80 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Đánh giá rủi ro các sản phẩm của công nghệ nano, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MƠI TRƯỜNG
MƠN: ĐÁNH GIÁ RỦI RO MƠI TRƯỜNG
Báo cáo :
ĐÁNH GIÁ RỦI RO
CÁC SẢN PHẨM CỦA CƠNG NGHỆ NANO
GVHD: TS Lê Thị Hồng Trân
Th S Trần Thị Hồng Hạnh
SVTH: Lê Thị Kim Diệu 0717018
Lã Thị Thu Hiền 0717026
Võ Xuân Huy 0717035
Đặng Vũ Nhân 07170
Nguyễn Thị Thùy Trinh 0717125
Nguyễn Thị Hồng Yến 0717140
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 12 năm 2010
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 2
Mục lục
TĨM TẮT .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
1. Bối cảnh .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
2. Điều khoản tham chiếu ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3. Cơ sở khoa học........................................................................ Error! Bookmark not defined.
3.1. Giới thiệu .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Đặc tính lý hố và phân tích .............................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Đặc điểm của các tính chất vật lý-hĩa học .................. Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Phát hiện và phân tích ................................................. Error! Bookmark not defined.
3.3. Phát triển trong phương pháp luận để đánh giá phơi nhiễmError! Bookmark not defined.
3.4. Giao diện giữa vật liệu nano và các hệ thống sinh học ....... Error! Bookmark not defined.
3.5. Các vấn đề về sức khỏe con người .................................... Error! Bookmark not defined.
3.5.1. Tương tác giữa hạt nano và protein ............................. Error! Bookmark not defined.
3.5.2. Toxicokinetics ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3.5.3. Ảnh hưởng của các ống nano carbon .......................... Error! Bookmark not defined.
3.5.4. Genotoxicity ............................................................... Error! Bookmark not defined.
3.5.5. Ảnh hưởng tim mạch của các hạt nano ....................... Error! Bookmark not defined.
3.6. Vấn đề mơi trường ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3.6.1. Diễn biến và số phận của mơi trường ......................... Error! Bookmark not defined.
3.6.2. Khả dụng sinh học và tiếp xúc .................................... Error! Bookmark not defined.
3.6.3. Hiệu ứng mơi trường .................................................. Error! Bookmark not defined.
3.7. Cơng nghệ nano- Đánh giá rủi ro ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.7.1. Tính chất hĩa lý cĩ liên quan ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.7.2. Đọc qua ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.7.3. Phát triển khung đánh giá rủi ro .................................. Error! Bookmark not defined.
3.7.4. Kết luận cho những đánh giá rủi ro ............................. Error! Bookmark not defined.
3.8. Nghiên cứu nhu cầu .......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.8.1. Đặc điểm của vật liệu nano ......................................... Error! Bookmark not defined.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 3
3.8.2. Xác định con người tiếp xúc ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.8.3. Xác định các mối nguy hiểm của con người ................ Error! Bookmark not defined.
3.8.4. Tiếp xúc với mơi trường ............................................. Error! Bookmark not defined.
3.8.5. Mơi trường nguy hiểm ................................................ Error! Bookmark not defined.
4. Ý kiến ..................................................................................... Error! Bookmark not defined.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 4
ĐÁNH GIÁ RỦI RO CÁC SẢN PHẨM CỦA CƠNG NGHỆ NANO
Ý kiến này đề cập đến những vấn đề phát triển gần đây trong việc đánh giá rủi
ro của các vật liệu nano cho con người và mơi trường. Đặc điểm của quá trình sản xuất
của các vật liệu nano chủ yếu dựa trên các đặc tính của lý - hĩa của nĩ. Do kích thước và
quá trình tiến hĩa theo thời gian về vật chất của một số vật liệu nano cĩ khả năng gây độc
hại, khả năng đĩ biểu hiện qua mỗi quá trình đều khác nhau, vì vậy cần được mơ tả cả
trong hình thức lẫn trong sản xuất, khác nhau cĩ thể cĩ trong các hình thức “là giao”
trong các hệ thống sinh học, hoặc để một con người trong một ứng dụng cụ thể, hoặc một
hệ sinh thái đặc biệt quan tâm. Các đặc tính “như sản xuất” cung cấp thơng tin về việc an
tồn dữ liệu của chính sản phẩm. Các đặc tính được sử dụng trong các hệ thống sinh học
của vật liệu nano là rất cần thiết, khi những thuộc tính của vật liệu cĩ thể thay đổi đáng
kể, đặc biệt là sự phân bố kích thước do sự tích tụ / tập hợp của các hạt. Một vấn đề cĩ
tầm quan trọng cụ thể là các thuộc tính của loại vật liệu nano như nĩ thực sự được sử
dụng trong các sản phẩm và người tiêu dùng cĩ thể tiếp xúc. Đối với các đánh giá rủi ro
các đặc điểm sau là cĩ liên quan cao nhất.
Một số mối nguy hiểm cụ thể, thảo luận trong bối cảnh nguy cơ đối với sức khỏe
con người, đã được xác định. Chúng bao gồm các khả năng của một số các hạt nano để
tạo ra protein rung, các hiệu ứng bệnh lý cĩ thể gây ra bởi loại hình cụ thể của các ống
nano carbon, cảm ứng của genotoxicity, và các hiệu ứng kích thước trong điều khoản của
phân phối sinh học. Kiến thức dần dần hình thành trên phản ứng trong các hoạt động sản
xuất các hạt nano trong mơi trường về sự phát triển của quá trình và hậu quả của nĩ. Đối
với một số vật liệu nano, các hiệu ứng độc hại về sinh vật mơi trường đã được chứng
minh, cũng như tiềm năng để chuyển các lồi trong mơi trường, cho thấy một tiềm năng
cho sự tích lũy sinh học ở các lồi ở cuối phần của thực phẩm dây chuyền. Mặc dù đối
với một số vật liệu nano sản xuất tác dụng phụ đã được quan sát. Chúng khơng nên được
ngoại suy để sản xuất vật liệu nano khác. Những quan sát chỉ ra mối nguy hiểm tiềm
năng đĩ cần được xem xét trong đánh giá an tồn sản xuất vật liệu nano. Khi chưa cĩ một
mơ hình áp dụng thơng thường để xác định nguy cơ của loại vật liệu nano, một trường
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 5
hợp bằng phương pháp đánh giá rủi ro của các vật liệu nano được bảo hành.
Một trong những hạn chế chủ yếu trong đánh giá rủi ro của các vật liệu nano là
thiếu tiếp xúc với dữ liệu chất lượng cao cả đối với con người và mơi trường. Một sự
khác biệt giữa nền và tiếp xúc ngẫu nhiên nĩi chung là khĩ khăn trong những cuộc sống
thực, như các phương pháp làm việc chủ yếu là thước đo sự hiện diện của hạt (nano) và
thường khơng phân biệt giữa các loại hạt (sản xuất, tự nhiên xảy ra). Hiện nay, quy trình
đánh giá rủi ro cho đánh giá các rủi ro tiềm tàng của vật liệu nano vẫn cịn đang được
phát triển. Dự kiến nĩ cĩ thể sẽ vẫn như vậy cho đến khi cĩ đầy đủ các thơng tin khoa
học sẵn cĩ đặc trưng của các tác hại cĩ thể cĩ lên con người và mơi trường. Do đĩ kiến
thức về phương pháp luận cho cả hai dự tính tiếp xúc và xác định nguy cơ cần phải được
tiếp tục phát triển, tiêu chuẩn hĩa và xác nhận hợp lệ.
Từ khố: vật liệu nano, hạt nano, xác định nguy cơ, đánh giá rủi ro, con người và
mơi trường.
Ý kiến được trích dẫn là:
SCENIHR (Uỷ ban khoa học về Y tế và xác định rủi ro mới), đánh giá rủi ro các
sản phẩm của cơng nghệ nano, 19/01/ 2009.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 6
TĨM TẮT
Hiện nay, các thủ tục để đánh giá những rủi ro tiềm năng của vật liệu nano
sản xuất vẫn cịn đang được phát triển. Điều này cĩ thể được dự đốn rằng sẽ vẫn như
vậy cho đến khi khoa học cĩ đầy đủ thơng tin để mơ tả những tác hại cĩ thể cĩ đến con
người và mơi trường. Do đĩ những kiến thức về phương pháp luận cho cả hai ước tính
tiếp xúc và xác định nguy cơ cần được tiếp tục phát triển, xác nhận hợp lệ và tiêu chuẩn
hĩa. Như đã nêu chi tiết trong ý kiến SCENIHR trước (SCENIHR năm 2006, SCENIHR
2007a), các hạt nano độc lập và độ hịa tan thấp (vật liệu nano) là một ưu tiên đáng quan
tâm trong tình thế nguy cơ đến con người và mơi trường. Nĩ cần được nhận ra rằng (Đặc
biệt là đối với phơi nhiễm qua đường hơ hấp) tiếp xúc với các hạt vật chất cĩ thể là do tự
nhiên và vơ tình gây ra (tức là quá trình đốt cháy) các hạt nano.
Đối với các đặc tính của vật liệu nano trong sản xuất cĩ một số vấn đề rất quan
trọng. Các loại vật liệu nano được mơ tả như là nĩ được sản xuất bởi các nhà sản xuất,
kết quả thơng tin cĩ thể được sử dụng để đánh giá an tồn và vật liệu an tồn dữ liệu bảng
(MSDS) của (các hạt nano) loại vật liệu nano tự. Ngồi ra, các loại vật liệu nano được mơ
tả như nĩ được sử dụng trong các hệ thống sinh học để đánh giá an tồn. Khi vật liệu
nano tiếp xúc với một chất lỏng sinh học, nĩ cĩ thể trở nên tráng protein và các phân tử
sinh học khác. Việc chuẩn bị các vật liệu nano để sử dụng trong sinh học hệ thống đáng
kể cĩ thể thay đổi thuộc tính loại vật liệu nano, đặc biệt là phân phối các kích thước do
tích tụ/ tập hợp của các hạt. Một vấn đề khác là các đặc tính của các loại vật liệu nano
như nĩ thực sự được sử dụng trong các sản phẩm, và người tiêu dùng cĩ thể được tiếp
xúc. Đối với các đánh giá rủi ro các đặc tính thứ hai là liên quan cao nhất. Một sự đồng
tình hiện nay đang nổi lên liên quan đến tính chất vật lý, hĩa học cần phải được xác định
các đặc tính của vật liệu nano và những đặc tính cĩ thể cần được quan trọng trong việc
đánh giá rủi ro của các vật liệu nano. Đối với (một phần) hịa tan vật liệu nano độc tính cĩ
thể được điều chỉnh ít nhất một phần bởi các loại hịa tan thốt ra từ loại vật liệu nano.
Đối với độ hịa tan thấp hoặc phát tán chậm, các hạt chất của các chất cĩ thể cĩ liên quan
đối với sự phân phối và phát tán tại nơi của các lồi độc hại sau đĩ nên được xem xét
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 7
trong đánh giá rủi ro của các vật liệu nano.
Như vậy cĩ cần thiết phải tham khảo từ vật liệu nano, cho phép đánh giá kết quả
và hoạt động cũng như các hiệu ứng, mà sau này cĩ thể liên quan đến đặc tính và đặc
điểm của vật liệu. Nĩ cũng sẽ cho phép so sánh giữa các vật liệu nano khác nhau. Một số
vật liệu nano tham khảo cĩ sẵn, nhưng chúng là những vật liệu mơ hình hình cầu cĩ xác
nhận chủ yếu cho kích thước và được sử dụng chủ yếu để hiệu chỉnh các cơng cụ trong
việc đo kích thước hạt. Sự vắng mặt của các tham số được xác định để đo lường và tiêu
chuẩn hĩa giao thức thử nghiệm được xác định là một trở ngại lớn cho các tài liệu tham
khảo sản xuất.
Hiện nay định nghĩa về "nano" là những gì vẫn cịn đang được tranh luận. Nĩi
chung vật liệu nano được định nghĩa là nhỏ hơn khoảng 100 nm ít nhất trong một chiều.
Hiện nay định nghĩa này được đề xuất sử dụng như là một điểm khởi đầu kích thước của
các hạt cơ bản và kết cấu của chúng. Tuy nhiên, khi loại vật liệu nano là ở dạng hạt, các
hạt cĩ thể cĩ mặt như là hạt đơn lẻ mà cịn cĩ thể cĩ mặt như tích tụ lại / tổng thể. Tùy
thuộc vào loại vật liệu nano, phần lớn các hạt thực sự cĩ thể được tích tụ lại. Điều này cĩ
thể dẫn đến hiểu sai rằng tích tụ/ tập hợp của các hạt nano cĩ kích thước cũng cĩ thể vượt
ra ngồi kích thước 100nm và khơng được coi là vật liệu nano. Nhưng chúng vẫn giữ
được đặc tính hĩa lý cụ thể đặc trưng cho một vật liệu nano, cĩ thể là do diện tích bề mặt
của chúng củ thể tương đối lớn (SSA). Do đĩ, khi mơ tả một loại vật liệu nano điều quan
trọng là khơng chỉ để mơ tả kích thước hạt trung bình mà cũng là kích thước của các hạt
sơ cấp. Ngồi ra, thơng tin về sự hiện diện của sự tích tụ/ tập hợp củng nên được trình
bày. Khi kích thước hạt cĩ nghĩa là lệch (Tức là lớn hơn) từ các kích thước hạt cơ bản
này sẽ cho thấy sự hiện diện của một tổng thể tích tụ. Ngồi kích thước diện tích bề mặt
cụ thể được xác định bởi phương pháp BET là một thước đo tốt để mơ tả về các hạt, như
số liệu này chính là do nhà nước ban hành. Do đĩ, việc mở rộng định nghĩa hiện hành
dựa trên kích thước vật lý bằng cách cho thêm một giới hạn về diện tích bề mặt cụ thể
trên 60 m²/g khối lượng vật liệu (giá trị của 60 g/m² tương ứng với diện tích bề mặt cụ thể
của 100 nm lĩnh vực mật độ rắn của đơn vị) phải được xem xét.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 8
Một trong những hạn chế chủ yếu trong đánh giá rủi ro của các vật liệu nano nĩi
chung là thiếu chất lượng cao về mức độ tiếp xúc và dữ liệu đo liều lượng cho cả với con
người lẫn mơi trường. Một trong vấn đề là những khĩ khăn trong việc xác định sự hiện
diện của vật liệu nano, và đo đúng cách chúng trên cơ sở thường xuyên trong các chất
nền khác nhau. Trái ngược với tình hình cho các tuyến đường tiếp xúc khác, cho vật liệu
nano trong khơng khí, dụng cụ phân tích nĩi chung cĩ sẵn để xác định tiếp xúc (kích
thước phân bố khối lượng và số lượng). Đây là đặc biệt đúng trong bối cảnh của quá trình
thử nghiệm. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa nền và tiếp xúc ngẫu nhiên nĩi chung là khơng
thể hình thành trong đời thường như phương pháp làm việc chủ yếu là thước đo sự hiện
diện của (siêu mịn) hạt và khơng phân biệt giữa các loại hạt cĩ thể cĩ mặt. Cần tiếp tục
thiết lập các kỹ thuật đo lường đáng tin cậy, tiêu chuẩn hĩa, trong việc phát triển chiến
lược đo lường, và tiếp tục thực hiện kiểm tra/ giám sát các kích thước hạt nano trong khu
vực làm việc nhạy cảm. Những thách thức hiện thấy, đặc biệt là trong phát hiện và đánh
giá của các hạt nano được sản xuất trong mơi trường. Tương tự như vậy, ước tính tiếp
xúc dành cho người tiêu dùng từ các sản phẩm thực phẩm và người tiêu dùng vẫn cịn
khĩ khăn. Thơng tin về sự hiện diện của vật liệu nano được sản xuất chỉ duy nhất dựa
trên thơng tin được cung cấp bởi nhà sản xuất. Ngồi ra, dự tốn tiếp xúc cũng bị cản trở
do thiếu thơng tin về sử dụng sản phẩm và sử dụng nhiều sản phẩm cĩ chứa sản xuất vật
liệu nano. Trong một trưng bày tương tự với khơng khí đo đạc, xác định vật liệu nano
được sản xuất trong các sản phẩm tiêu dùng bị khĩ khăn trong việc phân biệt giữa các
nền tảng và sự cố ý gia tăng sản xuất vật liệu nano. Phối hợp nỗ lực và chiến lược nghiên
cứu cho một đánh giá tồn diện tiếp xúc sản xuất vật liệu nano vẫn phải được xác định.
Khi vật liệu nano kết hợp với một chất lỏng sinh học, nĩ cĩ thể phủ lên với các
protein và các phân tử sinh học. Khi lớp protein cĩ ảnh hưởng đến hoạt động của các hạt
nano bao gồm cả hiệu ứng sinh học của nĩ, các hạt nano cũng cĩ thể cĩ hoạt động trên
tiêu cực protein . Các hạt nano được tìm thấy cĩ tiềm năng thúc đẩy và làm chậm quá
trình lắp ráp thành sợi protein trong ống nghiệm. Những thí nghiệm này được thực hiện
bằng cách sử dụng bằng cách ủ bệnh của các hạt nano với một số protein tinh khiết. Cho
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 9
dù quá trình quan sát hình thành nhân cũng xảy ra trong một trong cơ thể bình thường
hoặc trong nhiều chất lỏng sinh học phức tạp, nơi cĩ cạnh tranh giữa các liên kết cĩ thể
diễn ra vẫn cịn phải được xác định.
Cần lưu ý rằng từ phổi và đường tiêu hĩa chỉ cĩ chịu đựng tối thiểu khoảng 1%
hoặc ít hơn liều dùng nhập vào hệ tuần hồn. Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ phần trăm tối thiểu,
điều này cĩ thể dẫn đến một hệ thống sẵn cĩ với một số lượng đáng kể các hạt nano. Gan
và lá lách là hai cơ quan chính để phân phối. Đối với một số hạt nano cĩ thể cĩ nguy cơ
cho cả các bộ phận trong cơ thể,và theo kết quả điều tra cho đến nay là nĩ cĩ nguy cơ cho
tấc cả các bộ phận trên cơ thể, hoặc là thành phần hĩa học của các hạt nano hay bản thân
các hạt nano cĩ thể được phát hiện, cho thấy các hạt nano phân phối tiềm năng ảnh hưởng
đến các cơ quan này. Các cơ quan này bao gồm não bộ và hệ thống sinh sản (tức là tinh
hồn). Để phân phối cho thai nhi trong tử cung kết quả trái ngược với quan sát. Các kiến
thức về dược động học đã được tăng lên cho thấy rằng các hạt nano đặc biệt là nhỏ hơn,
cĩ một số cơ quan phân phối rộng lớn hơn nhiều so với các hạt nano khác. Cĩ dấu hiệu
cho thấy sau khi lắng đọng ở niêm mạc mũi khứu giác các hạt nano cĩ thể di chuyển vào
não bộ. Điều này cĩ thể cung cấp một tuyến đường tiềm năng của các mục nhập cho các
sản phẩm thuốc vào não. Mặt khác quan sát này cũng cĩ thể nâng cao một số mối quan
tâm trong quan điểm của các bệnh chứa tinh bột của não bộ trong bối cảnh khả năng của
các hạt nano để làm rung protein trong ống nghiệm. Điều này chắc chắn rằng cần phải cĩ
một khu vực nghiên cứu bổ sung rất cấp thiết. Dựa trên những quan sát về hậu quả của
hạt cĩ trong ơ nhiễm khơng khí, một số tồn tại về ảnh hưởng cĩ thể của các hạt nano trên
hệ thống tim mạch. Tuy nhiên, điều này chưa được chứng minh rõ ràng là trường hợp cho
các hạt nano được sản xuất từ trước cho đến nay. Nhìn chung, thơng tin về các mối nguy
hiểm này cĩ thể xảy ra khi các hạt nano cho các hiệu ứng tim mạch là khá hạn chế và nhu
cầu cịn mở rộng.
Khi các ống nano đã được tìm thấy cĩ đặc điểm tương tự với một số loại nguy hại
là a-mi-ăng, nĩ đã được chứng minh rằng phản ứng tương tự như viêm cĩ thể được gây ra
bởi các ống nano cụ thể gây ra do amiăng. Các đặc điểm chính của các chất gây nên
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 10
những phản ứng này là hình thức mỏng dài xơ (chiều dài> 20 micromet), độ cứng và khĩ
phân rã. Cho dù các ống nano như vậy sẽ gây ra rủi ro đối với con người mặc dù khơng
biết, như thêm vào các đặc điểm vật liệu nanơ cụ thể, hít phải hoặc tiếp xúc với các cấu
trúc như vậy sẽ là điều cần thiết. Các kết luận chính của các nghiên cứu trên các ống nano
carbon cụ thể liên quan đến nguy cơ cho biểu mơ u trung đĩ là nguy cơ khơng thể loại
trừ. Vì vậy, khi sản xuất một trong những ống nano cần phải nhận thức rằng những đặc
điểm nhất định (ví dụ như chiều dài, độ cứng, phân hủy) cĩ thể gây ra rủi ro. Các khả
năng cho tình trạng viêm mãn tính và u trung biểu mơ cảm ứng do đĩ cần được xem xét
trong việc đánh giá an tồn mà đặc biệt là quá trình sản xuất vật liệu nanơ. Các tác hại
cho di truyền của các hạt thơng thường được điều khiển bởi hai cơ chế genotoxicity trực
tiếp và genotoxicity (viêm qua trung gian) gián tiếp. Các hạt nano cĩ thể hoạt động thơng
qua một trong những con đường kể từ khi chúng gây ra viêm nhiễm và cũng cĩ thể nhập
các tế bào và gây stress oxy hĩa. Cĩ một số kết quả cho rằng kích thước nhỏ cho phép
các hạt nano để thâm nhập vào tế bào khoang phụ như ty thể và hạt nhân. Các sự hiện
diện của vật liệu nano trong ty thể và nhân mở khả năng gây ra stress oxy hĩa trung gian
genotoxicity, và tương tác trực tiếp với DNA, tương ứng. Đối với một số hoạt động sản
xuất các vật liệu nano cĩ hại cho di truyền đã được báo cáo, chủ yếu là liên quan đến thế
hệ ROS, trong khi đối với những người khác đã thu được kết quả trái ngược.
Trong quan điểm về việc sử dụng ngày càng tăng, việc sản xuất và xử lý vật liệu
nano sản xuất, sẽ cĩ sự gia tăng tiếp xúc với mơi trường. Như trong trường hợp rủi ro sức
khoẻ con người, sự hiểu biết về kết quả và hoạt động của sản xuất vật liệu nano trong mơi
trường là rất quan trọng để dự đốn những ảnh hưởng tiềm năng nhiều hệ sinh thái độc
hại trong mơi trường. Tầm quan trọng lớn là các ước lượng của các hạt nano về sự phát
tán và hậu quả của nĩ, tiếp xúc trong mơi trường. Đối với các rủi ro mơi trường đánh giá
dự tốn của nồng độ nước là cần thiết. Đánh giá nồng độ tiếp xúc của vật liệu nano phân
tán địi hỏi cái nhìn chi tiết vào quá trình hành động về các hạt trong mơi trường. Tuy
nhiên, hiện kiến thức cĩ sẵn về các quá trình này là khơng đủ để cho phép dự báo định
lượng của mơi trường về hậu quả của vật liệu nano. Độ hịa tan của các vật liệu nano là
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 11
một vấn đề quan trọng là cần thiết phải được giải quyết. Kiến thức về mức độ mà vật liệu
nano về tỷ lệ và tốc độ này cĩ nơi cần thiết ở hai khía cạnh: (i) điều khiển trực tiếp của
các nồng độ vật liệu nano trong mơi trường và trong những thời gian mà các vật liệu nano
nằm trong mơi trường và trong các sinh vật, và (ii) nĩ xác định nồng độ hịa tan lồi cĩ
nguồn gốc từ các vật liệu nano. Đĩ là khả nghi cho dù hiện đang cĩ phương pháp chuẩn
để đo các tỷ lệ đầy đủ cĩ thể cung cấp kiến thức này.
Khơng giống như trong việc đánh giá nồng độ tiếp xúc của thơng thường của hĩa
chất, hệ số các phân vùng octanol Kow cĩ thể cĩ một vai trị hạn chế trong dự đốn nước-
chất rắn phân vùng. Một lý thuyết khác để dự đốn mức độ tiếp xúc của vật liệu nano
trong nước vẫn chưa được phát triển. Dựa trên kiến thức được thành lập của khoa học,
người ta cho rằng độ pH, ion và sự hiện diện của hữu cơ thiên nhiên vật chất trong vách
ngăn nước (nước ngọt so với mơi trường biển) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức
độ cịn lại của vật liệu nano. Tùy thuộc vào các yếu tố hĩa học của các loại vật liệu nano
sản xuất, kết hợp sự gia tăng và do đĩ lắng hoặc ngược lại cĩ thể phân tán cao xảy ra.
Ngồi ra, đối với nhiều vật liệu nano sản xuất hiện nay sử dụng phương pháp để
xác định suy thối sinh học sẽ khơng được áp dụng. Đối với một số vật liệu nano chuyển
giao các lồi trong mơi trường đã được chứng minh cho thấy khả năng cho sự tích lũy
sinh học thơng qua chuỗi thức ăn. Đối với hố chất hữu cơ đơn giản, cĩ một mối quan hệ
thiết lập giữa nước octanol trong hệ số (Kow) phân vùng và yếu tố tích lũy sinh học hoặc
tập trung sinh học (BCF). Tuy nhiên, liệu mối quan hệ này cĩ thể được áp dụng cho vật
liệu nano, hay là khơng đủ dữ liệu để đánh giá và cần phải cĩ nhiều dữ liệu hơn trong
việc dánh giá.
Hiệu ứng độc tính sinh thái về các lồi trong mơi trường đã được chứng minh, đặc
biệt là sử dụng các lồi thuỷ sản. Một trong những vấn đề lớn trong kết quả của độc tính
sinh thái và thử nghiệm nếu các hiệu ứng là khơng cĩ thơng tin phù hợp và áp dụng rộng
rãi, làm thế nào để biết được các vật liệu nano lắng động hay phân tán trong mơi trường
tiếp xúc khác nhau thường được sử dụng trong thử nghiệm với độc tính sinh thái. Trộn
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 12
các vật liệu nano với các trầm tích/ đất, mơ tả đặc điểm theo thời gian, những khu vực mà
vẫn cịn ở giai đoạn đầu phát triển. Các thiết bị đầu cuối thơng thường được sử dụng
trong độc tính sinh thái như tử vong, tăng trưởng, cho ăn, và sinh sản cũng cĩ thể được sử
dụng cho việc đánh giá độc tính sinh thái bởi vật liệu nano. Ngồi ra, dấu ấn sinh học cụ
thể tương tự như động vật cĩ vú bao gồm cả độc tính oxy hĩa, thiệt hại di truyền và biểu
hiện gen cĩ thể cung cấp một số hiểu biết về cơ chế gây độc của vật liệu nano.
Các mối nguy hiểm sức khỏe và mơi trường đã được chứng minh cho một loạt các
sản xuất vật liệu nano. Các mối nguy hiểm được xác định cho thấy tác động tiềm năng
độc hại của vật liệu nano cho con người và mơi trường. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khơng
phải tất cả các vật liệu nano tạo ra đều độc hại. Cĩ thể cho rằng, một số vật liệu nano sản
xuất đã được sử dụng cho một thời gian dài (carbon đen, TiO ) và hiển thị độc tính thấp.
Giả thuyết rằng nhỏ hơn cĩ nghĩa là nhiều hơn 2 phản ứng và do đĩ khơng độc hại nhiều,
cĩ thể được chứng minh bằng các dữ liệu được cơng bố. Trong vật liệu nano được coi
tương tự như chất bình thường trong đĩ một số cĩ thể là độc hại và một số cĩ thể khơng.
Khi chưa cĩ một mơ hình áp dụng chung cho việc xác định các loại vật liệu nano, một
trường hợp của cách tiếp cận với việc đánh giá rủi ro của vật liệu nano là khuyến khích.
1. Bối cảnh
Sản phẩm của cơng nghệ nano được xem là mang lại lợi ích cho cuộc sống hàng
ngày của cơng dân và để cung cấp cho những thách thức để tối ưu hĩa về sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ mơi trường. Chúng đã được bán trên thị trường trong các
lĩnh vực như y tế ( Mục tiêu phân phối thuốc, y học tái tạo, và chẩn đốn - biểu hiện bằng
các bằng sáng chế phân tích), điện tử, mỹ phẩm, dệt may, cơng nghệ thơng tin, và bảo vệ
mơi trường. Với phát triển nhanh chĩng các cơng nghệ xử lý, khối lượng sản xuất của vật
liệu nano sẽ diễn ra với quy mơ rộng với khả năng của cơng nhân và người tiêu dùng
cũng như mơi trường. Liên minh châu Âu đã cĩ trong Chiến lược và Kế hoạch hành động
và khoa học nano cung cấp cơng nghệ nano để phát triển các phương tiện để hưởng lợi từ
tiềm năng của cơng nghệ nanơ, mà cịn làm điều này trong một điều kiện " an tồn, tích
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 13
hợp, và chịu trách nhiệm". Một xem xét của pháp luật về cộng đồng liên quan đến vật
liệu nano được cơng bố. Các mục tiêu của phát triển an tồn, tích hợp và trách nhiệm của
cơng nghệ nano cũng được theo đuổi trong khung 7 Chương trình Nghiên cứu và phát
triển cơng nghệ cho 2007-2013, hoạt động của Trung tâm hợp tác nghiên cứu, các
chương trình nghiên cứu quốc gia, trong nền tảng cơng nghệ châu Âu (ETPs) và nghiên
cứu của các ngành cơng nghiệp khác và các ngành cơng nghiệp liên quan. Quốc tế, hợp
tác vì an tồn của cơng nghệ nano cũng được diễn ra, đặc biệt là đối với các hoạt động
trong OECD, tiêu chuẩn hĩa trong tiêu chuẩn ISO / CEN, sản phẩm dược phẩm xuyên
Đại Tây Dương hợp tác và cho các thiết bị y tế trong cơng tác hài hịa hĩa tồn cầu.
Theo ý kiến năm 2006, Ủy ban khoa học và Y tế (SCENIHR) kết luận rằng các rủi
ro vật liệu nano cĩ thể cĩ độc tính khác nhau và độc tính hơn so với các chất với số lượng
lớn hơn. Vì vậy rủi ro của nĩ cần được đánh giá trên từng trường hợp cụ thể và trên cơ sở
các phương pháp đánh giá rủi ro và dụng cụ cĩ thể yêu cầu phát triển hơn nữa.
Một ý kiến SCENIHR thứ hai, được thơng qua ngày 21-22 tháng 6 năm 2007, trên
các vật liệu nano trong hướng dẫn kỹ thuật Tài liệu (TGDs) của hĩa chất pháp luật về kết
luận rằng hiện tại phương pháp mơ tả trong TGDs nĩi chung là cĩ khả năng để cĩ thể xác
định mối nguy hiểm, nhưng thay đổi là cần thiết để hướng dẫn đánh giá rủi ro cho sức
khỏe con người và mơi trường. Hơn nữa, ý kiến nhấn mạnh sự cần thiết xác định sự phù
hợp của các thủ tục kiểm tra hiện hành đối với các dự đốn của con người về dự tốn rủi
ro y tế nguy hại cho tất cả các loại hạt nano. Tùy thuộc về mơi trường pháp lý, vai trị và
sự tham gia của các bên khác nhau và các bên liên quan, phạm vi và trách nhiệm phát
triển thực hiện các nguy cơ đánh giá của vật liệu nano khác nhau ở các lĩnh vực. Do đĩ
gĩp phần hữu ích đáng kể cho trao đổi triệt để các thơng tin khoa học trên tồn lĩnh vực.
Do đĩ, nĩ được dự tính hoặc là sử dụng hiện cĩ, hoặc tổ chức trên cơ sở từng trường hợp
cụ thể, các sự kiện hoặc các cơ chế trao đổi khác phù hợp với tất cả các bên quan tâm để
tăng cường trao đổi các thơng tin khoa học phát triển từ nhiều nguồn trong lĩnh vực đánh
giá rủi ro của các vật liệu nano. Từ đĩ Ủy ban sẽ xem xét quá trình quan trọng này là lợi
ích, hỗ trợ, các chuyên gia cho rằng các ủy ban khoa học đã xây dựng lên trong ý kiến
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 14
của mình trong những năm gần đây. Vì vậy SCENIHR dự kiến sẽ cập nhật và cung cấp
cho khoa học tư vấn về đánh giá rủi ro của các vật liệu nano mới trong sắp tới, gần đây
Tài liệu mang tên của OECD “ Phân tích bằng sáng chế mới bắt trạng thái hiện tại của
cơng nghệ nano phát triển 15-Jun-2007 “. STI mới này liệu làm việc (2007 / 4) nhằm mục
đích để nắm bắt hoạt động hiện sáng tạo trong cơng nghệ nano dựa trên phân tích của các
ứng dụng bằng sáng chế cho Văn phịng Sáng chế châu Âu (EPO)
.
Trong độc chất hạt, thuật ngữ "phần lớn" thường được dùng để phân biệt các hạt
nano với các hạt lớn hơn của cùng một hĩa chất. Tương tự cĩ liên quan là so sánh các
hình thức hạt nano với một hĩa chất tự do (Nguyên tử, ion, phân tử) khí, tỷ lệ các lồi.
Tất cả các thể loại (khí/ giải thể, nanoform khuẩn/ agglomerates và các tập đồn với các
vật liệu khác) cĩ thể đĩng một vai trị trong các vật liệu nano cách ảnh hưởng đến các
sinh vật. Trong văn bản này, thuật ngữ "đồng loạt" được dùng để chỉ tất cả các lồi khơng
phải của một loại vật liệu nano. Khoa học thơng tin, bao gồm cả các kết quả đầu ra của
các sự kiện khác nhau về an tồn vật liệu nano và ý kiến của các cộng đồng Ủy ban khoa
học và các nhĩm, bao gồm các tập đồn Châu Âu về đạo đức (ở đây đặc biệt là: Ý kiến
về đạo đức của Nanomedicine), các chất do Cơ quan Hĩa chất châu Âu (ECHA), trên
thực phẩm thức ăn của Cơ quan an tồn thực phẩm châu Âu (EFSA) và dược phẩm của
cơ quan thuốc châu Âu (EMEA). Các ý kiến khoa học cũng sẽ cung cấp đầu vào cho Ủy
ban hoạt động khác nhau. Căn cứ vào các hoạt động này Ủy ban thêm đĩng gĩp cho các
hoạt động khác nhau ở cấp châu Âu và quốc tế (tức là trong OECD, ISO / CEN, và các
đối tác EU-Mỹ hoạt động) trong khu vực đánh giá rủi ro của dự kiến vật liệu nano.
2. Điều khoản tham chiếu
SCENIHR được hỏi: Để xác định và đánh giá thơng tin mới và cập nhật các ý kiến
của các SCENIHR trên tiềm năng rủi ro của các sản phẩm của cơng nghệ nano, đặc biệt,
đối với đặc tính, sinh thái độc chất và độc tố cũng như các đánh giá tiếp xúc. Điều này
phải được cập nhật và thực hiện một cách khơn ngoan cĩ tính đến nguy cơ sắp tới đánh
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 15
giá nhu cầu cụ thể liên quan đến vật liệu nano và phát triển khoa học từ thơng tin nhiều
nguồn khác nhau, bao gồm kết quả từ các dự án nghiên cứu khoa học hoạt động của các
nền tảng cơng nghệ Châu Âu liên quan đến sự an tồn của vật liệu nano.
Bản cập nhật nên:
(i) Cung cấp, trên cơ sở kết quả thu được, đề xuất về:
• cải tiến các phương pháp thử nghiệm hiện cĩ và / hoặc vào sự phát triển
của con người, kể cả trong ống nghiệm và các phương pháp cơ thể, để giải quyết các khía
cạnh cụ thể nano trong các đặc điểm và đánh giá rủi ro;
• cải tiến trong đánh giá phơi nhiễm (bao gồm, trong số những người khác,
cũng thơng tin liên quan về lấy mẫu, xét nghiệm phát hiện, thiết bị, mơ hình hĩa) để giải
quyết các khía cạnh cụ thể nano và cung cấp một danh sách cụ thể vật liệu nano cĩ tiếp
xúc đáng kể cĩ thể ghi nhận hiện nay từ các hoạt động trong cơng tác OECD về Sản xuất
vật liệu nano;
• cải tiến trong đánh giá rủi ro chung bao gồm thơng tin cụ thể liên kết với
các thơng tin cơ học để giải quyết các khía cạnh cụ thể nano.
(ii) Đề nghị cần tiếp tục ưu tiên cho nghiên cứu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
trong lĩnh vực liên quan đến các rủi ro cĩ thể cĩ của các sản phẩm của cơng nghệ nano
dựa trên một kiến thức phân tích khoảng cách.
(iii) Xác định, càng nhiều càng tốt giấy phép bằng chứng khoa học, trực tiếp
hoặc gián tiếp sức khỏe rủi ro đối với các ứng dụng hiện tại và dự đốn được của vật liệu
nano dựa trên thơng tin liên quan đến khối lượng sản xuất trong các lĩnh vực khác nhau.
Đối với lĩnh vực mỹ phẩm và thiết bị y tế chỉ dẫn từ các bằng sáng chế nên cũng đặc biệt
được đưa vào. Rủi ro và đặc điểm riêng của vật liệu nano khác nhau phục vụ cùng một
mục đích, được so sánh càng nhiều càng tốt.
Cần lưu ý rằng Ủy ban cĩ thể yêu cầu SCENIHR và SCCP để chuẩn bị đặc biệt ý
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 16
kiến về các ứng dụng cụ thể của vật liệu nano trong lĩnh vực mỹ phẩm và thiết bị y tế và
xử lý những như là một vấn đề ưu tiên.
3. Cơ sở khoa học
3.1. Giới thiệu
Trong vài năm qua, đã cĩ sự gia tăng nhận thức về những tiềm năng rủi ro kết hợp
với vật sản xuất liệu nano. Về mặt pháp lý, vật liệu nano sản xuất được được bao phủ bởi
định nghĩa về chất như đã đề cập trong pháp luật REACH (Quy chế (EC) số 1907/2006)
(Ủy ban châu Âu năm 2006). Rủi ro liên quan về chất phải được đánh giá theo quy định
của EU khác nhau tùy thuộc vào loại sản phẩm và khối lượng sản xuất. Một đánh giá của
Cộng đồng châu Âu pháp luật liên quan đến vật liệu nano mới đây đã được hồn tất
(COM/2008/0366 cuối cùng) (Ủy ban châu Âu năm 2008). Kết luận chính là pháp luật
hiện hành nào bao gồm nguyên tắc về đảm bảo khả năng sức khỏe, an tồn và rủi ro mơi
trường liên quan đến vật liệu nano. Việc bảo vệ sức khỏe, an tồn và mơi trường chủ yếu
là nhu cầu được tăng cường bằng cách cải thiện việc thực hiện pháp luật hiện hành.
Ngồi ra, nĩ đã được kết luận rằng những kiến thức về các vấn đề thiết yếu như mơ tả đặc
điểm, mối nguy hiểm, tiếp xúc, đánh giá rủi ro và quản lý rủi ro cần phải vật liệu nano
cần được cải thiện (Ủy ban châu Âu năm 2008).
Đến nay, đã cĩ 3 ý kiến xử lý từ SCENIHR về các khía cạnh khác nhau cĩ thể cĩ
rủi ro của việc sử dụng cơng nghệ nano trong tất cả các khía cạnh của xã hội. Các ý kiến
đầu tiên xử lý các phương pháp đánh giá rủi ro cĩ sẵn để đánh giá tốt bất lợi về sức khỏe
và ảnh hưởng mơi trường của các sản phẩm cơng nghệ nano (SCENIHR 2006), trong khi
các ý kiến thứ hai và thứ ba được mơ tả nhiều khía cạnh kỹ thuật về làm thế nào để đúng
cách điều tra sự an tồn của vật liệu nano khi sử dụng tài liệu Hướng dẫn kỹ thuật cho
việc đánh giá hồ sơ của các chất hĩa học (SCENIHR 2007a), và những gì định nghĩa
trong khu vực cơng nghệ nano cĩ thể được sử dụng để đánh giá rủi ro (SCENIHR
2007b). Nĩ phải được lưu ý rằng cơng nghệ nano đã giới thiệu hình thức hạt nano hố
chất mới, trong đĩ tài liệu, hoạt động và hiệu quả phần lớn chưa được biết và quan tâm
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 17
đến. Mặc dù chỉ cĩ hai năm kể từ khi đánh giá đầu tiên rủi ro của cơng nghệ nano, đã cĩ
những hoạt động đáng kể trong việc đánh giá ảnh hưởng cĩ hại của vật liệu nano, đặc biệt
là trong việc đánh giá tác động tiềm năng độc hại của vật liệu nano của trong ống
nghiệm. Hiện nay, trong ống nghiệm rất hữu ích cho mục đích kiểm tra và cĩ thể cung
cấp những hiểu biết cĩ giá trị vào các cơ chế cơ bản của các tác dụng phụ hiệu ứng. Tuy
nhiên, trong ống nghiệm cĩ những hạn chế của nĩ, đặc biệt là liên quan đến đánh giá của
một nguy cơ cĩ thể cho con người và mơi trường. Vì vậy, hiện nay, trong việc xét nghiệm
vẫn cịn cần thiết cho việc đánh giá rủi ro.
Một vấn đề quan trọng của việc đánh giá an tồn thích hợp là sự lựa chọn của một
liều tiếp xúc trong các hệ thống thử nghiệm cĩ liên quan đến sự tiếp xúc của con người
hoặc mơi trường đối với vật liệu nanơ. Ngồi ra, vẫn cịn một số bất ổn về số liệu về liều
lượng tốt nhất được sử dụng trong đánh giá an tồn và đánh giá các nguy cơ vật liệu nano
sản xuất. Một thiếu sĩt trong sự thẩm định an tồn hiện hành của vật liệu nano là một
thực tế hầu hết trong ống nghiệm và trong cơ thể các nghiên cứu chỉ ngắn hạn trong khi
tác động đến sức khỏe con người và mơi trường cĩ nhiều khả năng xảy ra trong và sau
khi tiếp xúc lâu dài. Do đĩ, nhu cầu cấp thiết cho các nghiên cứu tiếp xúc lâu dài. Cĩ dấu
hiệu cho thấy cĩ sự gia tăng ổn định trong các sản phẩm được sản xuất bởi cơng nghệ
nano hay cĩ chứa vật liệu nano mà cĩ sẵn trên thị trường. Các hàng tồn kho của Trung
tâm Quốc tế Woodrow Wilson cho các học giả hiện nay cĩ gần 800 người tiêu dùng sản
phẩm cơng nghệ nano (WWICS năm 2008). Một hạn chế lớn là nĩ được dựa trên thơng
tin tình nguyện và báo cáo từ các nhà sản xuất, mà trong nhiều trường hợp khơng thể xác
minh. Chất: một nguyên tố hĩa học và các hợp chất của nĩ ở trạng thái tự nhiên hoặc thu
được bằng cách sản xuất bất kỳ quá trình, bao gồm bất kỳ chất phụ gia cần thiết để bảo vệ
sự ổn định của nĩ và các tạp chất nào phát sinh từ quá trình sử dụng, nhưng khơng bao
gồm bất kỳ dung mơi cĩ thể được tách mà khơng ảnh hưởng đến sự ổn định của chất hoặc
thay đổi thành phần của nĩ.
Như một vấn đề, một trong những vật liệu nano đã được áp dụng ngày càng nhiều
là nano bạc, cĩ mặt trong một loạt các sản phẩm như rửa máy mĩc, vớ, thực phẩm liên hệ
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 18
với nguyên liệu, băng vết thương và thực phẩm bổ sung (Wijnhoven et al. 2009, WWICS
2009). Việc sử dụng cĩ thể cĩ của nanoformulations bổ sung cho thực phẩm phải được
xem xét cẩn thận vì nĩ cĩ thể được coi hoặc là cĩ tiềm năng nguy hại (EFSA 2008) hoặc
là cĩ khả năng mang lại lợi ích tùy từng trường hợp cụ thể. Tăng khả dụng sinh học do
các nanoformulation bổ sung cĩ thể được lợi cho một số ứng dụng nhưng cĩ thể tạo ra
khả năng dùng thuốc quá liều.
Trong thực tế, khi vật liệu nano đang vững trong cấu trúc lớn, ví dụ trong các
mạch điện tử, nĩ ít cĩ khả năng thốt khỏi cấu trúc này và khơng cĩ hoặc mơi trường tiếp
xúc cĩ thể xảy ra. Tuy nhiên, trong khi điều này cĩ thể đúng trong sản xuất và sử dụng
thích hợp các sản phẩm cĩ chứa loại vật liệu nano, tiếp xúc cĩ thể xảy ra trong chất thải,
lạm dụng và tái chế. Nĩi cách khác mà khơng cần tiếp xúc với bất kỳ khơng cĩ rủi ro. Do
đĩ dự tốn các kịch bản tiếp xúc về tần số của họ, số lượng của họ và chất lượng, và mục
tiêu của họ (các cá nhân, dân cư, v.v.) là hồn tồn bắt buộc cho một đánh giá rủi ro hợp
lý. Nĩ cần được nhận ra (đặc biệt là để xơng tiếp xúc) tiếp xúc với bụi cĩ thể là do tự
nhiên và vơ tình gây ra các hạt nano (như hạt ơ nhiễm khơng khí do quá trình đốt cháy).
Dựa trên các cuộc thảo luận làm việc nhĩm trong OECD và ISO, một sự đồng thuận hiện
nay đang nổi lên trên các tính chất vật lý-hĩa học của hạt nano cần phải được giải quyết
trong nguy cơ đánh giá quá trình của vật liệu nano (OECD 2008a). Cần lưu ý rằng những
tài sản cũng cần được xác định cho các vật liệu nano được sử dụng trong thử nghiệm cho
đánh giá an tồn, và khơng chỉ trên các vật liệu nano theo quy định của nhà sản xuất. Đối
với hầu hết vật liệu nano, một đánh giá đầy đủ về mối nguy hiểm tiềm năng chưa được
thực hiện. Gần đây, OECD đã bắt đầu một chương trình tài trợ, trong đĩ, đối với 14 của
các vật liệu nano được sử dụng nhất, một hồ sơ xác định nguy cơ sẽ được sản xuất
(OECD 2008a). Chương trình này cĩ chứa một danh sách mở rộng của thiết bị đầu cuối
được xác định bao gồm cả những thơng tin vật liệu nano / nhận dạng, thể hố, cũng như
các tài liệu mơ tả đặc điểm, số phận mơi trường, độc học mơi trường, động vật cĩ vú độc
chất, và an tồn vật liệu (OECD 2008a). Đối với đánh giá này, hiện tại hướng dẫn của
OECD và các xét nghiệm khác sẽ được sử dụng. Một trong những kết quả của chương
trình này sẽ được hiểu biết sâu sắc vào sự phù hợp của các nguyên tắc OECD hiện tại để
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 19
xác định nguy hiểm và nơi mà sự thích nghi của các nguyên tắc này sẽ là cần thiết đặc
biệt cho sản xuất vật liệu nano. Điều này sẽ gĩp phần vào việc thiết kế một chiến lược thử
nghiệm. Ý kiến này đề với những phát triển gần đây trong lĩnh vực đánh giá rủi ro của vật
liệu nano. Một số mối nguy hiểm cụ thể đã được xác định sẽ được thảo luận trong bối
cảnh nguy cơ đối với sức khỏe con người. Chúng bao gồm phát triển trong sự hiểu biết
của toxicokinetics của vật liệu nano, khả năng của các hạt nano để tạo ra protein rung,
các hiệu ứng bệnh lý cĩ thể cĩ của các loại hình cụ thể của các ống nano carbon,
genotoxicity và kích thước các hiệu ứng. Kiến thức đang trở thành cĩ sẵn trên các hành vi
của các hạt nano trong mơi trường về sự phát triển của kịch bản số phận cĩ thể. Ngồi ra,
tác dụng trên các sinh vật mơi trường đã được chứng minh. Việc dàn dựng phương pháp
đánh giá nguy cơ rủi ro của con người và mơi trường được trình bày trong một trước ý
kiến của SCENIHR (SCENIHR 2007a) sẽ được xây dựng trên hơn nữa.
3.2. Đặc tính lý hố và phân tích
Cĩ một nhu cầu chung cho hài hịa của các phương pháp được sử dụng cho đặc
tính của vật liệu nano. Như một điểm bắt đầu, các mơ tả chi tiết của vật liệu nano là rất
quan trọng để đánh giá tính chất vật lý-hố học của vật liệu nano đối với các hiệu ứng
tiềm năng bất lợi của họ. Điều này sẽ bao gồm một mơ tả của các tạp chất cĩ thể cĩ hoặc
chất gây ơ nhiễm. Kiến thức về các thuộc tính của vật liệu nano được sử dụng cũng cần
thiết để cĩ thể so sánh các nghiên cứu khác nhau. Một sự đồng thuận hiện nay đang nổi
lên trên đĩ các hạt nano cĩ tính chất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro của vật liệu
nano (OECD 2008a). Cần lưu ý rằng những tài sản này phải được xác định cho các vật
liệu nano cả hai được sử dụng trong các thử nghiệm để đánh giá an tồn và là cung cấp
bởi nhà sản xuất. Mặc dù vật liệu nano tự được quy định bởi định nghĩa về chất trong
REACH pháp luật (Quy chế (EC) số 1907/2006) (Ủy ban châu Âu 2006), Hiện nay định
nghĩa về "nano" là những gì vẫn cịn đang được tranh luận. các tổ chức khác nhau đã đề
xuất định nghĩa về kích thước nano bằng cách sử dụng một giới hạn trên của khoảng 100
nm. Nĩ sẽ được lưu ý rằng định nghĩa hiện nay hầu hết các đề xuất sử dụng kích thước
của các chính hạt /cấu trúc như là một điểm khởi đầu. Tuy nhiên, khi loại vật liệu nano là
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 20
trong hạt hình thức, các hạt cĩ thể cĩ mặt hoặc là các hạt đơn lẻ hoặc như agglomerates.
Tùy thuộc vào loại vật liệu nano, phần lớn các hạt thậm chí cĩ thể được agglomerates.
Điều này cĩ thể dẫn đến hiểu sai rằng agglomerates hay tập hợp của các hạt nano cĩ kích
thước bên ngồi cũng vượt ra ngồi 100 nm khơng coi là vật liệu nano. Tuy nhiên, chúng
vẫn giữ được đặc tính hĩa lý cụ thể đặc tính của vật liệu nano, cĩ thể là do diện tích bề
mặt lớn cụ thể của họ (SSA). Sự khơng chắc chắn về sự hiện diện của vật liệu nano (hoặc
xác định theo kích cỡ, 60 m2/g khi tính cho <100 nm lĩnh vực mật độ đơn vị) trong sản
phẩm trở nên tầm quan trọng lớn khi thơng tin duy nhất về sự hiện diện của một loại vật
liệu nano chỉ dựa vào những thơng tin được cung cấp bởi nhà sản xuất. Hiện tại, thường
khơng thể đánh giá những nội dung loại vật liệu nano của các sản phẩm này khi các loại
vật liệu nano trong câu hỏi được trộn vào một ma trận phức tạp của sản phẩm. Điều này
khơng giải quyết được vấn đề xảy ra trong các sản phẩm tiêu dùng, đặc biệt là mỹ phẩm
và chăm sĩc sức khỏe sản phẩm, và cũng cĩ trong các sản phẩm thực phẩm và thức ăn.
Tất cả các sản phẩm này đĩng gĩp vào hiện tiếp xúc của người dân châu Âu. Khi mơ tả
một loại vật liệu nano vì thế quan trọng để mơ tả khơng chỉ cĩ nghĩa là kích thước hạt mà
cịn kích thước của các hạt sơ cấp. Ngồi ra, thơng tin về sự hiện diện của agglomerates
và / hoặc tập hợp nên được trình bày. Khi cĩ nghĩa là hạt lệch kích thước (tức là lớn hơn)
từ các kích thước hạt cơ bản này sẽ cho biết sự hiện diện của agglomerates / uẩn. thơng
tin này nên được bao gồm trong mơ tả của các loại vật liệu nano và / hoặc sản phẩm cĩ
chứa các loại vật liệu nano. Trong Ngồi kích thước, diện tích bề mặt cụ thể là số liệu tốt
để mơ tả các hạt bụi. Các diện tích bề mặt cụ thể được xác định theo phương pháp BET
(Brunauer và cộng sự năm 1938.) cĩ lợi thế là độc lập với chính so với nhà nước đĩng
bánh. Dữ liệu khoa học về độc tính cho thấy tổng diện tích bề mặt của hạt nano là một
hợp lý số liệu để mơ tả phản ứng độc tính trong các hệ thống sinh học. Tổng số diện tích
bề mặt khơng nên nhầm lẫn với diện tích bề mặt cụ thể (SSA), nơi nhỏ hơn các hạt cĩ
một SSA lớn hơn độc lập cho dù họ cĩ mặt như tiểu học, tổng hợp kết khối hoặc hạt.
3.2.1. Đặc điểm của các tính chất vật lý-hĩa học
Hiện tại các cuộc thảo luận đang diễn ra, cả ở OECD, mức ISO, liên quan đến
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 21
nhiều đặc điểm của các hạt nano cần phải được đo (OECD 2008a). Các chính thơng số
quan tâm về an tồn hạt nano là:
Tính chất vật lý
• Kích thước, hình dạng, cụ thể diện tích bề mặt, tỉ lệ
•Trạng thái tích tụ/ tập hợp
• Kích thước phân phối
• Bề mặt hình thái học / Địa hình
• Cơ cấu tổ chức, bao gồm các tinh thể và cấu trúc khuyết tật
• Độ hịa tan
Tính chất hĩa học
• Kết cấu cơng thức / cấu trúc phân tử
• Thành phần của loại vật liệu nano (bao gồm cả mức độ tinh khiết, tạp chất
được biết đến hoặc chất phụ gia)
• Giai đoạn nhận dạng
• Bề mặt hĩa học (thành phần, phí, căng thẳng, các trang web phản ứng, thể
cấu trúc, tính chất quang xúc tác, zeta tiềm năng)
• Hydrophilicity / lipophilicity
Khi vật liệu nano được sử dụng trong các hệ thống thử nghiệm, người ta cần phải
nhận thức rằng một số tài sản mà cần phải được xác định là phần lớn phụ thuộc vào các
phương tiện truyền thơng xung quanh và sự tiến hĩa theo thời gian của vật liệu nano. Do
đĩ, tập trung chủ yếu nên được để đánh giá các vật liệu nano ở dạng chính xác các / thành
phần họ cĩ như sản xuất, và trong việc xây dựng các giao cho người dùng cuối và mơi
trường khi xây dựng cĩ chứa các hạt nano miễn phí. Vật liệu nano cĩ thể tồn tại như
nanopowders; lơ lửng trong khơng khí (Siêu mịn các hạt, các hạt nano, hạt nhân ngưng
tụ), lơ lửng trong chất lỏng (chất keo) và kết hợp trong chất rắn. Đối với đánh giá an tồn
sinh học, vật liệu nano sản xuất cần được phân tán trong một phương tiện truyền thơng
thích hợp. Sự tương tác giữa các phương tiện truyền thơng và vật liệu nano cĩ thể cĩ một
ảnh hưởng sâu sắc tới hành vi của hệ thống treo.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 22
Với số lượng ngày càng tăng của sản xuất vật liệu nano mới phát sinh các tầm
quan trọng của động học giải thể tiềm năng cần được nhấn mạnh. Kể từ khi giải thể động
học thường tỷ lệ thuận với diện tích bề mặt, vật liệu nano cĩ khả năng giải thể nhanh hơn
nhiều so với các vật liệu cĩ kích thước lớn hơn. Điều này áp dụng ví dụ: để các hạt nano
bạc mà đang ngày càng được sử dụng cho phát hành của họ của các ion bạc như các chất
chống khuẩn. Nhưng động học giải thể khơng đúng cách nghiên cứu. Ví dụ của các hạt
nano bạc nêu bật sự phức tạp của dự nguy cơ vật liệu nano từ các tương tác bất lợi của
các hạt nano bạc với các hệ thống sinh học cần phải được phân biệt với những người
tương tác của các ion bạc. Cần nhấn mạnh rằng khơng phải tất cả các tài sản cĩ thể được
xác định trong mọi tình huống, cũng như khơng cĩ cần thiết phải làm như vậy
3.2.2. Phát hiện và phân tích
Phương pháp đánh giá của các hạt nano trong khơng khí (aerosol) và bị đình chỉ
trong chất lỏng hoặc chất lỏng đã được tiếp tục phát triển, và các phương pháp mới đã trở
thành cĩ sẵn. Đáng chú ý, tương tự như phân tích hĩa học tiên tiến nhất nhiều người
trong số những phương pháp này liên quan đến cụ nghiên cứu cấp yêu cầu nhân viên vận
hành được đào tạo và khơng phải luơn luơn đơn giản để sử dụng trong các thiết lập 'y tế
cơng cộng' điển hình. Mặt khác, điện thoại di động và di động / thiết bị cầm tay cũng
đang trở thành cĩ sẵn, và số lượng ngày càng tăng nghiên cứu đã được thực hiện và cơng
bố trong những năm gần đây (Mordas et al. 2008, Smith 2004). Tuy nhiên, sự giàu cĩ của
các nghiên cứu liên quan đến nền của khí quyển các hạt nano, và ít làm việc trong bối
cảnh của các hạt nano sản xuất đã thực sự xuất hiện. Hơn nữa, đĩ vẫn là một thiếu tái sản
xuất, so sánh và lặp lại hài hồ các giao thức để đo lường và đặc trưng vật liệu nano
(SCENIHR 2006). Khả năng cung cấp dụng cụ thể hoạt động thường xuyên hơn, cùng
nhau với các giao thức tối ưu là rất quan trọng cho việc cung cấp dữ liệu cĩ ý nghĩa và
hợp lệ được so sánh, tái sản xuất, và lặp lại, và đĩ cĩ thể sản xuất một hệ thống đáng tin
cậy nguy cơ xác định,đánh giá và quản lý. Điều này địi hỏi xác định các số liệu nhất phù
hợp với đặc tính nguy hiểm và tiếp xúc, bao gồm các phương pháp để thực hiện các phép
đo. Để cĩ cái nhìn rộng hơn về các danh mục đầu tư đầy đủ cĩ sẵn phương pháp để phát
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 23
hiện các hạt nano và phân tích, người đọc được gọi SCENIHR (2006).
Đối với các đo lường của các hạt trong khơng khí, một số phương pháp cĩ sẵn.
Họ cĩ được phát triển từ những năm 1980, là rất đáng tin cậy và thường rất nhạy cảm,
nhưng đơi khi tốn kém. Tùy thuộc vào các thơng số hĩa lý của một loại vật liệu nano và
bao gồm cả off-line phân tích, nhiều cơng ty cung cấp thiết bị cĩ thể mơ tả các hạt trong
khơng khí xuống đến phạm vi nanomet. Kinh nghiệm cũng cĩ sẵn trong trường của kính
hiển vi điện tử và microanalysis của các hạt nano trong phần mơ và kết tủa trên chất nền
(ví dụ như Geiser và cộng sự năm 2005.). Các phương pháp đo lường, trong các kĩ thuật
quang học chẳng hạn như tán xạ ánh sáng (Lindfors và cộng sự năm 2004.), cĩ thể được
áp dụng để treo trong các phương tiện truyền thơng khí và chất lỏng và rắn ma trận. Các
hạt động lực bị đình chỉ phụ thuộc mạnh mẽ vào mơi trường bị đình chỉ. Hấp thụ và kính
hiển vi phân tán của các hạt nano kim loại duy nhất cho phép theo dõi của các hạt nano bị
đình chỉ trong giai đoạn lỏng (Van Dijk et al. 2006). Cơng nghệ này kết quả là thiết bị
mới với khả năng theo dõi quang học và xác định các hạt nano kim loại trong nước. Việc
sử dụng ngưng tụ Nucleus đếm, cũng được thành lập trong khoa học bình phun, bây giờ
cĩ thể được thường xuyên sử dụng để cĩ được thơng tin về các hạt nano, nhưng vẫn
khơng thể phân biệt các hạt từ nền. Trong một ý nghĩa phân tích, phương pháp mạnh
nhất, thời gian thực một khối lượng hạt phổ, tiếp tục được phát triển để cung cấp một
phương pháp đáng tin cậy cho đánh giá của các hạt nano lơ lửng trong khí và chất lỏng
(bằng Electrospray ion hĩa) với ứng dụng tiềm năng để các chất lỏng khác (Kane và cộng
sự năm2001. Noble và Prather 2000). Ở đây, một phổ khối lượng phù hợp với phân tích
hĩa học của các thành phần của cá nhân các hạt nano bao gồm các lớp bề mặt cĩ thể được
lấy mẫu và phân tích. Ít nhất hai thương mại set-up hiện đang cĩ sẵn. Tất cả những kỹ
thuật phân tích cĩ của họ độ tin cậy và cấu hình cụ thể nhạy cảm và thường cần phải
được kết hợp để cĩ được đáng tin cậy và đánh giá cụ thể. Do đĩ, đặc biệt xem xét cần
phải được trao cho mỗi phương pháp để xác minh các đặc tính của vật liệu nano trong
nhiều giai đoạn. Điển hình cho hiệu suất cao, phân tích kỹ thuật, một số vấn đề chung cần
phải được xem xét trong việc áp dụng những phương pháp này cho một trường hợp cụ
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 24
thể (ví dụ: chính xác, mẫu chuẩn bị, vai trị của chất nền và sự hiện diện của ơ nhiễm).
3.2.3. Chuẩn bị cho thử nghiệm loại vật liệu nano sinh học
3.2.3.1. Tầm quan trọng của sự phân tán
Khi các hạt nano sản xuất được phân tích trong một mẫu sạch, khơng chứa các tài
liệu, tài sản vật lý-hĩa học cĩ thể được nghiên cứu (sử dụng nhiều dụng cụ được thương
mại hĩa) với mức độ chính xác cần thiết cho sản xuất của họ nhắm mục tiêu và thử
nghiệm. Tuy nhiên, nếu các hạt nano được trộn lẫn trong một ma trận của các vật liệu
khác nhau, như là trường hợp cho các ứng dụng khoa học và cơng nghệ, sản phẩm tiêu
dùng và trong các mẫu độc tính và độc tính sinh thái, sau đĩ nĩ sẽ trở thành vượt khĩ
khăn để xác định những hạt nano từ khi họ cĩ thể chỉ xảy ra ở phần trên 106-1012 của ma
trận xung quanh. Trong thực tế, các hạt nano trở thành "kim trong hay chồng "đĩ là cực
kỳ laboursome để tìm kiếm, xác định và đặc trưng. Nĩ được biết đến từ khoa học keo mà
các hạt nano cĩ thể hình thành agglomerates hay tập hợp, đặc biệt là khi họ được lưu giữ
dưới dạng bột trong điều kiện khơ ráo. Xu hướng này để tổng hợp cĩ thể tạo ra khĩ khăn
khi thử nghiệm độc tính của các hạt nano. Tuy nhiên, mặc dù xu hướng của họ để tổng
hợp, các hạt nano thường khơng thay đổi cụ thể của họ diện tích bề mặt. Tổng diện tích
bề mặt là một thơng số quan trọng cho tương tác với sinh học hệ thống. Thơng thường,
một loại bột khơ hoặc đình chỉ một trong mơi trường nước dựa trên hoặc một số chất lỏng
khác được sử dụng để quản lý các hạt nano vào hệ thống sinh học. Một số Các nghiên
cứu đã thực hiện các đề xuất như thế nào tốt nhất giải tán các hạt nano (et al Bihari. Năm
2008, Buford et al. Năm 2007, Sager et al. 2007). Tốt nhất các giao thức cĩ thể khác nhau
giữa vật liệu nano khác nhau. Nĩ cĩ vẻ rõ ràng là cần cĩ một nỗ lực tốt nhất để làm các
hạt nano trong một kích thước mà cĩ liên quan đến người tiêu dùng mong đợi / tiếp xúc
với dân số.
Phát tán các phương pháp được đề xuất cho các hạt bằng cách sử dụng phương
pháp tiếp cận hợp lý bao gồm sử dụng albumin, một khá nhạt nhẽo và phổ biến tinh cầu
protein (Bihari et al. 2008), và phospholipid màng phổi dịch (Wallace và cộng sự năm
2007.). Các nhà nghiên cứu phải được nhận thức rằng các lớp phủ cĩ thể làm thay đổi các
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 25
thuộc tính của loại vật liệu nano đang được thử nghiệm và do đĩ, các hoạt động sinh học
được xem xét. Chất tẩy rửa tổng hợp như polyoxyethylene Sorbitan monooleate (et al
Wick. 2007) và Tween (Warheit và cộng sự năm 2003.) đã được sử dụng để giải tán các
hạt nano cho mục đích thử nghiệm. Các nhà nghiên cứu phải được nhận thức rằng những
bổ sung cĩ thể được độc hại của tự mình hoặc hoạt động như một chất chống oxy hĩa (ví
dụ: Tween). Những bổ sung cần được xem xét xem xét khi đặc trưng cho vật liệu nano
chuẩn bị sẵn sàng để thử nghiệm.
3.2.3.2. Tham khảo vật liệu nano, đặc điểm và mục kiểm tra
"Tài liệu tham khảo" (RM) là tên gọi chung cho các tài liệu cĩ một chứng minh và
đủ đồng nhất và ổn định trong điều khoản của một mục đích sử dụng xác định. "Tài liệu
tham khảo chất "hoặc" hố chất tham khảo "là những thuật ngữ sử dụng trong các chất
độc đối với vật liệu cần để đáp ứng các yêu cầu tương tự như khái niệm nhưng được sử
dụng để xác định nguy cơ, thường theo GLP. Tài liệu tham khảo (RMS) cần phải được
sản xuất và sử dụng ứng dụng các điều kiện và điều khoản tiêu chuẩn hĩa và được mơ tả
trong hướng dẫn ISO 30-35. Khi được sử dụng trong các độc chất như các bài kiểm tra,
các nguyên tắc của OECD GLP GD 34 và áp dụng với những sửa đổi (OECD 2005).
RMS cĩ thể được sử dụng cho mục đích khác nhau, chẳng hạn như hiệu chuẩn, đánh giá
của phịng thí nghiệm trình độ, thực hiện phương pháp xét nghiệm. Trong thử nghiệm
độc tính để xác định nguy cơ chấttham khảo / vật liệu cĩ thể được sử dụng để so sánh với
cả tích cực (độc hại) và tiêu cực phản ứng. Hiện nay, một số nhỏ các tài liệu tham khảo
đã tồn tại trong lĩnh vực sản xuất vật liệu nano và các hạt nano (ví dụ như các hạt nano
vàng từ Viện Tiêu chuẩn và Cơng nghệ (NIST), Gaithersburg, MD, Hoa Kỳ và silica từ
Ủy ban châu Âu, Viện Vật liệu và tham khảo Đo (IRMM), Cơng ty Trung tâm Nghiên
cứu (JRC), Geel, Bỉ). Họ là những cầu mơ hình vật liệu đĩ được chứng nhận chủ yếu cho
các kích thước và được sử dụng chủ yếu để hiệu chỉnh dụng cụ mà đo kích thước hạt. Sự
vắng mặt của các tham số được xác định để đo lường ("measurands") và các giao thức
thử nghiệm tiêu chuẩn được xác định là một chính trở ngại cho sản xuất vật liệu tham
khảo, bởi vì đã đồng ý và phương pháp hài hịa được cần thiết.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 26
Một vấn đề điển hình của thơng tin được tạo ra bởi các phép đo hoặc các nghiên
cứu là kết hợp một đo lường một phần những kiến thức về một tài liệu tham khảo với một
mục đích sử dụng trong độc tính thử nghiệm hệ thống theo GLP. Hệ thống kiểm tra độc
tính bắt chước các tuyến đường (và kịch bản) của các tiếp xúc và thường yêu cầu thơng
tin về liều lượng. Một nghiên cứu, kiểm tra, kiểm tra, khi thực hiện thành cơng, tạo ra
một dự đốn về tác động của quan tâm. Trong các thử nghiệm độc tính, độ tin cậy và phù
hợp cả hai đĩng gĩp vào tổng thể dự báo năng lực và hiệu lực của một thử nghiệm cho
mục đích của nĩ. Trong thực tế, và trong thỏa thuận với các yêu cầu nêu trên, mơ tả đặc
điểm kết quả nên được thu và sử dụng trong bối cảnh kịch bản thích hợp của họ. Các
thơng tin cần được sử dụng để mơ tả về tính chất nội tại và bên ngồi. Các nguyên tắc đo
lường của các vật liệu nano tham khảo cĩ sẵn cho đến nay khơng thể được sử dụng hoặc
ngoại suy để thử nghiệm độc tính và kết quả liên quan, nhưng thơng tin trên tài sản cung
cấp một cơ sở đáng tin cậy như điểm khởi đầu cho các mục kiểm tra và tham khảo sử
dụng trong các nghiên cứu như vậy. Việc chuẩn bị và sử dụng một tài liệu tham khảo bao
gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 là đặc điểm của các tính chất nội tại của một loại vật liệu nano
tham khảo, nĩ ổn định và đồng nhất. Hĩa lý tài sản cần phải được xác định. Các vật lý
nhà nước và chuẩn bị hình thành của vật liệu kiểm tra do đĩ nên cĩ liên quan sản xuất và
sử dụng. Mẫu chuẩn bị các bước tương ứng với mẫu phân tích chuẩn bị nên được giới
phê bình đánh giá về việc là một yếu tố quyết định của Kết quả đo chính nĩ. Khi một tài
liệu tham khảo được chuẩn bị để sử dụng trong các hệ thống thử nghiệm để đánh giá độc
tính hoặc mơi trường số phận phân tích, nĩ sẽ được đưa vào một chiếc xe/ ma trận/
phương tiện truyền thơng phụ thuộc vào loại xét nghiệm kiểm tra được sử dụng. Điều này
bao gồm điều hịa và sự lựa chọn của ma trận thành phần. Các mẫu thử nghiệm được
chuẩn bị do đĩ phải tương ứng với các yêu cầu của phương pháp thử nghiệm và tốt hơn là
đại diện cho tình hình tiếp xúc được xác định.
Giai đoạn 2 bao gồm các đặc tính của tài sản sau đây chuẩn bị mẫu thử
nghiệm. Kết quả phụ thuộc vào các giao thức được sử dụng và các thành phần ma trận, cĩ
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 27
thể là cần thiết cho một hệ thống thử nghiệm nhất định và là một phần của hệ thống thử
nghiệm. Một số kết quả cĩ thể đạt được cho các loại vật liệu nano cùng tham khảo và tính
chất của nĩ phụ thuộc vào các điều và ma trận được sử dụng. Thật vậy, kích thước hình
dạng và diện tích bề mặt ảnh hưởng đến các mối nguy hiểm kết hợp với vật liệu nano, tại
ít nhất là bởi vì các thơng số này ảnh hưởng đến các tính chất vận chuyển của các hạt
(Hấp thu, phân phối, và bài tiết). Tham khảo vật liệu nano cĩ thể thấy trong bối cảnh của
họ về mục đích sử dụng. Họ là những cơng cụ chất lượng và phương pháp xác thực. Họ
phục vụ hài hịa hĩa phương pháp và tiêu chuẩn hố, và đánh giá hoạt động.
3.3. Phát triển trong phương pháp luận để đánh giá phơi nhiễm
Một trong những tuyến đường chính của phơi nhiễm cho con người được coi là
qua đường hơ hấp, trong đĩ rất nhiều thơng tin cĩ sẵn bao gồm cả các phép đo tiếp xúc.
Tiếp xúc với dữ liệu cĩ sẵn cho các hạt nano khơng sản xuất (thường được gọi là
ultrafines) từ quá trình đốt, nhưng những dữ liệu này khơng cụ thể cho các hạt nano được
sản xuất. Tuy nhiên, các kiến thức thu được từ các nghiên cứu của các sản phẩm đốt cĩ
thể làm ngoại suy cĩ thể và cho phép kết luận dự kiến sẽ được rút ra cho hạt nano khơng
khí giao thơng vận tải và tiếp xúc ở người. Trái ngược với tình hình cho khác các tuyến
đường tiếp xúc, đối với vật liệu nano khơng khí, dụng cụ phân tích thường cĩ sẵn để xác
định tiếp xúc (kích thước phân bố khối lượng và số lượng). Đây là đặc biệt đúng trong
bối cảnh của bầu khí quyển thử nghiệm. Tuy nhiên, nĩ vẫn khĩ phân biệt nền từ tiếp xúc
ngẫu nhiên trong các tình huống thực tế đời sống như những phương pháp này chủ yếu là
thước đo sự hiện diện của (siêu mịn) các hạt và khơng phân biệt đối xử giữa các loại hạt
khác nhau. Tiếp xúc của con người và hệ sinh thái cĩ thể xảy ra thơng qua các giai đoạn
của khí,nước, và rắn. Loại thứ hai cĩ thể bao gồm thực phẩm và người tiêu dùng sản
phẩm như mỹ phẩm. Các tuyến đường hấp thu, liều, và nhĩm người tiếp xúc phải được
phân biệt ngồi tiếp xúc ma trận. Đối với các phép đo độ phơi sáng, ba nhĩm khác nhau
nĩi chung là tốt, cụ thể là cơng nhân, người tiêu dùng, và cơng chúng nĩi chung. Trong
trường hợp người lao động, hít phải là nĩi chung các tuyến đường chính của tiếp xúc.
Ngồi ra, người tiêu dùng và cơng chúng nĩi chung là ngày càng tiếp xúc với vật liệu
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 28
nano trong các sản phẩm tiêu dùng khác nhau thơng qua đường miệng và da các tuyến
đường. Cần lưu ý rằng một phần của vật liệu nano đưa lên khi hít phải sẽ gây ra một dạ
dày-ruột hấp thu do cơ chế hiện tại mucociliary trong phổi cho loại bỏ hạt. Một điểm
quan trọng, hiện đang rất thường bị bỏ quên trong tiếp xúc và sức khỏe tác nghiên cứu, là
việc xác định liều lượng cĩ thể thay đổi đáng kể. Đi tiếp xúc với khơng khí làm ví dụ,
tiếp xúc với các hạt được sản xuất với trung bình đường kính là 90 nm sẽ dẫn đến một
liều nội bộ tổng thể trong khoảng 30-40% tiếp xúc giá trị, trong khi cùng giá trị cho 20
nm hạt tăng lên 70-80% (theo ICRP-mơ hình cho một cơng nhân lành mạnh) (ICRP
1994).
Hình 1 tĩm tắt các sự khác nhau đo lường kỹ thuật và phương pháp tiếp cận cĩ thể
cho đánh giá tiếp xúc. Nĩ cũng cung cấp cho các phác thảo các chiến lược đo vì nĩ sự
khác biệt giữa cá nhân và khơng gian (màn hình điểm cố định) cũng như liên tục và gián
đoạn đo. Những hạn chế của kỹ thuật đo lường trực tiếp đo lường ảnh hưởng chiến lược.
Nĩi chung, khá một vài kỹ thuật đo lường cĩ sẵn để đánh giá các hạt nano tiếp xúc bao
gồm cả khối lượng và kỹ thuật dựa trên số lượng, một hạt hĩa học phân tích trực tuyến /
kỹ thuật offline vv (Kuhlbusch et al 2008a.). Các điểm chấp nhận cho việc thực hiện đánh
giá tiếp xúc tốt là thiếu thiết bị để xác định tiếp xúc cá nhân mà liên tục cĩ thể phân tích
các hạt đơn lẻ hoặc họ agglomerates cho hĩa học và tính chất vật lý cĩ liên quan cho sức
khỏe.
Hình 1: Tiếp xúc liên quan đến đo lường (chuyển thể từ et al Borm năm 2006.)
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 29
Chỉ cĩ một số giấy tờ đã được cơng bố về chiến lược đo đang được cần thiết để
cho phép đánh giá tiếp xúc đầu tiên hướng tới sản xuất vật liệu nano Brouwer và cộng sự
năm 2004,. Kuhlbusch et al. 2008b).
Hiện nay hầu hết các nghiên cứu và đo đạc đã được tiến hành để đánh giá sự tiếp xúc của
người lao động thơng qua đường hơ hấp. Dữ liệu về phơi nhiễm khơng khí vẫn cịn khan
hiếm và khơng phải lúc nào phân biệt rõ ràng xung quanh các hạt sản xuất (Fujitani và
cộng sự năm 2008. Kuhlbusch et al. Năm 2004, Kuhlbusch và Fissan, năm 2006,
Kuhlbusch et al. 2008a, Kuhlbusch et al. 2008b, Maynard et al. Năm 2004, Tsai et al.
Năm 2008, Wake et al. Năm 2002, Yeganeh et al. Năm 2008). 400 nm"
style="BACKGROUND-COLOR #fff"onmouseout="this.style.backgroundColor='#fff
Trong hầu hết trường hợp, nĩ được xem là agglomerates của các hạt nano với đường
kính> 400 nm được phát hành trong quá trình xử lý. Trong một trường hợp (Yeganeh và
cộng sự năm 2008.), Tăng đáng kể sub-100 nm số hạt nồng độ trong việc xử lý carbonate
vật liệu nano được báo cáo. thứ hai cho thấy rằng phối hợp đo lường chiến dịch trong khu
vực làm việc khác nhau vẫn cịn cần thiết để lấy được một cái nhìn tổng quan tồn diện.
Khơng cĩ định lượng hoặc định tính đo lường của vật liệu nano được sản xuất trong mơi
trường khơng khí xung quanh bên ngồi nơi làm việc được biết đến. Điều tra của Murr
(Murr và cộng sự năm 2004,. Murr và Guerrero 2006) cho thấy rằng các ống nano carbon
cĩ thể bắt nguồn từ quá trình đốt cháy chung quy trình và cĩ thể được tìm thấy trong các
địa điểm xung quanh. Điều này minh họa các khĩ khăn của xác định các vật liệu nano
khơng khí sản xuất. Nhìn chung, các cơ sở thơng tin để đánh giá phơi nhiễm tại nơi làm
việc hiện đang được xây dựng trên một cơ sở dữ liệu hạn chế mà đã được cải thiện trong
so sánh, khối lượng và khả năng tái. Điều này cĩ thể đạt được bằng cách làm việc về tính
khả thi của các đánh giá thường xuyên, phát triển kỹ thuật đo lường đáng tin cậy, tiêu
chuẩn kỹ thuật đo lường, chiến lược phát triển đo lường và thực hiện kiểm tra và giám sát
các hạt nano trong khu vực làm việc nhạy cảm. Những thách thức hiện thấy đặc biệt là
trong phát hiện và đánh giá sản phẩm của các hạt nano trong mơi trường.
Ngồi kích thước hạt và số, các số liệu khác cĩ thể được xác định để thể hiện tiếp
xúc. Chúng bao gồm diện tích bề mặt hạt, phí bề mặt (zeta tiềm năng), bề mặt khu vực
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 30
phản ứng (gốc hình thành, hình ảnh xúc tác-, quá trình oxy hĩa, giảm), vv Việc lựa chọn
số liệu liều phụ thuộc vào điểm cuối của lãi suất. Tiếp xúc với các ước tính từ các sản
phẩm thực phẩm và người tiêu dùng vẫn cịn khĩ khăn. Thơng tin về sự hiện diện của vật
liệu nano được sản xuất chỉ duy nhất dựa trên thơng tin (yêu cầu) cung cấp bởi nhà sản
xuất. Ngồi ra, dự tốn tiếp xúc cũng hạn chế do thiếu thơng tin về sử dụng sản phẩm và
sử dụng nhiều sản phẩm cĩ chứa sản xuất vật liệu nano. Trong một thời trang tương tự để
đo nhiệt độ, xác định sản xuất vật liệu nano trong các sản phẩm tiêu dùng bị khĩ khăn
trong việc phân biệt đối xử giữa nền và cố ý thêm vào sản xuất vật liệu nano. Phối hợp
các nỗ lực và nghiên cứu chiến lược cho một đánh giá tồn diện tiếp xúc của sản xuất vật
liệu nano vẫn phải được xác định
3.4. Giao diện giữa vật liệu nano và các hệ thống sinh học
Khi vật liệu nano tiếp xúc với một chất lỏng sinh học, chất lỏng thường xuyên vào
lỗ chân lơng của vật liệu nano cho dù chúng là các hạt đơn hoặc kết khối / uẩn. Kết quả
là, họ cĩ thể trở nên tráng với các protein (et al Blunk. Năm 1993, Cedervall et al. Năm
2007, Labarre et al. 2005) và phân tử sinh học khác. Các lớp phủ cĩ thể sau đĩ ảnh hưởng
đến kết quả của các phản ứng sinh học với các hạt nano. Protein đã được nghiên cứu rộng
rãi nhất trong các hệ thống động vật cĩ vú. Các hiệp hội và phân ly của cácprotein từ các
vật liệu nano đã được tìm thấy phụ thuộc vào hạt sợ nước và kích thước (bán kính cong)
(Cedervall và cộng sự năm 2007.). Nhiều protein hình thành các phức tạm với vật liệu
nano, các ràng buộc và phân ly được phụ thuộc vào nhận dạng protein. Albumin và
fibrinogen hiển thị mức giá tương đối cao cả hai liên kết và phân ly so với AI
apolipoprotein. Khi cĩ một dư thừa chất lỏng sinh học (huyết thanh) các protein phong
phú hơn với ái lực cao hơn cĩ thể thậm chí cuối cùng thống trị các protein cĩ trên bề mặt
hạt, được gọi là "Protein hoa" (Cedervall et al. 2007).
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 31
Original
nanomaterial
Changes due to
interactions in the
exposure medium
Agglomeration
due to storage Changes due
to initial
interactions with
biological system
Subsequent changes
affecting the interactions
with the target sites
Hình 2: Những thay đổi tiềm năng trong bản chất của
một loại vật liệu nano do các xung quanh
Phương tiện truyền thơng các phịng thủ cơ thể đã tiến hĩa trong một cách mà họ
cĩ thể đối phĩ với bất kỳ thể hiểu được loại vật liệu nước ngồi nhập vào hệ thống sinh
học, bao gồm vi khuẩn, virus và hạt. Bề mặt ngồi được bao phủ với các phân tử chủ nhà
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 32
cĩ mặt tại cổng nhập cảnh. Các phân tử này chủ động theo nhiều cách. Một số là
opsonins và sau ràng buộc bề mặt hạt, họ được cơng nhận bởi các tế bào, quốc phịng,
trong đĩ cĩ các thụ thể cho họ, kết quả thực bào và giải phĩng mặt bằng ví dụ: scavenger
thụ. Các thụ thể scavenger MARCO là cần thiết để phịng chống viêm phổi do phế cầu
khuẩn phổi và hít hạt (Arredouani và cộng sự năm 2004.). Các protein của hệ thống để bổ
sung cho kết nước ngồi gốc loại vật liệu nano Tích tụ do lưu trữ Thay đổi do để ban đầu
tương tác với hệ thống sinh học Thay đổi do tương tác trong tiếp xúc với mơi trường Sau
đĩ thay đổi ảnh hưởng đến sự tương tác với các trang web mục tiêu bề mặt. Điều này dẫn
đến một loạt các hiệu ứng bao gồm cả sản xuất và opsonins cảm ứng của viêm. Các hệ
thống bổ sung cũng cĩ thể được tham gia vào phản ứng một số bụi (Warheit et al 1991).
Globulin miễn dịch cĩ mặt trong dịch huyết thanh ở cổng nhập cảnh. IgG là một opsosin
đã được tìm thấy để sửa đổi các phản ứng với một số sợi hít nhưng khơng phải những
người khác (Donaldson và các cộng sự năm 1995.). Ngồi ra, một số chủ nhà protein
được cụ thể cho các cổng thơng tin nhất định của mục (ví dụ như protein động bề mặt A)
và khơng đặc hiệu các protein liên kết với các bề mặt hạt (Kendall 2007). Mỹ khơng khí
đơ thị hạt (PM2.5) cơ lập chất hoạt động bề mặt phổi và amino axit từ rửa phổi của con
người. Các thực tế vai trị của các phân tử sinh học trị trong việc phản ứng tiếp theo là
khơng biết đến. Tuy nhiên, thận trọng để xem xét rằng kết quả của sự tương tác của hạt
với một sinh học hệ thống cĩ thể phụ thuộc vào các lớp mà nĩ nhận được và điều này đã
tác động đối với trong ống nghiệm cơng việc và tình hình bất kỳ nơi hạt được chuyển
thành một hệ thống biolgical theo điều kiện khơng sinh lý học.
Viêm phản ứng là một sự kiện quan trọng cĩ thể xảy ra tiếp xúc sau đây để cĩ rắn
vật liệu, bao gồm cả vật liệu nano. Đối với một số vật liệu nano cảm ứng trong ống
nghiệm của cytokine viêm đã được chứng minh (Carlson et al 2008, Kim et al.. năm
2003, Kocbach et al. Năm 2008, Zhang et al. Năm 2008). Như viêm cytokine cũng cĩ thể
liên kết với vật liệu nano (Kim và cộng sự năm 2003.). Điều này cĩ thể cĩ ý nghĩa khi thử
nghiệm trong ống nghiệm được được sử dụng cho việc đánh giá các đặc tính của vật liệu
nano viêm. yếu tố quan trọng cho sự chuyển tiềm năng/ hấp thụ của loại vật liệu nano cĩ
thể là protein tương tác cả hai loại vật liệu nano trong phổi và trong ruột. Khi tiếp xúc với
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 33
dịch cơ thể, một số vật liệu nano đã được tìm thấy để tương tác với protein và phân tử
sinh học ngay lập tức (Linse et al 2007,. Lynch và Dawson năm 2008). Điều này liên hệ
với ma trận sinh học (bao gồm cả thực phẩm) cĩ thể xác định hành vi của các vật liệu
nano trong. Ngồi ra với tính chất của bề mặt (phí, hĩa học) chính nĩ, mặc dù điều này sẽ
của Tất nhiên ảnh hưởng đến sự liên kết của các phân tử sinh học (Colvin 2003,
Lundqvist et al. 2004, Nel et al. 2006). Một nghiên cứu gần đây cĩ hệ thống tương tác
của các hạt nano polystyrene cĩ sửa đổi khơng cĩ (đồng bằng), hoặc sửa đổi với (amin)
tích cực hay (cacboxylic) chi phí tiêu cực cho thấy rằng bề mặt và độ cong (kích thước
hạt) cả hai ảnh hưởng đến các chi tiết của protein hấp phụ, mặc dù trong mọi trường hợp,
một phần đáng kể của các protein liên kết được phổ biến trên tất cả các hạt (Lundqvist và
cộng sự năm 2008.). Do độ cong của bề mặt hạt nano này cĩ thể ảnh hưởng đến cấu trúc
đại học của các protein liên kết kết quả trong hoạt động sai (Lynch và cộng sự năm
2006.). Các hạt nano tương tác protein cĩ thể khơng được tĩnh nhưng thay đổi trong suốt
thời gian (Cedervall và cộng sự năm 2007.). Như protein phủ về hạt nano cĩ thể tăng
cường và thâm nhập qua màng tế bào (John et al. 2001, John et al. Năm 2003, Panté và
Kann 2002). Điều này thậm chí cĩ thể bao gồm qua các hạt nhân màng như đã chứng
minh cho các hạt nano vàng lên đến một kích thước là 39 nm ràng buộc với hạt nhân
nịng cốt protein phức tạp (Panté và Kann 2002).
Một đánh giá gần đây đã tổng kết nhiều trạng thái hiện tại trong hạt nano protein
tương tác (Lynch và Dawson năm 2008). Tuy nhiên, cĩ một số yếu tố phức tạp, chẳng
hạn như thực tế là các phân tử sinh học xung quanh loại vật liệu nano, đơi khi được gọi là
"hoa", khơng cố định, nhưng đang ở trong một năng động nhà nước. Quầng sáng cân
bằng với mơi trường xung quanh, với sự phong phú protein cao ràng buộc ban đầu,
nhưng dần dần được thay thế bởi sự phong phú hơn, ái lực cao hơn protein. Điều này làm
phức tạp đo quầng như vậy protein. Một đáng kể phần của sinh học phân tử sinh học cĩ
liên quan thật sự (protein) sẽ được liên kết với các hạt nano trong một thời gian đủ dài mà
họ khơng bị ảnh hưởng bởi đo lường các quá trình - được gọi là "cứng-hoa" (Lundqvist
và cộng sự năm 2008.). Ngồi ra, những thay đổi trong mơi trường phân tử sinh học,
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 34
chẳng hạn như sự hấp thu hoặc phân phối sinh học sẽ được phản ánh những thay đổi
trong quầng. Một người cĩ thể suy đốn liệu protein quyết định số phận hoặc phân phối
của các hạt nano hấp thụ hoặc mơi trường với protein cụ thể của nĩ hiện nay. Thực tế các
lớp phủ của 500 nm với các hạt nano polystyrene chất kết dính sinh học phân tử lectin đã
tăng đáng kể sự hấp thu của hạt sau khi uống (Hussain và cộng sự năm 1997). Sự hấp thụ
trong đường ruột củahạt nhựa polystyrene khác nhau (khác nhau, kích thước ion từ 50 nm
đến 3 micron) cĩ thể được tăng hoặc giảm do thay đổi của bề mặt hạt (Florence et al.
1995). Ý nghĩa của điều này cho an tồn-nano và đánh giá nguy cơ nano rõ ràng, vì nĩ
hàm ý cĩ đặc điểm chi tiết của các hạt nano trong mơi trường sinh học cĩ liên quan là rất
quan trọng. Bằng chứng là mới xuất hiện trong các tài liệu khoa học cho rằng lớp phủ của
các hạt nano với cụ thể các protein cĩ thể dẫn họ đến các địa điểm cụ thể - apolipoprotein
E ví dụ đã được kết hợp với vận chuyển của các hạt nano đến não (Kreuter và cộng sự
năm 2002.). Huyết thanh albumin đã được hiển thị để tạo ra sự hấp thu và phản ứng
chống viêm trong đại thực bào, mà khơng cĩ mặt khi các hạt được phủ trước surfactant
để ngăn chặn albumin ràng buộc (Dutta và cộng sự năm 2007.). Ngồi ra, lớp phủ với
polyethylene glycol (PEG) ngăn cản sự hấp thụ tế bào của vật liệu nano và làm tăng thời
gian bán hủy của họ trong máu (Niidome và cộng sự năm 2006.).
3.5 Các vấn đề về sức khỏe con người
Hiện nay cĩ sẵn nhiều hướng dẫn của OECD cho việc thử nghiệm các chất hĩa
học cĩ khả năng phát hiện mối nguy hiểm trong quá trình sản xuất vật liệu nano. Tuy
nhiên cần phải xem xét khả năng thích ứng của phương pháp thử nghiệm với ác hát chất
sản xuất vật liệu nano. Báo cáo Warheit et al (2007) trên cơ sở thử nghiệm độc tính đã
phát hiện độc tính cấp tính của hạt siêu mịn TiO2 bằng cách sử dụng xét nghiệm như
hướng dẫn của OECD. Kết quả cho thấy khả năng gây hại cho động vật cĩ vú bậc thấp và
các lồi thủy sản sau khi phơi nhiễm với các hạt siêu mịn TiO2. Trong các nghiên cứu các
hạt TiO2 cĩ kích thước đường kính khoảng 140nm được phân tán trong nước, nhưng tăng
lên khoảng 2000nm khi hiện diện trong dung dịch muối đệm phosphate, điều này cho
thấy tầm quan trọng của các đặc tính nano khi chúng được sử dụng trong các mơi trường
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 35
khác nhau. Gần đây, OECD đã bắt đầu tài trợ chương trình nghiên cứu khả năng gây
nguy hiểm đối với 14 loại vật liệu nano sử dụng nhiều nhất.
Trong các ứng dụng cĩ thể của thử nghiệm là xác định trong ống nghiệm ảnh
hưởng độc của vật liệu nano. Hiện nay vẫn cịn một yêu cầu với phương pháp này là đánh
giá các hạt nano. Trong cơ sở tập hợp các báo cáo của Warhait et al.(2007), chỉ cĩ hai thử
nghiệm trong ống nghiệm được sử dụng, cả hai đều dùng để phát hiện genotoxicity. Một
khảo nghiệm ( thử nghiệm Ames) sử dụng tế bào vi khuẩn và các tế bào động vật cĩ vú.
Đối với các xét nghiệm vi khuẩn cĩ thể nghi ngờ rằng sản xuất vật liệu nano cĩ kích
thước 140nm cĩ thể nhập vào tế bào vi khuẩn. Đánh giá gần đây của đánh giá an tồn sản
xuất vật liệu nano trong oĩng nghiệm chỉ ra rằng xét nghiệm cĩ thể cĩ ích nhưng chỉ là
để sàng lọc và thẩm định con đường cơ học cụ thể. Vì vậy chúng cĩ thể được sử dụng để
đánh giá khả năng hấp thụ các hạt nano của tế bào. Tuy nhiên để được áp dụng trong
đánh giá rủi ro, các xét nghiệm phải được xác nhận hợp lệ và phù hợp trong cơ thể.
3.5.1 Tương tác giữa hạt nano và protein
Màng protein cĩ thể ảnh hưởng đến các hạt nano bao gồm các hiệu ứng sinh học
của nĩ, các hạt nano cũng cĩ thể ảnh hưởng đến hoạt động của protein. Các hạt nano
được tìm thấy cĩ khả năng thúc đẩy sự tạo thành sợi protein amiloyd trong ống nghiệm
bằng cách hỗ trợ quá trình nucleation (Linse et al 2007). Hiện tượng này cĩ thể tác động
gây bệnh amyloid.
Các hạt nano (các hạt đồng chất, các hạt oxit xeri, các ống nano cacbon) đã được
tìm thấy để nâng cao xác suất xuất hiện các sợi protein từ microglobulin-B2 trong quá
trình nucleation ( Lisne et al. 2007). Giai đoạn nucleation ngắn hay dài phụ thuộc vào số
lượng và tính chất của hạt bề mặt. Cĩ một sự tương tác trên bề mặt hạt protein, trong đĩ
B2-microglobulin hình thành nhiều lớp trên bề mặt hạt, tập trung thúc đẩy hình thành
oligomer. Những kết quả này cho thấy sự liên quan đến cơ chế nucleation và cĩ thể làm
tăng nguy cơ độc hại và hình thành amyloid.
Cĩ dấu hiệu cho thấy sau khi lắng động ở niêm mạc mạc mũi khứu giác, các hạt
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 36
nano cĩ thể dời vào não. Quan sát này đặt ra một số quan điểm quan trọng khi xem xét
mối nguy hại của bệnh amiloid của não bộ.
3.5.2. Toxicokinetics
3.5.2.1 tổng quát
Toxicokinetics là khoa học đối phĩ với sụ hấp thu, phân phối, trao đổi chất và bài
tiết của các chất trong cơ thể. Điều này là tồn bộ quá trình xảy ra sau khi tiếp xúc trực
tiếp hay gián tiếp của các cơ quan với các chất độc hại. Chủ yếu là tiếp xúc qua hơ hấp,
ăn uống hoặc hấp thụ qua da.
3.5.2.2 Chuyển hĩa của vật liệu nano.
Chuyển vị của các hạt nano được sản xuất thơng qua biểu mơ cĩ thể sẽ phụ thuộc
vào đặc tính hĩa-lý của các hạt nano nhu kích thước, bề mặt phối tử, và sinh lý của cơ
quan như thể chất, tinh thần. Trong điều kiện sinh lý bình thường, paracellular vận
chuyển các hạt nano sẽ rất hạn chế, như kích thước các lỗ rỗng tại các nút cĩ kích thước
0,3-1,0 nm. Ít phát hiện hoạt động và sự cĩ mặt của các hạt nano ở đường tiêu hĩa.( Des
Rieu et al 2006)
Trong khi một số cơ chế cĩ thể được ứng dụng cho nhiều lớp màng sinh học, nĩ
phải được lưu ý rằng mỗi màng cĩ nhiệm vụ cụ thể và cĩ liên quan với nhau. Sau khi
chuyển vị/ hấp thụ sự phân bố của các hạt nano trong cơ thể qua các hệ thống và cơ quan
là khác nhau và cần phải được xác định. Sau giai đoạn chuyển vị/ hấp thụ các hạt nano
phân phối tuần hồn trong cơ thể cho các mơ và các cơ quan.
Mơ hình nghiên cứu cơng nghệ nano bao gồm nghiên cứu độc tính động học, các
hạt nano kim loại vàng keo được sử dụng rộng rãi. Chúng cĩ thể được tổng hợp trong các
hình thức khác nhau, kích thước khác nhau và cĩ thể phát hiện ở nồng độ thấp. đặc biệt
cho các ứng dụng y sinh học, họ cĩ thể xem xét các mơ hình liên quan, từ khi chúng được
sử dụng như nhà cung cấp thuốc tiềm năng, hình ảnh các phân tử va gen, cung cấp cho sự
phát triển giả thuyết điều trị ung thư (Hainfield et al 2004, Hirsch et al.. năm 2003, Loo et
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 37
al. 2004, O'Neal et al. Năm 2004, Radt et al. 2004). Ngồi ra, ác hạt nano vàng cĩ thể
theo dõi sự phân phối protein trong cơ thể, trong đĩ protein kết hợp với các hạt nano ở
kích thước nhỏ.
3.5.2.3. Cơ quan phân phối sau khi tiếp xúc tĩnh mạch
Đối với hệ thống phân phối là do tuyến đường tĩnh mạch, phân phối của các hạt tại
nhiều cơ quan như tim, gan, lá lách và não (De Jong và cộng sự năm 2008, Ji et al..
2006).
Khi chuột được tiêm vào tĩnh mạch các hạt nano vàng cĩ kích thước khác nhau (
10, 50 ,100 và 250nm), sự phân bố của các hạt nano vàng được tìm thấy phụ thuộc vào
kích thước, các hạt nhỏ nhất phân bố ở tim, máu, phổi, gan, lá lách, thận, tuyến ức, não,
tinh hồn (De Jong et al. 2008). Các hạt nano lớn hơn chủ yếu sống ở lá lách và gan.
Tiêm vào tĩnh mạch các thanh nano vàng (chiều dài 65 ± 5 nm, chiều rộng 11 ± 1 nm)
tích lũy trong vịng 30 phút, chủ yếu ở gan.
Khi mang điện tích âm, các hạt nano vàng 1,4 nm hay 18nm được tiêm vào tĩnh
mạch cho thấy một mơ hình giống như trên, sự tích tụ cao nhất ở gan và lá lách. Đối với
hạt nano 1,4nm chỉ cĩ một nửa liều tiêm được hiện diện trong gan và lá lách, trong khi
một nửa phân phối ở các cơ quan khác như ở trên, trong các mơ mềm và trong xương.
Hơn nữa ,các hạt này vẫn cịn lưu thơng trong máu sau 24h. Khi các hạt nano vàng được
tiêm cùng tĩnh mạnh ở chuột mang thai, cả hai hạt 1,4nm va 18nm đều tìm thấy trong
nhau thai va thai nhi.
Đối với các hạt nano TiO2 cĩ phạm vi kích thươc 20-30nm, liều 5mg/kg trọng
lượng cơ thể, khơng cĩ mức độ phát hiện của TiO2 trong các tế bào máu, huyết tương
não hoặc bạch cầu. Mức TiO2 trong gan là cao nhất, và theo thứ tự giảm dần từ phổi, lá
lách và rất ít ở thận. Cao nhất ở ngày 1, TiO2 được giữ lại trong gan trong 28 ngày.
Các kết quả thu được cho thấy các hạt nano chủ yến phân bố trong gan và lá lách (
các đại thực bào và tế bào Kupffer). Như đã được chưng minh các hạt nano nhỏ nhất
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 38
cũng cĩ thể phân phối cho các cơ quan khác ngồi gan và lá lách.
3.5.2.4. Cơ quan phân phối sau khi tiếp xúc miệng
Cho chuột uống các hạt nano cĩ kích thước giảm dần ( 58, 28, 10 và 4nm ) cho
thấy sự hấp thu tăng lên khi kích thước hạt nano giảm. Các hạt nhỏ hiện diện trong gan,
lá lách, phổi và thậm chí cả não. Các hạt lớn thi nằm bên trong hệ tiêu hĩa, người ta cĩ
thể suy đốn xem như chuyển vị của các hạt nano đi kèm với sự lưu thơng của thức ăn cĩ
thể gây ngộ độc cấp tính hoặc gây ra dị ứng.
Các hạt TiO2 từ 500nm được quan sát thấy trong tât cả các mơ lớn của Gut
Associated, mơ bạch huyết và các hạch bạch cầu khi cho uống 10 ngày và đánh giá tại
ngày 11. Hệ thống tiếp xúc xảy ra như titanium và được phát hiện bằng cách phân tích
hoa học trong máu, gan, phổi, lá lách và tim. Các hạt TiO2 500 nm hấp thụ chủ yếu thơng
qua bản vá của Peyer (Jani và cộng sự al. 1994).
Trong một nghiên cứu 28 ngày đối với nano bạc (trung bình 60nm) cho thấy bạc
tích tụ trong tất cả các cơ quan kiểm tra, tức là máu, não, thận, gan, phổi, dạ dày và tinh
hồn. Mức cao nhất được thấy trong dạ dày, tiếp theo là thận và gan, não, phổi, tinh hồn
và máu. Các nano bạc được xác định bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (ASS)
trong khi mơ học để xác định sự hiện diện của bạc khơng thực hiện được.
Nĩ cĩ thể kết luận rằng một số hạt nano cĩ kích thước lớn cĩ thể bị hạn chế trong
đường ruột, trong khi các hạt nano khác cĩ kích thước tương tự thì cĩ thể. Kết quả hấp
thu từ đường ruột cĩ thể xảy ra với kích thước lên đến 500nm.
3.5.2.5. Cơ quan phân phối sau khi tiếp xúc qua đường hơ hấp
Một số nghiên cứu ở động vật gặm nhặm cho thấy cĩ sự phân bố của các hạt nano
ở nhiều cơ quan bao gồm cả gan, lá lách, tim và não (Kreyling et al. Năm 2002,
Oberdorster et al. Năm 2002, Semmler et al. 2004; Semmler-Behnke et al. 2007).
Các chuyển vị của các hạt nano phĩng xạ iridium khơng hào tan được sau khi hít
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 39
vào. Đối với các hạt 15nm và 80nm hầu hết ở lại phổi qua đường khơng khí, sau đĩ đi
vào ruột và phân. Sau khi hấp thu ở phổi thì dưới 1% chuyển vị đến các cơ quan khác
như gan, lá lách, tim và não.
Hơn nữa, trong một nghiên cứu khác cho các hạt nano vàng với kích thước 5-8 nm
phần lớn các các hạt nano hít vào vẫn ở phổi, mặc dù cĩ một lượng rất nhỏ được chuyển
vào máu (Takenaka et al. 2006). Khi chuột được cho tiếp xúc hít trong 5 ngày các hạt
nano vàng (đa số cĩ kích thước <35 nm) chỉ phát hiện trong phổi và khứu giác (Yu et al.
2007). Sau 15 ngày kể từ ngày tiếp xúc vàng cũng cĩ thể được phát hiện trong các cơ
quan khác bao gồm tim, gan, tuyến tụy, lá lách, thận và tinh hồn (Yu et al. 2007).
Ở những con chuột tiếp xúc do hít phải để đèn huỳnh quang cĩ chứa các hạt nano
từ tính Fe (kích thước 50nm) cho bốn tuần (4h/ngày, 5 ngày/tuần) các hạt nano được
phân phối cho các cơ quan khác nhau bao gồm cả gan, lá lách, phổi, tinh hồn và bộ não
(Kwon et al. 2008). Các kết quả chỉ ra rằng cả hai hàng rào máu não (BBB) và tinh hồn
(BTB) đã bị xâm nhập bởi các hạt nano.
Những con chuột được tiếp xúc với các hạt nano carbon (kích thước 20-29 nm) cĩ
đồng vị ổn định C13 (Oberdorster et al. 2002). Chỉ ở mức tiếp xúc cao đã bắt đầu tích tụ
trong gan sau khi tiếp xúc 30 phút. Cần lưu ý rằng 13C là tự nhiên trong mỗi sinh vật ở
mức độ trong khoảng 1%. Vì vậy, các hạt nano cĩ 13C đại diện ít hơn so với 13C nội sinh
trong phổi chuột.
Ngồi các hạt khơng khí thì các hat nano cũng đã được chứng minh là cĩ thể đi
đến não và gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Ngồi ra các hạt nano vàng cũng
cĩ thể đi đến não sau khi tiếp xúc qua đường hơ hấp. Khi các hạt nano iridi tiếp xúc trong
6 tháng cĩ thể path hiện trong não.
Ở người, các hạt nano carbon hít hầu hết vẫn cịn lại trong phổi (Brown et al.
2002,Mills và cộng sự. Năm 2006, Mưller et al. Năm 2008, Wiebert et al. 2006a, Wiebert
et al. 2006b).Chuyển vị đã được tìm thấy là <1%. Vì vậy, mặc dù sự chuyển của các hạt
nano từ phổi cĩ thể xảy ra sau khi hít phải, hầu hết các hạt nano vẫn cịn trong phổi.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 40
Những nỗ lực khác để nghiên cứu sự chuyển từ phổi qua rào cản tế bào phổi ở người
khơng thành cơng vì các thử nghiệm giới hạn khoảng 1% liều dùng đến phổi (hiện cĩ
Brown và cộng sự năm 2002, Mills et al.. năm 2006, Mưller et al.Năm 2008, Wiebert et
al. 2006a, Wiebert et al. 2006b).
3.5.2.6. sự giải phĩng các hạt nano.
Con đường giải phĩng các hạt nano nổi bật nhất là bài tiết qua phân, các hạt nano
khơng bị hấp thu qua đường ruột hay hấp thu vào phổi khi hít phải được bài tiết ra.
Nếu các hạt nano đi vào hệ tuần hồn thì cĩ hai con đường bài tiết :
• Lọc cầu thận ở thận cĩ tác dụng chuyển các hạt nano vào trong bàng
quang. Choi et al.2007) đã thấy rằng các lượng tử cĩ kích thước dưới 4,5nm và khơng cĩ
liên kết với protein nào sẽ được bài tiết trong nước tiểu. Bên cạnh đĩ các nghiên cứu này
cũng cho thấy các hạt nano vàng 1,4 và 18nm cũng được bài tiết trong nước tiểu.
• Một con đường khác là giải phĩng qua gan-mật, các hạt nano từ gan qua
đường mật vào ruột và phân.
3.5.2.7. Kết luận về độc tính động học
Dữ liệu hiện nay cho thấy rằng các hạt nano cĩ thể nhập vào cơ thể thơng qua
đường hơ hấp và đường dạ dày-ruột. Những quá trình này cĩ thể phụ thuộc vào đặc tính
hĩa học và vật lý của các hạt nano như kích thước và về trạng thái sinh lý của các cơ
quan tiếp nhận.
Sau khi các hạt nano vào cơ thể thì phân phối ở các cơ quan chính là máu, gan và
lá lách. Thời gian lưu thơng mạnh khi các hạt nano tích điện dương và ứa nước. Phân
phối cho thai nhi và tử cung cũng đã được nghiên cứu. Các hạt nano khơng thể hịa tan cĩ
thể tích lũy trong các cơ quan và gây phơi nhiễm mãn tính với những hậu quả chưa được
nghiên cứu.
3.5.3. Ảnh hưởng của các ống nano carbon
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 41
Sự giống nhau giữa bề mặt ống nano cacbon và các hạt nano là mối lo ngại về an
tồn của ống nano (Donaldson và các cộng sự năm 2006. Các Hội Hồng gia và Học viện
Hồng gia Kỹ thuật 2004).
Poland et al.(2008) sử dụng mơ hình chuột tiếp xúc trực tiếp biểu mơ. Họ thử
nghiệm tác dụng inflammogenic cấp tính của các ống nano cacbon và khả năng gây ra u
hạt trên bề mặt của cơ hồnh sau 1 tuần. Điều này cung cấp cho giả thuyết các loại ống
cacbon dài cĩ thể gây bệnh, như khống chất amiang độc hại cĩ các đặc điểm về độ cứng,
độ dài. Điều này đặt ra nguy cơ con người sữ phụ thuộc vào việc cĩ hít phải trực tiếp với
các loại ống cacbon hay khơng. Ngồi ra, nguy cơ cũng phụ thuộc khả năng di chuyển tự
nhiên của các ống cacbon.
Pacurari et al. (2008) sử dụng các tế bào biểu mơ trong nuơi cấy và các ống nano
cacbon để amiang cho thấy rằng các ống cacbon gây ra kích hoạt các phân tử đường liên
kết stress oxy hĩa, tương tự như amiang.
3.5.4.Genotoxicity
Các tác hại cho di truyền của các hạt thơng thường được điều khiển bởi hai cơ chế
genotoxicity trực tiếp và genotoxicity gián tiếp (quá trình kích thích qua trung gian),
được xem xét lại bởi Schins et al. (2007). Các hạt nano cĩ thể hoạt động thơng qua một
trong những con đường kể từ khi chúng cĩ thể bị kích thích (xem ở trên) và chúng cũng
cĩ thể nhập vào các tế bào và gây ra những biểu hiện căng thẳng do bị oxy hĩa
(Donaldson và các cộng sự, 2005, Nel và cộng sự. 2006, Oberdưrster et al. 2005a,
Oberdorster etal. 2005b, Stone et al. 2007). Cĩ một số bằng chứng rằng kích thước nhỏ
cĩ thể cho phép các hạt nano xâm nhập vào trong các bộ phận dưới mức tế bào khi mà
những bộ phận này thơng thường cĩ thể loại trừ những hạt khác của mơi trường, giống
như ty thể và nhân (Chen và von Mikecz năm 2005,Li et al. 2003, Geiser et al. 2005). Sự
hiện diện của vật liệu nano trong cả hai ty thể và nhân dẫn đến khả năng cho genotoxicity
oxy hĩa gián tiếp qua trung gian và trực tiếp tương tác của các hạt nano với DNA và
histone. Bên cạnh quá trình ơxy hố,cơ chế bổ sung của genotoxicity cĩ thể được cụ thể
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 42
đối với vật liệu nano cũng cần để được xem xét, chẳng hạn như gây trở ngại bộ máy trong
thời gian phân chia tế bào và các nguồn của tác hại cho di truyền (như giải phĩng kim
loại từ vật liệu nano) (Gonzalez et al.Năm 2008).
Một số nghiên cứu với các hạt nano đã chỉ ra rằng một số các hạt nano cĩ thể gây
hại cho di truyền (xem xét lại bởi Gonzalez et al. 2008, Landsiedel và cộng sự năm
2008.). Thường xuyên nhất được sử dụng kiểm tra được khảo nghiệm Comet chứng minh
sự hiện diện của các tổn thương DNA. Một số kết rõ ràng của vật liệu nano về
genotoxicity đã được quan sát bao gồm cả C60 fuloren, một ống nano cacbon vách
(SWCNT), các hạt nano của chrome cobalt (CoCr) hợp kim, TiO2, nano oxit kim loại
V2O3, Carbon Black (CB), và động cơ cĩ quy mơ nano thải ra các hạt.
Việc thường xuyên nhất được sử dụng khảo nghiệm thứ hai là khảo nghiệm
micronucleus trong đĩ sự hiện diện của micronuclei trong phân chia tế bào dẫn đến sự sai
lệch nhiễm sắc thể. Trong kết quả khảo nghiệm rõ ràng micronucleus đã đạt được cho
nanoformulations của TiO2, SiO2, CoCr, ZnO và các ống nano carbon đa vách
(MWCNT). Đối với các xét nghiệm đột biến gen một số nghiên cứu cho thấy một kết quả
rõ ràng cho một số vật liệu nano bao gồm nano FePt, SiO2, TiO2, MWCNT, và CB.
Đối với tất cả các hệ thống khảo nghiệm ba được sử dụng (Comet, micronucleus
và đột biến gen), kết quả tiêu cực thu được cho TiO2, CB, SiO2, và các ống nano carbon
đơn vách, trong khi cho một số kết quả tương phản của vật liệu nano đã thu được
(Landsiedel et al. 2008). Các giải thích các dữ liệu trình bày trong các báo cáo lại bị cản
trở bởi nhiều hạn chế bao gồm cả sự khác biệt trong phương pháp được sử dụng trong
vịng một loại khảo nghiệm, sử dụng các phương pháp khơng tiêu chuẩn hĩa với các tế
bào chính khác nhau hoặc các dịng tế bào, và do đơi khi rất ít đặc tính của các hạt nano
được thử nghiệm và thiếu thơng tin về chất gây ơ nhiễm cĩ thể.
Đối với TiO2 và CB đã đánh giá rằng nhỏ hơn (~ 20 nm) các hạt gây ra biến đổi
DNAtrong khi các hạt lớn hơn (~ 200 nm) thì khơng (Gurr et al 2005, Mroz et al.. năm
2008, Rahman et al. 2002). Hạt nano Cobalt đã được nghiên cứu điển hình để tạo ra thiệt
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 43
hại AND hơn so với các hạt cĩ kích thước bằng cách sử dụng các nguyên bào sợi micron
con người trong nuơi cấy mơ trong khảo nghiệm Comet kiềm (Papageorgiou và cộng sự
năm 2007.). Trong khảo nghiệm micronucleus các hạt nano Cocho thấy những thay đổi
nhỏ, trong khi ở các khảo nghiệm Comet cho kết quả tương tự các hạt nano Co, thống kê
làm rõ kết quả tích cực ý nghĩa đã được quan sát (Colognato etal. Năm 2008).
Một số nghiên cứu cho thấy, silic vơ định hình rất tinh khiết, với một phản ứng bề
mặt thấp, là tiêu cực trong khảo nghiệm Comet (Barnes et al. 2008). Điều này cĩ thể cho
thấy các hạt nano với độ phản ứng bề mặt thấp cĩ thể sẽ ít gây hại cho di truyền hơn
những loại khác.Ngồi những kết quả tiêu cực của Barnes et al. (2008), rất ít kết quả tích
cực (Yang et al. 2009) về thiệt hại DNA trong khảo nghiệm Comet đã được báo cáo sau
khi tiếp xúc củaphơi chuộtfibrolasts 3T3 đến nồng độ khác nhau của các hạt nano SiO2
(kích thước 20-400nm). Trong hai loại xét nghiệm genotoxicity tức là khảo nghiệm
micronucleus và gen đột biến kết quả khảo nghiệm dương tính đã được quan sát cho các
hạt nano silic (Landsiedel et al.2008) trong khi ở các khảo nghiệm Comet kết quả yếu
kém tích cực đã được quan sát (Yang và cộng sự 2009).Một loạt các genotoxicity (thử
nghiệm Ames, clastogenicity trong các tế bào động vật cĩ vú) và photogenotoxicity(Ảnh-
Ames thử nghiệm, hình ảnh trong các tế bào động vật cĩ vú clastogenicity) kiểm tra đã
đượcthực hiện trong điều kiện GLP trên 14 cấp che khác nhau TiO2 (anatase vàrutil; phủ
một khơng tráng, hạt kích thước khoảng 11-60nm một lớp sắc tố - 200000nm). Tất cả các
kết quả đều âm tính. Chúng được cung cấp như một sự an tồn cơng nghiệp chưa báo
cáo, xem xét hồ sơ, tổng kết và cơng bố trên ý kiến của khoa học.
Uỷ ban về các sản phẩm mỹ phẩm và Sản phẩm phi thực phẩm dành cho người
tiêu dùng Titanium Dioxide liên quan (SCCNFP, 2000). Kết quả photo – clastogenic tiêu
cực cũng được tìm thấy trong các thử nghiệm dị thường nhiễm sắc thể trên tế bào buồng
trứng củachuột đồngTrung Quốc với một loạtcủa các hạt TiO2 (anatase, rutil; các hạt kích
thước: 14-60 nm) (Theogaraj và cộng sự năm 2007.).
Tuy nhiên, những cái khác (Rahman và cộng sự năm 2002,. Wang và cộng sự năm
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 44
2007.) chứng minh rằng hạt siêu mịn TiO2 gia tăng số lượng của micronuclei trong các tế
bào phơi chuột hamster Syria và những tế bào lymphoblastoma ở con người B-cell
(WIL2-NS). Trong mơ hình thứ hai tần số đột biến đã được tăng lên trong các thử nghiệm
HPRT và DNA thiệt hại đã được chỉ định bởi các xét nghiệm Comet. Kết quả dương tính
trong thử nghiệm micronucleus và thiệt hại DNA oxy hĩa được tìm thấy gần đây ở các
dịng tế bào cĩ nguồn gốc từ cá hồi vân và cá da vàng (Reeves et al 2008, Veversvà Jha
2008). Đĩ là chỉ định một số loại TiO2 (anatase; hạt kích thước của 255- 420 nm) khơng
hại cho di truyền nhưng hại cho di truyền ảnh trong hạch lympho của chuột và tế bào
phổi hamster Trung Quốc (Nakagawa và cộng sự năm 1997.). Điều này đã được hỗ trợ
thêm bởi các nghiên cứu Dunford et al. (1997) cho thấy oxy hố DNA trong các nguyên
bào sợi của con người (MRC-5) sử dụng các khảo nghiệm Comet. Tương tự như silic
(SiO2) kết quả tích cực đã được quan sát cho TiO2 trong tất cả ba loại xét nghiệm
genotoxicity (Landsiedel và cộng sự năm 2008.).
Kết quả khơng thống nhất được cơng bố cho các genotoxicity của hạt nano oxit
kẽm (Brayner 2008, Dufour và cộng sự năm 2006,. Nohynek et al. 2007, SCCNFP năm
2003, Yangvà cộng sự.2009). Nĩ đã được chỉ ra rằng các hạt nano bạc (khoảng 60 nm
kích thước) đã khơng tăng micronuclei hình thành trong tủy xương chuột vào một trong
ống nghiệm 28-ngày thử nghiệm tiếp xúc miệng ở liều tối đa 1000 mg/kg (Kim và cộng
sự năm 2008.). Các genotoxicity của C60 đã được nghiên cứu tương đối tốt, nhưng kết
luận bị mâu thuẫn. Dhawan et al. (2006) đã chứng minh một genotoxicity yếu của C60
keo trong khảo nghiệm Comet thực hiện trên tế bào lympho của con người. Một số loại
vật liệu nano carbon như cacboncác hạt nano tạo ra oxy phản ứng (ROS) đã được tìm
thấy là hại cho di truyền (Jacobsen và cộng sự năm 2008.). Mặt khác, Zakharenko et al.
(1997) khơng cĩ báo cáo genotoxicity của C60 ở nồng độ cao đến 450 μg/l trong SOS
Chromotest và nhẹ genotoxicity (ở 2,2 mg/l) khi soma đột biến và thử nghiệm tái tổ hợp
ở ruồi giấm melanogaster đã được sử dụng. Mori et al. (2006) thu được kết quả âm tính
với fullerenestrong cả vi khuẩn Ames kiểm tra và xét nghiệm nhiễm sắc thể dị thường tế
bào động vật cĩ vú.
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 45
Để xem xét cụ thể một loại vật liệu nano hại cho di truyền, xác nhận tại hai phịng
thí nghiệm độc lập và trong hai hệ thống thử nghiệm là tiêu chí cần thiết và tối thiểu phải
được đáp ứng theo đề nghị của Gonzalez et al. (2008). Cĩ nhiều mâu thuẫn trong các kết
quả báo cáo cho đến nay (xem xét lại bởi Gonzalez et al. 2008, Landsiedel et al. 2008).
Một hạn chế lớn trong kết luận là cĩ chắc một loại vật liệu nano gây hại cho di truyền hay
khơng làđịnh nghĩa ít cĩ và mơ tả đặc điểm tối thiểu của các mẫu vật liệu nanơ được sử
dụng trong các nghiên cứu thì khác nhau.
Trong kết luận, đối với một số vật liệu nano sản xuất, trong hoạt động trong ống
nghiệm hại cho di truyền đã được báo cáo, nhưng kết quả tiêu cực mâu thuẫn cĩ thể được
giám sát, và khơng phải tất cả các kết quả cĩ thể được xác nhận thử nghiệm trong ống
nghiệm. Một nguyên nhân tiềm năng của mâu thuẫn là khĩ khăn trong cung cấp các vật
liệu nano với các hệ thống kiểm tra thích hợp. Nhất cĩ sẵn trong ống nghiệm/năm nghiên
cứu genotoxicity trong ống nghiệm đã được thực hiện ở nồng độ hạt cao. Trong các
trường hợp trong ống nghiệm, điều này cĩ thể được kết hợp với phản ứng kích thích và
tăng nhanh được phản ứng lại, và do đĩ cĩ thể che khuất hoặc sửa đổi genotoxicity và
thậm chí cĩ những biểu hiện gây ung thư. Ngồi ra, các xét nghiệm khác nhau với các tế
bào chính khác nhau và các dịng tế bào đã được sử dụng mà khơng phải luơn luơn hiển
thị kết quả nhất quán. Mâu thuẫn này cĩ thể phụ thuộc vào hĩa lý đặc tính của vật liệu
kiểm tra điều tra như kích thước, hình dạng, dạng tập hợp/kết tụ, bề mặt tính chất, gây ơ
nhiễm hiện tại và loại tế bào được sử dụng.
3.5.5. Ảnh hưởng tim mạch của các hạt nano
Ơ nhiễm khơng khí ngày càng được cơng nhận là một yếu tố quan trọng dẫn đến
các bệnh tim mạchtrong các cộng đồng đơ thị (xem xét lại bởi Mills et al. 2009). Việc
xảy ra bệnh tim mạch bao gồm cả nhồi máu cơ tim và suy tim là do tiếp xúc với việc đốt
cháy các hạt nano cĩ nguồn gốc hữu cơ và kết hợp các phản ứng chuyển tiếp thành phần
kim loại. Nhận thấy sau khi hít phải đưa đến các kết quả về viêm đường hơ hấp gây ra
hiệu ứng cĩ hệ thống một cách trực tiếp bởi sự chuyển từ phổi hoặc gián tiếp bằng các
Đánh giá rủi ro các sản phẩm của cơng nghệ nano
Nhĩm vơ cực Trang 46
chất mơi giới chưa tìm hiểu rõ (Mills và cộng sự năm 2009.). Theo quan điểm của các
phát hiện này cũng cho rằng việc sản xuất vật liệu nano là một nguy cơ tương tác với hệ
thống tim mạch cĩ thể đượctưởng tượng.
Các loại vật liệu nano carbon đã được nghiên cứu và so sánh với một tiêu chuẩn
hạt đơ thị Radomski et al. (2005). Hỗn hợp các hạt nano carbon, đơn thành ống nano
carbon, ống nano carbon đa tường, nhưng khơng fullerenes C60 đã được tìm thấy kích
thích kết tập tiểu cầu trong ống nghiệm, và để tăng tốc mạch huyết khối trong một mơ
hình sắt clorua của huyết khối trong một mơ hình chuột cụ thể. Khơng cĩ thơng tin đã
được trình bày trên các đặc tính của vật liệu nano carbon được sử dụng, như là giới hạn
giá trị của quan sát. Trong một nghiên cứu gần đây, fullerenes sửa đổi (C60 (OH) 24) đã
được tìm thấy để tạo điều kiện adenosine diphosphate (ADP)-do aggregaton tiểu cầu
trong ống nghiệm, trong khi C60 (OH) 24một mình hoặc cacbon đen khơng (Niwa và
Iwai 2007).
Ngược lại cho một số vật liệu nano được thiết kế cho mục đích phân phối thuốc,
khơng cĩ hoặc hạn chếtác động trên chức năng tiểu cầu trong ống nghiệm đã được ghi
nhận bao gồm rượu / hạt nano polysorbate(Koziara và cộng sự năm 2005.), các hạt nano
gadolini (Oyewumi et al. 2004), vàcấu trúc nano silic hydroxyethyl methacrylate
biocomposites (Liu và cộng sự năm 2008.).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá rủi ro các sản phẩm của công nghệ nano.pdf