Tài liệu Báo cáo ca bệnh Kawwasaki kháng truyền Immunoglobulin điều trị thành công bằng Infliximab: %s2&s2&$%1+.$:$6$.,.+s1*758<1
,00812*/2%8/,1´,8757+r1+&1*
%~1*,1)/,;,0$%
Đặng ị Hải Vân1, Phan ị úy Ngân1,
Đỗ Minh ùy2, Cao Việt Tùng2
1 Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh Viện Nhi Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Đặng ị Hải Vân. Email: dthv2004@hotmail.com
Ngày nhận bài: 20/9/2018; Ngày phản biện khoa học: 21/9/2018; Ngày duyệt bài: 30/9/2018
TÓM TẮT
Cơ sở lý luận: Kawasaki là một bệnh viêm mạch cấp tính tự giới hạn chưa rõ nguyên nhân.
IVIG và aspirin là phương pháp điều trị các trường hợp Kawasaki cấp tính đang được khuyến
cáo hiện nay, nhưng không có các hướng dẫn dựa trên bằng chứng để điều trị những trường
hợp không đáp ứng với IVIG. Trong vài năm gần đây với sự tiến bộ của y học, các nhà khoa
học đã hiểu hơn về sinh lý bệnh của bệnh Kawasaki, về vai trò của các yếu tố chống viêm trong
cơ chế bệnh sinh và ứng dụng các thuốc điều trị đích như TNF và IL-1 để điều trị các trường
hợp bệnh nhân Kawasaki kháng Immunoglobulin (IVIG).
Báo cáo ca b...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 30/06/2023 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo ca bệnh Kawwasaki kháng truyền Immunoglobulin điều trị thành công bằng Infliximab, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
%s2&s2&$%1+.$:$6$.,.+s1*758<1
,00812*/2%8/,1´,8757+r1+&1*
%~1*,1)/,;,0$%
Đặng ị Hải Vân1, Phan ị úy Ngân1,
Đỗ Minh ùy2, Cao Việt Tùng2
1 Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh Viện Nhi Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Đặng ị Hải Vân. Email: dthv2004@hotmail.com
Ngày nhận bài: 20/9/2018; Ngày phản biện khoa học: 21/9/2018; Ngày duyệt bài: 30/9/2018
TÓM TẮT
Cơ sở lý luận: Kawasaki là một bệnh viêm mạch cấp tính tự giới hạn chưa rõ nguyên nhân.
IVIG và aspirin là phương pháp điều trị các trường hợp Kawasaki cấp tính đang được khuyến
cáo hiện nay, nhưng không có các hướng dẫn dựa trên bằng chứng để điều trị những trường
hợp không đáp ứng với IVIG. Trong vài năm gần đây với sự tiến bộ của y học, các nhà khoa
học đã hiểu hơn về sinh lý bệnh của bệnh Kawasaki, về vai trò của các yếu tố chống viêm trong
cơ chế bệnh sinh và ứng dụng các thuốc điều trị đích như TNF và IL-1 để điều trị các trường
hợp bệnh nhân Kawasaki kháng Immunoglobulin (IVIG).
Báo cáo ca bệnh: Bệnh nhân nữ 11 tháng tuổi được chẩn đoán Kawasaki điển hình tiếp tục
tiến triển giãn mạch vành sau 3 đợt điều trị IVIG và 1 đợt corticoid. Sau đó bệnh nhân được
điều trị thành công bằng In[iximab (IFX).
Từ khóa: bệnh Kawasaki, kháng Immunoglobulin, In[iximab
Abstract
CASE REPORT ON KAWASAKI PATIENT WITH IMMUNOGLOBULIN
NON-RESPONSE SUCCESSFULLY TREATED BY INFLIXIMAB
Background: Kawasaki disease KD is self-limiting acute multi-systemic vasculitis of
unknown etiology. Current treatment recommendations for acute KD include IVIG and
aspirin, but there are no evidence-based guidelines for children who do not respond to IVIG
treatment. Over the past few years, increasing knowledge of the pathophysiology of KD has
resulted in the identi`cation of key in[ammation mediators and the use of biologic pathway
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018) I 9
1*+,1&¥8
*qƜ57Ɗ/qƦ
Kawasaki là bệnh viêm mạch hệ thống cấp
tính, tự giới hạn, là nguyên nhân hay gặp nhất
gây bệnh tim mắc phải ở trẻ em dưới 5 tuổi.
Bệnh có 6 triệu chứng đặc trưng: sốt > 5 ngày,
ban da, phù mu tay mu chân, viêm khoang
miệng, viêm kết mạc không xuất tiết dịch
viêm, hạch cổ. Các nghiên cứu dịch tễ học và
quan sát lâm sàng gợi ý nhiễm trùng có thể là
yếu tố khởi phát bệnh, tuy nhiên cho đến nay
nguyên nhân gây bệnh vẫn còn chưa thống
nhất.
Trong giai đoạn đầu của phản ứng viêm,
bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực
bào giải phóng các cytokin tiền viêm: IL-1β,
TNFα, IFNγ. Trong đó IL-1β, TNFα liên quan
đến sự phá hủy tế bào nội mô mạch máu và
tổn thương động mạch vành (ĐMV) trong
giai đoạn cấp của bệnh.
Cho đến nay, khuyến cáo điều trị bệnh
Kawasaki giai đoạn cấp vẫn là IVIG và aspirin.
Việc sử dụng IVIG trong điều trị đã giảm
nguy cơ tổn thương phình mạch vành từ 25%
xuống còn 5%. Tuy nhiên có khoảng 15 – 20%
trẻ không đáp ứng với điều trị cơ bản và bệnh
tiếp tục tiến triển, sốt lại sau liều đầu IVIG –
nhóm trẻ này có nguy cơ tổn thương mạch
vành cao. Các yếu tố như giới nam, CRP cao,
thiếu máu nặng, albumin thấp, Na thấp là các
yếu tố được sử dụng để tiên lượng mức độ
nặng của bệnh và nguy cơ kháng IVIG.
Sự gia tăng nồng độ IL-1β và TNFα trong
giai đoạn cấp của bệnh cho thấy vai trò của 2
cytokin tiền viêm này trong phản ứng viêm hệ
thống và tổn thương mạch vành trong bệnh
Kawasaki, tạo ra hướng đi mới trong điều trị
IVIG bằng các thuốc điều trị tế bào đích. [1]
**$"4&#Ƭ/)
Bệnh nhân nữ 11 tháng vào viện vì sốt,
mắt đỏ ngày thứ 2. Bệnh diễn biến 23 ngày
trước vào viện:
- Ngày thứ 6 (N6) của bệnh trẻ đủ 6/6 triệu
chứng điển hình của Kawasaki, xét nghiệm
máu CRP tăng cao (300mg/dl). Trẻ được
chẩn đoán Kawasaki điển hình, điều trị theo
phác đồ với IVIG (2g/kg) và aspirin 50mg/kg
vào N6 của bệnh. Sau truyền IVIG, trẻ vẫn
sốt 38,5-39 độ, còn mắt đỏ, môi đỏ, ban đỏ
da đã mất, siêu âm tim ngày 8 ĐMV 2 bên
không giãn (RCA 2,5-1,7mm, LmCA 2,7mm,
LCx: 1,5mm, LAD 1,9mm). Trẻ được điều trị
Methylprednisolon (30mg/kg/ngày) trong 3
ngày liên tục từ N9-N12. Sau truyền trẻ cắt
sốt, bắt đầu bong da tay, mắt và môi không
đỏ, siêu âm tim N12 ĐMV trong giới hạn cao
của bình thường. Bệnh nhân ra viện và tiếp
tục điều trị duy trì prednisolon đường uống
với liều 2mg/kg/ngày.
- Tuy nhiên, sau 2 ngày ra viện (N14 của
bệnh) trẻ sốt lại 38,5 độ C, bong da ngón tay,
ngón chân, xét nghiệm máu bạch cầu tăng,
CRP 40 ¼ 80 mg/dl, siêu âm tim N14 giãn
ĐMV 2 bên (RCA 2,9mm, LmCA 3,5mm,
LAD 2,7mm) ¼ Chẩn đoán: Kawasaki kháng
IVIG. Trẻ được điều trị IVIG lần 2 liều 2g/kg
vào ngày thứ 14 của bệnh. Sau truyền trẻ cắt
targeting agents such as TNF and IL-1 inhibitors for children with IVIG-resistant disease.
Case presentation: An 11-month-old girl was diagnosed with typical KD and treated with
3 IVIG and 1 corticoid therapy, but the coronary artery continued to dilate. Aqer that, the
patient was treated successfully by In[iximab.
Keywords: Kawasaki disease, IVIG resistance, In[iximab
10 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018)
%s2&s2&$%1+.$:$6$.,.+s1*758<1,00812*/2%8/,1´,875
7+r1+&1*%~1*,1)/,;,0$%
sốt, xét nghiệm bạch cầu giảm, CRP 80 ¼ 11
mg/dl. Siêu âm tim (N17) ĐMV 2 bên tiếp
tục giãn (RCA 2,9-3,6 mm, LmCA 3,5mm,
LAD 2,7mm). Trẻ ra viện được điều trị bằng
Prednisolon và Aspegic (5mg/kg/ngày)
- Sau ra viện 2 ngày (N19 của bệnh) trẻ
sốt lại 38,4 độ C, bong da tay chân, mắt đỏ,
môi hơi đỏ, xét nghiệm máu bạch cầu 39 G/L,
CRP 82 mg/dl, Procalxitonin 0,026, TC 987
G/L, siêu âm tim (N20) ĐMV 2 bên tiếp tục
giãn (RCA 3,3-4,5mm, LmCA 4,4mm, LAD
3,8-4,1mm) ¼ Chẩn đoán: Kawasaki kháng
truyền IVIG. Trẻ được điều trị IVIG lần 3 liều
2g/kg (N21 của bệnh).
- Sau truyền trẻ vẫn sốt 40-41 độ C, mắt
đỏ, môi đỏ, siêu âm tim (N21) ĐMV 2 bên
tiếp tục giãn ¼ Chẩn đoán Kawasaki kháng
truyền IVIG ¼ Chuyển Bệnh viện Nhi Trung
ương.
- Xét nghiệm ngày thứ 23 của bệnh
y BC: 20,4 G/l, Neutrophil 82,5%, tiểu cầu
930 000, Hb 98 g/dl
y Đông máu: PT 105%, APTT 28s, Fib
6.75, D-dimer 1960
y Nhiễm trùng: CRP 162, Pro-calcitonin
0,073
y GOT/GPT: 42/47,6, pro-BNP: 14,93,
ferritin 115,2, triglycerid 0,78
y CD3: 1292, CD4 718, CD8 515 (p)
y Cấy máu, nước tiểu, tổng phân tích nước
tiểu: âm tính
y CMV, EBV: âm tính
Chẩn đoán: Kawasaki kháng IVIG, động
mạch vành tiếp tục có xu hướng giãn.
Câu hỏi đặt ra: điều trị tiếp theo cho bệnh
nhân này là gì để ngăn ngừa động mạch vành
tiếp tục giãn?
Điều trị: Bệnh nhân đã được hội chẩn liên
khoa và quyết định điều trị bằng Iniximab
liều 5mg/kg trong 2 giờ (N23 của bệnh)
Tiến triển của bệnh sau truyền Iniximab
(IFX)
• Ngay sau kết thúc truyền IFX trẻ có sốt 1
cơn 38,5 độ C.
• eo dõi tiếp tục ngày sau truyền trẻ
cắt sốt hoàn toàn, không còn triệu chứng
Kawasaki, xét nghiệm bạch cầu giảm, CRP
giảm, tiểu cầu giảm được biểu diễn qua biểu
đồ 1.
• Siêu âm tim sau truyền IFX, động mạch
vành không giãn tiếp (RCA 5,1mm, LmCA
3,9mm, LAD 5,1mm, Lcx 3,1mm)
Biểu đồ 1: Diễn biến của CRP, tiểu cầu và quá trình điều trị của bệnh nhân
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018) I 11
1*+,1&¥8
• Bắt đầu sử dụng Wafarin từ ngày thứ 33
của bệnh.
• Bệnh nhân ra viện vào ngày thứ 37 của
bệnh, duy trì sử dụng Wafarin chống đông
với INR 2,1, kết hợp với Aspigin 3mg/kg/ngày
*** #a/-6ƒ/
Kawasaki là bệnh lý sốt cấp tính có viêm
mạch hệ thống lần đầu tiên được mô tả bởi
Tomisaku Kawasaki năm 1961 với tên gọi
“hội chứng da, niêm mạc kèm sưng hạch
lympho và bong da đầu ngón đặc trưng ở trẻ
nhỏ”. Bệnh gây tổn thương nhiều nơi đặc biệt
là động mạch vành, trở thành nguyên nhân
chính gây nên bệnh tim mắc phải ở trẻ em
các nước phát triển. eo phác đồ cập nhật
Kawasaki của AHA 2017, với những bệnh
nhân được chẩn đoán Kawasaki được điều trị
bằng IVIG càng sớm càng tốt trong 10 ngày
đầu của bệnh từ khi khởi phát sốt, liều 2g/
kg truyền tĩnh mạch trong 10-12 giờ cùng
với uống aspirin liều cao với tác dụng chống
viêm, liều tùy phác đồ. Tuy nhiên có xấp xỉ
15-20% bệnh nhân sốt lại hoặc sốt kéo dài ít
nhất 36 giờ sau khi kết thúc truyền IVIG được
gọi là kháng IVIG.Với những bệnh nhân
được điều trị IVIG liều cao trong 10 ngày đầu
của bệnh vẫn có 20% bệnh nhân tiếp tục giãn
động mạch vành 2 bên đoạn gần thoáng qua,
5% tiếp tục tiến triển thành phình mạch vành
(≥6 mm) và 1% tiến triển thành phình động
mạch vành khổng lồ (≥8mm)[2]. Bệnh nhân
của chúng tôi nằm trong 5% tiếp tục tiến triển
thành phình mạch vành. Vậy câu hỏi đặt ra là
dù đã được điều trị bằng IVIG liều cao theo
khuyến cáo của hầu hết hiệp hội tim mạch
và đồng thuận quốc tế mà mạch vành bệnh
nhân tiếp tục tiến triển giãn và phình mạch
vành thì tiên lượng và điều trị như thế nào?
Với các tiến bộ khoa học công nghệ ngày
nay, y học ngày càng đi sâu vào cơ chế phân tử
gây bệnh và phát triển các thuốc điều trị đích.
Khi nghiên cứu sự thay đổi các yếu tố viêm
trong bệnh Kawasaki, nghiên cứu của tác giả
Shereya A. năm 2017 cho thấy có tăng rất
nhiều các yếu tố tiền viêm như IL-1, IL-6, IL-
20, IFN-γ, TNF-αvà giảm các yếu tố chống
viêm như IL-10, TGF-β, NKG2Ddẫn đến
tình trạng viêm và phá hủy nội mô máu [3].
Tương tự nghiên cứu của tác giả Florence
A. cũng chỉ ra rằng [1], trong cơ chế sinh
bệnh của Kawasaki có sự tham gia của cả 2 hệ
miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu. Trong
giai đoạn viêm cấp, bạch cầu đa nhân và đại
thực bào trong giai đoạn viêm cấp giải phóng
ra các cytokin viêm: IL-1β, TNF-α, IFN-γ
trong đó IL-1β, TNF-α liên quan đến phá hủy
nội mô và tổn thương động mạch vành trong
giai đoạn cấp của bệnh Kawasaki. TNF-α là
một cytokine tiền viêm được sản xuất chủ yếu
bởi đại thực bào hoạt hóa, một số ít bởi các tế
bào T và tế bào gai, hơn nữa TNF-α còn làm
tăng 1 số các cytokine tiền viêm khác rất quan
trọng như IL-6 gây hoạt hóa tế bào lympho T,
các yếu tố chống đông, gây tăng tiểu cầu. Quá
trình viêm tại thành mạch tiếp tục hoạt hóa
quá trình hóa ứng động bạch cầu đến thành
mạch máu (đặc biệt là động mạch vành) làm
gia tăng số lượng TNF-α và số lượng receptor
của TNF-α (hiện tượng này đã được mô tả
ở bệnh nhân mắc bệnh Kawasaki có phình
động mạch vành). Một số nghiên cứu gần
đây chỉ ra rằng không có sự khác biệt nồng
độ TNF-α trước điều trị IVIG ở cả 2 nhóm
có hay không có tổn thương mạch vành. Tuy
nhiên, sau điều trị IVIG nồng độ TNF-α cao
hơn hẳn ở nhóm không đáp ứng với IVIG và
có tổn thương động mạch vành, giảm ở nhóm
không tổn thương mạch vành. Điều thú vị là
khi sử dụng các thuốc ức chế hoạt động của
TNF-α hay sử dụng thuốc loại trừ receptor
của TNF-α thì tình trạng viêm cục bộ và sự
phá hủy thành động mạch vành được cải
12 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018)
thiện. Đây là cơ sở của việc sử dụng các thuốc
điều trị đích trong điều trị Kawasaki đánh vào
TNF-α. Ngoài ra, TNF-α còn làm gia tăng 1
số loại protein trong đó MMPs là một enzym
có tác dụng ly giải protein gây phá hủy lớp
collagen và lớp elastin của thành mạch. Đặc
biệt là MMP9 đóng vai trò truyền tín hiệu của
TNF-α, đóng vai trò trong cơ chế phình mạch
vành của bệnh Kawasaki vì MMP9 được tìm
thấy ở vị trí phình động mạch vành và cả ở
vị trí động mạch vành không tổn thương.
Nghiên cứu cho thấy khi hủy bỏ protein này
sẽ làm giảm tổn thương mạch vành mặc dù
quá trình viêm vẫn tiếp tục tiến triển [1].
Vì vậy các tác nhân có thể ức chế hoạt động
của TNF-α, ức chế hoạt động của protein
MMP (ví dụ ulinastatin - ức chế ly giải bạch
cầu đa nhân trung tính, doxycycline – kháng
sinh có tác dụng ức chế chức năng của protein
MMP) có hiệu quả trong điều trị nhằm ngăn
ngừa phình động mạch vành trong thử
nghiệm tiền lâm sàng – là các phương pháp
điều trị đầy triển vọng ở bệnh nhi mắc bệnh
Kawasaki [1].
ực tế, phác đồ năm 2017 của AHA với
các trường hợp kháng truyền IVIG, Iniximab
– một kháng thể đơn dòng kháng TNF-α đầu
tiên được sử dụng điều trị ở trẻ em với liều
5mg/kg tĩnh mạch chậm trong 2 giờ với tốc
độ theo hướng dẫn của nhà sản xuất, bên cạnh
các lựa chọn điều trị truyền thống như: IVIG
lần 2, IVIG lần 2 + corticoid. Ngoài ra các
lựa chọn thay thế là anakinra, cyclosporine,
cyclophosphamide, lọc huyết tương với các
mức độ bằng chứng khác nhau. Sau điều trị
IFX, nồng độ các cytokin tiền viêm giảm dẫn
đến giảm tình trạng viêm hệ thống, tuy nhiên
các marker gây viêm mạch như VEGF (yếu tố
tăng trưởng tế bào nội mạch) và S100 vẫn gia
tăng nên không hoàn toàn ngăn chặn được
quá trình viêm mạch [2].
Một số báo cáo case lâm sàng và thử
nghiệm lâm sàng với cỡ mẫu khoảng 15-198
bệnh nhân với độ tuổi trung bình từ 23 tháng
– 4.6 tuổi, các thiết kế nghiên cứu đa dạng đều
cho kết quả: sau 1 liều IFX hầu hết các bệnh
nhân kháng IVIG có giảm thời gian sốt, giảm
thời gian nằm viện, giảm các phản ứng viêm
trong pha cấp, hiệu quả và dung nạp tốt, tuy
nhiên nghiên cứu của Mori và cộng sự năm
2012 có 2/20(10%) bệnh nhân kháng IFX đã
phải điều trị thay huyết tương, 19/20 (95%)
bệnh nhân có tổn thương động mạch vành
thoái triển đi, 1/20 (5%) bệnh nhân xuất hiện
tổn thương mạch vành ở thời điểm 30 ngày
sau khi khởi phát bệnh và thoái triển hoàn
toàn sau 1 năm [4] [5] [6].
Nhằm mục đích dự đoán nguy cơ kháng
IVIG trong số bệnh nhân mắc Kawasaki dựa
vào các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm
ban đầu trước khi điều trị để xác định các
bệnh nhân không đáp ứng với IVIG cần
điều trị bổ sung sớm có thể giảm nguy cơ
tổn thương mạch vành. Nhiều nghiên cứu
tiên lượng nguy cơ kháng IVIG ở bệnh nhân
Kawasaki đã được thực hiện trong nhiều năm
qua. Nghiên cứu của tác giả Kobayashi T. và
cộng sự [7]nghiên cứu trên 750 trẻ độ tuổi
trung bình 29 tháng tuổi được chẩn đoán
Kawasaki, bắt đầu điều trị vào 4.0±1.5 ngày
bệnh, tỷ lệ 21% bệnh nhân không đáp ứng với
IVIG và 5-8% bệnh nhân có tổn thương động
mạch vành. So sánh giữa 2 nhóm Kawasaki
đáp ứng và không đáp ứng với IVIG cho thấy
ở nhóm không đáp ứng với IVIG có tỷ lệ bạch
cầu đa nhân trung tính men AST, ALT, CRP
cao hơn, nồng độ Na máu và Clo máu thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đáp ứng
với IVIG (p<0.001). Sử dụng phương pháp
phân tích hồi quy đa biến đưa ra 7 yếu tố tiên
lượng nguy cơ kháng IVIG là Na ≤ 133, AST
≥ 100, CRP ≥ 100, tiểu cầu ≤ 30 x 10 , tỷ lệ
%s2&s2&$%1+.$:$6$.,.+s1*758<1,00812*/2%8/,1´,875
7+r1+&1*%~1*,1)/,;,0$%
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018) I 13
1*+,1&¥8
bạch cầu đa nhân trung tính ≥ 80%, tuổi ≤ 12
tháng, điều trị IVIG trước 5 ngày bệnh.
*7 ,Ƥ5-6ƒ/
Đây là ca bệnh đầu tiên chúng tôi sử dụng
thuốc kháng TNF – Iniximab trong điều trị
Kawasaki kháng IVIG có động mạch vành tiếp
tục phình giãn ở ngày thứ 23 của bệnh. Điều
này mở ra hướng đi mới – thuốc điều trị đích
trong điều trị Kawasaki kháng IVIG tại Việt
Nam khi chúng ta đã hiểu sâu hơn về cơ chế
sinh bệnh học của bệnh Kawasaki. Các yếu
tố tiên lượng Kawasaki kháng IVIG cũng cần
được đánh giá ngay từ thời điểm nhập viện để
tiên lượng sớm nguy cơ kháng IVIG và tổn
thương mạch vành của bệnh nhân. Từ ca lâm
sàng này nên chăng chúng ta sử dụng IFX sớm
hơn cho bệnh nhân Kawasaki kháng IVIG.
7¬,/,ӊ87+$0.+Ҧ2
1. Aeschlimann F.A. and Yeung R.S.M. (2016). TNF and IL-1 Targeted Treatment in
Kawasaki Disease. Curr Treat Options Rheumatol, 2(4), 283–295.
2. McCrindle B.W., Rowley A.H., Newburger J.W., et al. (2017). Diagnosis, Treatment,
DQG/RQJ7HUP0DQDJHPHQWRI.DZDVDNL'LVHDVH$6FLHQWL¿F6WDWHPHQWIRU+HDOWK
Professionals From the American Heart Association. Circulation, 135(17), e927–
e999.
3. Agarwal S. and Agrawal D.K. (2017). Kawasaki disease: etiopathogenesis and novel
treatment strategies. Expert Rev Clin Immunol, 13(3), 247–258.
4. 7UHPRXOHW$+ -DLQ 6 -DJJL 3 HW DO ,QÀL[LPDE IRU LQWHQVL¿FDWLRQ RI
primary therapy for Kawasaki disease: a phase 3 randomised, double-blind, placebo-
controlled trial. The Lancet, 383(9930), 1731–1738.
5. %XUQV-&%HVW%00HMLDV$HWDO,QÀL[LPDE7UHDWPHQWRI,QWUDYHQRXV
Immunoglobulin–Resistant Kawasaki Disease. J Pediatr, 153(6), 833–838.e6.
6. 0RUL0,PDJDZD7+DUD5HWDO(I¿FDF\DQGOLPLWDWLRQRILQÀL[LPDE
treatment for children with Kawasaki disease intractable to intravenous
immunoglobulin therapy: report of an open-label case series. J Rheumatol, 39(4),
864–867.
7. Kobayashi T., Inoue Y., Takeuchi K., et al. (2006). Prediction of intravenous
immunoglobulin unresponsiveness in patients with Kawasaki disease. Circulation,
113(22), 2606–2612.
14 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 5 (10-2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_ca_benh_kawwasaki_khang_truyen_immunoglobulin_dieu_t.pdf