Báo cáo 2 ca lupus sơ sinh biểu hiện ở da

Tài liệu Báo cáo 2 ca lupus sơ sinh biểu hiện ở da: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Chuyên Đề Nhi Khoa 112 BÁO CÁO 2 CA LUPUS SƠ SINH BIỂU HIỆN Ở DA Huỳnh Thoại Loan*, Nguyễn Hiếu Trung*, Phạm Hoàng Thắng*, Nguyễn Thụy Ý Nhi*. TÓM TẮT Đại cương: lupus sơ sinh là một bệnh miễn dịch mắc phải thụ động. Chẩn đoán xác định dựa trên đặc điểm lâm sàng điển hình của bé và sự hiện diện của tự kháng thể từ mẹ mà cụ thể là anti-Ro, anti-La, anti-U1RNP. Biểu hiện lâm sàng của 1 bé lupus sơ sinh có thể thấy ở nhiều cơ quan, nhưng 2 cơ quan thường gặp nhất là tim và da. Ca lâm sàng: 2 trường hợp chúng tôi báo cáo ở đây có những tổn thương da điển hình của lupus sơ sinh. Cả 2 đều được sinh ra ở 2 bà mẹ có tiền căn Lupus ban đỏ hệ thống. Ca thứ nhất có đầy đủ tiêu chuẩn đòi hỏi để chẩn đoán xác định. Ca thứ 2 có biểu hiện lâm sàng rất điển hình nhưng không tìm thấy kháng thể. Trường hợp này chưa được báo cáo qua các bài báo trước đây. Kết luận: Tổn thương da trong lupus sơ sinh không nguy hi...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo 2 ca lupus sơ sinh biểu hiện ở da, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Chuyên Đề Nhi Khoa 112 BÁO CÁO 2 CA LUPUS SƠ SINH BIỂU HIỆN Ở DA Huỳnh Thoại Loan*, Nguyễn Hiếu Trung*, Phạm Hoàng Thắng*, Nguyễn Thụy Ý Nhi*. TÓM TẮT Đại cương: lupus sơ sinh là một bệnh miễn dịch mắc phải thụ động. Chẩn đoán xác định dựa trên đặc điểm lâm sàng điển hình của bé và sự hiện diện của tự kháng thể từ mẹ mà cụ thể là anti-Ro, anti-La, anti-U1RNP. Biểu hiện lâm sàng của 1 bé lupus sơ sinh có thể thấy ở nhiều cơ quan, nhưng 2 cơ quan thường gặp nhất là tim và da. Ca lâm sàng: 2 trường hợp chúng tôi báo cáo ở đây có những tổn thương da điển hình của lupus sơ sinh. Cả 2 đều được sinh ra ở 2 bà mẹ có tiền căn Lupus ban đỏ hệ thống. Ca thứ nhất có đầy đủ tiêu chuẩn đòi hỏi để chẩn đoán xác định. Ca thứ 2 có biểu hiện lâm sàng rất điển hình nhưng không tìm thấy kháng thể. Trường hợp này chưa được báo cáo qua các bài báo trước đây. Kết luận: Tổn thương da trong lupus sơ sinh không nguy hiểm và thường hồi phục mà không để lại di chứng. Nhưng việc chẩn đoán chính xác lupus sơ sinh giúp ta tiên lượng về đứa bé sau này, bà mẹ và ngay cả bé bị lupus sơ sinh cho dù tổn thương da đã hồi phục. Từ khóa: lupus sơ sinh, sang thương da, tự kháng thể. ABSTRACT CUTANEOUS MANIFESTATIONS OF NEONATAL LUPUS: TWO CASE REPORTS Huynh Thoai Loan, Nguyen Hieu Trung, Pham Hoang Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 4 - 2016: 112 - 118 Background: Neonatal lupus(NL) or neonatal lupus erythematosus (NLE) is a passively acquired autoimmune disease. It’s diagnosed by characteristic clinical features of fetus or newborn and the presence of specific maternal auto antibodies (anti-SSA/Ro, anti-SSB/La, anti-U1RNP). Two clinical cases:We present 2 cases with specific cutaneous lession of NLE. Both are offspringsof SLE mothers.One has clinical presences and laboratory tests consistent with a typical NLE. One has the same appearance but negative autoantibodies that haven’t been reported beforein literature. Conclusion: Cutaneouslession in NLE is spontaneous regression but it’s important in prognosis of the next children especially in anti-Ro-positive mothers. Keywords: neonatal lupus erythematosus, cutaneous lession, autoantibodies. BÁO CÁO CA LÂM SÀNG Ca 1 Bé gái 22 ngày tuổi nhập bệnh viện Nhi Đồng 1 với lý do là khó thở. Em là con thứ 2, sanh mổ, đủ tháng, cân nặng lúc sanh là 2,7 kg. Ngay sau sanh tại bệnh viện Từ Dũ em được chẩn đoán viêm phổi và được điều trị với nhiều loại kháng sinh trong 19 ngày. Sau xuất viện 3 ngày em được nhập bệnh viện Nhi Đồng 1. Thăm khám lúc nhập viện ghi nhận 2 bất thường chính: suy hô hấp và ban đỏ từ mặt đến thân mình. * Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: TS.BS Huỳnh Thoại Loan ĐT: 0918729603 Email: huynhthoailoan@ymail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 113 Mẹ em được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống tại bệnh viện Da liễu Tp. Hồ Chí Minh 6 năm trước và không điều trị gì từ đó đến nay. Lý do phát hiện bệnh là nổi ban cánh bướm ở mặt. Trước khi được chẩn đoán Lupus 1 năm, mẹ em có sinh 1 bé gái (hiện 7 tuổi, khỏe mạnh). Hình 1: Bé gái 22 ngày tuổi được chẩn đoán Lupus Theo lời mẹ kể, bé gái này có ban da giống hệt như em bé đang nằm viện. Vào thời điểm đó các bác sĩ có cho sinh thiết da nhưng kết luận là viêm da không đặc hiệu. Điều thú vị là lúc này các bác sĩ không thể biết được 1 năm sau bà mẹ này bị Lupus. Ban da tập trung chủ yếu quanh mắt và vùng thái dương và xuất hiện ngay sau sinh. Ban dạng dát hồng ban không tẩm nhuận, không có vảy. Sau 4 tháng ban nhạt dần rồi mất đi mà không để lại di chứng gì. Cận lâm sàng Thiếu máu (được truyền máu), giảm tiểu cầu (không xử trí gì). C3, C4 giảm. Tăng men gan. Anti-Ro(+), anti-La(+). Siêu âm tim: PDA (tự đóng). Bảng 1: Kết quả cận lâm sàng sau 2 tháng Thời điểm Lúc nhập viện 2 tháng sau Huyết đồ WBC 21K/uL 12K/uL NEU 7K/uL 3,6K/uL Hct 26,6% 25,3% Hb 8,7g/dL 8,2g/dL Plt 130K/uL 60K/uL Creatinin 35 umol/L AST/ALT 178/121 U/L 364/ 590 U/L CRP 5,7mg/L C3/C4 41/6,6 mg/dL ANA Negative Anti-Ro/ anti-La Positive (s/co =4,25/ 1,25) ECG Nhịp xoang đều Siêu âm tim PDA Ca 2 Bé trai 7 ngày tuổi được chuyển bệnh viện Nhi Đồng 1 với chẩn đoán nhiễm trùng sơ sinh. Ngay sau sanh, mẹ bé phát hiện nhiều ban nhỏ trên mặt và thân mình bé. Bé được đưa đến khám và nhập bệnh viện Phan Thiết với chẩn đoán nhiễm trùng sơ sinh. Sau 1 tuần điều trị em được chuyển bệnh viện Nhi Đồng 1. Trong thời gian đó em không sốt, không ho, không ói và bú tốt. Em là con thứ 2, đủ tháng, sanh mổ, cân nặng lúc sanh 2,6 kg. Mẹ của bé được chẩn đoán Lupus đỏ hệ thống tại bệnh viện Da liễu Tp. Hồ Chí Minh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Chuyên Đề Nhi Khoa 114 cách đây hơn 10 năm (chỉ biểu hiện ở da) và điều trị khoảng 2-3 năm. Trong thời gian đó, mẹ bé sảy thai 3 lần liên tiếp (đều trong tam cá nguyệt thứ nhất). Sau đó mẹ em ngưng thuốc và sanh bé đầu tiên (anh trai của bé này). Bé trai đầu tiên nay được 8 tuổi, hoàn toàn khỏe mạnh mặc dù lúc 2 tuần tuổi em cũng xuất hiện ban giống hệt bé em đang nằm viện. Ban da dạng hồng ban, có ít vảy, hình vòng tròn với trung tâm hơi nhạt màu, phần rìa hơi nhô cao. Ban tập trung chủ yếu ở phần đầu mặt, ít ban ở thân mình. Sau 4 tháng ban nhạt dần rồi mất hẳn (không điều trị gì), thay vào đó là telangiectasia. Cận lâm sàng Giảm tiểu cầu: 13k/ul (1 tháng tuổi) Test de coomb’s: âm tính Creatinin: 40umol/L AST/ALT: 75/34 U/L C3,C4: 100/25 mg/dl. ANA: âm tính LE cell: âm tính 6 tự kháng thể: âm tính Điện tâm đồ: nhịp xoang đều 145 nhịp/ phút. Siêu âm tim: bình thường . Hình 2: Bé trai 7 ngày tuổi Hình 3&4: Bé 6-9-Tuần tuổi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 115 Hình 5: Bé 5 tháng tuổi. BÀN LUẬN Không giống với block tim bẩm sinh có thể chẩn đoán dễ dàng qua siêu âm tim thai, ban da trong lupus sơ sinh có thể bị bỏ qua hay chẩn đoán lầm với những bệnh lý da khác ở tuổi sơ sinh, nhũ nhi đặc biệt ở những bà mẹ hoàn toàn khỏe mạnh. Bởi vậy cho đến nay tỉ lệ block tim bẩm sinh tương đối phù hợp ở các nghiên cứu khác nhau nhưng tỉ lệ lupus sơ sinh biểu hiện ở da vẫn chưa xác định được. Chúng ta thường chẩn đoán lupus sơ sinh ở những em bé có mẹ với tiền sử lupus đỏ hệ thống, trong khi đó có thể bỏ sót 1 số lớn những ca lupus sơ sinh ở những bà mẹ khỏe mạnh (tỉ lệ này lên đến 50%). Ban trong lupus sơ sinh có dạng giống với lupus da bán cấp ở người lớn. Ban dạng hồng ban, hình tròn, có vảy, nhạy cảm ánh sáng, với phần trung tâm bị teo da, phần rìa hơi gồ lên. Ban tập trung chủ yếu ở phần đầu, quanh mắt, và thường phát hiện lúc 4-6 tuần tuổi(11). Ban kéo dài khoảng 17 tuần và việc điều trị dường như không ảnh hưởng đến dự hậu sau này(6). Mặc dù vậy, việc điều trị với corticoid tại chỗ rút ngắn thời gian ban tồn tại. Bởi vì ban nhạy cảm với ánh sáng nên việc tránh nắng giúp ban không lan rộng hơn. Trong phần trình bày ở trên, 2 ca lâm sàng đều có ban xuất hiện ngay sau sanh. Mặc dù phần lớn ban xuất hiện ở độ 4-6 tuần tuổi nhưng tỉ lệ xuất hiện ngay sau sanh là 23%(3). Ban ở ca 1 tập trung chủ yếu quanh mắt nhưng có hình dạng không thật sự điển hình. Ca 2 có ban điển hình của lupus sơ sinh từ vị trí, hình dạng cho đến hậu quả để lại. Vào lúc 5 tháng tuổi ban biến mất, thay vào đó trên mặt xuất hiện telangiectasia. Dạng tổn thương da này chỉ xuất hiện trong 20% trường hợp Lupus sơ sinh da và thường xuất hiện khoảng 6-12 tháng tuổi(6). Telangiectasia có thể xuất hiện ở vùng trước đó không có hồng ban. Sang thương này không tự khỏi nếu không có sự can thiệp của laze liệu pháp. Theo The Research Registry for Neonatal Lupus, để chẩn đoán lupus sơ sinh chúng ta cần 2 tiêu chuẩn: block tim hoặc ban da điển hình và sự hiện diện của tự kháng thể (anti-Ro và hoặc anti-La và hoặc anti- U1RNP)(6). Hầu hết các ca đều dương tính với anti-Ro, anti-La, chỉ 1 số rất ít ca dương tính với anti-U1RNP. Trong y văn, chưa có ca nào âm tính với cả 3 tự kháng thể trên. Trong báo cáo ở trên, ca 1 có đủ 2 tiêu chuẩn nhưng ca 2 chỉ thỏa mãn có 1 tiêu chuẩn. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Chuyên Đề Nhi Khoa 116 Như vậy, liệu rằng đây là lupus sơ sinh hay một bệnh da nào khác? Ca 2 có nhiều yếu tố hỗ trợ cho việc chẩn đoán lupus sơ sinh như: sang thương da điển hình, ban da tự khỏi mà không cần điều trị, telangiectasia, mẹ Lupus, anh trai có ban y hệt lúc sơ sinh (ban tự khỏi). Như vậy, để phù hợp với chẩn đoán, chúng tôi nghĩ có vấn đề trong việc phát hiện tự kháng thể. Có 2 giả thuyết được đưa ra: nồng độ tự kháng thể quá thấp, phương pháp xét nghiệm không đủ nhạy để phát hiện kháng thể. Như chúng ta đã biết, thời gian bán hủy của IgG là 25 ngày và khi nó được truyền sang con lúc sanh nồng độ nó đã giảm đi một nửa. Em bé trong ca 2 được lấy máu để xét nghiệm tự kháng thể lúc 16 ngày tuổi. Như vậy chúng ta có thể ước đoán nồng độ kháng thể lúc này chỉ còn lại 1/3. Nhưng trong 1 nghiên cứu trước đây, khi người ta so sánh nồng độ của anti- U1RNP với nồng độ của kháng thể uốn ván ở em bé sơ sinh, thì kết quả là nồng độ anti- U1RNP giảm rất nhiều lần so với kháng thể uốn ván(8). Từ đó người ta đưa ra kết luận: có thể kháng thể này đã được sử dụng bởi các mô tổn thương mà cụ thể là da. Như vậy nếu giả thuyết đầu đúng, có nghĩa là kháng thể âm tính ở trẻ nhưng sẽ dương tính ở bà mẹ. Nhưng thật không may là test tìm kháng thể ở bà mẹ cũng âm tính. Chúng ta chỉ còn giả thuyết thứ 2 là: phương pháp xét nghiệm không đủ độ nhạy để giải thích cho chẩn đoán. Phương pháp chúng tôi sử dụng để tìm 6 tự kháng thể ở đây là ELISA. Test này có độ nhạy rất cao > 90% nhưng có một nhược điểm là không thể phát hiện các kháng thể đã bị biến tính (denatured). Mặc khác hầu hết các phòng lab thương mại không có đủ kháng nguyên Ro 52k để phát hiện kháng thể anti-Ro(11). Trong 1 báo cáo của E. Silveman và cộng sự, 1 bà mẹ của em bé bị lupus sơ sinh có kết quả dương tính với anti-U1RNP nhưng âm tính với anti-Ro, anti-La (các test này được thử bằng phương pháp ELISA)(10). Sau đó người mẹ được test lại với phương pháp immunoblot và kết quả là dương tính với anti-La. Chúng ta cũng có thể thấy sự thay đổi độ nhạy của các test qua các nghiên cứu được thực hiện ở những mốc thời gian khác nhau. Ví dụ như các nghiên cứu được thực hiện trước đây sử dụng phương pháp khuếch tán miễn dịch có tỉ lệ phát hiện anti-La chỉ 41% ở những ca block tim bẩm sinh. Còn các nghiên cứu sau này sử dụng phương pháp immunoblot thì tỉ lệ phát hiện anti-La là >85% các ca tương tự(10). Sau cùng giả thuyết 2 có vẻ là phù hợp nhất để giải thích cho chẩn đoán lupus sơ sinh ở ca 2. Biểu hiện về huyết học xảy ra ở 25-30% trường hợp lupus sơ sinh bao gồm: giảm tiểu cầu, thiếu máu và giảm bạch cầu hạt. Những bất thường này thường tự khỏi lúc bé được 6 tháng- 1 tuổi. Chúng ta thường không cần can thiệp gì ngoại trừ những trường hợp có xuất huyết hoặc thiếu máu ở bé bị suy hô hấp như ca 1. Tăng men gan chỉ là tạm thời và thường về bình thường khi trẻ được 6 tháng. Giảm bổ thể C3, C4 chưa thấy đề cập trong các textbook nhưng đã được báo cáo trong 1 bài báo(7). Ở đây ta có thể thấy nồng độ C3, C4 giảm thấp trong ca 1. Mặc dù chưa có dữ liệu nào nói về thời gian hồi phục C3, C4 nhưng chúng ta hy vọng nồng độ bổ thể sẽ về bình thường khi tự kháng thể không còn xuất hiện trong máu bé (khoảng 6 tháng tuổi ). Trong 2 trường hợp trên, không có bất thường nghiêm trọng nào ở tim ngoại trừ PDA sau đó tự đóng ở ca 1. Biểu hiện ở tim thường gặp và nguy hiểm nhất ở trẻ lupus sơ sinh là block nhĩ thất độ 3. Lupus sơ sinh chiếm 90- 95% các trường hợp block nhĩ thất đơn độc ở trẻ nhỏ hơn 6 tháng tuổi(3). Anti-Ro là điều Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 117 kiện cần nhưng không đủ để 1 trẻ biểu hiện block nhĩ thất hoàn toàn(1). Không phải tất cả các bà mẹ có anti-Ro dương tính đều có con bị block nhĩ thất. Nguy cơ cho 1 trẻ bị block nhĩ thất hoàn toàn là 2% ở những bà mẹ có anti-Ro dương tính. Và nguy cơ này tăng lên 10 lần từ 2% đến 20% ở những đứa bé tiếp theo nếu anh hoặc chị của nó có block nhĩ thất hoàn toàn. Điều này cũng tương tự nếu anh, chị của nó có lupus sơ sinh biểu hiện ở da. Vì vậy, việc chẩn đoán đúng lupus sơ sinh rất quan trọng trong việc tiên lượng. Hơn nữa trong số các bà mẹ không triệu chứng của bé lupus sơ sinh, một nửa số này sẽ có biểu hiện của bệnh tự miễn trong tương lai(9). Một nghiên cứu từ The Research Registry for Neonatal Lupus cho thấy các bé lupus sơ sinh có thể tăng nguy cơ mắc bệnh tự miễn sau này(5), nhưng nguy cơ mắc lupus ban đỏ hệ thống thì không tăng. Một bà mẹ Lupus đỏ hệ thống, cho dù con có bị lupus sơ sinh hay không thì nguy cơ mắc Lupus sau này ở những đứa con là như nhau. Chúng ta đã biết được tầm quan trọng của việc chẩn đoán đúng lupus sơ sinh. Thêm vào đó, nếu tỉ lệ của lupus sơ sinh không quá thấp thì việc chẩn đoán đúng còn quan trọng hơn nữa. Có 0,5% phụ nữ bình thường trong dân số có anti-Ro dương tính. Như đã nói ở trên nguy cơ block nhĩ thất hoàn toàn ở những phụ nữ anti-Ro dương tính là 2%. Từ đó chúng ta có thể ước đoán được tỉ lệ mới mắc của block nhĩ thất hoàn toàn là 1:10.000 trẻ sinh sống. Tỉ lệ lupus sơ sinh biểu hiện ở da thay đổi giữa các nghiên cứu khác nhau. Trong 1 nghiên cứu được thực hiện ở Toronto và Milan tỉ lệ mắc phải của lupus sơ sinh da và block nhĩ thất hoàn toàn lần lượt là 16% và 1,6%(2). Trong 1 báo cáo của 123 trẻ lupus sơ sinh ở Trung Quốc, tổn thương da hiện diện ở 96% trường hợp, trong khi block nhĩ thất hoàn toàn chỉ là 2%(4). Trong 1 nghiên cứu hồi cứu được thực hiện ở Thái lan, 12/17 (70%) bé có có tổn thương da, 9/17 (53%) bé có block nhĩ thất hoàn toàn(12). Hiện chưa có dữ liệu nào về lupus sơ sinh ở Việt Nam. Trong textbook thì có đến 25% trẻ của bà mẹ có anti-Ro dương tính sẽ có biểu hiện lupus sơ sinh ở da. Khi so sánh nguy cơ giữa da (25%) và block tim (2%) ta có thể ước đoán tỉ lệ mới mắc của lupus sơ sinh biểu hiện da là 1:1.000 trẻ sinh sống. Có lẽ việc thăm khám tiền sản được thực hiện một cách chặt chẽ và cẩn thận ở các nước phát triển nên tỉ lệ của block tim bẩm sinh khá cao so với lupus sơ sinh biểu hiện da. Ngược lại, ở các nước đang phát triển việc theo dõi tiền sản không được tuân thủ bài bản. Có thể có nhiều trường hợp sảy thai ở tam cá nguyệt thứ 2 do block nhĩ thất hoàn toàn mà không phát hiện được nguyên nhân. Do đó tỉ lệ phát hiện block nhĩ thất hoàn toàn có vẻ thấp hơn ở các nước đang phát triển. Tóm lại, lupus sơ sinh là một bệnh hiếm gặp với tỉ lệ mắc phải vẫn chưa xác định được. Một bé sơ sinh, nhũ nhi với những biểu hiện điển hình của ban da hay block tim bẩm sinh cần được sàng lọc tự kháng thể. Việc chẩn đoán xác định lupus sơ sinh đóng vai trò quan trọng trong việc tiên lượng cho mẹ, bé, và các bé sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Buyon JP, Kim MY, Copel JA, Friedman DM. (2001), Anti- Ro/SSA antibodies and congenital heart block: necessary but not sufficient. Arthritis Rheum; 44:1723. 2. Cimaz R, Spence DL, Hornberger L, Silverman ED. (2003), Incidence and spectrum of neonatal lupus erythematosus: a prospective study of infants born to mothers with anti-Ro autoantibodies. J Pediatr; 142:678. 3. Jaeggi ET, Hamilton RM, Silverman ED et al. (2002), Outcome of children with fetal, neonatal or childhood diagnosis of isolated congenital atrioventricular block. A single institution's experience of 30 years.J Am Coll Cardiol.; 39:130. 4. Li YQ, Wang Q, Luo Y, Zhao Y. (2015), Neonatal lupus erythematosus: a review of 123 cases in China. Int J Rheum Dis.; 18:761. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Chuyên Đề Nhi Khoa 118 5. Martin V, Lee LA, Askanase AD. (2002), Long-term followup of children with neonatal lupus and their unaffected siblings. Arthritis Rheum.; 46:2377. 6. Neiman AR, Lee LA, Weston WL, Buyon JP. (2000), Cutaneous manifestations of neonatal lupus without heart block: characteristics of mothers and children enrolled in a national registry. J Pediatr.; 137:674. 7. Perez MF, Torres ME, Buján MM et al. (2011), Neonatal lupus erythematosus: a report of four cases. An Bras Dermatol.; 86:347. 8. Provost TT, Watson R, Gammon WR et al.(1987), The neonatal lupus syndrome associated with U1RNP (nRNP) antibodies. N Engl J Med.; 316:1135. 9. Rivera TL, Izmirly PM, Birnbaum BK et al. (2009) Disease progression in mothers of children enrolled in the Research Registry for Neonatal Lupus.Ann Rheum Dis.; 68:828. 10. Sheth AP, Esterly NB, Ratoosh SL, Smith JP, Hebert AA, Silverman E. (1995), U1RNP positive neonatal lupus erythematosus: association with anti-La antibodies?Br J Dermatol.; 132:520. 11. Silverman E, Jaeggi E. (2010), Non-cardiac manifestations of neonatal lupus erythematosus.Scand J Immunol; 72:223. 12. Wisuthsarewong W, Soongswang J, Chantorn R. (2011) Neonatal lupus erythematosus: clinical character, investigation, and outcome. Pediatr Dermatol.; 28:115. Ngày nhận bài báo: 7/5/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 7/6/2016 Ngày bài báo được đăng: 25/7/2016 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 119 HIỆU QUẢ CỦA PHUN KHÍ DUNG NƯỚC MUỐI ƯU TRƯƠNG TRONG HÚT DỊCH KHÍ QUẢN Ở BỆNH NHI VIÊM PHỔI Hồ Thiên Hương*, Trần Anh Tuấn* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của kích thích tiết đàm bằng khí dung nước muối ưu trương 3% trên kết quả NTA (hút dịch khí quản qua đường mũi) xác định vi khuẩn gây bệnh viêm phổi ở trẻ em. Phương pháp: nghiên cứu tiền cứu . Kết quả: 100 bệnh nhân nhập viện vì viêm phổi được chỉ định xét nghiệm NTA từ tháng 12/2015 đến tháng 3/2016 được chia thành 2 nhóm được phun khí dung với nước muối ưu trương 3% và nhóm không phun khí dung. Tuổi trung bình 2,4 tuổi, tỉ lệ nam/nữ là 1,5/1. So với nhóm không can thiệp, ở nhóm phun khí dung nước muối ưu trương ghi nhận có sự cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm NTA: điểm số Barlett ≥ 3 (80% so với 40%, p <0,001, 2) tỉ lệ tế bào trụ (84% so với 50%, p <0,001, 2), tế bào biểu mô (90% so với 40%, p<0,001, 2), nhuộm soi gram dương và gram âm ( 40% so với 5%, p=0,002, 2). Kết quả NTA phát hiện vi khuẩn kèm kháng sinh đồ ở nhóm phun khí dung nước muối ưu trương cũng cao hơn nhóm không can thiệp (10 trường hợp, 20% so với 2%, p=0,005): Klebsiella ESBL(+) 4%,Klebsiella ESBL (-) 2%, Pseudomonas 4%, E.coli ESBL (+) 4%, E.coli ESBL(-) 2%, Acinobacter 4%. Tỉ lệ cải thiện triệu chứng khi điều trị dựa theo kháng sinh đồ có được ở nhóm phun khí dung nước muối ưu trương cao hơn (7/10 trường hợp, 70% so với 30%, p<0,0001, 2). Không ghi nhận tác dụng phụ của phun khí dung nước muối ưu trương. Không ghi nhận trường hợp tử vong hoặc chuyển hồi sức trong thời gian nghiên cứu. Kết luận: Áp dụng kĩ thuật kích thích tiết đàm bằng khí dung nước muối ưu trương 3% cải thiện rõ rệt chất lượng mẫu bệnh phẩm NTA, tăng khả năng phát hiện vi khuẩn gây bệnh ở trẻ nhập viện vì viêm phổi mà không có tác dụng phụ nào. Từ khóa: phun nước muối ưu trương, NTA, tế bào trụ. ABSTRACT THE EFFECTIVENESS OF INDUCED SPUTUM USING NEBULIZED HYPERTONIC SALINE IN NASOTRACHEAL ASPIRATION AMONG CHILDREN HOSPITALIZED WITH PNEUMONIA Ho Thien Huong, Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 4 - 2016: 119 - 124 Objectives: To evaluate the effectiveness of sputum induction in NTA. Methods: Prospective study. Results: From December 2015 to March 2016, there were 100 pneumonia cases admitted to hospital in Children’s Hospital No.1 that were seperated into two distinct groups: sputum induction by using nebulized hypertonic saline 3% and without intervention. The average age was 2.4 years with male and female proportion was 1.5/1. After using nebulized hypertonic saline, the results of lab tests showed the improvement of NTA specimens quality: the Barlett’s score ≥ 3 (80% versus 40%, p <0,001, 2) the rate of columnar cell (84% versus 50%, p <0,001, 2), epithelial cell (90% versus 40%, p<0,001, 2), positive and negative-Gram bacteria stain ( 40% versus 5%, p=0,002, 2). In NTA results, the proportion of bacterial detection and antibiotic shown in * Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: BS Hồ Thiên Hương ĐT: 0975736061 Email: dr.sophieho@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_2_ca_lupus_so_sinh_bieu_hien_o_da.pdf
Tài liệu liên quan