Bàn về việc dịch và cải biên tác phẩm Tây Du ký tại Việt Nam – trường hợp bản Nôm Tây Du truyện

Tài liệu Bàn về việc dịch và cải biên tác phẩm Tây Du ký tại Việt Nam – trường hợp bản Nôm Tây Du truyện: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 13 BÀN VỀ VIỆC DỊCH VÀ CẢI BIÊN TÁC PHẨM TÂY DU KÝ TẠI VIỆT NAM – TRƯỜNG HỢP BẢN NÔM TÂY DU TRUYỆN The translation and adaptation of Journey to the West in Vietnam – A Focus on “Tây Du Truyện” TS. Nguyễn Hoàng Yến Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM Tóm tắt Tây du ký – một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc, cũng giống như nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc khác nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả Việt Nam. Tác phẩm đã được dịch, cải biên tới hơn mười lần, bao gồm cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ từ khi lưu truyền vào Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu liên quan còn rất hạn chế. Vì thế trong bài viết này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cụ thể trường hợp tác phẩm dịch bằng chữ Nôm Tây du truyện. Trong quá trìn...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 762 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về việc dịch và cải biên tác phẩm Tây Du ký tại Việt Nam – trường hợp bản Nôm Tây Du truyện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 13 BÀN VỀ VIỆC DỊCH VÀ CẢI BIÊN TÁC PHẨM TÂY DU KÝ TẠI VIỆT NAM – TRƯỜNG HỢP BẢN NÔM TÂY DU TRUYỆN The translation and adaptation of Journey to the West in Vietnam – A Focus on “Tây Du Truyện” TS. Nguyễn Hoàng Yến Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM Tóm tắt Tây du ký – một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc, cũng giống như nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc khác nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả Việt Nam. Tác phẩm đã được dịch, cải biên tới hơn mười lần, bao gồm cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ từ khi lưu truyền vào Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu liên quan còn rất hạn chế. Vì thế trong bài viết này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cụ thể trường hợp tác phẩm dịch bằng chữ Nôm Tây du truyện. Trong quá trình chuyển thể tác phẩm, do các yếu tố thể tài, cá nhân, văn hóa xã hội, tác giả đã có những cách xử lý dịch, cải biên khác nhau từ nội dung, kết cấu cốt truyện đến cách thức kể chuyện, khiến Tây du truyện trở thành một tác phẩm dịch “bình cũ rượu mới, phản lại nguyên tác” rất khác lạ so với lam bản, cũng như các truyện Nôm vay mượn từ Trung Quốc khác. Có thể nói đây là một trường hợp dịch, cải biên văn học Trung Quốc tại Việt Nam đặc biệt và điển hình, đáng để chúng ta nghiên cứu và thảo luận. Từ khóa: Tây du ký, Tây du truyện, Việt Nam, dịch, truyện Nôm. Abstract Journey to the West - one of the four great Chinese works, just like many other Chinese literary works, received a warm reception of Vietnamese readers. The work has been translated and adapted more than ten times, including Nôm and modern Vietnamese characters since its circulation in Vietnam. However, the related studies are very limited. Therefore, in this paper, we will focus on Tây du truyện, a re-written, translation work of Journey to the West in Nôm characters. In the process of adapting the work, due to different talent, personal, social and cultural factors, the authors had different ways to handle translation and adaptation from literary genre, story structure to narrative techniques, making Journey to the West a totally different version compared with the original one, as well as with other Nôm narratives borrowed from Chinese literary works. This can be said to be a special and typical case of Chinese translation and adaptation in Vietnam, worthy of our research and discussion. Keywords: Journey to the West, Tây du truyện, Vietnam, translation, Nôm narrative. Email: hoangyen@hcmussh.edu.vn NGUYỄN HOÀNG YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 14 1. Mở đầu Việt Nam và Trung Quốc có lịch sử giao lưu văn học, nghệ thuật từ rất lâu đời và mật thiết, nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc nhận được sự hoan nghênh nồng nhiệt của độc giả Việt Nam, từ đó xuất hiện các tác phẩm dịch hoặc cải biên khác nhau. Theo Trần Quang Huy (1973), rất nhiều tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam có thể nhìn thấy bóng dáng của tác phẩm Trung Quốc tương ứng, điều này không làm mất đi tính sáng tạo của tác giả có thể kể ra một số tác phẩm như Truyện Kiều, Ngọc Kiều Lê, Tây sương truyện, Nhị độ mai, Tây du truyện, vv. Tây du ký 西遊記– một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc nhận được nhiều sự yêu thích của độc giả Việt Nam qua các thời kỳ. Theo thống kê, từ khi tác phẩm du nhập vào Việt Nam, nó đã được dịch, cải biên đến hơn mười lần bao gồm từ chữ Nôm, chữ Hán đến chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên cho đến nay, số lượng nghiên cứu về các tác phẩm này vẫn còn rất khiêm tốn (Nguyễn Hoàng Yến, 2016). Vì thế trong bài viết này, chúng tôi muốn đi sâu khảo sát tác phẩm dịch Tây du truyện 西遊傳 bằng chữ Nôm, để giúp độc giả hiểu rõ hơn về tác phẩm này, cũng như chỉ ra những thay đổi trong nội dung, cốt truyện, cách kể chuyện của truyện Nôm khi dịch tác phẩm Trung Quốc, qua đó hiểu rõ hơn về tính chủ thể, sáng tạo của tác giả Việt Nam trong quá trình tiếp nhận tác phẩm Tây du ký nói riêng và văn học Trung Quốc nói chung. 2. Sơ lược về tác phẩm Tây du truyện Trong phần này, chúng tôi sơ lược giới thiệu về tác giả, thời điểm sáng tác, tình hình văn bản và nội dung chính của tác phẩm Tây du truyện西遊傳. Tây du truyện là bản dịch phóng tác bằng chữ Nôm từ tiểu thuyết Tây du ký 西 遊記 theo thể lục bát duy nhất của Việt Nam còn lại tính đến thời điểm hiện tại. Tác giả và thời điểm sáng tác tác phẩm hiện tại chưa được giới nghiên cứu thống nhất. Theo Yan Bao (Nhan Bảo, 1987), Tây du truyện có thể được viết vào thế kỷ XVIII, nhưng chúng tôi cho rằng thời điểm hoàn thành tác phẩm có thể từ 1870 đến 1893. Tây du truyện hiện còn lưu giữ được hai bản khắc in và một bản chép tay. Hai bản khắc còn lại không cùng thời điểm. Một bản do Đồng Văn Đường xuất bản năm 1893, hiện đang được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mã số AB.81, gồm 57 trang, kích cỡ 17x13 cm. Bìa trước gồm tên tác phẩm Tây du truyện nằm giữa, bên phải là cột ghi thời gian khắc in “Thành Thái ngũ niên thu tân khắc 成泰五年秋新刻”, bên trái là cột ghi thông tin nơi xuất bản “Đồng Văn Đường tàng bản 同文堂藏板”. Bản còn lại do Quảng Thịnh Đường khắc năm 1910, hiện đang được lưu giữ tại Thư viện quốc gia Việt Nam, mã kho R.1942. Bìa trước gồm tên tác phẩm nằm chính giữa, bên phải là cột ghi “Duy Tân Nhâm Tý niên đông tân san 維新壬子年冬新刊 ”, bên trái là ghi “Quảng Thịnh đường tàng bản 廣盛堂藏 版”. Bản này gồm 27 trang, kích cỡ 18x17 cm. Theo Thư viện quốc gia Việt Nam, sách mất tờ 11, 12. Ngoài ra, một văn bản chép tay theo bản Đồng Văn Đường cũng tồn tại đến ngày nay và hiện đang được lưu trữ tại thư viện đại học Yale, Mỹ, mã số MS 1728. Bìa ngoài bản khắc năm 1893 có dòng chữ “Thành Thái ngũ niên thu tân khắc成泰五年秋新刻”. Điều này cho thấy trước bản khắc này đã từng có bản khác được công bố, phần nào cho thấy tác phẩm nhận được sự đón nhận khá nồng nhiệt của độc giả khi đó. Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu căn cứ vào bản khắc năm 1910 của Quảng NGUYỄN HOÀNG YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 15 Thịnh Đường đang được lưu giữ tại Thư viện quốc gia Việt Nam và bản chép tay của đại học Yale. Theo so sánh sơ bộ của chúng tôi thì nội dung của hai bản không có sự khác biệt. Câu chuyện gồm 482 câu lục bát và một đoạn ghi theo lối văn xuôi lời trần tình của Đường Tăng trước khi bị Sơn quân phanh thây ăn thịt. Đoạn văn này chiếm từ nửa tờ số 8b đến hơn nửa tờ 10a của bản Quảng Thịnh Đường. Còn bản chép tay là từ giữa tờ số 29 đến đầu tờ số 36. Toàn bộ câu chuyện diễn ra liền mạch, theo trình tự thời gian, phát triển của câu chuyện mà không phân đoạn. Mở đầu truyện Nôm Tây du truyện là hai câu “Quyển Tây du truyện lược bày/Thuở thời Đường quốc khiến thầy cầu kinh” cho ta biết tên tác phẩm cũng như thông tin về lam bản mà câu chuyện lấy làm căn cứ để dịch/cải biên. Hai câu kết thúc là “Tây du đoạn thứ mười ba/Thấy trong tích cũ bút hoa chép làm” cho ta biết cụ thể hơn Tây du truyện đã “lấy ý tưởng” từ hồi thứ mười ba của tiểu thuyết Tây du ký. Đây là hình thức mở đầu và kết thúc thường thấy ở các truyện Nôm Việt Nam vay mượn từ các tác phẩm văn học Trung Quốc. Tóm tắt sơ lược nội dung của tác phẩm Nôm Tây du truyện như sau. Tây du truyện là bản dịch lấy nội dung chính là hồi thứ 13 trong tác phẩm lam bản Tây du ký, kể về ba thầy trò Đường Tăng, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh trên đường đến Tây Trúc thỉnh kinh gặp nạn Sơn quân (tức Hổ tinh). Một ngày nọ, ba thầy trò và Bạch mã đi vào rừng và bỗng thấy một sơn trang xinh đẹp với khu rừng yên tĩnh, thanh tao. Dù Đường Tăng ra sức can ngăn, nhưng Trư Bát Giới và Sa tăng vẫn quyết chí đi vào khu vườn khiến sau đó cả ba thầy trò đều bị Sơn quân bắt giam. Trư Bát Giới, Sa tăng, Bạch mã bị giam cầm trong ngục tối, còn Đường Tăng thì bị Sơn quân phanh thây ăn thịt một cách tàn nhẫn. Trước khi chết, Đường Tăng niệm chú cầu Tôn Ngộ Không đến cứu. Khi Tôn Ngộ Không đến nơi, hay tin Đường Tăng đã bị ăn thịt, bèn tập hợp thần linh thổ địa tìm hiểu đầu đuôi và điểm yếu của Sơn quân. Biết Sơn quân là tên háo sắc, Tôn Ngộ Không bèn biến thành một giai nhân tuyệt sắc, thuận lợi lọt vào động và chiếm trọn lòng tin của Sơn quân. Trong lễ thành hôn, Tôn Ngộ Không dùng mưu mĩ nhân kế, lấy được ba báu vật của Sơn quân rồi chuốc rượu cho cả động say mèm. Sau đó Tôn lấy ba báu vật này cứu sống Đường Tăng, tiễn ba thầy trò tiếp tục lên đường lấy kinh, còn mình đánh tan động Sơn quân rồi trở về Hoa quả sơn. Mười năm sau, Sơn quân tỉnh rượu, biết mình bị Tôn Ngộ Không lừa thì vô cùng tức tối, Sơn quân bèn gặp cha (là Ngọc Hoàng đại đế) và chú (là Long Vương) đòi cho được trăm ngàn tinh binh tiến đến Hoa quả sơn quyết chiến Tôn Ngộ Không. Kết cục Sơn quân vẫn chịu đại bại dưới tay Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không tức giận vì Ngọc Hoàng dung túng Sơn quân làm điều sai trái, giận dữ xông lên Ngọc hoàng điện mắng Ngọc Hoàng, định bụng đại náo thiên cung. Ngọc Hoàng hoảng sợ cầu cứu Phật Tổ. Phật Tổ bay đến hòa giải hai bên, phong cho Tôn Ngộ Không là Tề thiên đại thánh, đồng thời dùng phép khôi phục lại nguyên trạng Ngọc hoàng điện và động Sơn Quân. 3. Từ Tây du ký đến Tây du truyện 3.1. Về thể tài Có thể thấy, khi tiến hành phỏng dịch, Tây du truyện đã dùng một thể tài khác hoàn toàn so với bản gốc. Tây du ký là tiểu thuyết chương hồi cổ điển, còn Tây du truyện là truyện Nôm viết theo thể lục bát truyền thống của Việt Nam (tham khảo ảnh 1). NGUYỄN HOÀNG YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 16 Ảnh 1 Một trang nội dung của Tây du truyện (Nguồn ảnh: Thư viện quốc gia Việt Nam) Tại sao tác giả Tây du truyện lại chọn thể lục bát để diễn dịch Tây du ký? Theo chúng tôi có ba lý do chính: Thứ nhất, bản thân thể lục bát có các yêu cầu về câu, đối, luật, vần khá đơn giản, linh hoạt so với các thể thơ khác, vì thế các tác giả dễ vận dụng, dễ sáng tác hơn. Có học giả còn cho rằng, thể lục bát “là hình thức (thể hiện) thuận tiện nhất” (Nguyễn Đăng Na, 2007). Thứ hai, thể lục bát rất phù hợp để kể chuyện, trữ tình. Vì thế từ khi ra đời, văn đàn Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều tác phẩm truyện Nôm viết bằng thể loại này (Đinh & Nam, 2000; Nguyễn Đăng Na, 2007). Thứ ba là nguyên nhân xuất phát từ độc giả. Độc giả Việt Nam từ khi truyện Nôm xuất hiện cho đến tận cuối thế kỷ XIX đều rất yêu thích thể loại lục bát này, vì thế khi tác phẩm mới ra đời, tác giả sẽ lựa chọn hình thức được độc giả yêu thích và dễ gần với độc giả nhất. Một số học giả như Nguyễn Nam trong tác phẩm của mình cũng đã tổng kết, trong lịch sử văn học Việt Nam thì truyện Nôm lục bát được coi là hình thức dịch, giới thiệu văn học nước ngoài tốt nhất, chủ yếu nhất đối với độc giả, đặc biệt là các tác phẩm văn học Trung Quốc (Nguyễn, 2002). Vì thế có thể nói, tác giả Tây du truyện lựa chọn truyện Nôm thể lục bát để diễn dịch Tây du ký là lựa chọn đương nhiên, tốt nhất và dễ được độc giả đón nhận nhất. 3.2. Về thủ pháp chuyển thể của Tây du truyện Căn cứ vào nội dung tóm tắt của Tây du truyện ở trên, có thể nói, đây là một câu chuyện hoàn toàn mới, khác hẳn so với bản gốc, khiến cho độc giả như đi vào thế giới Tây du quen thuộc, nhưng kết quả lại khác hẳn. Có được hiệu ứng này là do Tây du truyện có phương pháp dịch, cải biên lại tác phẩm theo cách gia công, lắp đặt lại và thay đổi chi tiết rất riêng và đặc biệt. 3.2.1. Về nội dung và tình tiết Từ tóm tắt câu chuyện ở trên, chúng ta có thể thấy rất rõ nội dung Tây du truyện không giống bất kỳ phần nào trong Tây du ký. Tây du truyện chỉ mượn hệ thống nhân vật, mô típ câu chuyện và cách kể chuyện thầy trò đi Tây trúc thỉnh kinh để dựng lên một câu chuyện với tình tiết, nút thắt hoàn toàn mới. Tác giả giống như đã viết thêm một nạn nữa vào 81 nạn của thầy trò Đường Tăng khiến cho độc giả vừa lạ lẫm, vừa bất ngờ và chờ đợi. Cách thức dịch/cải biên của tác giả Tây du truyện, theo chúng tôi có thể tóm tắt thành hai thủ pháp chính, đó là “gia công lắp ghép lại” và “chọn chỗ (để) thay đổi”. “Gia công lắp ghép lại” chỉ tác giả chủ yếu sử dụng các nhân vật, tình tiết trong Tây du ký, tuy nhiên thông qua sự sắp xếp sáng tạo của tác giả đã tạo nên một câu chuyện với nội dung độc lập, hoàn toàn khác với bản gốc. Các nhân vật của Tây du NGUYỄN HOÀNG YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 17 truyện khá đơn giản, từ đầu đến cuối chỉ bao gồm Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Sơn quân, Ngọc Hoàng đại đế, Phật tổ và hoàn toàn không có nhân vật mới nào khác. Các nhân vật này lại đều là những gương mặt “rất cũ” trong Tây du ký. Còn về tình tiết, nếu tách riêng các tình tiết của Tây du truyện, chúng ta sẽ thấy chúng được lấy ra từ một câu chuyện, một chương nào đó trong toàn bộ tác phẩm Tây du ký. Ví dụ như các tình tiết thầy trò Đường Tăng gặp nạn, Trư Bát Giới vì háo sắc khiến cả đoàn liên lụy, Tôn Ngộ Không biến thành mỹ nữ hoặc cụ già để trừ yêu diệt quỷ, Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, Phật tổ hàng phục Tôn Ngộ Không đều là các tình tiết xuất hiện ở các chương khác nhau của bản gốc, nhưng đã được tác giả “mượn”, bóc tách và ghép lại thành một phần của câu chuyện mới. Chính thủ pháp “gia công lắp ghép lại” này khiến cho chúng ta khi đọc Tây du truyện mới có cảm giác quen vô cùng mà cũng lạ vô cùng. “Chọn chỗ (để) thay đổi” nghĩa là tác giả dựa trên cơ sở chi tiết, tình tiết gốc mượn của Tây du ký mà tiến hành thay đổi hoặc điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu biểu đạt của mình. Điểm thay đổi dễ thấy nhất chính là sự sắp xếp lại toàn bộ nội dung biến Tây du truyện thành một câu chuyện Tây du “bình cũ rượu mới”. Ngoài ra, nếu đọc toàn bộ chúng ta dễ dàng phát hiện ra những thay đổi có chủ đích của tác giả. Ví dụ các chi tiết: đi Tây trúc thỉnh kinh chỉ có ba thầy trò, không có Tôn Ngộ Không; Sơn quân là con trai, cháu của Ngọc Hoàng đại đế và Long vương; Sơn quân có ba bảo bối là trượng trúc, nước thiêng và quạt phép; đặc biệt chi tiết Đường tăng bị Sơn quân phanh thây giết thịt tàn nhẫn; Sơn quân tỉnh dậy sau mười năm, tìm Tôn Ngộ Không trả thù; Tôn Ngộ Không tức giận vì Ngọc hoàng dung túng Sơn quân làm việc xấu nên đã đại náo Thiên cung; Phật tổ lại là người phong danh hiệu Tề thiên đại thánh cho Tôn Ngộ Không, vv. Tất cả những chi tiết thay đổi này cho thấy sự sáng tạo, chủ động của tác giả Việt Nam trong quá trình dịch, cải biên, tiếp thu tác phẩm gốc và văn học Trung Quốc, từ đó hấp dẫn độc giả đi vào một thế giới Tây du mới, và càng đi thì càng thấy đẹp và thú vị vô cùng. 3.2.2. Mô thức cốt truyện và cách kể chuyện Tây du truyện đã mô phỏng kết cấu và nghệ thuật kể chuyện của Tây du ký. Đầu tiên, mô thức gặp nạn trong Tây du truyện rất giống với bất cứ câu chuyện gặp nạn nào trong Tây du ký, đó là gặp nạn - vượt qua - tiếp tục gặp nạn - giải quyết (Lạc Vân, 2004; Lan Lạp Thành, 2013). Cụ thể trong câu chuyện của Việt Nam, diễn biến đi từ ba thầy trò Đường Tăng bị yêu quái bắt giam - Tôn Ngộ Không đến giải cứu - Sơn quân mượn tinh binh đánh Tôn Ngộ Không - Tôn Ngộ Không đánh bại Sơn quân. Các câu chuyện sắp xếp liền mạch, các lớp tình tiết rõ ràng, móc nối với nhau, hình thành một câu chuyện hoàn chỉnh, hấp dẫn. Ngoài ra, cách thức xử lý các tình huống, tình tiết trong Tây du truyện cũng “học tập”, mô phỏng thủ pháp móc nối, báo hiệu của lam bản. Trong thực tế, Tây du truyện gồm hai câu chuyện nhỏ, lần lượt là ba thầy trò Đường Tăng gặp nạn, Tôn Ngộ Không đến giải cứu và câu chuyện mười năm sau Tôn Ngộ Không đại chiến Sơn quân. Tình tiết hai câu chuyện có quan hệ mật thiết, đan xen, nhân quả với nhau, tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, hợp lý. Ví dụ, ở phần trên có chi tiết Tôn Ngộ Không dùng rượu phép chuốc rượu cả hang Sơn quân, mà loại rượu này có thể làm người uống say mười năm không tỉnh. Chi tiết này báo hiệu cho sự kiện tiếp theo NGUYỄN HOÀNG YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 18 có thể xảy ra, khi Sơn quân tỉnh dậy sau mười năm. Hoặc như ở phần đầu nhắc đến hai nhân vật Ngọc Hoàng và Long Vương là cha, chú ruột của Sơn quân, giúp người đọc có sự chuẩn bị tâm lý khi hai nhân vật này xuất hiện nhiều hơn ở phần sau. Việc sử dụng thủ pháp móc nối, báo hiệu này khiến các tình tiết liền mạch, logic, đẩy nhanh tiết tấu câu chuyện, gia tăng sự hấp dẫn, làm người đọc càng đọc càng thấy hứng thú và chờ đợi những bước phát triển tiếp theo của câu chuyện. Cần phải khẳng định một điều là, tuy các thủ pháp trên có sự học tập từ lam bản, nhưng mặt khác nó cũng kế thừa cách thức kể chuyện phổ biến của truyện Nôm, đó là kể chuyện tuyến tính. Điều đó có nghĩa là, câu chuyện được kể theo trình tự thời gian xảy ra, đây là cách kể quen thuộc, trực tiếp, làm câu chuyện diễn ra tự nhiên, tình tiết đan xen, liên tục, từ đó góp phần làm tăng tính hấp dẫn của truyện. Có thể nói đây cũng là một nhân tố khiến Tây du truyện được độc giả Việt Nam yêu thích và đón nhận khá nồng nhiệt như vậy. 4. Tiểu kết Trong bài viết này, chúng tôi đã tiến hành giới thiệu về tác phẩm truyện Nôm Tây du truyện của Việt Nam cũng như các thay đổi về nội dung, mô thức cốt truyện, cách thức kể chuyện của tác giả trong quá trình chuyển dịch/chuyển thể từ lam bản. Các thủ pháp chuyển thể Tây du truyện đã khiến nó trở thành một câu chuyện Tây du phiên bản Việt Nam hoàn toàn khác so với bản gốc về nội dung. Qua đó có thể thấy, Tây du truyện là một trường hợp chuyển thể tác phẩm vay mượn từ Trung Quốc đặc biệt và điển hình, nó giúp chúng ta hiểu hơn về các nguyên tắc, thủ pháp chuyển thể truyện thơ Nôm nói chung, mặt khác khẳng định tính chủ thể và sáng tạo của người làm truyện, khiến câu chuyện trở thành một tác phẩm độc lập có sinh mệnh và sức hấp dẫn rất riêng trong kho tàng truyện thơ Nôm Việt Nam. * Bài báo là sản phẩm của đề tài Viết lại kinh điển - nghiên cứu các tác phẩm dịch tiểu thuyết Tây du ký viết bằng chứ Nôm và chữ Hán tại Việt Nam, mã số T2018-04, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 西遊傳 Tây du truyện lưu trữ tại Thư viện quốc gia Việt Nam, mã kho R.1942. 2. 西遊傳 Tây du truyện lưu trữ tại thư viện Đại học Yale, Mỹ, mã số MS 1728. 3. Đinh Gia Khánh chủ biên. (2000). Tổng tập văn học Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 4. Nguyễn Đăng Na. (2007). Con đường giải mã văn học Trung Đại Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Nguyễn Nam. (2002). Phiên dịch học lịch sử, văn hóa - trường hợp Truyền kỳ mạn lục. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học quốc gia. 6. Nguyễn Hoàng Yến. (2016). Appropriation of Xiyouji in Vietnam: Phật Bà quan âm truyện 佛婆觀音傳. Paper presented at the AAS Annual Conference 2016, Seattle. 7. 樂云 (Lạc Vân). (2004). 論《西游記》的敘事結構. 武漢大學學報(人文科學版), 3(57), 283-288. 8. 蘭拉成 (Lan Lạp Thành). (2013). 《西游記》 取經故事文體與敘事結構分析. 寶雞文理學院 學報(社會科學版), 4(33), 31-47. 9. 陳光輝 (Trần Quang Huy). (1973). 越南喃 傳與中國小說關係之研究.博士, 國立台灣 大學, 台北. 10. Yan Bao. (1987). The Influence of Chinese Fiction on Vietnamese Literature. In S. Claudine (Ed.), Literary Migrations - Traditional Chinese Fiction in Asia (17-20 Centuries) (pp. 286-312). Beijing: International Culture Publishing Corporation. Ngày nhận bài: 28/12/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf67_8312_2214972.pdf
Tài liệu liên quan