Bàn về một số phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép trong giảng dạy dịch nói tại khoa tiếng Trung Quốc học viện khoa học quân sự

Tài liệu Bàn về một số phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép trong giảng dạy dịch nói tại khoa tiếng Trung Quốc học viện khoa học quân sự: 37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ghi chép là hoạt động quan trọng, kết hợp chặt chẽ với hoạt động ghi nhớ, lý giải và biểu đạt trong thực hành dịch nói. Đây không phải hoạt động ghi chép thông thường nhằm mục tiêu lưu giữ thông tin thuần túy. Thực tế cho thấy, khi hoạt động nói của diễn giả diễn ra trên 1 phút, người phiên dịch bắt buộc phải tiến hành ghi chép. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, trí nhớ ngắn hạn của con người thường chỉ phát huy tác dụng tốt nhất trong khoảng thời gian trên dưới 1 phút (桂诗春, 1985, NGUYỄN THỊ THIÊM* *Học viện Khoa học Quân sự,  tianruanshi@yahoo.com.vn Ngày nhận bài: 11/01/2019; ngày sửa chữa: 14/02/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019 BÀN VỀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KỸ THUẬT GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY DỊCH NÓI TẠI KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ TÓM TẮT Trong hoạt động dịch nói, với một khoảng thời gian hữu hạn, khi lượng thông tin vượt quá khả năng ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về một số phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép trong giảng dạy dịch nói tại khoa tiếng Trung Quốc học viện khoa học quân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ghi chép là hoạt động quan trọng, kết hợp chặt chẽ với hoạt động ghi nhớ, lý giải và biểu đạt trong thực hành dịch nói. Đây không phải hoạt động ghi chép thông thường nhằm mục tiêu lưu giữ thông tin thuần túy. Thực tế cho thấy, khi hoạt động nói của diễn giả diễn ra trên 1 phút, người phiên dịch bắt buộc phải tiến hành ghi chép. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, trí nhớ ngắn hạn của con người thường chỉ phát huy tác dụng tốt nhất trong khoảng thời gian trên dưới 1 phút (桂诗春, 1985, NGUYỄN THỊ THIÊM* *Học viện Khoa học Quân sự,  tianruanshi@yahoo.com.vn Ngày nhận bài: 11/01/2019; ngày sửa chữa: 14/02/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019 BÀN VỀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KỸ THUẬT GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY DỊCH NÓI TẠI KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ TÓM TẮT Trong hoạt động dịch nói, với một khoảng thời gian hữu hạn, khi lượng thông tin vượt quá khả năng ghi nhớ của não bộ, người phiên dịch phải dựa vào sự hỗ trợ của ghi chép. Kỹ thuật ghi chép trong dịch nói mang đặc thù riêng, rèn luyện kỹ thuật ghi chép góp phần đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả dịch nói. Xác định được tầm quan trọng của ghi chép, trong giảng dạy thực hành dịch nói, việc thiết kế những bài học rèn luyện kỹ thuật ghi chép cho người học, đào tạo ra đội ngũ phiên dịch viên có kỹ thuật dịch nói tốt, đáp ứng yêu cầu thực tế là điều hết sức cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết thành quả của người đi trước, kết hợp khảo sát tổng kết kinh nghiệm thực tế, chúng tôi xin tóm tắt những đặc điểm của kỹ thuật ghi chép và một vài phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép cho học viên chuyên ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, mong rằng bài viết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động giảng dạy, đào tạo phiên dịch tại Học viện Khoa học Quân sự. Từ khóa: dịch nói, phương pháp, ghi chép, ghi nhớ, ký hiệu tr.107). Trong điều kiện dịch nói, người phiên dịch sử dụng trí nhớ tạm thời vào việc ghi nhớ các con số, tên riêng, hoặc ghi nhớ thuật ngữ, từ khóa... Ngoài ra, người phiên dịch phải kích hoạt trí nhớ dài hạn để phân tích ngữ nghĩa, lý giải nội dung, tìm kiếm từ ngữ cần phiên dịch. Theo đó trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn cùng lúc được phát huy vào hoạt động phân tích, chuyển đổi ngôn ngữ. Nếu hoạt động nói của diễn giả kéo dài hơn 1 phút, cơ bản người phiên dịch phải dựa vào trí nhớ dài hạn, điều này làm tăng áp lực đối với ghi nhớ trong dịch nói. Để giảm bớt áp lực cho hoạt động 38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ghi nhớ, người phiên dịch phải sử dụng hình thức ghi chép, ghi chép lại một cách hợp lý nội dung cần dịch. Trong các hoạt động phiên dịch chuyên nghiệp, người phiên dịch thường phải tiến hành ghi chép, việc ghi chép có thể diễn ra ngay từ khi diễn giả bắt đầu hoạt động nói. Trên thực tế, hoạt động dịch nói là việc không đơn giản, người phiên dịch khó đoán định diễn giả sẽ nói trong thời gian bao lâuvà dừng lại, để họ bắt đầu hoạt động phiên dịch. Nhiều trường hợp diễn giả bị cuốn theo mạch nói, họ quên mất bên cạnh mình người phiên dịch đang chờ cơ hội chuyển ngữ. Vì vậy, trong hoạt động phiên dịch chuyên nghiệp, việc ghi chép luôn được tiến hành ngay khi diễn giả bắt đầu hoạt động nói. Thực tế chứng minh, đây là giải pháp hợp lý, trừ khi người phiên dịch đã quá quen thuộc hoặc từng tham gia phiên dịch nội dung tương tự trước đó. Mặc dù ghi chép rất quan trọng trong dịch nói, song hoạt động ghi nhớ của não bộ vẫn đóng vai trò chủ đạo, ghi chép luôn là hoạt động hỗ trợ, nếu quá phụ thuộc vào ghi chép sẽ ảnh hưởng đến tốc độ, chất lượng phiên dịch. 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA GHI CHÉP TRONG DỊCH NÓI 2.1. Phân biệt ghi chép trong dịch nói và tốc ký thông thường Tốc ký là ghi chép tốc độ nhanh, đầy đủ, tường tận đến từng từ mà diễn giả đã trình bày (鲍刚, 口译理论概述, 2005, tr.177). Tất cả các ký hiệu, con chữ trong tốc ký đều được giải mã, tránh tối đa nhầm lẫn, sai sót. Ưu điểm của tốc ký là ghi lại toàn bộ lời nói của diễn giả, nhưng điều này không hoàn toàn phát huy tác dụng với người phiên dịch trong thực hành dịch nói, ngược lại còn ảnh hưởng đến tốc độ hiệu quả chuyển ngữ. Vấn đề ở đây nghe có vẻ mâu thuẫn, tìm hiểu đặc điểm của tốc ký, giúp chúng ta có thể hiểu sâu hơn điều này. Tốc ký thông thường thu hút sự chú ý của người phiên dịch vào các ký hiệu âm thanh ngôn ngữ nguồn, các hình thức biểu đạt, hoặc các hiện tượng ngôn ngữ khác của ngôn ngữ nguồn. Do đó, người phiên dịch có thể bị phân tán sức tập trung vốn phải dành cho việc lưu trữ từ khóa, nội dung trọng điểm, tái tổ hợp cấu trúc, tìm giải pháp chuyển ngữ... Mong muốn ghi chép đầy đủ toàn bộ lời diễn giả trình bày rồi nhìn vào bản ghi để “đọc”, hẳn là điều thực tế không thể thực hiện được và ngược lại trong nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến chất lượng của ngôn ngữ dịch. Với công việc tốc ký chuyên nghiệp, mọi sự tập trung chú ý đều dành vào việc ghi chép, năng lượng tiêu hao của não bộ không kém gì so với hoạt động thực hành dịch nói. Ngoài ra, tốc ký là hoạt động ghi chép chỉ giới hạn trong một ngôn ngữ, hoàn toàn không liên quan đến hoạt động chuyển ngữ. Người phiên dịch dù có ghi chép hết nội dung, họ cũng sẽ không còn nhiều thời gian cho hoạt động phân tích, lý giải, tìm từ, tái cấu trúc và chuyển ngữ, kết quả sẽ ảnh hưởng đến chất lượng phiên dịch. Thêm vào đó, việc giải mã các ký hiệu ghi chép bằng tốc ký cũng đòi hỏi phải hết sức tỉ mỉ, cẩn trọng. Thực tế cho thấy, việc nhận biết được các ký hiệu tốc ký mất nhiều thời gian hơn so với ký hiệu ghi chép thông thường, ngoài ra các yếu tố bất lợi khác như, ký hiệu tốc ký không thể hiện cách dịch từ khóa, thông tin chủ yếu, ý tưởng nội dung của ngôn ngữ nguồn, sẽ khiến người phiên dịch mất thời gian, tâm trí đọc và giải mã rồi mới chuyển ngữ, thậm chí là ê a lần dịch theo từng ký hiệu. Như vậy, tốc độ phiên dịch của người phiên dịch sẽ chậm lại, họ có thể lúng túng, ấp úng, dẫn đến nhầm lẫn, bỏ sót, biểu đạt kém lưu loát và thiếu lôgic. Những đặc điểm trên cho thấy kỹ thuật tốc ký không phải là kỹ thuật ghi chép dành cho người phiên dịch, và cũng không thay thế được kỹ thuật ghi chép của người phiên dịch trong hoạt động dịch nói. Nói cách khác, ghi chép trong hoạt động dịch nói là kỹ thuật mang tính đặc thù riêng của hoạt động dịch nói. 2.2. Ghi chép trong dịch nói mang tính gợi ý, hỗ trợ cho trí nhớ Khác với tốc ký thông thường như đã nêu ở phần trên, ghi chép trong dịch nói là hình thức ghi chép mang tính gợi ý, thủ pháp chuyên nghiệp được người phiên dịch thực hiện trong quá trình chỉnh lý, sắp xếp tư tưởng nội dung ngôn ngữ nguồn, tìm kiếm từ ngữ, tái cấu trúc và chuyển đổi sang ngôn ngữ đích (王斌华, 2006, tr.305). Đây là 39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v hoạt động song song với hoạt động lý giải và ghi nhớ trong dịch nói và không phải là hình thức ghi chép thuần túy nhằm lưu trữ thông tin dài hạn. Hay nói cách khác, ghi chép trong dịch nói là hình thức gợi ý, hỗ trợ cho trí nhớ ngắn hạn, hoặc trí nhớ dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn ra hoạt động dịch nói của người phiên dịch. Việc ghi chép không thể thay thế hoàn toàn chức năng ghi nhớ của người phiên dịch, nhưng lại có tác dụng gợi ý và có thể ví như những ký hiệu “chỉ đường” (鲍刚, 2005, tr.180). Nhìn vào nội dung ghi chép, người phiên dịch có thể nhớ được những thông tin mình cần xử lý, tái cấu trúc và truyền đạt lại bằng ngôn ngữ mục tiêu. Điều này có nghĩa, xét từ góc độ hoạt động tư duy, ghi chép trong dịch nói là hoạt động song song với hoạt động lý giải và tái cấu trúc ngôn ngữ. Người phiên dịch vừa ghi chép, vừa phân tích lý giải, tái cấu trúc nội dung cần dịch. Đây cũng là hoạt động nội tại mang tính chuyên nghiệp của trí nhớ. Sự chuyển đổi chuyên nghiệp diễn ra trong nội tại trí nhớ này là điểm khác biệt căn bản giữa ghi chép trong dịch nói và các hình thức ghi chép khác. Tính chất này phản ánh cơ chế nội tại hết sức quan trọng của ghi chép trong dịch nói. Các hình thức bên ngoài khác chỉ là các biểu hiện khác nhau trong các hoàn cảnh khác nhau của cơ chế nội tại này. 2.3. Ghi chép trong dịch nói có giá trị tạm thời Ghi chép trong dịch nói mang tính tạm thời, diễn ra trong thời gian ngắn. Ngoài đặc điểm là hình thức ghi chép mang tính gợi ý, ghi chép trong dịch nói cho thấy rõ đặc điểm ứng dụng nhất thời của nó. Ghi chép là để hỗ trợ trí nhớ ngắn hạn hoặc trí nhớ dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn ra hoạt động dịch nói, đồng thời mang đậm phong cách, thói quen cá nhân người phiên dịch (王斌华, 口译:理论、技巧、实践, 2006, tr.309). Điều này hoàn toàn có thể nhận thấy qua quan sát các ký hiệu, tầng bậc lôgic, sơ đồ trình bày nội dung của các bản ghi chép được khảo sát. Thực tế khảo sát cho thấy, hệ thống ký hiệu ghi chép trong dịch nói mang những đặc điểm sau: Là hệ thống ký hiệu mang tính cá nhân, không phải một hệ thống ký hiệu chung, và chỉ cá nhân người phiên dịch hiểu được. Là hệ thống được sắp đặt trước, người phiên dịch có thể tự tạo trước một hệ thống ký hiệu cố định cho riêng mình, và vận dụng trong hoạt động thực hành dịch nói. Ví dụ, cùng biểu đạt ý nghĩa quá khứ, có phiên dịch viên dùng ký hiệu “↵” để biểu đạt quá khứ, nhưng với phiên dịch viên khác lại có thể dùng ký hiệu “ ×” để biểu đạt quá khứ; hay như có phiên dịch viên dùng ký hiệu “∙ /” để biểu thị sự kết thúc, nhưng cũng có phiên dịch viên dùng ký hiệu “┤” để biểu thị kết thúc... và còn rất nhiều ví dụ khác nữa. Là những ký hiệu có thể thay đổi ý nghĩa biểu đạt khác nhau. Ý nghĩa của các ký hiệu có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh giao tiếp hoặc ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ cùng là một ký hiệu “ ” , tùy vào hoàn cảnh có thể biểu đạt sự hướng ra bên ngoài hoặc biểu đạt sự mở rộng hay quảng bá mà người phiên dịch đã quy định trong bộ quy tắc viết tắt của mình. Là hệ thống ký hiệu mang tính giản lược và có ý nghĩa khái quát. Đây là hệ thống ký hiệu đơn giản có tính khái quát ý nghĩa nội dung cần chuyển ngữ, thuận tiện cho việc ghi chép. Những đặc điểm này cho thấy, ghi chép trong dịch nói không giống với các hình thức ghi chép thông thường khác. Không khó để có thể nhận ra, hệ thống ký hiệu người phiên dịch sử dụng đa phần được chuẩn bị từ trước. Tuy nhiên, trong thực tế dịch nói, việc xử lý thông tin nhanh, chính xác đòi hỏi một hệ thống ký hiệu tinh giản, khái quát, hữu dụng với từng người phiên dịch. Không thể có một hệ thống quy tắc, ký hiệu trở thành quy định chung cho tất cả các phiên dịch, đây chính là đặc điểm khác biệt giữa ghi chép trong dịch nói và các hình thức ghi chép khác. 2.4. Ghi chép trong dịch nói mang tính thực dụng cao Ghi chép trong dịch nói chú trọng tính thực dụng. Một bản ghi gọn gàng, rõ chữ, sẽ là rất tốt với tất cả các hình thức ghi chép. Tuy nhiên, trong 40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY dịch nói, do yêu cầu về thời gian, người phiên dịch không thể nắn nót để có bản ghi thật gọn gàng đẹp mắt (梅德明, 2011, tr.465). Yêu cầu đặt ra ở đây là thời gian và độ chính xác, vì vậy người phiên dịch khó có thể trình bày một bản ghi đẹp mắt với những con chữ ngay ngắn. Trên thực tế, yêu cầu một bản ghi rõ ràng dễ nhận biết là điều hết sức cần thiết, tránh trường hợp sau khi ghi chép xong, ngay chính tác giả của bản ghi cũng không giải mã được. Người phiên dịch có thể sử dụng các ký hiệu đặc biệt, các ký hiệu do chính bản thân người phiên dịch quy định từ trước và trình bày theo một quy tắc riêng của mình, miễn sao khi nhìn vào là có thể giải mã, chuyển mã được ngay. Mỗi bản ghi đều là hệ thống qui định biểu đạt riêng của từng người phiên dịch, các phiên dịch viên khác có thể không hiểu được, hoặc rất khó có thể luận đọc, giải mã. Bởi lẽ, song song với hoạt động ghi chép là quá trình bắt tin, giải mã, chuyển mã như đã nêu ở phần trên. Hoạt động ghi chép mang tính cá nhân, vì vậy, quan trọng nó hữu dụng với chính bản thân người phiên dịch, chủ nhân của bản ghi chép. Bản ghi chép không nhất thiết phải đạt đến yêu cầu đầy đủ, đẹp mắt, rõ chữ, như vậy sẽ mất nhiều thời gian ảnh hưởng tới quá trình chuyển ngữ. 2.5. Ghi chép trong dịch nói là hoạt động có qui trình bài bản Mỗi người phiên dịch đều tự tạo cho mình một hình thức, qui tắc ghi chép riêng. Nhìn chung, trong điều kiện cho phép, những phiên dịch có kinh nghiệm thường sử dụng một kẹp giấy cứng, khổ giấy lớn, đặt trực tiếp trên bàn và ghi chép. Tuy nhiên, trường hợp tác nghiệp trong điều kiện phải đứng, không có điểm tựa như trên mặt bàn, kẹp giấy có thể được tì trên cánh tay tạo thành mặt phẳng cứng, thuận tiện cho ghi chép. Dùng khổ giấy lớn để ghi chép sẽ thuận tiện cho việc tập hợp toàn bộ nội dung diễn giả trình bày trên cùng một mặt giấy, tránh việc sang trang, lật mặt giấy, sẽ làm mất thời gian hoặc phân tán sức tập trung của người phiên dịch. Song việc sử dụng khổ giấy lớn để ghi chép cũng có mặt hạn chế, trường hợp nội dung nhiều, dung lượng chuyển tải lớn, khổ giấy lớn sẽ bất tiện cho việc lật trang, hơn thế trong trường hợp phải di chuyển nhiều thì đây lại là điều bất tiện. Vì vậy, đa phần các phiên dịch thường dùng sổ ghi chép khổ nhỏ, tiện cho di chuyển và mang theo, nhất là phiên dịch ở những nơi như công trường, nhà máy... Có không ít phiên dịch, không qua rèn luyện kỹ thuật bài bản chuyên nghiệp, họ dùng sổ ghi chép khổ nhỏ và mở ngang từ phải qua trái, theo thói quen thông thường mà không biết điều đó là bất tiện, có thể ảnh hưởng đến sức tập trung và lãng phí thời gian chuyển ngữ. Theo khảo sát kinh nghiệm phiên dịch thực tế của nhiều người, nếu sử dụng một cuốn sổ ghi chép khổ nhỏ, lựa chọn tốt nhất là sử dụng sổ lật dọc theo chiều từ dưới lên trên. Nếu người phiên dịch thuận tay phải, tay trái sẽ là điểm tựa giữ sổ, tay phải ghi chép và lật trang, các ngón tay bàn tay trái nhịp nhàng phối hợp giữ và kẹp sổ, đảm bảo cho việc ghi chép diễn ra thuận lợi. Thông thường, việc ghi chép như vậy chỉ thực hiện trên một mặt giấy, người phiên dịch có thể để cách trang, sau khi ghi hết một chiều mặt giấy có thể đảo lại sổ, ghi chép tiếp mặt còn lại theo một chiều ngược lại. Thực tế một số thói quen trong công việc không phải lúc nào cũng ảnh hưởng đến kết quả của công việc và mỗi người phiên dịch đều có những thói quen làm việc của mình. Yếu tố quyết định đến chất lượng công việc là ở thái độ, trách nhiệm của người tiếp nhận công việc. Một người phiên dịch nghiêm túc, trong điều kiện làm việc thuận lợi, họ hoàn toàn có thể tác nghiệp theo thói quen yêu thích của mình mà vẫn đảm bảo được chất lượng chuyển ngữ. Khảo sát cho thấy, những phiên dịch có kinh nghiệm, được rèn luyện kỹ thuật ghi chép bài bản, họ đều có đặc điểm chung là ghi chép không nhiều, nhưng nội dung đầy đủ bao quát. Đa phần các bản ghi chép đều chú ý đến các ký hiệu như những mốc “chỉ đường” tới nội dung trọng tâm, mạch ý chính. Ghi chép có thể không nhiều, không thể hiện đến từng chi tiết diễn giả trình bày, nhưng nhờ những ký hiệu như những mốc “chỉ đường” này, kết hợp với nội dung đã được ghi lại trong não bộ, người phiên dịch có thể thực hiện chuyển ngữ một cách suôn sẻ. 41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 3. LỰA CHỌN NGÔN NGỮ GHI CHÉP Nhiều chuyên gia cho rằng, rèn luyện kỹ thuật ghi chép trong thực hành dịch nói luôn đứng trước câu hỏi “ghi chép bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay ghi chép bằng ngôn ngữ mục tiêu” hiệu quả sẽ tốt hơn. Như trên đã phân tích, hoạt động ghi chép trong thực hành dịch nói được tiến thành đồng thời với các hoạt động: Nghe bắt thông tin, lý giải, phân tích, tái tổ hợp cấu trúc. Trên thực tế, người phiên dịch có thể ghi chép bằng ngôn ngữ nguồn, cũng có thể ghi chép bằng ngôn ngữ đích, đồng thời kết hợp với hệ thống ký hiệu phổ quát, kể cả những cách viết tắt, những từ viết tắt đã trở thành hệ thống và được chấp nhận trong một cộng đồng, hoặc trên toàn thế giới. Ngoài ra người phiên dịch cũng có thể ghi chép bằng ngữ nguồn hoặc ngữ đích kết hợp với hệ thống ký hiệu do chính người phiên dịch xây dựng riêng cho mình theo những nguyên tắc nhất định (Nguyễn Quốc Hùng, 2007, tr.107). Hệ thống ký hiệu cá nhân do người phiên dịch tự xây dựng thường hết sức phong phú, nó phục vụ riêng cho từng cá nhân người phiên dịch. Tuy nhiên, khi sử dụng hệ thống ký hiệu riêng, đầy sáng tạo này, người phiên dịch cũng phải hết sức thận trọng, tránh tình trạng luận giải sai, hiểu sai ý hoặc sau khi ghi chép, chính người phiên dịch cũng không luận giải được những ký hiệu mình đã ghi chép. Vì vậy, dù là hệ thống ký hiệu do chính bản thân người phiên dịch sáng tạo, cũng phải được xây dựng theo một qui tắc nhất định, khoa học, có hệ thống, dễ nhận biết, tính ổn định cao. Tránh những ký hiệu chỉ mang tính bột phát, biểu đạt ý nghĩa vào một thời điểm nhất định nào đó, rồi lại quên đi, như vậy sẽ không có tác dụng hỗ trợ cho quy trình gợi nhớ và lý giải. Chẳng hạn như những phiên dịch là người Việt Nam khi thực hành dịch nói từ tiếng Việt sang tiếng Hán, họ có thể lựa chọn tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt hoặc tiếng nước ngoài là tiếng Hán để ghi chép. Tuy nhiên dù là ghi chép bằng tiếng Việt hay tiếng Hán cũng đều có những thuận lợi và khó khăn nhất định. 3.1. Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên dịch Việt-Hán Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên dịch Việt - Hán, với người Việt Nam có thể nói có rất nhiều thuận lợi. Khi nghe diễn giả trình bày, người phiên dịch không mấy gặp trở ngại với việc nghe bắt thông tin, vì vậy thông tin liên tiếp được thu nạp và người phiên dịch có thể ghi chép liên tục. Sau khi diễn giả dừng trình bày, người phiên dịch có một bản ghi chép tương đối đầy đủ, rõ ràng. Công việc lúc này của người phiên dịch là ung dung nhìn bản ghi chép và tiến hành chuyển ngữ. Nói vậy không có nghĩa ghi chép bằng tiếng mẹ đẻ không có mặt hạn chế. Chính vì nghe được hầu hết nội dung thông điệp của diễn giả trình bày, người phiên dịch có thể bị cuốn vào ghi chép từ, hoặc ghi chép toàn bộ lời nói của diễn giả, làm cho bản ghi trở nên rối mắt, nặng nề. Trong khi ghi chép trong thực hành dịch nói phải chú trọng tóm bắt mạch ý của diễn giả, phân tích, tìm kiếm giải pháp chuyển ngữ. Với một bản ghi như vậy, người phiên dịch dễ mắc phải lỗi dịch từng từ, lần theo từng hàng chữ đã ghi chép để chuyển ngữ, dẫn đến câu dịch không thoát khỏi cấu trúc tiếng Việt, ê a thiếu lôgic. Vì vậy người phiên dịch cần phải kết hợp giữa ghi chép với nghe bắt tin, phân tích, tái tạo cấu trúc, chuyển ngữ. Ví dụ ghi chép nội dung đoạn băng diễn giả trình bày sau đây bằng tiếng Việt: “Theo nhận định chung của các nhà khoa học, Việt Nam được xác định là một trong những nước bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi có trên 80% diện tích mặt đất có độ cao thấp hơn 2,5m so với mặt nước biển. Kịch bản nước biển dâng mà Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cảnh báo vào năm 2100, mực nước Biển Đông sẽ cao hơn hiện nay khoảng 1m. Mức nước lũ của đồng bằng sông Cửu Long sẽ tăng thêm khoảng gần 2m so với mức lũ hiện nay, hậu quả của nước biển dâng cao không phải chỉ có ngập tĩnh, các vùng ven bờ và cửa sông bị xâm thực làm cho cơ sở hạ tầng ven biển bị đe dọa lớn hơn” Bảng 1. Sơ đồ ghi chép nội dung đoạn văn diễn giả trình bày bằng tiếng Việt 42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 3.2. Ghi chép bằng tiếng Hán trong phiên dịch Việt-Hán Ngược lại với hình thức ghi chép ở phần trên, khi sử dụng tiếng Hán ghi chép lời diễn giả trình bày trong thực hành dịch nói Việt-Hán cũng có những thuận lợi nhất định. Bởi lẽ, quá trình ghi chép đồng thời là quá trình dịch. Mặc dù người phiên dịch nghe được đầy đủ nội dung diễn giả trình bày, nhưng vì vừa ghi vừa phải sắp ý theo ngôn ngữ mục tiêu, nên người phiên dịch không thể ghi chép từng từ, mà phải trình bày theo sơ đồ ý với các ký hiệu giản tiện, rõ ràng. Tuy nhiên, ghi chép bằng tiếng Hán cũng có những hạn chế nhất định. Chữ Hán là hệ chữ vuông, đa phần các con chữ được cấu tạo từ nhiều nét khác nhau, vì vậy, việc ghi chép bằng tiếng Hán không phải là việc thuận tiện dễ dàng với người phiên dịch là người Việt Nam dù người đó có biết qui tắc viết chữ thảo. Khảo sát cho thấy, các bản ghi chép thông thường kết hợp cả tiếng tiếng Việt và tiếng Hán với hệ thống ký hiệu phổ quát và hệ thống ký hiệu do người phiên dịch tự sáng tạo. Ví dụ: “人d ” nghĩa là “người dân, nhân dân”; “人d中” nghĩa là người dân Trung Quốc hoặc nhân dân Trung Quốc. Tương tự như trên, ghi chép khi phiên dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, người phiên dịch là người Việt Nam cũng gặp những thuận lợi và khó khăn nhất định. Khi diễn giả trình bày bằng tiếng Hán, người phiên dịch chịu áp lực về nghe và nắm bắt thông tin. Họ phải tập trung cao độ để bắt ý, lý giải phân tích nội dung diễn giả trình bày. Cũng vì lý đó, việc ghi chép buộc phải tập trung vào ghi ý, người phiên dịch phải trình bày mạch ý của diễn giả theo một sơ đồ lôgic, rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc ghi chép bằng tiếng Việt đồng thời là quá trình phiên dịch, khi diễn giả dừng trình bày, người phiên dịch nhìn vào bản ghi chép và thực hiện chuyển ngữ. Nhìn chung, trong trường hợp dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, đa phần các phiên dịch là người Việt Nam đều lựa chọn ghi chép bằng tiếng Việt, họ chỉ sử dụng tiếng Hán trong những trường hợp con chữ ít nét, có tính khái quát và nằm trong hệ thống qui tắc tự xác lập của mình. Ví dụ, ghi chép lại đoạn băng diễn giả trình bày có nội dung như sau, người phiên dịch có thể kết hợp cả tiếng Việt và tiếng Hán: “中国和越南山水相连,两国人民长期互相 支持,结下了深厚情谊。我曾经于2011年12月 访问越南,并会见了参加第十二届中越青年友 好会见的两国青年代表。几百名年轻人同唱歌 颂两国传统友谊的歌曲《越南—中国》,给我 留下了深刻印象。听说有部分代表今天也来到 了人民大会堂,欢迎你们! 当前,中国人民正在为全面建成小康社 会、实现中华民族伟大复兴的中国梦而团结奋 斗,协调推进全面建成小康社会、全面深化改 革、全面依法治国、全面从严治党,越南也在 全力推进革新事业。在发展道路上,双方应该 继续加强人文交流、增进睦邻友好,使中越传 统友谊在两国人民中代代相传” 。 Bảng 2. Sơ đồ ghi chép nội dung đoạn văn diễn giả trình bày bằng tiếng Hán Lưu trữ nội dung thông tin diễn giả trình bày được người phiên dịch thực hiện dựa vào hai cách, ghi nhớ trong não bộ và ghi chép trên giấy. Trong hoạt động dịch nói, trí nhớ được phát huy tối đa, khi diễn giả trình bày nội dung quá phạm vi lưu trữ của trí nhớ ngắn hạn, người phiên dịch phải nhờ vào sự hỗ trợ của ghi chép. Có thể thấy ghi chép đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho trí nhớ, giúp hoạt động phiên dịch diễn ra suôn sẻ, đầy đủ và chính xác. Người phiên dịch chỉ ghi chép ý chính, không nặng về ghi chép toàn bộ như tốc ký thông thường, quá sa đà vào ghi chép đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến việc lý giải, cấu trúc lại ngôn ngữ nguồn và chuyển ngữ. Nội dung ghi chép trong hoạt động dịch nói chủ yếu là các khái niệm, mệnh đề, tên riêng, con số, cơ cấu tổ chức, các mối quan hệ lôgic. Ghi chép trong dịch nói thường dùng những từ ngữ, ký hiệu biểu đạt một tập hợp ý. 43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 4. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN KỸ THUẬT GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY DỊCH NÓI Để ghi chép hiệu quả trong hoạt động dịch nói, người phiên dịch cần rèn luyện kỹ thuật ghi chép thật nghiêm túc và bài bản. Kỹ thuật ghi chép là kỹ thuật sử dụng hệ thống ký hiệu, cách nói tắt và những qui tắc riêng, tạo nên hệ thống sơ đồ ý, kết hợp nội dung lưu trữ bằng trí nhớ ngắn hạn, dài hạn, nhằm phục vụ cho quá trình chuyển ngữ (王斌华, 2006, tr.312). Nhìn chung để có kỹ thuật ghi chép tốt, người phiên dịch phải có kế hoạch rèn luyện kỹ thuật ghi chép một cách nghiêm túc. Xác định được tầm quan trọng của ghi chép, trong các giờ học thực hành dịch nói tại nhà trường, giảng viên có thể thiết kế các bài học, lựa chọn các băng hình, xác định mục tiêu yêu cầu cụ thể, lựa chọn phương pháp phù hợp, giúp người học rèn luyện và từng bước nâng cao kỹ thuật ghi chép, đặt nền móng vững chắc cho công việc thực tế sau này. 4.1. Ghi chép không giới hạn thời gian Ghi chép không giới hạn thời gian là hoạt động ghi chép được tiến hành từ khi bắt đầu bật băng hình, người học vừa xem băng hình, vừa phân tích lôgic nội dung, vừa ghi chép, cho đến khi hoàn thành việc ghi chép. Sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học nhìn vào bản ghi chép và thuật lại bằng lời. Trước hết, người học thuật lại nội dung băng hình bằng ngôn ngữ nguồn, tiếp đến thuật lại bằng ngôn ngữ mục tiêu. Việc thuật lại nội dung ghi chép có thể diễn ra nhiều lần, sau mỗi lần người học có thể chỉnh sửa, rút kinh nghiệm sao cho có bản dịch ngắn gọn, đủ ý nhất. Hình thức luyện tập này không chịu áp lực về nghe bắt thông tin, không bị giới hạn về thời gian, đây là hình thức dễ nắm bắt và thuần thục đối với những người mới học. Yêu cầu của hình thức này là người học phải rèn kỹ thuật bắt ý, tóm ý, trình bày ý theo một sơ đồ ý đầy đủ và vắn tắt. Giảng viên có thể lựa chọn băng hình luyện tập ghi chép bằng tiếng Việt hoặc tiếng Hán phù hợp. Trên cơ sở luyện tập, người học rút kinh nghiệm và bắt đầu hình thành cho mình hệ thống ký hiệu và bộ qui tắc ghi chép. 4.2. Ghi chép có giới hạn thời gian Ghi chép có giới hạn thời gian là hình thức ghi chép diễn ra trong khoảng thời gian xác định. Thông thường sau khi dừng băng hình, người học hoàn thành việc ghi chép trong khoảng thời gian ít nhất bằng thời gian chạy băng hình hoặc hơn một chút. Ví dụ, sau khi xem một đoạn băng hình dài 1 phút 30 giây, người học có thể hoàn thành ghi chép nội dung đoạn băng trong 1 phút 45 giây, tính từ thời điểm dừng băng. Sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học thuật lại nội dung đoạn băng vừa xem bằng ngôn ngữ nguồn, hoặc ngôn ngữ đích. Nếu người học hoàn thành việc ghi chép trong 1 phút 45 giây, lần luyện tập tiếp theo sẽ rút ngắn thời gian ghi chép xuống 1 phút 35 giây. Sau khi đạt được mục tiêu luyện tập, tiếp tục rút ngắn thời gian lần ghi chép tiếp theo xuống 1 phút 30 giây, hoặc 1 phút 25 giây và thuật lại nội dung sau mỗi lần ghi chép. Hình thức luyện tập này tạo cho người học áp lực về thời gian, trên cơ sở đó, người học rèn luyện năng lực nhận biết, nắm bắt thông tin, sắp xếp chỉnh ý, điều chỉnh cách ghi chép, nâng cao kỹ thuật ghi chép. 4.3. Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Việt theo các cấp độ thời gian Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Việt là hình thức xem băng hình tiếng Việt, ghi chép lại nội dung, sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học sẽ dùng tiếng Hán để thuật lại nội dung mình vừa ghi chép. Cùng một đoạn băng hình, người học tiến hành luyện tập nhiều lần, đồng thời tiến hành so sánh việc ghi chép giữa các lần thực hành, từ đó rút kinh nghệm, chỉnh sửa để có bản ghi chép hiệu quả. Với người học là người Việt Nam, việc xem băng hình tiếng mẹ đẻ sẽ không mấy khó khăn, không ảnh hưởng đến hoạt động nắm bắt thông tin. Việc rèn luyện kỹ thuật ghi chép nên bắt đầu tiến hành từ ghi chép nội dung các băng hình bằng tiếng Việt, chú ý cách phân bố sức tập trung, phối hợp nhịp nhàng giữa nghe và ghi chép, luyện tập từ không giới hạn thời gian, đến có giới hạn thời gian, chú trọng rèn luyện biểu đạt nội dung sơ đồ ý đã ghi chép từ tiếng Việt sang tiếng Hán. 44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 4.4. Ghi chép nội dung băng hình tiếng Hán tốc độ chậm Ghi chép theo băng hình tiếng Hán tốc độ chậm là hình thức xem băng hình tiếng Hán với tốc độ chậm và tiến hành ghi chép lại nội dung. Sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học thuật lại nội dung băng hình bằng tiếng Việt. Cùng một đoạn băng hình, có thể luyện tập lặp lại nhiều lần, với yêu cầu khác nhau về mặt thời gian và so sánh kết quả ghi chép sau mỗi lần, tìm ra những điểm tồn tại, rút kinh nghiệm, chỉnh sửa cho đến khi có bản ghi chép đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nhất. Mặc dù tốc độ nói trong băng hình chậm, nhưng vì tiếng Hán với người Việt Nam là ngoại ngữ, nên đòi hỏi người học phải có khả năng nghe hiểu, sàng lọc thông tin và sắp xếp ý tốt. Việc phân bố sức tập trung giữa nghe và ghi chép là hết sức quan trọng, cần rèn luyện sao cho hoạt động ghi chép không ảnh hưởng đến hoạt động nghe, nắm bắt thông tin và ngược lại. 4.5. Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Hán tốc độ chuẩn Về mặt hình thức, luyện tập ghi chép băng hình tiếng Hán tốc độ chuẩn cũng tương tự như các hình thức luyện tập trên. Để khắc phục áp lực nghe để nắm bắt thông tin, cần phải lựa chọn các băng hình tiếng Hán từ dễ đến khó, từ băng hình có nội dung quen thuộc đến băng hình có nội dung mới, từ không giới hạn thời gian đến có giới hạn thời gian, từng bước giảm áp lực nghe bắt thông tin. Nội dung băng hình cũng có thể tăng dần độ khó, từ những bài phát biểu, đối thoại có kết cấu rõ ràng, đến những bài có kết cấu lôgic nội dung phức tạp hơn, đòi hỏi sự phân tích như phỏng vấn, đưa tin, phát biểu hội nghị... Luyện tập lặp lại nhiều lần với cùng một băng hình, khi đã thuần thục, tiếp tục luyện tập vừa nghe vừa ghi, cho đến khi hoạt động ghi chép kết thúc cùng lúc với hoạt động nói của diễn giả. 4.6. Một số ký hiệu phổ quát có thể áp dụng vào ghi chép trong dịch nói Các ký hiệu hoặc viết tắt dùng ghi chép trong dịch nói tuy mang tính cá nhân của mỗi người phiên dịch, nhưng cơ bản nằm trong hệ thống ký hiệu phổ quát, đa số mọi người có thể hiểu được. Và dù bộ quy tắc ký hiệu có gọn nhẹ đến mức nào, thì nó phải là hệ thống ký hiệu mà bộ não con người dễ nhận biết, tránh những phiền toái không cần thiết dẫn đến làm chậm tốc độ phiên dịch, thậm chí dẫn đến sai lệch ảnh hưởng chất lượng phiên dịch. Người phiên dịch có thể dựa vào hệ thống các ký hiệu quốc tế để hình thành cho mình bộ quy tắc viết tắt riêng. Đây là bộ quy tắc riêng của từng người phiên dịch, không phải hệ thống qui tắc viết tắt mặc định cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, đó là hệ thống qui tắc mang tính gợi ý, có thể áp dụng rộng rãi, ví dụ một số ký hiệu dưới đây có thể biểu đạt ý theo một quy tắc nhất định: Bảng 3. Một số ký hiệu phổ quát có thể áp dụng ghi chép trong dịch nói Ký hiệu Ý biểu đạt Ký hiệu Ý biểu đạt ↑ Tăng lên, phát triển, gia tăng ⃝ Quốc gia, đất nước ↓ Giảm xuống, đi xuống, thụt lùi Ω Bao gồm trong đó, bao hàm cả, thâu tóm trọn vẹn ↑↑ Ngày càng mạnh, tăng mạnh, nỗ lực hết mức ≠ Không giống với, khác so với, biến đổi ↓↓ Ngày càng yếu, giảm mạnh, trượt mạnh = Bằng với, đồng nghĩa với, có nghĩa là ↕ Xuyên suốt trên dưới Mãi mãi, dài lâu, trường tồn → Suy ra, dẫn đến, kéo theo ≈ Tương đương với, ngang với ← Nhìn lại phía trước, trở về trước ≡ Tồn tại ↔ Tác động hai chiểu, tương quan √ Chính xác, đạt tiêu chuẩn * Xuất sắc, ưu tú, tuyệt vời × Không chính xác, sai, bỏ đi *: Cảnh báo ϴ Đe dọa ~ Liên quan đến, có quan hệ với, quan hệ, liên hệ ≤ Nhỏ hơn hoặc ngang bằng với ø Vô tác dụng, ko có gì, trống rỗng ≥ Lớn hơn hoặc ngang bằng với ? Nguyên nhân, nghi vấn, tại sao є Thuộc về, qui về Δ Đại diện cho, tượng trưng cho ˃˂ Trái ngược với, mâu thuẫn, xung đột, đối đầu ++ Cực mạnh, cực tốt, cực nhiều || Tuy nhiên, vả lại 45KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v ˗ ˗ Vô cùng yếu, vô cùng tệ // Song song với, đồng thời với, cùng lúc với / bên cạnh đó § Sự kết nối | chấm dứt, ngăn chặn $ Tiền bạc )+ Ngoài giới hạn, đã vượt mức ∑ Tổng cộng +) Trong giới hạn, chưa vượt mức ∞ Vô cùng, vô tận ⃝ → Xâm nhập, xâm lấn ∀ Tất cả, mọi thứ : Nhận định, cho rằng, thể hiện ┤ Dừng lại ở, tính đến dừng lại + Nổ lực phát triển, nỗ lực phấn đấu - Tăng trưởng âm, thụt lùi... Ghi chép trong dịch nói đòi hỏi tốc độ nhanh, ý cô đọng, tránh tối đa sự cẩu thả, rối rắm khó nhận biết. Nội dung thông tin thu được từ ngôn ngữ nguồn qua đi rất nhanh, người phiên dịch phải có ý thức rèn luyện khả năng ghi chép nhanh, ký hiệu rõ ràng dễ nhận biết. Ghi chép có thể dùng ngôn ngữ nguồn hoặc ngôn ngữ đích để lưu lại nội dung của diễn giả, cũng có thể kết hợp cùng lúc cả ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Ngoài ra hệ thống ký hiệu phổ quát, hệ thống ký hiệu riêng do mỗi cá nhân tự tạo nên cũng có thể được tận dụng để đẩy nhanh tốc độ ghi chép. Có nhiều phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép, giảng viên có thể lựa chọn các phương pháp rèn luyện phù hợp, đặt ra yêu cầu và hướng dẫn người học từng bước rèn luyện, đi đến thuần thục kỹ thuật này. 5. KẾT LUẬN Trong dịch nói, ghi chép đóng vai trò hỗ trợ rất lớn cho ghi nhớ, giúp giảm áp lực và bù đắp những hạn chế cho trí nhớ ngắn hạn của người phiên dịch. Bên cạnh đó, trong quá trình dịch nói, ghi chép còn là quá trình sắp xếp, tái cấu trúc ngôn ngữ nguồn, giúp hoạt động ghi nhớ chuyển từ bị động sang chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động ghi nhớ. Nắm bắt đặc điểm, vai trò của ghi chép, thiết kế chương trình rèn luyện kỹ thuật ghi chép hợp lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo phiên dịch. Trên cơ sở nghiên cứu, áp dụng thành quả của người đi trước, tổng kết thực tiễn giảng dạy và học tập môn thực hành dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, chúng tôi tóm tắt một số đặc điểm và phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép trong dịch nói. Hy vọng, nội dung đề cập trong bài viết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động giảng dạy, đào tạo phiên dịch tại Học viện Khoa học Quân sự./. Tài liệu tham khảo: Phan Vũ Tuấn Anh (2013), Giáo trình Phiên dịch Trung-Việt đối ngoại, Học viện Ngoại giao, Hà Nội. Nguyễn Hữu Cầu (2007), Lý thuyết đối dịch Hán-Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng dẫn kỹ thuật phiên dịch Anh-Việt Việt-Anh, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do, NXB Hồng Đức, Hà Nội. 鲍刚(2005),口译理论概述,中国对外翻译出版公司,北京。 刘和平(2005),口译理论与教学,中国对外翻译出版公司,北京。 刘建珠(2012),口译技能训练教程,武汉大学出版社,武汉。 桂诗春(1985),心理语言学,上海外语教育出版社,上海。 王斌华(2006),口译:理论、技巧、实践,武汉大学出版社,武汉。 46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY SOME METHODS FOR NOTE-TAKING SKILL PRACTICE IN INTERPRETATION TEACHING BY CHINESE FACULTY, MILITARY SCIENCE ACADEMY NGUYEN THI THIEM Abstract: In translating activity, for a limited amount of time, when the amount of information exceeds the memory capacity of the brain, the translator must rely on the support of the note- taking. Techniques of note-taking in spoken translation have specific characteristics, training note- taking techniques contribute to assure quality and improve translation efficiency. Determining the importance of taking notes, in teaching practice of speaking, the design of lessons that trains note- taking technique for learners, training a team of interpreters with good skills to translate to meet practical requirements is essential. Basing on the study of summarizing the results of previous people, combined with a review of practical experience, we summarize the characteristics of note-taking techniques and some methods of training note-taking techniques for Chinese major students at Military Science Academy. Keywords: translation, methods, note-taking techniques, memorizing, system of symbols Received: 11/01/2019; Revised: 14/02/2019; Accepted: 15/5/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfban_ve_mot_so_phuong_phap_ren_luyen_ky_thuat_ghi_chep_trong_giang_day_dich_noi_tai_khoa_tieng_trung.pdf
Tài liệu liên quan