Tài liệu Bản tin cảnh giác dược - Số 2-2016: Trung tâm DI & ADR Quốc gia
XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
Liver function tests
NHIỄM TOAN LACTIC DO METFORMIN,
MỘT NGUY CƠ KHÔNG THỂ BỎ QUA
Metformin-associated lactic acidosis
TƯƠNG TÁC GIỮA SPIRONOLACTON VÀ THUỐC ỨC CHẾ
HỆ RENIN-ANGIOTENSIN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM:
NGUY CƠ TĂNG KALI MÁU ĐE DỌA TÍNH MẠNG
Interaction of spironolactone with renin-angiotensin system inhibitors in heart failure
treatment: risk of potentially fatal hyperkalemia
HƯỚNG DẪN KÊ ĐƠN AN TOÀN CHO THUỐC CÓ NGUY CƠ CAO
METHOTREXAT: NGUY CƠ TỬ VONG TIỀM TÀNG DO QUÁ LIỀU
Safer prescribing of high-risk medicine - Methotrexate: potentially fatal in overdose
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR QUÝ I NĂM 2016
ADR reporting activity summary (first 3 months of 2016)
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
Pharmacovigilance highlights
1
3
5
7
10
10
MỤC LỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS. TS. Nguyễn Đăng Hòa
Ban biên tập: PGS. TS. Nguyễn Trường Sơn
PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh
TS. Nguyễn Quốc Bình
ThS. Võ Thị Thu Thủy...
20 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bản tin cảnh giác dược - Số 2-2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
Liver function tests
NHIỄM TOAN LACTIC DO METFORMIN,
MỘT NGUY CƠ KHÔNG THỂ BỎ QUA
Metformin-associated lactic acidosis
TƯƠNG TÁC GIỮA SPIRONOLACTON VÀ THUỐC ỨC CHẾ
HỆ RENIN-ANGIOTENSIN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM:
NGUY CƠ TĂNG KALI MÁU ĐE DỌA TÍNH MẠNG
Interaction of spironolactone with renin-angiotensin system inhibitors in heart failure
treatment: risk of potentially fatal hyperkalemia
HƯỚNG DẪN KÊ ĐƠN AN TOÀN CHO THUỐC CÓ NGUY CƠ CAO
METHOTREXAT: NGUY CƠ TỬ VONG TIỀM TÀNG DO QUÁ LIỀU
Safer prescribing of high-risk medicine - Methotrexate: potentially fatal in overdose
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR QUÝ I NĂM 2016
ADR reporting activity summary (first 3 months of 2016)
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
Pharmacovigilance highlights
1
3
5
7
10
10
MỤC LỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS. TS. Nguyễn Đăng Hòa
Ban biên tập: PGS. TS. Nguyễn Trường Sơn
PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh
TS. Nguyễn Quốc Bình
ThS. Võ Thị Thu Thủy
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc
và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (04) 3933 5618 - Fax: (04) 3933 5642
Bản tin được xuất bản bằng sự hỗ trợ kinh phí từ dự án Quỹ Toàn
cầu - Hỗ trợ hệ thống y tế - Hợp phần 2.1 - Tăng cường các hoạt động
Cảnh giác dược.
Giấy phép xuất bản số 18/GP-XBBT do Cục Báo chí, Bộ Thông tin
và Truyền thông cấp ngày 18/3/2016.
Thiết kế và sản xuất bởi Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Thương
Mại An Lạc.
1No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
Nguồn: Actualités pharmaceutiques số 544, tháng 3/2015
Người dịch: Dương Thị Thanh Mai, Nguyễn Khắc Dũng
Xét nghiệm chức năng gan là một
trong những xét nghiệm sinh hóa thường
được chỉ định để đánh giá các chức năng
khác nhau của gan hoặc đưa ra bằng
chứng về tổn thương gan. Xét nghiệm
chức năng gan được chỉ định trong tổng
thể xét nghiệm khi sút cân không rõ
nguyên nhân, nghiện rượu, có các bệnh lý
về gan và trong quá trình theo dõi điều trị
của nhiều thuốc. Xét nghiệm chức năng
gan cũng được chỉ định khi xuất hiện một
số dấu hiệu lâm sàng như vàng da, buồn
nôn và nôn liên tục.
Xét nghiệm chức năng gan bao gồm việc
định lượng một số enzym hoặc một số chất
chuyển hóa hoặc tổng hợp tại gan để đánh giá
chức năng và chuyển hóa của cơ quan này. Các
xét nghiệm sinh hóa chính thường được thực
hiện bao gồm định lượng các transaminase, γGT
(gamma-glutamyl transpeptidase), phosphatase
kiềm và bilirubin (bảng 1).
- Các transaminase (hay aminotransferase),
alanin aminotransferase (ALAT hoặc GPT) và
aspartate aminotransferase (ASAT hay GOT) là
những enzym được giải phóng trong tuần hoàn khi
có tổn thương tế bào và đưa ra những dấu hiệu về
chức năng gan. Các enzym này có nhiều trong gan
và cơ. ALAT có chủ yếu trong gan. Tăng nồng độ
ALAT trong huyết tương là dấu hiệu của tổn thương
tế bào gan. Vì vậy xét nghiệm này đặc hiệu cho tổn
thương tế bào gan hơn so với ASAT. ASAT không
chỉ có trong gan mà còn có cả trong cơ tim, cơ vân,
thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu.
- γGT được tổng hợp bởi tế bào gan và tế
bào biểu mô ống mật. Đây là những chất chỉ thị
cho tình trạng gan ứ mật nhưng kém đặc hiệu
và có thể tăng cao trong nhiều trường hợp như
đái tháo đường, nghiện rượu, ứ mật, các bệnh
lý tụy, nhồi máu cơ tim, suy thận, bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính (COPD) và do dùng một số loại
thuốc. Có một tỷ lệ nhất định (ví dụ 3-5% người
Pháp) có tăng γGT không có triệu chứng.
- Phosphatase kiềm có trong gan, ruột, xương,
nhau thai và thận. Tương tự γGT, đây là một dấu
hiệu của tình trạng ứ mật.
- Bilirubin là một chất sắc tố màu vàng, được
tổng hợp bởi hệ thống lưới nội mô của tế bào gan,
chuyển hóa trong huyết tương, liên hợp ở gan và
bài tiết theo đường mật và đường ruột. Bilirubin
cũng được chuyển hóa thành sắc tố mật và sau
đó được tái hấp thu hoặc thải trừ theo phân.
Bilirubin liên hợp thường không xuất hiện trong
huyết tương. Bilirubin toàn phần bao gồm bilirubin
tự do và bilirubin liên hợp.
- Các xét nghiệm chính trên có thể được bổ sung
bằng một số xét nghiệm khác giúp đưa ra chẩn đoán
chính xác hơn bao gồm: cholesterol máu (chủ yếu
được sản xuất ở gan), albumin, fibrinogen, điện di
protein, tỷ lệ prothrombin (TP), yếu tố đông máu V,
enzym 5’-nucleotidase (enzym có mặt trong nhiều
tế bào, đặc biệt là tế bào gan) hay là amoniac máu.
- Các xét nghiệm khác là chỉ thị đặc hiệu cho
bệnh gan như :
+ Alpha-fetoprotein (AFP), chất chỉ thị của
khối u, là protein được sản xuất ở gan trong các
trường hợp ung thư hoặc xơ gan, được chỉ định
theo dõi ở bệnh nhân viêm gan B và C mạn tính
có khả năng chuyển sang ung thư carcinom tế
bào gan.
+ Định lượng transferrin thiếu hụt carbohydrat
(CDT), đây là protein tổng hợp ở gan, liên quan
chính xác nhất đến tình trạng nghiện rượu.
+ Xét nghiệm huyết thanh với virus gây viêm
gan B và C.
Bảng 1: Các giá trị tham chiếu bình thường
trong thăm dò chức năng gan
- ASAT, ALAT: 5-35 UI/L.
- Bilirubin liên hợp: <5 micromol/L (<4 mg/L).
- Bilirubin không liên hợp: <15 micromol/L.
- Bilirubin toàn phần: <17 micromol/L (<10 mg/L).
- γGT: 8-35 UI/L.
- Phosphatase kiềm: 30-100 UI/L.
Chỉ định xét nghiệm
Xét nghiệm chức năng gan được yêu cầu
khi bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng gợi ý
tình trạng rối loạn chức năng gan hoặc túi mật
(vàng da, ):
- Tiền sử gia đình có bệnh gan.
- Béo phì.
- Tăng lipid máu.
- Đái tháo đường.
- Có các yếu tố nguy cơ viêm gan virus như
quan hệ tình dục không an toàn, tiêm chích ma
túy hoặc truyền máu.
Xét nghiệm này cũng có thể được chỉ định
khi đánh giá tổng thể một bệnh nhân suy nhược,
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
trong trường hợp sút cân đột ngột, khi theo dõi
ung thư, xơ gan và khi đánh giá một bệnh nhân
nghiện rượu. Cho dù xét nghiệm γGT có độ đặc
hiệu không cao nhưng nồng độ ban đầu của enzym
này ở một bệnh nhân nghiện rượu có giá trị giúp
theo dõi sự thay đổi sau đó, là chỉ thị chuẩn đánh giá
mức độ tiêu thụ rượu của bệnh nhân.
Tiến hành
Xét nghiệm chức năng gan được tiến hành
bằng cách lấy máu tĩnh mạch. Cần ghi nhận tất cả
các thuốc đang sử dụng của người bệnh có khả
năng làm thay đổi kết quả xét nghiệm (bảng 2).
Diễn giải kết quả xét nghiệm
Các rối loạn chức năng chính của gan là suy
gan (hay suy tế bào gan), ly giải tế bào gan, ứ mật
(có hoặc không vàng da) và viêm nhu mô gan.
Các transaminase: giá trị của ASAT có thể giảm
trong thời kỳ mang thai. Ngược lại, việc tiêm
bắp hoặc tập thể dục cường độ lớn dẫn đến
tăng lượng ASAT.
- Sự gia tăng transaminase có thể phản ánh
các rối loạn dinh dưỡng, đặc biệt là chứng béo
phì (tuy nhiên sự gia tăng này không tương
quan đến mức độ béo phì), tình trạng đái tháo
đường kiểm soát kém, hoặc một chế độ ăn quá
nhiều năng lượng cũng có thể dẫn đến các rối
loạn về gan.
- ASAT và ALAT tăng đáng kể và tương
đương nhau (gấp 10 lần giới hạn trên) có thể
là dấu hiệu của viêm gan cấp hoặc một tổn
thương cấp tính không viêm gây ra bởi các
thuốc như paracetamol, thuốc nhóm fibrat
hoặc các thuốc chống động kinh, ngộ độc do
nấm (đặc biệt là nấm amanita), hoặc các trường
hợp tắc ống mật. Nếu tăng vừa phải hoặc không
liên tục (2 đến 10 lần mức thông thường), tất cả
các nguyên nhân gây bệnh ở gan và đường mật
đều bị nghi ngờ.
- Nếu hàm lượng ASAT tăng lớn hơn ALAT,
nguyên nhân có thể là một tổn thương ở cơ
(nồng độ creatinine phosphokinase (CPK) cho
phép khẳng định chẩn đoán), viêm gan do rượu
hoặc xơ gan.
- Các chướng ngại ở đường mật (sỏi mật,
khối u) có thể là nguyên nhân gây tăng các
transaminase. Trong trường hợp có ly giải tế bào
gan và trong hoại tử cơ, nồng độ của ASAT tăng
nhiều hơn so với ALAT.
Bảng 2: Các thuốc cần theo dõi chức năng gan khi sử dụng
Có nhiều thuốc có khả năng gây ra hoặc làm trầm trọng hơn rối loạn chức năng gan bao gồm:
- Thuốc giảm đau (paracetamol, các thuốc chống viêm không steroid);
- Thuốc tim mạch (amiodaron, chẹn kênh calci);
- Thuốc chống đông, chống kết tập tiểu cầu (fluindion, rivaroxaban, dabigatran, clopidogrel, prasugrel);
- Thuốc hạ cholesterol máu (các statin, ezetimib, acid nicotinic);
- Kháng sinh (nhóm cyclin, amoxicilin/acid clavulanic, cephalosporin, macrolid, nitrofurantoin, aminosid,
sulfamethoxazol/trimethoprim, isoniazid, rifampicin);
- Thuốc kháng retrovirus;
- Thuốc chống nấm (terbinafin, ketoconazol);
- Isotretinoin;
- Thuốc hạ đường huyết đường uống (sulfamid, acarbose, glitazon, repaglinid);
- Thuốc ức chế miễn dịch (ciclosporin, azathioprin, methotrexat, thuốc ức chế yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α), );
- Thuốc chống động kinh (carbamazepin, acid valproic, phenytoin, primidon, gabapentin, lamotrigin,
levetiracetam, );
- Thuốc điều trị Parkinson (entacapon, tolcapon);
- Thuốc chống trầm cảm (mianserin, mirtazapin, duloxetin, );
- Montelukast;
- Thuốc điều trị gút (allopurinol, febuxostat, probenecid).
Một số loại cây cỏ cũng có thể gây độc gan: hoa chuông, keo gai, tía tô đất, thổ hoàng liên, kava-kava, trà
xanh, keo lá nhọn, cây mồ hôi,
γGT
- Sự tăng đơn độc γGT có thể do nhiều nguyên
nhân: các bệnh lý gan mật, nghiện rượu lâu năm,
do dùng thuốc (đặc biệt là phenobarbital), béo
phì, đái tháo đường, tăng lipid máu, cường giáp.
- Tăng đồng thời γGT và các transaminase
thường gặp trong các trường hợp hoại tử tế bào
gan, trong khi tăng γGT kèm theo tăng phosphatase
kiềm có thể là biểu hiện của ứ mật.
Phosphatase kiềm
- Nồng độ photphatase kiềm tăng theo thay
đổi sinh lý ở trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn
phát triển và trong giai đoạn ba tháng giữa và ba
tháng cuối của thai kỳ, cũng như trong các bệnh
lý như ứ mật do sự sản xuất quá nhiều enzym này
của tế bào gan, bệnh lý về xương bao gồm tăng
sinh nguyên bào xương (bệnh nhuyễn xương,
bệnh Paget xương, ung thư xương di căn, ).
3No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
- Phosphatase kiềm giảm thường đi kèm với
rối loạn chức năng gan nghiêm trọng (suy gan)
khởi phát bởi xơ gan hoặc viêm gan.
Bilirubin
Tăng bilirubin bệnh lý gây ra vàng da và các
niêm mạc. Cần phân biệt vàng da do bilirubin
tự do gây ra bởi sự phá hủy hồng cầu hàng loạt
(tan huyết) và vàng da do bilirubin liên hợp gây
ra bởi chít hẹp đường mật (sỏi, khối u đường
mật hoặc tụy, viêm gan hoặc xơ gan).
Siêu âm gan-mật-tụy có thể được chỉ định
bổ sung để đưa ra chẩn đoán chính xác.
Thời gian Quick hoặc tỷ số prothrombin
Các yếu tố đông máu được tổng hợp tại gan,
thời gian Quick kéo dài và tỷ lệ prothrombin giảm
trong trường hợp suy giảm chức năng gan.
Yếu tố đông máu V
Sự giảm mạnh yếu tố đông máu V đặc hiệu
cho tình trạng suy gan cấp và là một dấu hiệu
của tiến triển hay trầm trọng thêm tình trạng
tổn thương tế bào gan. Nguyên nhân có thể do
virus (virus viêm gan A hoặc B, Herpes simplex, ),
ngộ độc (nấm amanit phaloid, rượu, ) hoặc
do thuốc (ngộ độc paracetamol). Chỉ định ghép
gan trong viêm gan kịch phát được dựa trên sự
giảm mạnh nồng độ yếu tố V (<30%).
Albumin
Albumin giảm trong các trường hợp suy tế
bào gan.
Paracetamol và nhiễm độc gan
Paracetamol là một trong những thuốc
được sử dụng nhiều nhất trong các đơn thuốc
cũng như trong số các thuốc bệnh nhân tự
dùng (không cần kê đơn). Tuy nhiên, phạm vi
điều trị của thuốc này tương đối hẹp. Độc tính
tiềm tàng trên gan của paracetamol dao động
lớn giữa các cá thể và phụ thuộc rất nhiều vào
sự có mặt của các yếu tố nguy cơ cũng như liều
paracetamol sử dụng.
Những yếu tố nguy cơ này dù có mặt riêng
lẻ hay đồng thời cần được đánh giá khi sử dụng
paracetamol liều cao và/hoặc kéo dài: ăn kiêng
hoặc suy dinh dưỡng, nghiện rượu lâu năm, sử
dụng thường xuyên hoặc lạm dụng paracetamol,
dùng thuốc gây cảm ứng CYP450 (phenobarbital,
carbamazepin, phenytoin, rifampicin, ) và các
bệnh lý gan cấp và mạn tính.
NHIỄM TOAN LACTIC DO METFORMIN,
MỘT NGUY CƠ KHÔNG THỂ BỎ QUA
Nguồn: Actualités pharmaceutiques số 524, tháng 3/2013
Người dịch: Hồ Ngọc Phú, Lê Bá Hải
Nhiễm toan lactic là một tai biến hiếm gặp
nhưng nghiêm trọng và thường gây tử vong ở
bệnh nhân. Trong phần lớn các trường hợp xảy
ra biến cố, metformin được coi là yếu tố tăng
nặng do có tác dụng ức chế quá trình tân tạo
glucose từ các cơ chất khác nhau, trong đó có
lactat. Vì vậy, những bệnh nhân đang điều trị
bằng metformin cần được rà soát và rất thận
trọng với những yếu tố nguy cơ liên quan thuộc
về bệnh nhân. Khi xuất hiện những dấu hiệu
nghi ngờ đầu tiên, như chuột rút, tình trạng yếu
cơ, nhược cơ nặng, đau vùng bụng hoặc ngực,
cần tạm dừng điều trị ngay và xác định nồng
độ lactat trong máu. Lưu ý, nồng độ metformin
trong hồng cầu có giá trị tin cậy cao hơn nồng độ
trong huyết tương.
Nhiễm toan lactic có thể xuất hiện khi xảy
ra tình trạng tích lũy metformin. Các ca báo cáo
được ghi nhận chủ yếu trên những bệnh nhân
đái tháo đường được điều trị bằng metformin,
có kèm theo tình trạng suy giảm đáng kể chức
năng thận. Tần suất xuất hiện của biến cố này
(dao động từ 2-9/100 000 bệnh nhân/năm) có
thể giảm thông qua đánh giá đầy đủ các yếu tố
nguy cơ liên quan trên bệnh nhân bao gồm: kiểm
soát đường huyết kém, nhiễm toan ceton, nhịn ăn
dài ngày, nghiện rượu, suy gan hay tất cả các bệnh lý
liên quan đến thiếu oxy.
Nhiễm toan lactic
Nhiễm toan lactic là một trạng thái nhiễm
toan chuyển hóa do giải phóng ion H+ từ acid
lactic. Đây là một biến cố hiếm gặp nhưng
nghiêm trọng, gây tử vong cho khoảng 50% số
ca được ghi nhận, thường liên quan đến việc kê
đơn nhóm thuốc biguanid không hợp lý.
Cơ chế giải thích quá trình nhiễm toan lactic
do metformin liên quan đến nhiều yếu tố. Trong
đó, cơ chế chính là ức chế tân tạo glucose từ các
cơ chất khác nhau, trong đó có lactat. Metformin
cũng có khả năng thúc đẩy quá trình đường phân
tạo ra lactat tại ruột.
Những nguyên nhân khác của nhiễm toan
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
lactic cũng cần được xem xét như sốc và các bệnh
lý liên quan đến tình trạng thiếu oxy mô, suy gan,
suy thận, kiểm soát đường huyết kém, nhiễm ceton,
nhịn ăn dài ngày và nghiện rượu,
Ba tình huống lâm sàng
Nhiễm toan lactic "liên quan đến metformin"
được chia thành 3 trường hợp riêng biệt:
- Nhiễm toan lactic do các nguyên nhân
khác, sự có mặt của metformin không được xác
định: tiên lượng kém.
- Metformin là nguyên nhân chính gây
nhiễm toan lactic: tiên lượng tốt hơn.
- Tích lũy metformin làm nặng thêm các nguyên
nhân khác gây nhiễm toan lactic: thường xảy ra nhất.
Suy thận là nguyên nhân chính gây tích lũy
metformin. Nhiễm toan lactic được báo cáo ở những
bệnh nhân điều trị bằng metformin đồng thời với
các thuốc có khả năng thay đổi chức năng thận khác
như thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), lợi
tiểu, ức chế men chuyển và chẹn thụ thể AT1.
Tất cả các trường hợp có nguy cơ trên đều
dẫn đến phải ngừng tạm thời metformin, tuy
nhiên không trường hợp nào phải ngừng vĩnh
viễn sử dụng thuốc này. Một số thuốc có thể gây
ra nhiễm toan lactic khi kết hợp với metformin bao
gồm clozapin, adrenalin, lamivudin, nitroglycerin,
papaverin, diazepam, furosemid, nifedipin, ranitidin,
amilorid, triamteren, trimethoprim, zidovudin,
tetracyclin, các NSAIDs, thuốc cản quang chứa iod,
corticoid, digoxin, morphin, quinin, quinidin,
vancomycin.
Biểu hiện và triệu chứng
Sự xuất hiện các biểu hiện chuột rút, yếu cơ
nặng, đau vùng bụng hoặc ngực ở bệnh nhân
đang điều trị metformin có thể là những triệu
chứng báo trước của tình trạng nhiễm toan lactic.
Cần tạm ngừng thuốc và xét nghiệm nồng độ
lactat huyết thanh.
- Pha chẩn đoán xác định nhiễm toan lactic
ở bệnh nhân được đặc trưng bởi các biểu hiện:
tăng thông khí, nhịp tim nhanh, giảm nhận thức
nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng, loạn nhịp
hoặc chậm nhịp do nhiễm toan và tăng kali máu.
- Bệnh nhân đái tháo đường được điều trị
bằng thuốc nhóm biguanid, chẩn đoán phải được
xác định thông qua các xét nghiệm liên quan bao
gồm: toan chuyển hóa kèm theo tăng kali máu,
giảm dự trữ kiềm và giảm pH không tăng ceton,
khoảng trống anion kèm theo tăng lactat.
Mối liên quan giữa metformin và nhiễm toan
lactic
- Định lượng nồng độ metformin trong máu
có thể giúp hồi cứu xác định mối liên quan giữa
việc điều trị metformin và sự xuất hiện nhiễm
toan lactic. Tuy nhiên mối liên hệ này khó xác
định được do lượng acid lactic không tỷ lệ với
nồng độ metformin trong huyết tương.
- Nồng độ metformin trong hồng cầu là chỉ
số đáng tin cậy hơn. Thực tế, sau khi hấp thu,
quá trình thải trừ metformin trong huyết tương
diễn ra rất nhanh. Tuy nhiên, tốc độ thải trừ của
metformin phân bố trong hồng cầu (nơi tích lũy
chủ yếu khi bệnh nhân bị suy thận hoặc nhiễm
độc metformin) lại xảy ra chậm hơn. Do đó, kết
quả đo lường này là một chỉ số tốt phản ánh
phân bố của metformin trong mô và cho thấy
sự tích lũy thuốc có thể là nguyên nhân của
nhiễm toan lactic.
Điều trị nhiễm toan lactic
- Nhiễm toan lactic cần được điều trị hồi sức
tại khoa điều trị tích cực.
- Có thể điều chỉnh pH máu bằng truyền
dung dịch bicarbonat. Lọc máu cho phép loại
bỏ acid lactic thừa, metformin và kiểm soát thể
tích tuần hoàn. Một số biện pháp khác có thể
cần thiết bao gồm thay máu, dùng thuốc giãn
mạch, sử dụng insulin,
- Với trường hợp nhiễm độc metformin
kèm theo nhiễm toan lactic, lọc máu ngoài
thận là liệu pháp chính để điều chỉnh nhiễm
toan. Trên thực tế, mặc dù metformin là thuốc
có khối lượng phân tử thấp, liên kết yếu với
protein huyết tương, có thể được lọc ra khỏi
máu dễ dàng theo lý thuyết, tuy nhiên thuốc
có thể tích phân bố lớn (63-276L), làm hạn
chế đáng kể hiệu quả của lọc máu ngoài thận
trong việc loại bỏ metformin.
Do vậy, lọc máu ngoài thận chỉ được chỉ định
căn cứ trên mức độ cần thiết của việc điều chỉnh
tình trạng nhiễm toan lactic, khi tình trạng này
đã không đáp ứng với bicarbonat. Chỉ định sớm
lọc máu ngoài thận dựa trên mức độ nghiêm
trọng của nhiễm toan lactic. Mức độ nghiêm
trọng này không dự đoán được dựa vào nồng
độ metformin huyết tương, xuất hiện chủ yếu
ở bệnh nhân có các bệnh mắc kèm liên quan
(suy thận, suy tim, suy gan) nên việc lựa chọn
phương pháp lọc máu ngoài thận với dung
dịch lọc giàu bicarbonat chủ yếu phụ thuộc vào
huyết động của bệnh nhân (thay đổi nhiều tùy
theo mức độ nặng của nhiễm toan).
Biện pháp phòng ngừa nhiễm toan lactic
- Tuân thủ chặt chẽ các chống chỉ định của
metformin: suy thận, suy gan, tình trạng thiếu
oxy mô và bệnh nhân tuổi rất cao.
5No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
- Ngừng metformin trước và trong vòng
48 giờ sau khi tiến hành chẩn đoán hình ảnh
có sử dụng các thuốc cản quang chứa iod. Bệnh
nhân chụp được tiêm thuốc cản quang có nguy
cơ tổn thương thận nhất định, do tổn thương
ống thận cấp dẫn đến suy thận gây tích lũy
biguanid. Do đó, nên ngừng metformin trước
khi thực hiện tất cả các quy trình chẩn đoán,
điều trị có nguy cơ dẫn đến suy thận.
- Ngừng metformin 48 giờ trước can thiệp
phẫu thuật có gây mê toàn thân, gây mê tủy
sống hoặc gây mê ngoài màng cứng. Metformin
chỉ được dùng trở lại sau 48 giờ phẫu thuật hoặc
cho tới khi có thể cho bệnh nhân sử dụng lại
thức ăn qua đường miệng và chỉ sau khi chắc
TƯƠNG TÁC GIỮA SPIRONOLACTON VÀ THUỐC ỨC CHẾ
HỆ RENIN-ANGIOTENSIN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM:
NGUY CƠ TĂNG KALI MÁU ĐE DỌA TÍNH MẠNG
Trần Thúy Ngần
Tương tác thuốc là một vấn đề phổ biến
trong thực hành lâm sàng. Bệnh nhân tim mạch
có khả năng gặp tương tác thuốc cao và nhạy
cảm với hậu quả của tương tác thuốc do đa số
bệnh nhân đều cao tuổi và được điều trị bằng
nhiều loại thuốc [1]. Một khảo sát trên 165 bệnh
án điều trị nội trú tại Khoa Nội tim mạch của một
bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh cho thấy 70,3% số
bệnh án đưa vào khảo sát có tương tác liên quan
đến 45 cặp tương tác thuốc - thuốc khác nhau.
Số tương tác có ý nghĩa lâm sàng chiếm 58,5%
tổng số bệnh án; trong đó, một trong những
cặp tương tác có ý nghĩa lâm sàng đáng chú ý là
tương tác giữa spironolacton và thuốc ức chế men
chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin [2].
Đây là tương tác thuốc theo cơ chế dược lực học
dẫn đến hậu quả tăng kali máu với mức độ tương
tác nghiêm trọng và thời gian tiềm tàng xuất hiện
chậm [3].
Spironolacton được chỉ định trong điều trị
suy tim sung huyết. Thuốc ức chế cạnh tranh
tác dụng sinh lý của aldosteron trên ống lượn xa
làm tăng thải trừ natri và làm giảm bài tiết kali
gây tăng kali máu. Các thuốc ức chế men chuyển
và chẹn thụ thể angiotensin là thuốc quan trọng
cho bệnh nhân tăng huyết áp hoặc suy tim. Các
thuốc này cũng làm giảm bài tiết aldosteron, từ
đó gây tăng kali máu [4], [5]. Ngoài ra, những bệnh
nhân cần điều trị bằng các thuốc này thường có
sẵn các yếu tố nguy cơ gây tăng kali máu bao
gồm suy thận, đái tháo đường, giảm khối lượng
tuần hoàn (gây suy giảm chức năng thận, từ đó
dẫn đến tăng kali máu), ... Tỷ lệ tăng kali máu ghi
nhận trên bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế men
chuyển/chẹn thụ thể AT1 là 1/1000-1/100 [4].
Một tổng kết tại Anh trong giai đoạn từ
tháng 01/1998 đến tháng 12/2015 đã ghi nhận
82 báo cáo rối loạn kali máu trên bệnh nhân sử
dụng phối hợp spironolacton cùng một thuốc ức
chế men chuyển (63 báo cáo) hoặc chẹn thụ thể
AT1 (25 báo cáo); trong đó có 70 trường hợp có
mô tả tăng kali máu. Tổng kết này cũng ghi nhận
3 trường hợp bệnh nhân tử vong có sử dụng phối
hợp spironolacton và thuốc ức chế men chuyển.
Số báo cáo ghi nhận biến cố liên quan đến việc
sử dụng đồng thời spironolacton và thuốc ức chế
men chuyển bắt đầu tăng từ năm 1999, đạt đỉnh
trong giai đoạn 2001-2005 và tăng trở lại trong
vòng 2 năm gần đây (2014-2015). Sự tăng trở lại
gần đây số lượng các báo cáo liên quan đến phối
hợp spironolacton và 2 thuốc tác dụng trên hệ
renin-angiotensin được cho là liên quan đến gia
tăng tỷ lệ sử dụng phối hợp thuốc này sau khi
Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) đưa
ra khuyến cáo năm 2014 về việc hạn chế phối hợp
các thuốc cùng tác động trên hệ renin-angiotensin.
Khuyến cáo của EMA được đưa ra sau khi rà soát dữ
liệu từ một số nghiên cứu lớn trên những bệnh
nhân tim mạch hoặc đái tháo đường typ 2 cho
thấy việc phối hợp thuốc ức chế men chuyển
chắn chức năng thận đã trở về bình thường.
- Theo dõi chức năng thận. Bệnh nhân
được điều trị bằng metformin cần xác định
độ thanh thải creatinin trước khi điều trị, sau
đó đánh giá định kỳ: ít nhất một lần/năm với
bệnh nhân có chức năng thận bình thường;
ít nhất 2-4 lần/năm với những bệnh nhân có
độ thanh thải creatinin thấp hơn mức bình
thường hoặc bệnh nhân cao tuổi. Với bệnh
nhân cao tuổi, suy thận thường rất hay xảy ra
và ít khi thường xuyên có biểu hiện triệu chứng.
Các biện pháp dự phòng cần được đặc biệt lưu
ý khi sử dụng các thuốc có khả năng ảnh hưởng
đến chức năng thận như thuốc hạ huyết áp, lợi
tiểu, giai đoạn đầu điều trị NSAIDs.
6 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
và chẹn thụ thể AT1 làm tăng nguy cơ tăng kali
máu, tổn thương thận hoặc hạ huyết áp so với
sử dụng từng thuốc đơn độc. Mặt khác, lợi ích
của phối hợp thuốc này chỉ vượt trội so với nguy
cơ trên nhóm bệnh nhân suy tim trong trường hợp
không có liệu pháp thay thế. Ngoài ra, số lượng các
báo cáo liên quan đến phối hợp spironolacton và
thuốc ức chế men chuyển và chẹn thụ thể AT1
tăng lên cũng được cho là do cán bộ y tế đã
quan tâm biết đến nhiều hơn, từ đó tăng tỷ lệ
báo cáo về tương tác thuốc này [4], [6].
Để giảm thiểu nguy cơ tăng kali máu do
tương tác giữa spironolacton và thuốc ức chế
men chuyển và chẹn thụ thể AT1, cán bộ y tế cần
lưu ý:
- Các yếu tố nguy cơ gây tăng kali máu trên
bệnh nhân suy tim bao gồm suy giảm chức năng
thận, tuổi cao, mắc kèm đái tháo đường và sử
dụng liều spironolacton >25 mg/ngày.
- Thận trọng cân nhắc lợi ích/nguy cơ khi
sử dụng phối hợp spironolacton và thuốc ức
chế men chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể
angiotensin trong điều trị suy tim do nguy cơ
tăng kali máu nghiêm trọng, đặc biệt trên bệnh
nhân suy thận và khi liều dùng spironolacton
vượt quá 25 mg/ngày.
- Trong trường hợp bắt buộc phải phối hợp
spironolacton và thuốc ức chế men chuyển/chẹn
thụ thể AT1, cần dùng thuốc với liều thấp nhất có
hiệu quả.
- Thường xuyên theo dõi nồng độ kali máu
và chức năng thận của bệnh nhân.
- Khi xảy ra tăng kali máu, việc ngừng tạm
thời một thuốc có thể có hiệu quả giúp giảm
kali. Nếu nồng độ kali vẫn cao trên 5,5 mmol/l,
nên ngừng tất cả các thuốc có khả năng gây
tăng K+.
- Đặc biệt chú ý trên bệnh nhân có rối loạn
dẫn truyền tim, việc tăng nhẹ kali máu ở những
bệnh nhân này cũng có thể gây ngừng tim.
- Tăng cường báo cáo các phản ứng có hại
tăng kali máu liên quan đến spironolacton, thuốc
ức chế men chuyển/chẹn thụ thể AT1 và phối hợp
các thuốc này cho Trung tâm Quốc gia/Trung tâm
khu vực về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng
có hại của thuốc [4], [7], [8], [9].
Tài liệu tham khảo:
1. Opie LH (2000), "Adverse cardiovascular drug interactions", Current Problems in Cardiology,
25:622-676.
2. Nguyễn Hoàng Anh và cộng sự (2012), "Đánh giá tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều trị
nội trú tại Khoa Nội tim mạch Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang", Tạp chí Nghiên cứu dược và Thông
tin thuốc, 3(3):90-94.
3. Truven Health Analytics, Micromedex 2.0, https://www.micromedexsolutions.com/, accessed on
10 March 2016.
4. Medicines and Healthcare products Regulatory Agency (MHRA), Drug Safety Update,
"Spironolacton and renin-angiotensin system drugs in heart failure: risk of potentially fatal hyperkalaemia",
17 February 2016.
5. Bộ Y tế (2015), Dược thư Quốc gia Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội.
6. European Medicines Agency (EMA), Renin-angiotensin-system (RAS)-acting agents, “Restriction
of combined use of medicines affecting the renin-angiotensin system (RAS)”, 23 May 2014.
7. Pharmaceutical Press, Stockley’s Drug Interactions [online],
accessed on 10 March 2016.
8. Biff F. Palmer, M.D (2004), Current Concepts, “Managing hyperkalemia caused by inhibitors of the
renin-angiotensin-aldosteron system”, The New England Journal of Medicine, 351:585-592.
9. Akshay Desai, MD, MPH (2008), Editorial, “Hyperkalemia asociated with inhibitors of the
renin-angiotensin-aldosteron system balancing risk and benefit”. Circulation,118:1609-1611.
7No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
HƯỚNG DẪN KÊ ĐƠN AN TOÀN CHO THUỐC CÓ NGUY CƠ CAO
METHOTREXAT: NGUY CƠ TỬ VONG TIỀM TÀNG
DO QUÁ LIỀU
Nguồn: BPJ số 64, tháng 10/2014
Người dịch: Đoàn Thị Phương Thảo, Hoàng Hà Phương
Methotrexat thường được sử dụng với liều
thấp trong điều trị viêm khớp dạng thấp, một số
bệnh lý khác liên quan đến khớp và vẩy nến. Thuốc
được kê đơn 1 tuần 1 lần, được ưu tiên lựa chọn do
hiệu quả tốt, các tác dụng không mong muốn có
thể dự đoán được và chi phí thấp. Tuy nhiên, thuốc
cũng có thể gây độc tính nghiêm trọng, thậm chí
tử vong. Mặc dù độc tính này thường gặp hơn khi
dùng liều cao, tuy nhiên cũng có thể gặp ở bất kỳ
mức liều nào.
Methotrexat thường được kê lần đầu tiên bởi
bác sĩ chuyên khoa, sau đó nhiều bệnh nhân sẽ
tiếp tục được theo dõi bởi bác sĩ đa khoa và
được kê đơn tiếp theo ở tuyến y tế cơ sở. Trong
năm 2013, cơ sở dữ liệu của New Zealand đã
ghi nhận cứ 1000 bệnh nhân khám bác sĩ đa
khoa, có 23,3 đơn chứa methotrexat đã được
cấp phát. Do vậy, bác sĩ đa khoa cũng cần nắm
rõ các chiến lược kê đơn an toàn của thuốc có
nguy cơ cao này và lưu ý các triệu chứng, dấu
hiệu ngộ độc methotrexat.
Cơ chế chống viêm của methotrexat trong
viêm khớp dạng thấp hiện chưa rõ ràng, liên
quan đến ức chế tổng hợp ADN trong các tế
bào viêm, giảm nồng độ tự kháng thể, có tác
dụng chống viêm do giải phóng adenosin và
giảm nồng độ cytokin trong dịch khớp giúp giảm
các triệu chứng viêm và tổn thương khớp. Do có
tác dụng ức chế enzym dihydrofolat reductase
tham gia quá trình chuyển hóa acid folic, các tác
dụng phụ của methotrexat thường liên quan
đến chuyển hóa folat (nhưng không liên quan
đến tác dụng chống viêm). Do vậy, bệnh nhân
điều trị bằng methotrexat thường được dùng
bổ sung acid folic.
Tác dụng bất lợi và độc tính của methotrexat
Các tác dụng bất lợi của methotrexat có thể
xảy ra ở liều điều trị bao gồm đau đầu, khó chịu,
viêm loét miệng và rụng tóc. Trong trường hợp
quá liều, có thể xuất hiện nôn, tiêu chảy, xuất
huyết tiêu hóa, ức chế tủy xương nặng và rối
loạn chức năng gan. Tổn thương gan kéo dài,
thường kèm theo tăng ALT và AST có thể dẫn
đến xơ gan. Nhiễm độc gan thường gặp hơn ở
bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ với bệnh gan
và bệnh nhân dùng methotrexat điều trị bệnh
vẩy nến hơn so với bệnh nhân dùng thuốc để
điều trị viêm khớp dạng thấp.
Methotrexat có thể gây viêm phổi cấp, đôi khi
đe dọa tính mạng. Bệnh nhân có thể xuất hiện thở
gấp, ho khan dai dẳng, kèm theo sốt hoặc không.
Khuyến khích chụp X-quang phổi trước khi bắt
đầu sử dụng methotrexat để chẩn đoán sớm nguy
cơ mắc các bệnh phổi ở giai đoạn sau.
Dùng đồng thời acid folic, thông thường
với liều 5 mg/tuần, một vài ngày sau mỗi liều
methotrexat, đã được chứng minh làm giảm
nguy cơ gặp tác dụng không mong muốn như đau
bụng, buồn nôn hay tăng men gan bất thường, từ
đó làm tăng tuân thủ với phác đồ methotrexat.
Methotrexat có thể gây tử vong
Đã ghi nhận các trường hợp tử vong do sử
dụng methotrexat ở New Zealand và trên thế giới.
Những bệnh nhân này thường dùng methotrexat
hàng ngày thay vì hàng tuần do sai sót của bệnh
nhân, bác sĩ hoặc dược sĩ. Ở New Zealand, các
trường hợp tử vong gần đây nhất được ghi nhận
trong năm 2006 và 2012. Tại Anh, Cơ quan An toàn
Bệnh nhân Quốc gia đã đưa ra cảnh báo về kê đơn
methotrexat năm 2004 sau khi có 25 trường hợp
tử vong và 26 biến cố gây hậu quả nghiêm trọng
trong vòng 10 năm trở lại. Trong các trường hợp
này, một số bệnh nhân tử vong do diễn biến lâm
sàng xấu đi ngay cả sau khi đã ngừng methotrexat.
Nguyên nhân thường gặp gây tử vong liên
quan đến methotrexat là viêm phổi, có thể không
liên quan đến liều, thậm chí chỉ sau khi dùng một
liều duy nhất. Ức chế tủy xương là một nguyên
nhân tử vong khác, dẫn đến suy đa tạng và xuất
huyết tiêu hóa thứ phát.
Khuyến cáo quản lý nguy cơ
Cán bộ y tế có thể thực hiện một số lưu
ý quan trọng để giảm thiểu nguy cơ ngộ độc
methotrexat và quá liều. Nhìn vào số lượng các
ca tử vong phát sinh từ các lỗi đơn giản trong số
lần dùng thuốc đã được ghi nhận, điều đáng lưu
tâm nhất là cần nhấn mạnh cho bệnh nhân việc
uống methotrexat 1 lần 1 tuần. Bác sĩ, dược
sĩ và bệnh nhân cần có quy trình, biện pháp dự
phòng và nhắc nhở để đảm bảo thực hiện đúng
chế độ liều.
8 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
Các bước trong quá trình tư vấn bệnh nhân
để đảm bảo việc uống thuốc hàng tuần:
- Tránh viết "như được kê" trong đơn thuốc -
cần viết rõ liều cụ thể đến mg.
- Viết đầy đủ ngày uống thuốc trong đơn (đã
có 1 ca tử vong do bệnh nhân nhầm “Mon” (viết
tắt của Monday - thứ 2) là viết tắt của “morning”
(buổi sáng), dẫn đến uống thuốc hàng ngày thay
vì hàng tuần).
- Nhấn mạnh điểm khác biệt của viên 2,5 mg
và 10 mg, đặc biệt khi bệnh nhân chuyển đổi các
loại viên khác nhau. Chỉ kê một loại viên theo hàm
lượng trong cùng thời điểm để tránh uống nhầm
viên 10 mg thay vì 2,5 mg.
- Nhấn mạnh với bệnh nhân điểm khác biệt
giữa methotrexat và acid folic - đã có trường
hợp bệnh nhân uống thuốc này theo chế độ
liều của thuốc kia. Một công cụ ghi nhớ đơn
giản là "Methotrexat - Monday" (methotrexat
vào thứ hai), "Folic acid - Friday" (acid folic vào
thứ sáu) giúp đảm bảo liều một lần mỗi tuần
cho mỗi ngày khác nhau.
- Duy trì liên lạc giữa bệnh nhân với đội ngũ
chăm sóc y tế chuyên khoa và đa khoa. Nghiên
cứu thực hiện tại New Zealand cho thấy bệnh
nhân được chăm sóc bởi nhân viên y tế chuyên
khoa cơ xương khớp có mức độ nhận thức tốt
hơn rõ rệt về dấu hiệu và triệu chứng của ngộ độc
cũng như liều hàng tuần của methotrexat.
- Nếu bệnh nhân có người chăm sóc, cần yêu
cầu họ có mặt tại các buổi khám bệnh, trao đổi với
họ về việc phải sử dụng thuốc với liều lượng chính
xác (với sự đồng ý của bệnh nhân).
- Trong các buổi thăm khám, hỏi bệnh nhân
những câu hỏi cụ thể về việc uống thuốc: bạn
uống bao nhiêu viên methotrexat? Uống vào
lúc nào?
Lưu ý về tác dụng bất lợi và đảm bảo bệnh
nhân hiểu về các tác dụng bất lợi đó:
- Bệnh nhân cần được tư vấn các triệu chứng
chính liên quan đến ngộ độc methotrexat như
đau họng, loét miệng, sốt, ho khan dai dẳng,
nôn hoặc tiêu chảy và yêu cầu bệnh nhân
thông báo nếu xuất hiện bất kỳ triệu chứng
nào trong số đó.
- Đảm bảo rằng có sự trao đổi thông tin về tác
dụng không mong muốn ghi nhận ở người bệnh
giữa bác sĩ đa khoa và bác sĩ chuyên khoa.
Các bước cần làm trong thực hành để đảm
bảo bệnh nhân uống thuốc hàng tuần:
- Đảm bảo phần mềm kê đơn (nếu kê đơn
trên máy tính) đã mặc định tự động là kê đơn hàng
tuần cho methotrexat.
- Ghi chú vào sổ khám bệnh để cảnh báo nhân
viên y tế khác về việc báo cáo bất kỳ dấu hiệu nào
có thể liên quan đến độc tính của methotrexat.
- Cân nhắc tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ
nhân viên y tế để nâng cao nhận thức về nguy cơ
và triệu chứng của phản ứng bất lợi với methotrexat,
đồng thời sử dụng quy trình báo cáo phản ứng
bất lợi của methotrexat cho bác sĩ lâm sàng
đang điều trị.
- Cần thận trọng với khả năng ghi nhận thông
tin không đầy đủ về các vấn đề bệnh nhân gặp
phải trong khi dùng methotrexat trong các buổi
tái khám và kiểm tra lý do tại sao.
Việc giám sát xét nghiệm đóng vai trò quan
trọng (xem bảng 1):
- Công thức máu, xét nghiệm chức năng
gan, thận, trước khi bắt đầu dùng methotrexat
và lặp lại sau 2-4 tuần đầu, sau đó định kì xét
nghiệm sau một đến ba tháng nếu các kết
quả xét nghiệm bình thường và liều lượng của
thuốc tương đối ổn định.
- Cần đảm bảo rằng đã thực hiện các xét
nghiệm trong vòng sáu tuần trước khi kê đơn
tiếp theo.
- Giảm bạch cầu hoặc tăng men gan có thể
phản ánh nguy cơ ngộ độc methotrexat. Trao đổi
các kết quả bất thường này với bác sĩ chuyên khoa
cơ xương khớp hoặc da liễu. Xem bảng 1 để biết
thêm chi tiết.
- Có thể sử dụng xét nghiệm procollagen 3
(procollagen peptide kết thúc bằng amino type III,
hoặc PIIINP) để giám sát mức độ an toàn trên gan
khi dùng thuốc ở bệnh nhân vẩy nến. Cũng có
thể sinh thiết gan.
Kiểm tra các thuốc dùng đồng thời và việc sử
dụng rượu:
- Suy thận có thể làm giảm thải trừ methotrexat
và bệnh nhân cần thông báo lại việc sử dụng các
loại thuốc làm giảm bài tiết methotrexat như thuốc
kháng viêm không steroid (NSAIDs).
- Không nên uống quá 1-2 chén rượu, hai
lần mỗi tuần.
- Tránh dùng co-trimoxazol hay trimethoprim
đồng thời với methotrexat do tăng nguy cơ ức chế
tủy xương.
Các bước dược sĩ cần làm để tránh sai sót
trong chế độ liều hàng tuần:
- Đảm bảo đơn thuốc được kê methotrexat
đều ghi là uống thuốc hàng tuần và có ghi rõ ràng
ngày uống thuốc trong tuần.
- Đảm bảo các cảnh báo trong phần mềm kê
đơn được cập nhật và đầy đủ thông tin.
- Trao đổi với bác sĩ kê đơn về liều dùng chính
xác trong trường hợp nghi ngờ.
- Đặt các tờ thông tin cảnh báo cho các
thuốc nguy cơ cao ở vị trí riêng biệt với các
thuốc khác, để có thể kiểm tra và giải thích các
9No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
cảnh báo một cách đầy đủ trước khi giao thuốc
cho bệnh nhân.
- Trường hợp đơn thuốc được nhập bằng
tay vào phần mềm quản lý dược, cần kiểm tra
chéo để đảm bảo việc nhập liệu chính xác. Khi
điền thông tin, xem lại bản gốc thay vì từ dữ liệu
đã nhập trên máy tính để đảm bảo loại trừ mọi
sai sót có thể xảy ra khi nhập thông tin kê đơn
vào phần mềm máy tính.
- Thận trọng nếu bệnh nhân quay lại lĩnh
thêm thuốc không theo lịch, do việc này có thể
liên quan đến sai sót trong kê đơn/dùng thuốc.
- Thiết lập một hệ thống để ghi lại các sự kiện
"gần như" xảy ra sai sót, giúp xác định các nguồn
gây sai sót.
Chống chỉ định dùng methotrexat ở phụ nữ
có thai hoặc cho con bú
Tránh sử dụng methotrexat ở phụ nữ đang
mang thai do thuốc gây sẩy thai và có thể gây
dị tật trên bào thai đang trong giai đoạn phát
triển. Khi bệnh nhân nữ trong độ tuổi sinh sản
được kê đơn methotrexat, cần trao đổi về biện
pháp tránh thai phù hợp và tạm ngừng kế
hoạch, dự định mang thai trong thời gian dùng
thuốc. Các hướng dẫn điều trị cũng khuyến
cáo nên sử dụng các biện pháp tránh thai cho
bệnh nhân nam dùng methotrexat, mặc dù
bằng chứng gần đây cho thấy việc nam giới sử
dụng methotrexat không làm tăng nguy cơ dị
tật bẩm sinh hoặc sẩy thai.
Bảng 1: Khuyến cáo về các giám sát cần thực hiện trên bệnh nhân dùng methotrexat
Xét nghiệm cần theo dõi Tần suất Chỉ tiêu kiểm tra Cách xử lý
Công thức máu Thời điểm ban đầu.
Mỗi 2-4 tuần, sau đó mỗi
một đến ba tháng nếu
kết quả xét nghiệm bình
thường và khi bệnh nhân
đang sử dụng liều ổn định.
Bạch cầu <3,5 × 109/L.
Bạch cầu trung tính
<2,0 × 109/L.
Tiểu cầu <150 × 109/L.
Trao đổi ngay với bác sĩ
chuyên khoa.
MCV >105 fL. Kiểm tra vitamin B12, folat
và TSH. Bổ sung nếu có bất
thường.
Xét nghiệm chức năng gan Thời điểm ban đầu.
Mỗi 2-4 tuần, sau đó mỗi
một đến ba tháng nếu
kết quả xét nghiệm bình
thường và khi bệnh nhân
đang sử dụng liều ổn định.
AST, ALT >2 lần giới hạn
bình thường trên.
Ngừng sử dụng thuốc cho
đến khi trao đổi với bác sĩ
chuyên khoa. Các yếu tố
khác cần xem xét:
- Kiểm tra lượng rượu bệnh
nhân uống.
- Kiểm tra các thuốc có thể
ảnh hưởng đến chức năng
gan (ví dụ NSAIDs).
Creatinin huyết thanh Thời điểm ban đầu.
Thường tiến hành cùng
công thức máu và chức
năng gan, theo dõi khi
thay đổi liều.
Mỗi 3 tháng khi bệnh
nhân đang sử dụng mức
liều ổn định.
Suy giảm chức năng thận
rõ rệt.
Giảm liều.
X-quang lồng ngực Thời điểm ban đầu. Lặp lại nếu xảy ra triệu
chứng trên hô hấp (xem
phía dưới).
Triệu chứng Xử lý
Ngứa hoặc loét miệng Ngừng methotrexat cho đến khi trao đổi với bác sĩ chuyên khoa. Sử dụng nước súc
miệng chứa acid folic có thể giúp giảm viêm loét niêm mạc.
Nôn, buồn nôn, tiêu chảy Sử dụng methotrexat qua đường tiêm dưới da có thể giúp tránh buồn nôn.
Khởi phát hoặc nặng thêm
triệu chứng khó thở hay
ho khan (viêm phổi)
Ngừng thuốc và thảo luận khẩn cấp với bác sĩ chuyên khoa. Chụp X-quang ngực và
các thăm dò chức năng hô hấp.
Đau họng nặng, bầm tím
bất thường
Yêu cầu xét nghiệm công thức máu ngay lập tức và ngừng thuốc đến khi có kết quả
xét nghiệm. Trao đổi các kết quả với bác sĩ chuyên khoa.
10 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR
QUÝ I NĂM 2016
Trần Ngân Hà
Trong 3 tháng đầu năm 2016, Trung tâm
DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu
vực TP. Hồ Chí Minh tiếp nhận 1819 báo cáo
ADR (tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2015). Trong
đó, 1607 báo cáo ADR được gửi từ các cơ sở khám,
chữa bệnh và 233 báo cáo ADR nghiêm trọng xảy
ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản xuất,
kinh doanh dược phẩm (trong đó có 21 báo cáo
trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa bệnh).
Báo cáo được gửi từ 324 cơ sở khám, chữa
bệnh và 18 đơn vị sản xuất, kinh doanh dược
phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiếp
tục là hai thành phố có tỷ lệ báo cáo ADR cao
nhất (tương ứng 26,8% và 11,2%). Đà Nẵng là địa
phương có công tác báo cáo ADR hiệu quả nhất
với 111,1 báo cáo/1 triệu dân (cao nhất trong cả
nước). Cán bộ y tế tham gia báo cáo chủ yếu là
dược sĩ và bác sĩ - y sĩ (chiếm lần lượt 39,9% và
35,5%). Như vậy, dược sĩ đã trở thành đối tượng
chính tham gia báo cáo ADR và cần tiếp tục phát
huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác
đảm bảo an toàn thuốc nói chung và hoạt động
theo dõi, báo cáo ADR nói riêng. Tỷ lệ báo cáo
vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương, khu
vực và các tuyến bệnh viện (phần lớn báo cáo
được gửi từ các đơn vị ở vùng Đông Nam bộ và
Đồng bằng sông Hồng, từ các bệnh viện tuyến
tỉnh, bệnh viện đa khoa và bệnh viện thuộc khối
công lập). Do đó, công tác báo cáo ADR cần tiếp
tục được thúc đẩy hơn nữa, đặc biệt tại đơn vị,
địa phương chưa tham gia báo cáo ADR.
Số báo cáo ADR nghiêm trọng là 761
(chiếm 41,8% tổng số báo cáo ADR), đặc biệt
có 14 trường hợp nghiêm trọng dẫn đến hậu
quả tử vong được báo cáo từ các cơ sở khám,
chữa bệnh và đơn vị sản xuất, kinh doanh dược
phẩm. Nhóm kháng sinh nhóm beta-lactam khác
(cephalosporin thế hệ từ 1 đến 4, carbapenem, )
và thuốc điều trị lao được báo cáo nhiều nhất
với tỷ lệ tương ứng là 31,0%, 17,4%. Trong đó,
thuốc được báo cáo nhiều nhất là cefotaxim
(9,7%). Chất lượng báo cáo nhìn chung đã cải
thiện hơn so với các năm trước, tuy nhiên vẫn
còn một số báo cáo thiếu nhiều thông tin quan
trọng liên quan đến phản ứng xảy ra và thuốc
nghi ngờ, gây khó khăn cho công tác thẩm định.
Việc phát hiện và báo cáo ADR trên các cơ quan
khác ngoài rối loạn tâm thần, rối loạn da và mô
dưới da, các phản ứng dị ứng thuốc cũng như
các nhóm thuốc khác ngoài các thuốc thường
xuyên được ghi nhận báo cáo ADR (kháng sinh,
thuốc điều trị lao, thuốc giảm đau, hạ sốt, chống
viêm) còn hạn chế và cần được lưu ý hơn.
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế
đã tham gia báo cáo ADR và mong muốn tiếp
tục nhận được sự phối hợp để triển khai hiệu
quả hoạt động giám sát ADR.
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
Dương Khánh Linh, Đoàn Thị Phương Thảo, Nguyễn Khắc Dũng,
Nguyễn Mai Hoa, Nguyễn Phương Thúy
Deferasirox: cảnh báo nguy cơ viêm tụy khi
dùng ở bệnh nhân nhi
Bản tin phản ứng có hại tháng 12/2015 của
Cơ quan Quản lý Y tế Singapore (HSA) đã đưa ra
cảnh báo cán bộ y tế về một số ca viêm tụy ở
bệnh nhân điều trị bằng deferasirox trên thế giới.
Deferasirox là một chất tạo phức chelat với
sắt dùng đường uống, được chỉ định điều trị quá
tải sắt mạn tính do truyền máu thường xuyên
(≥7 ml hồng cầu khối/kg/tháng) ở bệnh nhân
trên 6 tuổi mắc Thalassemia beta nặng hoặc
ở bệnh nhân trên 10 tuổi có hội chứng thiếu
máu tan máu không liên quan đến truyền máu.
Thuốc cũng được chỉ định điều trị tình trạng
quá tải sắt mạn tính do truyền máu khi chống
chỉ định hoặc không thích hợp để điều trị với
deferoxamin, bệnh nhân từ 2-5 tuổi và bệnh
nhân Thalassemia beta nặng với tình trạng quá
tải sắt do truyền máu thường xuyên.
Viêm tụy cấp được đặc trưng bởi đau bụng,
tăng enzym tụy trong máu và nước tiểu, tỷ lệ
tử vong khoảng 5%. Các nghiên cứu dịch tễ ghi
nhận tỷ lệ viêm tụy do thuốc khoảng 0,1% - 2%,
chủ yếu ở dạng nhẹ, tuy nhiên, các trường hợp
viêm tụy nặng, thậm chí tử vong cũng đã được
báo cáo.
11No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
Dữ liệu thu được qua Cơ sở dữ liệu báo
cáo ADR của Tổ chức Y tế Thế giới (Vigibase) đã
phát hiện được tín hiệu về viêm tụy liên quan
đến sử dụng deferasirox ở bệnh nhân nhi. Tính
đến tháng 3/2015, có 14 báo cáo viêm tụy xảy
ra ở bệnh nhân 4-16 tuổi trong cơ sở dữ liệu
này, trong đó, 11 ca đã xác định deferasirox là
thuốc nghi ngờ duy nhất. Hiện ở Singapore
chưa phát hiện được ca nào tương tự nhưng
HSA khuyến cáo cán bộ y tế cần cân nhắc đến
nguy cơ viêm tụy cấp ở những bệnh nhân điều
trị bằng deferasinox, theo dõi các dấu hiệu và
triệu chứng của viêm tụy, như đau bụng, cứng
bụng, buồn nôn và nôn trong quá trình điều
trị, đặc biệt ở bệnh nhân nhi.
Tăng áp lực nội sọ vô căn do thuốc
Tăng áp lực nội sọ vô căn (IIH) là rối loạn do
tăng áp lực dịch não tủy kèm theo rối loạn thần
kinh nghiêm trọng. Các dấu hiệu và triệu chứng
của tình trạng này bao gồm đau đầu, ù tai, nhìn
đôi, phù gai thị và mất thị lực.
IIH xuất hiện chủ yếu ở phụ nữ thừa cân
(>90% số trường hợp mắc) trong độ tuổi sinh
sản. Trong số các báo cáo về tăng áp lực nội sọ
vô căn mà Trung tâm Theo dõi Phản ứng có hại
New Zealand (CARM) nhận được, 84% các trường
hợp xảy ra trên bệnh nhân nữ và 69% báo cáo ở đối
tượng này liên quan đến việc sử dụng tetracyclin
hoặc thuốc tránh thai. Bên cạnh các yếu tố nguy
cơ như cường aldosteron, hội chứng Cushing, dư
thừa vitamin A, sử dụng các yếu tố tăng trưởng
tái tổ hợp; các thuốc có thể gây tăng áp lực nội
sọ vô căn bao gồm: kháng sinh tetracyclin, acid
nalidixic, nitrofurantoin, steroid (sau khi ngừng
thuốc), thuốc tránh thai, dẫn xuất của vitamin A
(isotretinoin), indomethacin hay ketoprofen trên
bệnh nhân có hội chứng Bartter, amiodaron
hoặc liệu pháp thay thế hormon tuyến giáp trên
trẻ có suy giáp.
Do nguy cơ gây tăng áp lực nội sọ vô căn, chống
chỉ định dùng phối hợp kháng sinh tetracyclin với
vitamin A hoặc retinoid. Khi có xuất hiện các triệu
chứng, cần ngừng ngay thuốc nghi ngờ, tình trạng
thường cải thiện sau 2-4 tuần. Ở bệnh nhân béo phì,
việc giảm cân cũng giúp cải thiện tình trạng này.
Mercalm, Nausicalm (dimenhydrinat),
Nautamin (diphenhydramin) và nguy cơ
lạm dụng thuốc
Ngày 21/3/2016, Cơ quan Quản lý Dược
phẩm Pháp (ANSM) đã tiếp tục cảnh báo cán bộ
y tế về việc lạm dụng các thuốc kháng histamin
H1 như Mercalm, Nausicalm (dimenhydrinat) và
Nautamin (diphenhydramin) ở trẻ vị thành niên.
Diphenydramin và dimenhydrinat là hai
thuốc kháng histamin H1 thế hệ 1 được chỉ định
trong dự phòng/điều trị say tàu xe, say sóng,
điều trị ngắn hạn triệu chứng nôn và buồn
nôn không kèm theo sốt. Các thuốc này trước
đó đều không nằm trong danh mục thuốc bắt
buộc phải kê đơn.
Năm 2014, xuất phát từ nhiều báo cáo về
các trường hợp lạm dụng thuốc gửi tới mạng
lưới các Trung tâm đánh giá và thông tin về
chất gây nghiện (CEIP), một cuộc điều tra về
Cảnh giác các thuốc gây nghiện đối với nguy
cơ lạm dụng và phụ thuộc 2 hoạt chất trên
đã được thực hiện. Các trường hợp lạm dụng,
dùng sai mục đích và lệ thuộc thuốc xảy ra chủ
yếu ở đối tượng trẻ vị thành niên và thanh niên
với mục đích giải trí, tiếp đó là ở những bệnh
nhân bị rối loạn tâm thần hoặc có tiền sử lạm
dụng và/hoặc lệ thuộc thuốc. Biểu hiện chủ
yếu bao gồm hội chứng cai thuốc, hội chứng
atropin, rối loạn thần kinh (rối loạn trí nhớ, ảo
giác, kích động, run) và tim mạch (nhịp tim
nhanh, đau ngực), một số trường hợp đã phải
nhập viện. Ngày 13/10/2015, các thuốc này đã
bị rút khỏi danh mục thuốc có thể bán không
đơn tại nhà thuốc và bắt buộc phải có đơn
thuốc mới mua được những thuốc này tại các
nhà thuốc. Bên cạnh đó, thông tin về nguy cơ
lạm dụng và lệ thuộc thuốc đã được bổ sung
vào tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc. ANSM
cũng yêu cầu cán bộ y tế thận trọng với bất kỳ
việc sử dụng thuốc đáng ngờ nào, đặc biệt ở trẻ
vị thành niên và thanh niên.
Hoàn thành đánh giá tác động của nguy cơ
viêm phổi trên bệnh nhân mắc COPD điều
trị bằng corticosteroid dạng hít
Xuất phát từ kết quả công bố của một nghiên
cứu cho rằng nhóm bệnh nhân được điều trị bằng
corticosteroid dạng hít có nhiều khả năng mắc
viêm phổi hơn so với nhóm được điều trị bằng
giả dược, nguy cơ viêm phổi xảy ra trong quá trình
điều trị bằng corticosteroid dạng hít ở bệnh nhân
mắc COPD được đánh giá và rà soát lại vào năm
2007. Ủy ban Đánh giá Nguy cơ Cảnh giác dược
(PRAC) thuộc Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu
Âu (EMA) đã bắt đầu tiến hành đánh giá tác động
của nguy cơ mắc viêm phổi trên cơ sở cân bằng
lợi ích/nguy cơ của corticosteroid dạng hít trong
điều trị COPD và bản đánh giá đã khẳng định
nguy cơ này. Cho tới thời điểm hiện tại, chưa có
dữ liệu lâm sàng nào minh chứng cho sự khác
biệt về nguy cơ giữa các corticosteroid. Do đó,
viêm phổi vẫn được coi là nguy cơ phổ biến với
tất cả các corticosteroid dạng hít.
12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
Thông tin tóm tắt đặc tính sản phẩm dành
có cán bộ y tế và thông tin cho người bệnh của
các chế phẩm này sẽ được cập nhật về nguy cơ
này. Bác sĩ và bệnh nhân được khuyến cáo nên
thận trọng với các dấu hiệu và triệu chứng gợi
ý viêm phổi, đặc biệt khi các dấu hiệu lâm sàng
của viêm phổi có thể làm trầm trọng thêm tình
trạng bệnh lý đang được điều trị của bệnh nhân.
FDA Hoa Kỳ yêu cầu cập nhật thông tin về
độ an toàn trên tờ hướng dẫn sử dụng các
thuốc giảm đau opioid
Ngày 22/3/2016, Cơ quan Quản lý Thuốc và
Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) yêu cầu bổ sung
một số thông tin cảnh báo mới về nguy cơ lạm
dụng, dùng sai, nghiện thuốc, quá liều và tử vong
trên tất cả tờ hướng dẫn sử dụng của các thuốc
giảm đau opioid dạng giải phóng tức thì. Năm
2013, FDA Hoa Kỳ cũng đã yêu cầu thay đổi thông
tin ghi nhãn tương tự cho các opioid dạng giải
phóng kéo dài.
Opioid là nhóm thuốc giảm đau mạnh và
quan trọng, có 2 dạng bào chế chính sử dụng
đường uống: giải phóng tức thì (dùng mỗi 4-6 giờ)
và giải phóng kéo dài (dùng 2 lần/ngày). Methadon
và buprenorphin được dùng cai nghiện phối hợp
với tâm lý liệu pháp và tư vấn.
Cập nhật về chỉ định của các thuốc này cần
bổ sung rõ vì các nguy cơ trên, opioid dạng giải
phóng tức thì chỉ nên được sử dụng cho các
trường hợp đau nặng, khi các thuốc khác không
có hiệu quả hoặc không dung nạp. Phần liều
dùng cũng cần chỉ dẫn rõ ràng hơn về việc theo
dõi bệnh nhân và cách dùng thuốc (liều khởi đầu,
thay đổi liều trong quá trình điều trị và cảnh báo
không dừng thuốc đột ngột trên bệnh nhân lệ
thuộc thuốc về mặt thể chất). Trong phần cảnh
báo dành cho thuốc giảm đau opioid dạng giải
phóng lập tức, FDA Hoa Kỳ yêu cầu bổ sung thận
trọng về việc sử dụng opioid kéo dài ở người mẹ
trong thai kỳ, có thể dẫn đến hội chứng cai thuốc
opioid ở trẻ sau khi sinh. Đây là hội chứng có thể
đe dọa tính mạng nếu không được phát hiện và
điều trị phù hợp.
FDA Hoa Kỳ cũng yêu cầu cập nhật thông tin
với tất cả các opioid (cả dạng giải phóng kéo dài và
giải phóng tức thì) về các tương tác thuốc bất lợi
giữa opioid với các thuốc khác có thể gây ra các rối
loạn nghiêm trọng trên thần kinh trung ương như
hội chứng serotonin. Thông tin ghi nhãn mới cũng
cần bổ sung thông tin về tác dụng của opioid trên
hệ nội tiết, trong đó bao gồm các rối loạn hiếm
gặp nhưng nghiêm trọng trên tuyến thượng thận
(suy tuyến thượng thận) và giảm nồng độ hormon
sinh dục (thiếu hụt androgen).
FDA Hoa Kỳ cũng đang xem xét kỹ các thông
tin hiện có về phản ứng nghiêm trọng xảy ra do
tương tác giữa benzodiazepin và opioid. Sau khi
hoàn thành đánh giá, FDA Hoa Kỳ sẽ thực hiện các
biện pháp cần thiết để thông tin cho cán bộ y tế
và cộng đồng.
FDA Hoa Kỳ cảnh báo nguy cơ suy tim liên
quan đến saxagliptin và alogliptin
Ngày 05/4/2016, một tổng quan của FDA Hoa
Kỳ cho thấy việc sử dụng saxagliptin hoặc alogliptin
có thể làm tăng nguy cơ suy tim, đặc biệt ở những
người đang có bệnh tim hoặc bệnh thận. Suy tim
có thể khiến tim không bơm đủ máu để đáp ứng
cho nhu cầu của cơ thể. Do vậy, FDA Hoa Kỳ yêu cầu
bổ sung phần cảnh báo trong hướng dẫn sử dụng
của các thuốc chứa một trong hai hoạt chất này.
Saxagliptin và alogliptin thuộc nhóm ức chế
dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4), được sử dụng kết
hợp với điều chỉnh chế độ ăn và lối sống trong đái
tháo đường typ 2. Đái tháo đường typ 2 không
được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nguy
hiểm như mù lòa, tổn thương thần kinh, tổn thương
thận và bệnh tim.
Bệnh nhân sử dụng thuốc chứa hai hoạt chất
này cần liên lạc ngay lập tức với cán bộ y tế nếu thấy
các dấu hiệu và triệu chứng suy tim như:
- Thở ngắn bất thường khi hoạt động hàng ngày.
- Khó thở khi nằm xuống.
- Mệt, mỏi hoặc yếu.
- Tăng cân kèm theo sưng mắt cá chân, bàn
chân, chân hoặc vùng bụng.
Bệnh nhân không nên tự ý ngừng thuốc khi
chưa hỏi ý kiến cán bộ y tế.
Cán bộ y tế cần cân nhắc ngừng thuốc trên
các bệnh nhân xuất hiện suy tim và theo dõi kiểm
soát đái tháo đường. Nếu đường huyết của bệnh
nhân không được kiểm soát tốt, có thể cần đổi
thuốc điều trị đái tháo đường.
FDA Hoa Kỳ đã đánh giá hai thử nghiệm lâm
sàng tiến hành trên bệnh nhân suy tim. Hai thử
nghiệm này cũng đã được đưa ra thảo luận trong
cuộc họp của Hội đồng Tư vấn về các Thuốc Nội
tiết và Chuyển hóa (Endocrinologic and Metabolic
Drugs Advisory Committee) của FDA Hoa Kỳ tháng
4/2015. Hai nghiên cứu đều cho thấy trên các bệnh
nhân sử dụng thuốc có chứa hoạt chất saxagliptin
hoặc aloglipitin, có nhiều bệnh nhân nhập viện
vì suy tim hơn so với nhóm bệnh nhân dùng giả
dược. Trong thử nghiệm với saxagliptin, 3,5% bệnh
nhân (hay 35 trên 1000 bệnh nhân) dùng thuốc
đã phải nhập viện vì suy tim so với 2,8% (hay 28
trên 1000 bệnh nhân) trong nhóm dùng giả dược.
Các yếu tố nguy cơ bao gồm tiền sử suy tim hoặc
suy giảm chức năng thận. Trong thử nghiệm với
13No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
alogliptin, 3,9% bệnh nhân (hay 39 trên 1000 bệnh
nhân) được điều trị với alogliptin đã nhập viện do
suy tim so với 3,3% (hay 33 trên 1000 bệnh nhân)
trong nhóm dùng giả dược.
Do vậy, FDA Hoa Kỳ đã bổ sung mục “Cảnh
báo và Thận trọng” trong hướng dẫn sử dụng
của các thuốc chứa hoạt chất là saxagliptin hoặc
alogliptin để cảnh báo về khả năng tăng nguy cơ
xuất hiện suy tim. FDA Hoa Kỳ cũng nhắc nhở bệnh
nhân và cán bộ y tế báo cáo tác dụng không mong
muốn liên quan đến saxagliptin, alogliptin, hoặc
bất kỳ thuốc nào khác.
EMA rà soát lại các thuốc có hoạt chất
vancomycin
Trong cuộc họp ngày 01/4/2016, EMA thông
báo bắt đầu tiến hành rà soát các thuốc có hoạt
chất là vancomycin. Việc rà soát này thuộc chương
trình cập nhật thông tin kê đơn của các kháng sinh
cũ để đối phó với tình trạng đề kháng kháng sinh
đang lan tràn hiện nay.
Vancomycin là kháng sinh quan trọng điều
trị các nhiễm trùng nghiêm trọng do vi khuẩn
gram dương đã kháng các kháng sinh khác.
Trước tình trạng nhiễm khuẩn đa kháng kháng
sinh gia tăng, bao gồm cả vancomycin, việc
đánh giá lại cách sử dụng kháng sinh này trở nên
cần thiết. Tờ hướng dẫn sử dụng của vancomycin
cũng sẽ được xem xét lại cho phù hợp với các dữ
liệu hiện có về nguy cơ và lợi ích của thuốc, từ
Thông tin thêm cho cán bộ y tế:
- FDA Hoa Kỳ đã bổ sung mục cảnh báo về
nguy cơ nhập viện do suy tim trong hướng dẫn
sử dụng của các thuốc điều trị đái tháo đường
chứa saxagliptin và alogliptin.
- Các yếu tố nguy cơ dẫn đến nhập viện do
suy tim gồm tiền sử suy tim hoặc suy giảm chức
năng thận, nguy cơ trên đã được phát hiện
thông qua các thử nghiệm lâm sàng.
- Cân nhắc lợi ích/nguy cơ của saxagliptin
hoặc alogliptin trước khi bắt đầu điều trị trên
bệnh nhân có nguy cơ suy tim cao.
- Theo dõi các bệnh nhân dùng saxagliptin
hoặc alogliptin về các dấu hiệu và triệu chứng
suy tim.
- Nếu xuất hiện suy tim, cân nhắc ngừng
saxagliptin hoặc alogliptin trên bệnh nhân và
theo dõi kiểm soát đái tháo đường. Nếu đường
huyết không được kiểm soát tốt, có thể cần sử
dụng thuốc điều trị đái tháo đường khác.
- Khuyến khích bệnh nhân đọc hướng dẫn
dùng thuốc khi được kê đơn.
- Báo cáo các biến cố bất lợi liên quan đến
saxagliptin, alogliptin hoặc các thuốc khác.
đó đưa ra các thay đổi trong việc sử dụng kháng
sinh này trong thực hành.
Health Canada khuyến cáo không sử dụng
thuốc trị ho và cảm lạnh không cần kê đơn
cho trẻ em dưới 6 tuổi
Cơ quan Quản lý Y tế Canada (Health Canada)
khuyến cáo các bậc phụ huynh không nên cho trẻ
dưới 6 tuổi sử dụng các thuốc không cần kê đơn
(OTC) điều trị ho và cảm lạnh (các thuốc kháng
histamin như clorpheniramin, promethazin, thuốc
trị ho như dextromethorphan, diphenhydramin,
thuốc long đờm như guaifenesin, thuốc chống
nghẹt mũi như pseudoephedrin).
Năm 2009, Health Canada đã có đánh giá và
kết luận sử dụng các thuốc OTC điều trị ho và cảm
lạnh không đem lại hiệu quả trên trẻ em. Thêm
vào đó, các thuốc OTC có thể gây hại khi sử dụng
sai hoặc quá liều, mặc dù nguy cơ này là thấp. Các
khuyến cáo này đã được cập nhật vào tờ hướng
dẫn sử dụng nhưng các báo cáo gần đây cho thấy
trẻ em dưới 6 tuổi vẫn được bố mẹ hoặc người
chăm sóc trẻ cho dùng những loại thuốc trên.
Vì vậy, Health Canada nhắc nhở cha mẹ hoặc
người chăm sóc trẻ:
- Không sử dụng thuốc OTC điều trị ho và cảm
lạnh cho trẻ em dưới 6 tuổi.
- Luôn đọc kỹ tờ hướng dẫn sử dụng để đảm
bảo rằng thuốc phù hợp để sử dụng cho trẻ.
- Không cho trẻ uống các thuốc đã được ghi
nhãn là dành riêng cho người lớn.
- Không cho trẻ trên 6 tuổi sử dụng cùng lúc
nhiều thuốc điều trị ho và cảm lạnh (trừ trường
hợp được tư vấn của nhân viên y tế).
- Cảm lạnh và cảm cúm là khác nhau. Các
thuốc điều trị cảm lạnh không có tác dụng điều trị
cúm. Sử dụng bảng so sánh cảm lạnh và cảm cúm
để xác định bệnh của trẻ (trong cảm cúm, thường
gặp các triệu chứng như sốt cao khởi phát nhanh,
sau 3 - 4 ngày, đau đầu, đau mình mẩy, mệt mỏi,
ít gặp hắt hơi và thường gặp ho hơn so với cảm
lạnh. Về biến chứng, cảm lạnh có thể dẫn đến tắc
nghẽn xoang hoặc đau tai, trong khi cảm cúm có
thể dẫn đến viêm phổi và suy hô hấp, có thể đe
dọa tính mạng).
- Nếu triệu chứng của trẻ không cải thiện
hoặc nặng lên trong vòng 6 đến 10 ngày, cần xin ý
kiến tư vấn của nhân viên y tế.
- Cân nhắc các biện pháp không dùng thuốc
có thể giúp giảm nhẹ tạm thời triệu chứng ho và
cảm cúm:
+ Cho trẻ nghỉ ngơi.
+ Làm sạch đường mũi.
+ Cho trẻ uống nhiều dịch lỏng (nước, nước
ép quả không đường loãng hoặc nước canh) để
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
tránh mất nước và giữ ẩm họng.
+ Giữ trẻ trong môi trường thoải mái và độ
ẩm phù hợp.
Bệnh nhân sử dụng apomorphin và
domperidon cần đánh giá nguy cơ tim
mạch và theo dõi ECG để giảm nguy cơ loạn
nhịp tim nghiêm trọng liên quan tới kéo dài
khoảng QT
Apomorphin là chất đối kháng dopamin được
sử dụng để điều trị rung giật thần kinh vận động
dai dẳng ở bệnh nhân Parkinson. Domperidon
thường bắt đầu được sử dụng trước apomorphin
ít nhất 2 ngày để dự phòng tác dụng phụ nôn và
buồn nôn.
Năm 2014, EMA đã tiến hành đánh giá nguy
cơ và kết luận domperidon có thể làm tăng nguy
cơ kéo dài khoảng QT, rối loạn nhịp thất nghiêm
trọng và đột tử liên quan đến vấn đề tim mạch.
Nguy cơ tăng lên ở bệnh nhân trên 60 tuổi,
bệnh nhân sử dụng liều trên 30 mg/ngày, sử
dụng domperidon đồng thời với các thuốc có
khả năng kéo dài khoảng QT khác hoặc với các
thuốc ức chế cytochrom P450 3A4. Do vậy, EMA
đã yêu cầu giới hạn chỉ định của domperidon, giảm
liều khuyến cáo và bổ sung thêm một số chống chỉ
định trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc.
Khi sử dụng liều cao apomorphin cũng có
thể làm tăng nguy cơ kéo dài khoảng QT. Vì vậy,
EMA đã tiến hành đánh giá độ an toàn của phác
đồ có chứa apomorphin và domperidon. Kết quả
cho thấy sử dụng đồng thời hai thuốc làm tăng
nguy cơ trên tim mạch, đặc biệt là kéo dài khoảng
QT. Nguy cơ kéo dài khoảng QT có thể tăng trên
những bệnh nhân:
- Có tiền sử kéo dài khoảng QT.
- Đang có rối loạn tim mạch nghiêm trọng
như suy tim.
- Rối loạn chức năng gan nghiêm trọng.
- Rối loạn điện giải.
- Sử dụng đồng thời với các thuốc có thể làm
tăng nồng độ của domperidon như các thuốc ức
chế cytochrom P450 3A4.
Cân bằng lợi ích - nguy cơ của rivaroxaban
không thay đổi
Ngày 05/02/2016, EMA khẳng định cân
bằng lợi ích - nguy cơ của rivaroxaban không
thay đổi sau khi các phát hiện gần đây cho
thấy vấn đề liên quan đến chất lượng của máy
theo dõi INR được sử dụng trong nghiên cứu
ROCKET.
Rivaroxaban được sử dụng đồng thời với
acid acetylsalicylic đơn độc hoặc phối hợp với
clopidrogrel/ticlopidin để dự phòng huyết khối
xơ vữa trên người lớn sau hội chứng mạch vành
cấp có tăng các chất đánh dấu sinh học cơ tim.
Nghiên cứu ROCKET là thử nghiệm lâm sàng
chính tạo cơ sở cho việc sử dụng rivaroxaban
trên bệnh nhân có rung nhĩ không do bệnh
van tim (nhịp tim bất thường). Nghiên cứu này
tiến hành so sánh rivaroxaban với warfarin và
sử dụng thiết bị theo dõi INR để đo lường sự tạo
cục máu đông trên bệnh nhân dùng warfarin.
Tuy nhiên, do thiết bị theo dõi INR được sử dụng
không đảm bảo chất lượng, nhiều ý kiến cho
rằng thiết bị này đã cho ra các giá trị INR thấp
hơn trên một số bệnh nhân dùng warfarin. Các
giá trị INR thấp khiến các nhà nghiên cứu cho
bệnh nhân dùng liều quá cao làm tăng nguy cơ
chảy máu, từ đó gây ấn tượng sai lệch về độ an
toàn tương đối của rivaroxaban.
Sau khi tiến hành các phân tích sâu hơn về
nghiên cứu ROCKET và có tính đến các sai sót
liên quan đến chất lượng của thiết bị theo dõi
INR, Ủy ban các Sản phẩm Thuốc sử dụng cho
người (CHMP) thuộc EMA kết luận các phép đo
sai thực hiện bởi thiết bị theo dõi INR không
đảm bảo chất lượng được đề cập ở trên chỉ
gây ảnh hưởng nhỏ lên kết quả nghiên cứu và
các dữ liệu về tính an toàn của rivaroxaban vẫn
không thay đổi. Ngoài ra, một số nghiên cứu
MHRA khuyến cáo cán bộ y tế khi phối hợp
hai thuốc này cần lưu ý:
- Trước khi bắt đầu điều trị, cần cân nhắc và
đảm bảo lợi ích khi phối hợp hai thuốc vượt trội
hơn so với nguy cơ trên tim mạch.
- Trao đổi về lợi ích và nguy cơ khi sử dụng
apomorphin với bệnh nhân và người chăm sóc,
yêu cầu bệnh nhân liên lạc ngay với bác sĩ nếu
xuất hiện triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực
hoặc ngất trong quá trình sử dụng thuốc.
- Kiểm tra khoảng QT trước khi bắt đầu
sử dụng domperidon, trong khi sử dụng
apomorphin và bất kỳ khi nào có dấu hiệu
lâm sàng bất thường.
- Thường xuyên kiểm tra quá trình sử dụng
domperidon của bệnh nhân để đảm bảo bệnh
nhân dùng liều thấp nhất có hiệu quả và trong
khoảng thời gian ngắn nhất.
- Nhắc nhở bệnh nhân liên lạc ngay với
bác sĩ khi có bất kỳ thay đổi nào có thể làm tăng
nguy cơ loạn nhịp tim như:
+ Có triệu chứng của rối loạn chức năng
gan hoặc rối loạn tim mạch.
+ Có tình trạng bệnh có thể gây rối loạn
điện giải (ví dụ: viêm dạ dày - ruột hoặc bắt đầu
sử dụng thuốc lợi tiểu).
+ Bắt đầu sử dụng bất kỳ thuốc nào khác.
15No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
lớn khác đánh giá tính an toàn tương đối của
rivaroxaban cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng
rivaroxaban có tỷ lệ gặp biến cố chảy máu
tương đương với nhóm bệnh nhân sử dụng
warfarin. CHMP kết luận cân bằng lợi ích - nguy
cơ của rivaroxaban trên bệnh nhân có rung nhĩ
không do bệnh van tim không thay đổi.
Thuốc không kê đơn chứa pseudoephedrin:
đánh giá nguy cơ gây viêm và thiếu máu
cục bộ đại tràng
Ngày 24/02/2016, sau khi kết thúc quá trình
rà soát độ an toàn thuốc, Health Canada kết luận
có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên quan
giữa biến cố thiếu máu cục bộ đại tràng và
việc sử dụng pseudoephedrin không thường
xuyên với liều dùng và thời gian dùng thuốc tuân
thủ theo khuyến cáo, đồng thời không có các yếu
tố nguy cơ khác.
Pseudoephedrin là một thuốc không kê đơn
dùng để điều trị nghẹt mũi do tăng tiết dịch hoặc
chất nhày. Thiếu máu cục bộ đại tràng là tình trạng
viêm và tổn thương đại tràng do giảm tưới máu.
Health Canada đã tiến hành rà soát độ an toàn của
pseudoephedrin sau khi một trường hợp thiếu
máu cục bộ đại tràng nặng được công bố trên các
tài liệu khoa học. Tuy nhiên, ở thời điểm tiến hành
quá trình rà soát, tại Canada chưa ghi nhận trường
hợp thiếu máu cục bộ đại tràng nào liên quan đến
việc sử dụng pseudoephedrin. Vigibase đã ghi nhận
24 trường hợp thiếu máu cục bộ đại tràng, trong
đó có 7 trường hợp pseudoephedrin là thuốc sử
dụng duy nhất. Các thông tin thu được không
đầy đủ để có thể tiến hành đánh giá 24 trường
hợp này. Y văn cũng đã ghi nhận 9 trường hợp
thiếu máu cục bộ đại tràng liên quan đến việc
sử dụng pseudoephedrin: 6 trường hợp bệnh
nhân có các yếu tố nguy cơ khác, 2 trường hợp
thông tin không đầy đủ để đánh giá và 1 trường
hợp mối liên quan giữa biến cố thiếu máu cục
bộ đại tràng và việc sử dụng pseudoephedrin
được đánh giá ở mức có khả năng.
Nguy cơ tăng huyết áp động mạch phổi khi
sử dụng interferon alpha và beta
Tháng 7/2014, một tín hiệu về tăng huyết
áp động mạch phổi liên quan tới việc sử dụng
interferon alpha và beta đã được Pháp báo cho
PRAC. Theo kết quả rà soát của PRAC đưa ra
trong tháng 4/2015, tăng huyết áp động mạch
phổi là một tác dụng không mong muốn của
các thuốc interferon và cần cập nhật vào tờ
Thông tin sản phẩm.
Interferon alpha và beta được sử dụng cho
các chỉ định như đa xơ hóa, viêm gan, ung thư
biểu mô, ung thư hạch, bệnh bạch cầu và u tủy.
Hiện tờ Thông tin sản phẩm của interferon tại New
Zealand mới chỉ nhắc đến tăng huyết áp, chưa có
tăng huyết áp động mạch phổi. PRAC nhận định
đây là một biến cố bất lợi tuy nghiêm trọng nhưng
hiếm gặp. Ngoài ra, tại New Zealand, việc sử dụng
interferon ngày càng ít đi do có các thuốc thay thế
khác. Bên cạnh đó, các bằng chứng hiện có về nguy
cơ này còn chưa đủ thuyết phục và các thông tin
chủ yếu dựa trên các báo cáo về các trường hợp
đơn lẻ. Thực tế trong nhiều trường hợp còn có các
yếu tố gây nhiễu như: tiền sử bệnh nhân, bệnh
mắc kèm và các thuốc dùng đồng thời khác. Tuy
vậy, PRAC ghi nhận các trường hợp bệnh nhân
cải thiện sau khi ngừng dùng interferon và thảo
luận về việc nguy cơ tăng huyết áp động mạch
phổi liên quan đến cả interferon alpha và beta
hay chỉ một loại.
PRAC khuyến cáo Medsafe yêu cầu các nhà
sản xuất các thuốc chứa interferon alpha và beta
bổ sung tăng huyết áp động mạch phổi vào mục
tác dụng không mong muốn trong tờ hướng dẫn
sử dụng thuốc.
Các thuốc kháng virus tác dụng trực tiếp
trong điều trị viêm gan virus C
Trong cuộc họp hàng tháng, được tổ chức
từ ngày 11 đến 14/4/2016 tại London, PRAC tiếp
tục đánh giá các nguy cơ tái hoạt động của virus
viêm gan B trên một số bệnh nhân đồng nhiễm
virus viêm gan B và C và đánh giá nguy cơ tái phát
của ung thư biểu mô tế bào gan của thuốc kháng
virus viêm gan C tác dụng trực tiếp [daclatasvir
(Daklinza), dasabuvir (Exviera), sofosbuvir/ledipasvir
(Harvoni), simeprevir (Olysio), sofosbuvir (Sovaldi),
ombitasvir/paritaprevir/ritonavir (Viekirax)].
Tháng 3/2016, PRAC đã bắt đầu đánh giá các
dữ liệu hiện có về nguy cơ tái hoạt động của virus
viêm gan B trên một số bệnh nhân đồng nhiễm
virus B và C trong điều trị viêm gan C bằng các
thuốc kháng virus tác dụng trực tiếp nêu trên.
Hiện tượng tái hoạt động, dù đã khá rõ ràng
và được đề cập đến trong các khuyến cáo điều
trị, có thể tăng lên đáng kể khi sử dụng thuốc
kháng virus tác dụng trực tiếp, do tác dụng
mạnh hơn của thuốc trên virus viêm gan C và
không có hiệu lực đối với virus B, điều này trái
ngược hoàn toàn với interferon.
Theo kết quả của một nghiên cứu ở Tây Ban
Nha mới công bố, nhóm bệnh nhân có tiền sử ung
thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng thuốc
kháng virus tác dụng trực tiếp có thể có nguy cơ
tái phát sớm hơn dự kiến ung thư biểu mô tế bào
gan so với nhóm bệnh nhân không điều trị bằng
các thuốc kháng virus và sự khác nhau này có khả
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
năng liên quan đến quá trình miễn dịch và viêm
thứ cấp sau khi giảm nhanh chóng nồng độ virus.
Do vậy, PRAC đã quyết định đưa việc đánh giá
tín hiệu này vào trong bản rà soát về nguy cơ viêm
gan B tái hoạt động. Trong thời gian chờ kết quả,
ANSM nhấn mạnh tầm quan trọng của tín hiệu
liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng virus tác
dụng trực tiếp trong việc giám sát các bệnh nhân
nhiễm viêm gan virus C.
Lạm dụng các thuốc giảm ho và kháng histamin
trên trẻ vị thành niên và thanh niên
Dựa trên bằng chứng về việc lạm dụng các
thuốc giảm ho opioid và kháng histamin H1 với
mục đích giải trí ở đối tượng trẻ vị thành niên
và thanh niên, ANSM đã cảnh báo về việc lạm
dụng các thuốc này trong giới trẻ, cả trong
trường hợp bán theo đơn hoặc bán không cần
đơn. Tại Pháp, việc sử dụng một loại nước uống
dạng siro có tên là "nước tím" (purple drank) với
thành phần chính là codein, promethazin và
soda đã xuất hiện tín hiệu về sự lạm dụng và
dùng thuốc sai mục đích. Loại đồ uống này xuất
hiện từ cuối những năm 1990 tại Mỹ và hiện
đang trở thành một vấn đề nhức nhối đối với
sức khỏe của giới trẻ. Từ năm 2013, những tín
hiệu đầu tiên đã được báo cáo trong hệ thống
Cảnh giác các thuốc gây nghiện của Pháp về
việc lạm dụng các thuốc giảm ho opioid và
kháng histamin H1. Các triệu chứng và biểu
hiện bao gồm buồn ngủ, rối loạn hành vi (kích
động, lú lẫn hoặc hoang tưởng) và cơn động
kinh toàn thể. Vấn nạn lạm dụng dẫn đến nhập
viện diễn ra ở cả nam và nữ, chủ yếu ở độ tuổi
vị thành niên (từ 12 tuổi trở lên) và thanh niên.
Trong bối cảnh tín hiệu về lạm dụng thuốc này
trên nhóm đối tượng rất nhạy cảm gia tăng một
cách nhanh chóng và có bằng chứng rõ ràng,
ANSM đã cảnh báo nguy cơ này tới các dược sĩ,
bác sĩ và khuyến cáo cần đặc biệt thận trọng với
mọi yêu cầu sử dụng các thuốc có chứa các dẫn
xuất opiat hoặc kháng histamin, cùng các biểu
hiện nghi ngờ lạm dụng thuốc, đặc biệt ở trẻ vị
thành niên và thanh niên.
Fusafungin: Rút số đăng ký của các chế
phẩm có chứa fusafungin dạng xịt được sử
dụng trong nhiễm khuẩn đường hô hấp ở
châu Âu
Ngày 12/02/2016, PRAC đã chính thức ra
khuyến cáo rút số đăng ký và ngừng lưu hành
các biệt dược chứa fusafungin. Khuyến cáo này
được đưa ra sau khi PRAC tiến hành đánh giá các
dữ liệu hiện có và nhận thấy fusafungin có thể
gây ra những phản ứng dị ứng nghiêm trọng và
lợi ích của thuốc không vượt trội nguy cơ. Ngày
01/4/2016, Nhóm điều phối thuốc sử dụng trên
người được phê duyệt theo quy trình không tập
trung và thừa nhận lẫn nhau (CMDh) đã chính thức
phê duyệt rút số đăng ký của các chế phẩm này.
Fusafungin là một kháng sinh và các chế phẩm
dạng xịt mũi, xịt họng có chứa fusafungin được sử
dụng trong điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp
trên như viêm xoang và viêm amidan. Phần lớn các
phản ứng dị ứng nghiêm trọng xảy ra ngay sau khi
sử dụng thuốc, gây co thắt phế quản, co rút quá
mức và co rút kéo dài các cơ hô hấp dẫn tới khó thở.
Mặc dù các phản ứng nghiêm trọng khi sử dụng
fusafungin hiếm khi xảy ra nhưng có thể đe dọa tính
mạng bệnh nhân và hiện không có phương pháp
nào đủ hữu hiệu để giảm thiểu nguy cơ này.
Mặt khác, bằng chứng về lợi ích của fusafungin
còn hạn chế, xét trên bối cảnh thuốc thường được
sử dụng trong những bệnh đường hô hấp trên
mức độ nhẹ thì lợi ích của fusafungin không vượt
trội hơn so với nguy cơ. Ngoài ra, CMDh cũng bày
tỏ lo ngại về khả năng fusafungin có thể thúc đẩy
tình trạng kháng kháng sinh dù chưa có đầy đủ
bằng chứng.
Do vậy, CMDh kết luận rằng nguy cơ khi sử
dụng fusafungin lớn hơn lợi ích mà thuốc mang
lại và quyết định rút số đăng ký của các thuốc có
chứa fusafungin trên lãnh thổ châu Âu.
Nguy cơ phản ứng có hại trên tim mạch của
các thuốc có chứa strontium
Sau cảnh báo của EMA về việc sử dụng
strontium ranelat kê đơn liều 680 mg/ngày,
Health Canada đã tiến hành rà soát về độ an
toàn của thuốc này. Theo cảnh báo của EMA,
liều strontium ranelat 680 mg/ngày có hiệu quả
trong điều trị loãng xương nặng nhưng không
nên sử dụng ở bệnh nhân đang mắc các bệnh
tim mạch. Tại thời điểm tiến hành rà soát, Health
Canada chưa phát hiện được thông tin nào về
nguy cơ tim mạch đối với strontium ranelat ở
mức liều dưới 680 mg/ngày hoặc với các dạng
muối khác của strontium ngoài ranelat (citrat,
lactat, gluconat) ở mọi mức liều.
Khi vẫn chưa chắc chắn về vấn đề này,
Health Canada vẫn tiến hành một số biện pháp
thận trọng như khuyến cáo cập nhật nguy cơ
này vào tờ Thông tin sản phẩm của thuốc chứa
strontium và cảnh báo người đang có bệnh tim
mạch như đau tim, đột quỵ hoặc có huyết khối,
không nên sử dụng các thuốc này.
D. PHẦN THẨM ĐỊNH ADR CỦA ĐƠN VỊ
17. Đánh giá mối liên quan giữa thuốc và ADR
Chắc chắn
Có khả năng
Có thể
Không chắc chắn
Chưa phân loại
Không thể phân loại
Khác :.
..
..
18. Đơn vị thẩm định ADR theo thang nào?
Thang WHO Thang Naranjo Thang khác:
19. Phần bình luận của cán bộ y tế (nếu có)
E. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI BÁO CÁO
20. Họ và tên:.......................................... Nghề nghiệp/Chức vụ:
Điện thoại liên lạc: Email:.
21. Chữ ký
22. Dạng báo cáo: Lần đầu/ Bổ sung 23. Ngày báo cáo:/../
Xin chân thành cảm ơn!
HƯỚNG DẪN LÀM BÁO CÁO
Xin hãy báo cáo tất cả các phản ứng có
hại mà anh/chị nghi ngờ, đặc biệt khi:
Các phản ứng liên quan tới thuốc mới
Các phản ứng không mong muốn
hoặc chưa được biết đến
Các phản ứng nghiêm trọng
Tương tác thuốc
Thất bại trong điều trị
Các vấn đề về chất lượng thuốc
Các sai sót trong quá trình sử dụng
thuốc.
Mẫu báo cáo này được áp dụng cho các
phản ứng gây ra bởi:
Thuốc và các chế phẩm sinh học
Vắc xin
Các thuốc cổ truyền hoặc thuốc có
nguồn gốc dược liệu
Thực phẩm chức năng.
Người báo cáo có thể là:
Bác sĩ
Dược sĩ
Nha sĩ
Y tá/ điều dưỡng/nữ hộ sinh
Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc
sức khỏe khác.
Cách báo cáo:
Điền thông tin vào mẫu báo cáo
Chỉ cần điền những phần anh/chị có thông tin
Có thể đính kèm thêm một vài trang (nếu mẫu báo cáo không đủ khoảng trống để
điền thông tin hay có những xét nghiệm liên quan).
Xin hãy gửi báo cáo về Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản
ứng có hại của thuốc theo các địa chỉ sau:
Thư: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng
có hại của thuốc
Trường Đại học Dược Hà Nội
13-15 Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Fax: (04) 3933 5642
Điện thoại: (04) 3933 5618
Website:
Email: di.pvcenter@gmail.com
Anh/chị có thể lấy mẫu báo cáo này tại khoa Dược, phòng Kế hoạch tổng
hợp của bệnh viện hoặc tải từ trang web Nếu có bất
kỳ thắc mắc nào, anh/chị có thể liên hệ với Trung tâm Quốc gia về Thông tin
thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc theo số điện thoại: (04) 3933 5618
hoặc theo địa chỉ email di.pvcenter@gmail.com.
Phần dành cho Trung tâm DI & ADR Quốc gia
1. Gửi xác nhận tới đơn vị báo cáo 3. Phản ứng đã có trong y văn/ SPC/ CSDL
2. Phân loại phản ứng
Thuốc mới Thuốc cũ
Nghiêm trọng Không nghiêm trọng
4. Nhập dữ liệu vào hệ cơ sở dữ liệu quốc gia
5. Nhập dữ liệu vào phần mềm Vigiflow
6. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng
Đe dọa tính mạng/ gây tử vong Nhập viện/ kéo dài thời gian nằm viện Gây dị tật/ tàn tật Liên quan tới lạm dụng/ phụ thuộc thuốc
7. Gửi báo cáo tới hội đồng thẩm định Ngày gửi ..../.../. 8. Gửi báo cáo cho UMC
Ngày gửi
...../.../...
9. Kết quả thẩm định
Chắc chắn
Có khả năng
Có thể
Không chắc chắn
Chưa phân loại
Không thể phân loại
Khác:
10. Người quản lý báo cáo
11. Ngày:../../..
12. Chữ ký
Phụ lục 5: Thông tư số 23/2011/TT-BYT: Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh
Phụ lục 5
BÁO CÁO PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC
THÔNG TIN VỀ NGƯỜI BÁO CÁO, BỆNH NHÂN VÀ ĐƠN VỊ BÁO CÁO
SẼ ĐƯỢC BẢO MẬT
Nơi báo cáo:
Mã số báo cáo của đơn vị:
Mã số báo cáo (do Trung tâm quốc gia quản lý):
..
Xin anh/chị hãy báo cáo kể cả khi không chắc chắn về sản phẩm đã gây ra phản ứng và/hoặc không có đầy đủ các thông tin
A. THÔNG TIN VỀ BỆNH NHÂN
1. Họ và tên:........................................ 2. Ngày sinh:.../.../ Hoặc tuổi:.........
3. Giới tính
Nam Nữ
4. Cân nặng:
....kg
B. THÔNG TIN VỀ PHẢN ỨNG CÓ HẠI (ADR)
5. Ngày xuất hiện phản ứng:..../.../.. 6. Phản ứng xuất hiện sau bao lâu (tính từ lần dùng cuối cùng của thuốc nghi ngờ):
7. Mô tả biểu hiện ADR
8. Các xét nghiệm liên quan đến phản ứng
9. Tiền sử (dị ứng, thai nghén, nghiện thuốc lá, nghiện rượu, bệnh
gan, bệnh thận)
10. Cách xử trí phản ứng
11. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng
Tử vong
Đe dọa tính mạng
Nhập viện/Kéo dài thời gian nằm viện
Tàn tật vĩnh viễn/nặng nề
Dị tật thai nhi
Không nghiêm trọng
12. Kết quả sau khi xử trí phản ứng
Tử vong do ADR
Tử vong không liên quan đến thuốc
Chưa hồi phục
Đang hồi phục
Hồi phục có di chứng
Hồi phục không có di chứng
Không rõ
C. THÔNG TIN VỀ THUỐC NGHI NGỜ GÂY ADR
S
T
T
13.Thuốc (tên gốc và
tên thương mại)
Dạng
bào chế,
hàm
lượng
Nhà
sản xuất Số lô
Liều
dùng
một lần
Số lần
dùng
trong
ngày/
tuần/
tháng.
Đường
dùng
Ngày điều trị
(Ngày/tháng/năm)
Lý do dùng thuốc
Bắt đầu Kết thúc
i
ii
iii
iv
STT
(Tương
ứng 13.)
14.Sau khi ngừng/giảm liều của thuốc bị nghi ngờ, phản ứng có
được cải thiện không?
15.Tái sử dụng thuốc bị nghi ngờ có xuất hiện lại phản ứng
không?
Có Không Không ngừng/giảm liều Không có thông tin Có Không Không tái sử dụng Không có thông tin
i
ii
iii
iv
16. Các thuốc dùng đồng thời (Ngoại trừ các thuốc dùng điều trị/ khắc phục hậu quả của ADR)
Tên thuốc Dạng bào chế, hàm lượng
Ngày điều trị (ngày/tháng/năm)
Tên thuốc Dạng bào chế, hàm lượng
Ngày điều trị (ngày/tháng/năm)
Bắt đầu Kết thúc Bắt đầu Kết thúc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_tin_canh_giac_duoc_so_2_2016.pdf