Tài liệu Ban Thống nhất Trung ương với việc tiếp nhận hàng viện trợ từ các nước cho miền Nam trong giai đoạn chống Chiến lược Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965-1968): TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
52
Ban Thống nhất Trung ương với việc tiếp nhận hàng
viện trợ từ các nước cho miền Nam trong giai đoạn
chống Chiến lược Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965-1968)
The central government committee with the receipt of the aids from the countries to the
Southern in The period against the American war depertmental srategy (1965 – 1968)
TS. Phan Thị Xuân Yến
Trường Đại học Sài Gòn
Phan Thi Xuan Yen, Ph.D.
Saigon University
Tóm tắt
Trải qua hơn bốn mươi năm kể từ ngày 30/4/1975, đất nước và dân tộc trải qua những bước thăng trầm
của lịch sử và đã có những bước tiến quan trọng trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Cho đến
hôm nay bài học quý giá rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo tài tình của
Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) một Đảng có đường lối chính trị, đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, sáng tạo, không những phát huy được sức mạnh của khối đạ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ban Thống nhất Trung ương với việc tiếp nhận hàng viện trợ từ các nước cho miền Nam trong giai đoạn chống Chiến lược Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965-1968), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
52
Ban Thống nhất Trung ương với việc tiếp nhận hàng
viện trợ từ các nước cho miền Nam trong giai đoạn
chống Chiến lược Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965-1968)
The central government committee with the receipt of the aids from the countries to the
Southern in The period against the American war depertmental srategy (1965 – 1968)
TS. Phan Thị Xuân Yến
Trường Đại học Sài Gòn
Phan Thi Xuan Yen, Ph.D.
Saigon University
Tóm tắt
Trải qua hơn bốn mươi năm kể từ ngày 30/4/1975, đất nước và dân tộc trải qua những bước thăng trầm
của lịch sử và đã có những bước tiến quan trọng trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Cho đến
hôm nay bài học quý giá rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo tài tình của
Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) một Đảng có đường lối chính trị, đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, sáng tạo, không những phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc mà còn thu hút được sự cộng hưởng của bạn bè quốc tế ủng hộ và giúp đỡ trong cuộc kháng chiến
thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bài học về quan hệ quốc tế thời kỳ chiến tranh còn nguyên giá
trị thực tiễn trong thời kỳ đất nước đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ
động hội nhập quốc tế hiện nay.
Từ khóa: Ban Thống nhất Trung ương, tiếp nhận, hàng viện trợ, kháng chiến chống Mỹ; Chiến lược
chiến tranh Cục Bộ.
Abstract
Over the past forty years since April 30, 1975, the country and its people have experienced the ups and
downs of history and made important progress on the road to socialism. To this day, a valuable lesson
learned from the anti-American resistance war between the Vietnam Communist Party (now the
Communist Party) and the Party of Politics, Independence, self-reliance and creativity not only promote
the strength of the great national unity but also attract the resonance of international friends supporting
and assisting in the anti-divine resistance against the emperor American invasion. The lessons of
international relations during the war remain of real value in the period that the country is continuing to
accelerate the cause of industrialization, modernization and active integration into the world today.
Keywords: The Central Government Committee, reception, aid, anti-American war; War Departmental
Strategy.
1. Ban Thống nhất Trung ương
trong giai đoạn ác liệt của kháng chiến
Ban Thống nhất Trung ương là tổ chức
đặc biệt được thành lập theo Nghị quyết
12-NQ/TW ngày 17/5/1957 trên cơ sở sáp
nhập Ban miền Nam và Ban thống nhất
PHAN THỊ XUÂN YẾN
53
hiệp thương, làm nhiệm vụ tư vấn cho Ban
Chấp hành trung ương Đảng giải quyết
những vấn đề về cách mạng miền Nam.
Hoạt động và vai trò của Ban Thống nhất
Trung ương từ năm 1961 trở đi thể hiện
qua sự phối hợp với các cơ quan, ban
ngành chức năng trên nhiều lĩnh vực: tiếp
đón, phân công, bố trí cán bộ, chiến sĩ,
đồng bào miền Nam tập kết; điều động cán
bộ dân, chính, đảng từ hậu phương miền
Bắc vào các chiến trường miền Nam; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, con em miền Nam
trên đất Bắc; tiếp nhận và phân phối hàng
viện trợ các nước cho miền Nam, đề xuất
về hoạt động ngoại giao
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ
sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản
của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế
quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các
nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành
cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn;
đồng thời dùng không quân, hải quân hùng
hổ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta
quyết định phát động cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn
quốc. Lúc này Đảng nhận định tình hình:
khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế
tiến công, ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về
kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người,
sức của của miền Bắc cho cách mạng miền
Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và
đường biển. Ở miền Nam, vượt qua những
khó khăn trong những năm 1961-1962, từ
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta
đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của
“Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy
quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân
dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm
1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức
cao nhất đã cơ bản bị phá sản. Tình hình đó
đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc
xác định quyết tâm và đề ra đường lối
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 11, lần thứ 12 năm 1965, để
thực hiện tốt công tác đối ngoại, mở rộng
mặt trận ngoai giao, Phó Thủ tướng Chính
phủ Lê Thanh Nghị đã ký Thông tư
81/TTg, ngày 21/7/1965 “Về việc quản lý
tài chính đối với hàng viện trợ”. Thông tư
này quy định một số điểm cụ thể về mặt
quản lý tài chính trong các khâu tiếp nhận,
phân phối, và thanh toán các loại hàng hóa,
tiền bạc viện trợ.
Thông tư nhận định: “Trước tình hình
đế quốc Mỹ tăng cường xâm lược miền
Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc với mức độ ngày càng rộng lớn
và ác liệt, các nước XHCN anh em đang ra
sức giúp đỡ ta cả về kinh tế và quốc phòng
nhằm tăng cường khả năng kinh tế và quốc
phòng của ta trong cuộc chiến đấu tranh
chống Mỹ xâm lược. Ngoài ra các đoàn thể
nhân dân ở một số nước, các tổ chức dân
chủ quốc tế và một số Đảng Cộng sàn cũng
giúp ta về thuốc men, dụng cụ y tế, quần
áo, vải... Trong thời gian tới, hàng viện trợ
cho ta tăng lên gấp bội Vì vậy, cần phải
xác định rõ một số nguyên tắc bảo đảm sự
quản lý của Nhà nước.”
Đặc biệt Thông tư 81/Ttg qui định rất cụ
thể việc tiếp nhận vật tư, hàng hóa, tiền viện
trợ giao cho các Bộ, Ban ngành như sau:
“1) Hàng hóa của các anh em hoặc của
những nước có quan hệ hữu nghị gửi giúp
ta, dù thông qua hiệp định viện trợ ký kết
giữa hai bên hay không có hiệp định, đều
do ngành ngoại thương tổ chức tiếp nhận.
BAN THỐNG NHẤT TRUNG ƯƠNG VỚI VI C TIẾP NHẬN HÀNG VI N TRỢ
54
2) Vật tư, hàng hóa, do các đoàn thể
nhân dân, phong trào quần chúng, các tổ
chức chức nghiệp, các tư nhân nước ngoài
gửi giúp nhân dân ta thông qua các đoàn
thể nhân dân như công đoàn, phụ nữ,
thanh niên, sinh viên, Mặt trận, Hội chữ
thập đỏ thì lấy danh nghĩa các đoàn thể
nhân dân hay cơ quan đại diện tiếp nhận.
Về thực tế, tùy theo tính chất các loại
hàng, Ban Thống nhất quản lý viện trợ sẽ
phân công cho các Bộ hữu quan đứng ra
tiếp nhận, như Bộ Y tế tiếp nhận các loại
hàng là thuốc men, dụng cụ y tế, Bộ Nội
thương tiếp nhận các loại hàng là vật
phẩm tiêu dung; Tổng cục vật tư tiếp nhận
các loại hàng là vật tư kỹ thuật... Sau khi
tiếp nhận, các cơ quan nói trên tiến hành
kiểm kê cụ thể theo chế độ hiện hành và
báo cáo cho Ban Thống nhất quản lý viện
trợ và Bộ Tài chính biết. Các đoàn thể
nhân dân có nhu cầu riêng, phải làm đề
nghị gửi lên Ban Thống nhất, không được
tự phân phối cho mình”. Qua đó cho
thấy Ban Thống nhất Trung ương vừa là
cơ quan tham mưu, tư vấn – giúp việc cho
Trung ương, vừa là cơ quan đề xuất và
điều phối các hoạt động. Ban Thống nhất
Trung ương có mối quan hệ với các cơ
quan ban ngành khác cùng họat động vì sự
nghiệp thống nhất đất nước.
Thực hiện Thông tư trên, Ban Thống
nhất quản lý viện trợ đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao, phối hợp chặt chẽ
với các Bộ, Ban ngành và cơ quan hữu
quan tiếp nhận các loại hàng viện trợ điển
hình trong giai đoạn chiến tranh ác liệt
1965-1968.
2. Tiếp nhận hàng viện trợ trong
năm 1965
2.1. Từ các nước xã hội chủ nghĩa
Theo số liệu báo cáo của Ban Thống
nhất trong 6 tháng đầu năm 1965:
- Số lượng tiền mặt các nước XHCN
chi viện:
“Trung Quốc: hàng chi viện trị giá:
37.913.480đ; Cu Ba: 1.100.000đ; Liên xô:
302761đ; Triều Tiên: 895.396đ; Cộng hòa
dân chủ Đức: 65.600đ; Bungari: 105.359đ;
Hunggari: 19.450đ; Mông cổ: 13.780đ;
Tiệp Khắc: 22.994đ; Rumani: 12.318đ; Ba
lan: 28.600đ; Anbani: 10.516đ. Tổng số
các nước XHCN: 40.490.254đ”(1).
- Tiếp nhận hàng hóa các loại:
Theo báo cáo thống kê của Ủy ban
Thống nhất số 221, tháng 6/1965, trong lúc
chúng ta đặt mua dụng cụ y tế chưa kịp thì
nước bạn đã giúp mình “77 bộ đại phẫu
thuật, 22 bộ trung phẫu; 183 bộ đa khoa
cấp cứu; 82 bộ tiểu phẩu và 1 số cho
chuyên khoa về phổi, tim, chấn thương
Nước tiếp viện dụng cụ nhiều nhất là Liên
Xô (trị giá 440.839đ); Trung quốc
(108.821đ), Cộng hòa dân chủ Đức
(100.682đ). Về thuốc men tập trung vào
các loại thuốc cho chấn thương, cấp cứu,
kháng sinh, sốt rét và dinh dưỡng cụ thể:
18,6 triệu viên sốt re1e, 2 triệu viên
Sulfanide, 475.000 viên và 271.000 lọ
kháng sinh và một số sinh tố B1, B12, C
Về hàng hóa: 500.000 mét vải các loại;
50.000 mét ni-lon (Triều Tiên); 7000
biđông (Trung quốc), một số giây dù, vải
dù, vải bạt (Hunggari), một số máy ảnh,
máy quay, máy đánh chữ. Ngoài ra còn
gạo, đường, sữa, thịt hộp”(2).
2.2. Từ các tổ chức và nhân sĩ quốc tế
Trong năm 1965 số tiền mặt chi viện
cho ta là 483.260đ. Đặc biệt tổng thống
Angeri gửi ủng hộ 100.000 Dina. Số tổ
chức và cá nhân các nước theo báo cáo của
Ủy ban Thống nhất Trung ương ủng hộ vật
chất cho miền Nam ngày càng đông. Ở
nhiều nước tư bản (Anh, Nhật, Pháp, Tây
Đức, Áo, Phần Lan, Thụy Sĩ, Bỉ, Na uy
PHAN THỊ XUÂN YẾN
55
có nhiều hình thức ủng hộ của các tổ chức,
đoàn thể, cá nhân qua các hội nghị quốc tế,
hoặc từ nước họ gửi tiền cho ta trực tiếp.
Riêng ở Anh có Ủy ban ủng hộ thuốc men
cho Việt Nam hoạt động rất tích cực vừa
vận động trong nước vừa giới thiệu và vận
động một số nhân sĩ các nước khác tìm
cách giúp đỡ nhân dân miền Nam. Năm
1965, Ủy ban này đã gửi một số thuốc
kháng sinh trị giá 120.000đ. Tại nước Nhật
có phong trào quyên góp tiền mua radio
bán dẫn và máy ảnh gửi cho Việt Nam.
Hàng hóa thì chủ yếu là thuốc men và dụng
cụ y tế
2.3. Tiếp nhận từ Việt kiều, cán bộ và
sinh viên ở nước ngoài
Chủ yếu là ủng hộ tiền; trong tổng số
tặng phẩm gửi cho miền Nam qui ra tiền là
416.392đ, thì tiền ngoại tệ gửi về qui ra
tiền Việt Nam là 393.690đ. Riêng Việt kiều
Thái lan gửi 100.000 USD; Việt kiều Lào:
4.500 kip; kiều bào ở Thượng Hải: Một số
thuốc, 2 đài pin; Việt kiều ở Pháp: 1 máy
truyền máu; sinh viên Việt Nam học tại
Liên Xô: 3 đài pin”(3).
3. Trong thời kỳ 1966-1968
Mỹ và quân Sài Gòn tiến hành mở 2
cuộc phản công mùa khô nhằm “Tìm diệt”
quân Giải phóng miền Nam, trả thù cho
những trận đánh phủ đầu vừa qua, giành
quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa
áp lực, củng cố bình định, ổn định lại trật tự
cho chế độ thực dân mới. Sau khi đánh bại
và làm phá sản kế hoạch của Mỹ và quân
tay sai ở 2 mùa khô, thực hiện Nghị quyết
của Bộ Chính trị tháng 12/1967, Hội nghị
Ban Chấp hành TW khóa III đã hạ quyết
tâm: chuyển cuộc chiến tranh cách mạng
của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời
kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành
thắng lợi quyết định. Thực tiễn cách mạng
lúc này càng đòi hỏi phải có thêm nhân tài
vật lực đáp ứng cho chiến trường miền
Nam. Tính đến năm 1968, năm cao điểm
Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục
bộ”, theo báo cáo thống kê của phòng cung
cấp và viện trợ trực thuộc Ban Thống nhất
Trung ương: Bên cạnh phát huy vai trò của
hậu phương miền Bắc chi viện cho tiền
tuyến miền Nam với mục tiêu: “Lương
không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, dưới sự chỉ đạo của Đảng chúng ta
vẫn tiếp tục nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực cánh sinh nhưng vẫn tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của bè bạn
quốc tế, kết hợp sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế tạo
thành sức mạnh tổng hợp.
3.1. Các nước xã hội chủ nghĩa
“Cộng hòa dân chủ Đức gửi sang là
357.214kg hàng hóa các loại, trong đó
thuốc: 106.951kg, hàng hóa khác:
250.263kg gồm có một số mặt hàng (máy
quay phim, máy ảnh, cuộn phim, máy phat
điện, máy ghi âm, đài bán dẫn, máy may,
xe đạp); Ba Lan gửi chuyến hàng là
53.613kg (84% so với 1967) trong đó có
thuốc là 12.998kg, hàng hóa khác:
37.950kg. Liên Xô: Ngoài việc ủng hộ
chung còn chi viện riêng cho miền Nam
việt Nam riêng trong năm 1968 là
25.671kg (114% so với năm 1967) trong
đó thuốc 4.495kg; hàng hóa khác là 21.176
kg. Rumani là 12.538kg (164% so với
1967); Tiệp khắc 10.576kg (86% so với
1967); Hunggari: 4.232kg; Bungari: 200kg;
Trung quốc, Cuba, Triều Tiên: 1009 kg”.(4)
3.2. Các tổ chức và cá nhân ở các
nước khác
So với năm 1967 các tổ chức và cá
nhân quốc tế ủng hộ cho miền Nam trong
năm 1968 tăng hơn nhiều. Cụ thể là “Nhật
Bản: 37.563kg (540% so với 1967), trong
đó có 465 kg thuộc về hàng viện trợ qua
BAN THỐNG NHẤT TRUNG ƯƠNG VỚI VI C TIẾP NHẬN HÀNG VI N TRỢ
56
đường mậu dịch và 37.098 kg thuộc về
hàng viện trợ nhân dân (thuốc kháng sinh,
máy phát thanh, bộ đàm, đài bán dẫn, máy
ảnh). Canada: 3.550 kg (chiếm 574% so
với năm 1967), trong đó có 1.500 kg dụng
cụ y tế, thuốc và 2.050 kg hàng hóa khác.
Anh: 4.196 kg (410% so với năm 1967),
trong đó có 3.921 kg thuốc men, dụng cụ y
tế, 275 kg quần áo trẻ em.Pháp: gửi qua
thường trú Mặt trận tại phnompenh 4
chuyến hành gồm có: 147 bộ dụng cụ mổ,
46 bộ hô hấp nhân tạo, 30 bộ cấp cứu, 1
máy Xquang, thuốc kháng sinh Thụy
Điển: 4.838 kg (253% so với 1967), trong
đó có 4.823 kg thuốc, dung cụ y tế và 15kg
hàng hóa khác. Phần Lan: 402 kg (287% so
với năm 1967) trong đó đa phần là thuốc
sốt rét, kháng sinh, sinh tố B Tây đức:
420 kg (561% so với năm 1967), trong đó
có thuốc và sữa bột; Mỹ: 451 kg (450% so
với năm 1967), trong đó chủ yếu là thuốc.
Hà Lan: 66 kg (máy đánh chữ, máy quay
phim, máy ghi âm). Hội đồngThập tự quốc
tế: 53.388 kg, trong đó có 6.634 kg thuốc
và dụng cụ y tế và 46.754 kg hàng hóa
khác (đường, sữa, vải, máy móc).
3.3. Việt kiều và sinh viên Việt Nam
học ở nước ngoài
Trong năm 1968 phong trào ủng hộ
của sinh viên và việt kiều ngày càng dâng
cao. Đặc biệt sinh viên học tại Đức,
Rumani và việt kiều sinh sống tại Pháp,
Trung quốc gửi cho nhân dân miền Nam:
1.450 kg, trong đó có 1.100 kg dụng cụ y
tế, thuốc và 350 kg hàng hóa khác”(5).
Ngoài ra còn tiếp nhận từ các tổ chức ở các
nước như: Ủy ban đoàn kết Á-Phi (Cộng
hòa dân chủ Đức), nhân dân đức, nhân dân
Ba Lan, Liên Xô... thông qua các Hội đồng
Thập tự, các Ủy ban, Trung tâm giúp đỡ
ủng hộ Việt Nam ở các nước như: Thụy
điển, Phần Lan, Anh
Như vậy, trong năm 1965 đến năm
1968 cả nước có chiến tranh, chống Mỹ
cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả
dân tộc. Quân dân miền Bắc vừa sản xuất,
vừa chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân và hải quân của
Mỹ, đồng thời không ngừng chi viện cho
miền Nam với khẩu hiệu hành động: “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả cho đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”. Cách mạng miền Nam
ngày càng phát triển, đòi hỏi sự chi viện
ngày càng lớn về sức người, sức của từ hậu
phương lớn miền Bắc.Đồng thời tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của anh
em, bè bạn và các tổ chức quốc tế, Hoạt
động của Ban Thống nhất Trung ương
trong chiến tranh phối hợp với Ủy ban
Thống nhất của Chính phủ và các Bộ, ban
ngành khác ở Trung ương và địa phương,
thực hiện vai trò cơ quan tham mưu – giúp
cho Trung ương Đảng chỉ đạo thực tiễn
cách mạng.Ban Thống nhất Trung ương là
đầu mối trong các công tác giúp Trung
ương và Trung ương Cục miền Nam thành
lập Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, Hội đồng cố vấn và Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam, các tổ chức quần chúng khác ở
miền Nam, từ khâu nghiên cứu, chuẩn bị
văn kiện đến tổ chức hội nghị. Quản lý và
tổ chức thực hiện các mặt công tác đối
ngọai của miền Nam như tổ chức các đoàn
cán bộ đi thăm và hội nghị các nước, đi
họp quốc tế, đón tiếp các đoàn nước ngòai
vào thăm miền Nam, lập cơ quan ngọai
giao ở các nước, phục vụ Hội nghị Paris,
thành lập các Hội hữu nghị, tranh thủ viện
trợ và sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng
miền Nam “Theo thống kê từ 1965 đến
1975, Ban Thống nhất đã đón tiếp khoảng
25.000 cán bộ từ miền Nam ra Bắc, và điều
động, tăng cường gần 80.000 cán bộ dân,
PHAN THỊ XUÂN YẾN
57
chính, đảng vào Nam. Trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền
Bắc đã chi viện cho miền Nam (qua Ban
Thống nhất Trung ương) hàng chục vạn tấn
vật chất, bao gồm vũ khí, đạn dược, lương
thực, quân trang quân dụng, xăng dầu,
thuốc men và nhiều vật dụng khác. Ban
Thống nhất cũng đã tổ chức tiếp nhận và
phân phối hàng ngàn tấn hàng viện trợ của
các nước anh em bè bạn quốc tế giúp nhân
dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ
thắng lợi”(6).
4. Mấy nhận xét
Hoạt động và phát triển của Ban
Thống nhất Trung ương trong quá trình
tham mưu, giúp Trung ương chỉ đạo thực
tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
để lại nhiều bài học quý giá. Đó là những
vấn đề về hệ thống tổ chức và phương thức
hoạt động của tổ chức này. Ban Thống nhất
Trung ương luôn luôn bám sát thực tiễn,
bám sát tình hình cách mạng miền Nam
qua các thời kỳ phát triển, nhất là trước các
bước ngoặt của cách mạng; không ngừng
hoàn thiện bộ máy tổ chức; khi tình hình
cách mạng thay đổi, đặt ra yêu cầu, nhiệm
vụ mới, phải thay đổi bộ máy tổ chức, thay
đổi cơ chế hoạt động, mở rộng chức năng
nhiệm vụ cho phù hợp, có vậy mới thực
hiện được hiệu quả vai trò một tổ chức
tham mưu tư vấn cho trung ương chỉ đạo
thực tiễn cách mạng. Như thế Ban Thống
nhất Trung ương không chỉ về mặt đối
nội,mà còn thể hiện vai trò, nhiệm vụ to
lớn trong công tác đối ngoại, giúp Trung
ương triển khai nhiệm vụ chỉ đạo cuộc vận
động phong trào giúp đỡ, ủng hộ, chi viện
từ các nước XHCN, các tổ chức và nhân
dân các nước trên thế giới.
Trong thời kỳ 1965-1968 việc tiếp
nhận hàng viện trợ cho miền Nam từ các
nước và bè bạn quốc tế đã đáp ứng kịp thời
yêu cầu của miền Nam đang xây dựng
vùng giải phóng trong giai đoạn chiến
tranh ác liệt, góp phần thiết thực vào những
thắng lợi to lớn và toàn diện trên chiến
trường miền Nam. Khối lượng hàng hóa
viện trợ dân sự khá nhiều và phong phú
chủng loại, đã đáp ứng được một phần
đáng kể nhu cầu ngày càng nhiều của chiến
trường miền Nam, cũng phản ánh đúng
phương châm chiến lược dựa vào sức mình
là chính trong kháng chiến trường kỳ của
nhân dân Việt Nam. Đồng thời cũng là
minh chứng cho thành công của đường lối
đối độc lập tự chủ và chính sách ngoại giao
linh hoạt, mềm dẻo, khéo léo của Đảng,
Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong
tình hình quan hệ quốc tế và phong trào
cộng sản có nhiều phức tạp lúc bấy giờ.
Bài học về đoàn kết quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của quốc tế
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước bảo vệ chủ quyền độc lập quốc gia
dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn còn nguyên
giá trị thực tiễn hiện nay khi đất nước Việt
Nam đang tích cực hội nhập, chủ động hội
nhập trên bước đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội để tiến tới đạt được mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” thì việc đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế trên tinh thần: hòa bình,
hữu nghị, hợp tác toàn diện nhưng luôn
luôn giữ vững độc lập tự chủ là nhiệm vụ
có ý nghĩa thiết thực cho tòan Đảng, toàn
dân ta trong giai đoạn hiện nay.
Chú thích:
1. Ban Thống nhất (1965), Cục Quản lý viện trợ:
Báo cáo tình hình viện trợ năm 1965, Trung
tâm lưu trữ quốc gia III, Phông UBTNCP, Hồ
sơ 1207. Tr 5.
2. Ủy ban Thống nhất (1965), Vụ Kinh tế: Báo
cáo công tác cung cấp trong năm 1965, ngày
BAN THỐNG NHẤT TRUNG ƯƠNG VỚI VI C TIẾP NHẬN HÀNG VI N TRỢ
58
20/12/1965, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1477. Tr. 3-5.
3. Ủy ban Thống nhất (1965), Vụ Kinh tế: Báo
cáo công tác cung cấp trong năm 1965, ngày
20/12/1965, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1477, tr. 1-3.
4. Ủy ban Thống nhất (1968), Phòng cung cấp
và viện trợ: Báo cáo công tác cung cấp trong
năm 1968, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1533, tr. 1.
5. Ủy ban Thống nhất (1968), Phòng cung cấp
và viện trợ: Báo cáo công tác cung cấp trong
năm 1968, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1533, tr 2-5.
6. Ban Thống nhất, Cục cung ứng (1974), Báo
cáo công tác năm 1974 và chương trình công
tác năm 1975, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 75.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (1961), Nghị
quyết về nhiệm vụ và tổ chức của Ban Thống
nhất, số 20/NQ-TW ngày 1/6/1961, Trung
tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBTNCP,
Hồ sơ 567.
2. Ban Thống nhất (1965), Cục Quản lý viện trợ:
Báo cáo tình hình viện trợ năm 1965, Trung
tâm lưu trữ quốc gia III, Phông UBTNCP, Hồ
sơ 1207.
3. Ban Thống nhất (1967), Vụ Tổ chức cán bộ:
Một số ý kiến trình với Ban về nhiệm vụ, tổ
chức, biên chế của cơ quan, ngày 4/4/1967,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 582.
4. Ban Thống nhất (1969), Cục Cung cấp: Báo
cáo tiếp nhận viện trợ vật chất của nhân dân
thế giới ủng hộ miền Nam đến năm 1969,
Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông
UBTNCP, Hồ sơ 1551.
5. Ban Thống nhất (1971), Cục Cung cấp: Báo
cáo tình hình tiếp nhận viện trợ vật chất cho
miền Nam trong 2 năm 1970-1971, Trung tâm
lưu trữ quốc gia III, Phông UBTNCP, Hồ sơ
1621.
6. Cục Cung cấp (1969), Báo cáo tiếp nhận
“Viện trợ vật chất” của nhân dân thế giới ủng
hộ miền Nam từ trước đến năm 1969, Trung
tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBTNCP,
Hồ sơ 1551.
7. Phủ Thủ tướng (1966), Chỉ thị về việc thống
nhất quản lý đối với viện trợ nhân dân tặng
miền Nam số 26/TTg, Trung tâm lưu trữ quốc
gia III, Phông UBTNCP, Hồ sơ 1210.
8. Ủy ban Thống nhất (1964), Tình hình tiếp
nhận tặng phẩm cho B, Trung tâm lưu trữ
quốc gia III, Phông UBTNCP, Hồ sơ 1204.
9. Ủy ban Thống nhất (1965), Vụ Kinh tế: Báo
cáo công tác cung cấp trongnăm1965, ngày
20/12/1965, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1477.
10. Ủy ban Thống nhất (1965), Tổng hợp các
khoản ủng hộ vật chất cho miền Nam trong
năm 1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia III,
Phông UBTNCP, Hồ sơ 1476.
11. Ủy ban Thống nhất (1966), Vụ Kinh tế: Báo
cáo tiếp nhận viện trợ của Quốc tế và trong
nước ủng hộ nhân dân miền Nam trong 1966,
Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông
UBTNCP, Hồ sơ 1212.
12. Ủy ban Thống nhất (1968), Báo cáo tình hình
sơ bộ về tiếp nhận viện trợ vật chất trong năm
1968, Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông
UBTNCP, Hồ sơ 1533.
13. Ủy ban Thống nhất (1974), Báo cáo sơ kết
của các nước Viện trợ cho Chính phủ
CMLTCHMNVN trong năm 1973-1974 và
phương hướng tranh thủ viện trợ cho miền
Nam trong năm 1974-1975 của các nước
ngoài khối XHCN và các tổ chức quốc tế,
Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông
UBTNCP, Hồ sơ 1274.
Ngày nhận bài: 11/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 117_2865_2215169.pdf