Bàn thêm về nhân vật Nguyễn Hoàng Trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” Của Nguyễn Khoa Chiêm

Tài liệu Bàn thêm về nhân vật Nguyễn Hoàng Trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” Của Nguyễn Khoa Chiêm: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016 172 Bàn thêm về nhân vật Nguyễn Hoàng Trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” Của Nguyễn Khoa Chiêm The discussion about the character Nguyen Hoang in “Nam trieu cong nghiep dien chi” novel, written by Nguyen Khoa Chiem Nguyễn Văn Khoa Trường THPT Tân Yên số 2, Bắc Giang Nguyen Van Khoa Tan Yen High School No.2, Bac Giang Province Tóm tắt Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là vị chúa đầu tiên của Đàng Trong xuất hiện trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. Đây là vị chúa tài ba, kiệt xuất và để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trọng lòng nhân dân. Những chính sách về chính trị, kinh tế, chính trị, đối nội, đối ngoại của Chúa đều được xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Mặc dù trong đó có những chính sách bắt nguồn tự sự vị kỉ cá nhân nhưng tựu chung ông vẫn được đương thời suy tôn là: Chúa Tiên-vị chúa của lòng dân. Từ khóa: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, Nam triều công nghiệp diễn ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn thêm về nhân vật Nguyễn Hoàng Trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” Của Nguyễn Khoa Chiêm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016 172 Bàn thêm về nhân vật Nguyễn Hoàng Trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” Của Nguyễn Khoa Chiêm The discussion about the character Nguyen Hoang in “Nam trieu cong nghiep dien chi” novel, written by Nguyen Khoa Chiem Nguyễn Văn Khoa Trường THPT Tân Yên số 2, Bắc Giang Nguyen Van Khoa Tan Yen High School No.2, Bac Giang Province Tóm tắt Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là vị chúa đầu tiên của Đàng Trong xuất hiện trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. Đây là vị chúa tài ba, kiệt xuất và để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trọng lòng nhân dân. Những chính sách về chính trị, kinh tế, chính trị, đối nội, đối ngoại của Chúa đều được xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Mặc dù trong đó có những chính sách bắt nguồn tự sự vị kỉ cá nhân nhưng tựu chung ông vẫn được đương thời suy tôn là: Chúa Tiên-vị chúa của lòng dân. Từ khóa: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, Nam triều công nghiệp diễn chí. Asbtract The Lord Nguyen Hoang is considered as the first lord in the southern province appeared in the novel named “Nam trieu cong nghiep dien chi by Nguyen Khoa Chiem. He is seen as a talented, knowledgeable lord who left deep impression among people. His policies about economy, finance, domestic, and foreign affair, almost have had the origin from the people’s rights. Although there were some of his policies showing his selfishness, he is still honored as a lord. Keywords: The Lord Nguyen Hoang, Nam trieu cong nghiep dien chi. 1. Đặt vấn đề Trong những khoảnh khắc có tính chất bước ngoặt của lịch sử dân tộc thường sản sinh ra những vị anh hùng cái thế. Cũng vậy, thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh đã đặt nước Đại Việt vào tình thế “xưa nay hiếm”. Đất nước có vua lại có chúa, tranh giành thao túng lẫn nhau. Nếu không tính “Hoan Châu kí” (Nguyễn Cảnh Thị) thì “Nam triều công nghiệp diễn chí” của Nguyễn Khoa Chiêm là cuốn tiểu thuyết chữ Hán đầu tiên biên niên lại một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc ta. Ở đó cũng khắc ghi những dấu ấn không thể phai nhòa của các đời chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và các đời Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Cũng có những vị chúa độc địa, nham hiểm đến cùng cực; lại cũng có những vị chúa bằng cái tâm, cái tài và đức độ đã thu phục được lòng người. 173 Nhân vật chúng tôi muốn nhắc đến ở đây chính là Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trong “Nam triều công nghiệp diễn chí” của Nguyễn Khoa Chiêm: Người không xấu đến cùng cực nhưng đôi lúc cũng có những mưu mô, xảo quyệt; người chưa tốt đến cùng cực nhưng lại được dân chúng tôn thờ, ngưỡng mộ và suy tôn là Chúa tiên-vị chúa trong lòng dân. Chính điều đó đã khiến cho nhân vật Chúa tiên Nguyễn Hoàng còn nhiều điều bỏ ngỏ mà bài viết này mới là những khám phá bước đầu. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội Truyện bắt đầu từ thời điểm Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn thủy quân vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558. Tiếp đó là thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, có xảy ra sự kiện năm 1620, Nguyễn Khải kéo hơn 5000 quân vào bờ Bắc sông Nhật Lệ khơi mào thời kì Trịnh- Nguyễn phân tranh kéo dài triền miên trong lịch sử Việt Nam. Truyện cũng miêu tả lại những sự kiện đáng chú ý cả ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đàng ngoài thì thường xuyên bất ổn với đủ vụ tranh chấp quyền vị giữa nội bộ nhà chúa Trịnh và các vua Lê. Ở Đàng Trong cũng đã có nhiều lần tranh chấp đổ máu giữa nội bộ các chúa Nguyễn. Truyện cũng miêu tả tình hình dân chúng bắt buộc bị cuốn vào cuộc chiến, chịu nhiều cảnh tàn phá về chiến tranh, cuộc sống bất ổn, dân tình oán thán khắp nơi. Ở Đàng Ngoài trải qua năm đời chúa Trịnh, từ Trịnh Kiểm (Minh Khang Vương) đến Trịnh Cán (Định Vương). Các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài tuy lấy danh nghĩa là phò Lê nhưng thực chất đang từng bước thao túng quyền bính trong triều, vua Lê đến nỗi chỉ như một cái bóng, rất sợ thế lực của nhà Trịnh, mặc cho nhà Trịnh thỏa sức tung hoành gây bao tai họa cho triều đình và dân chúng. Trong triều tồn tại hai thế lực song song: vua Lê-chúa Trịnh. Tuy nhiên, vua Lê đã trở thành bù nhìn đúng nghĩa; mọi quyền điều hành, mọi chính sách về kinh tế, chính trị đều do một tay nhà Trịnh điều khiển. Các quan trong triều (những người trung thành với nhà Lê) tỏ ra chán chường, buồn bã và bất lực. Họ Trịnh tiếm quyền đặt ra nhiều chính sách, chế độ cai trị, áp đặt, bóc lột nhân dân; khiến cho lòng dân khắp nơi oán hận, căm thù, nguyền rủa. Nhân dân rơi vào tình trạng khủng hoảng cả về vật chất và tinh thần do chính sách bất công, vô nhân đạo của nhà Trịnh. Hơn thế, nội chiến, ngoại chiến liên tiếp nổ ra khiến cho đời sống nhân dân đã khổ cực lại càng thêm phần bi đát. Ở Đàng Trong, thời kì này cũng trải qua năm đời chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Trăn (Ngãi Vương). Đối lập với chính trị ở Đàng Ngoài rối ren, Đàng Trong diễn ra các trận chiến, các cuộc chém giết. Nam triều lúc này đang chìm trong cảnh chiến trận với giáo gươm, súng đạn. Nhưng ngược lại với chính sách tàn độc của nhà Trịnh, chúa Nam có những chính sách hết sức mềm mỏng để thu phục sức người, sức của từ trong nhân dân. Chính vì vậy mà nhân dân Nam triều khi nghe những lời hiểu dụ huy động của chúa Nam đều dốc hết sức mà phụng sự với tinh thần tự nguyện nhiệt thành; với sự mong chờ có cơ sở về một cuộc sống tốt đẹp hơn sau mỗi trận chiến. Hơn thế, việc thu phục lòng người của chúa Nam lại được sự ủng hộ của cả những sĩ phu Bắc Hà. Tình hình chính trị đặc biệt ấy đã được Nguyễn Khoa Chiêm tái hiện khá tỉ mỉ và chi tiết trong “Nam triều công nghiệp diễn chí”. Và hiển nhiên, những sự kiện này không chỉ ảnh hưởng đến một tầng lớp, 174 một hạng người mà ảnh hưởng đến toàn thể xã hội ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong. Những lớp người ấy được tái hiện sinh động qua những nhân vật trong tác phẩm. Từ đặc điểm loại hình, hệ thống nhân vật trong tác phẩm có thể phân thành bốn nhóm chính: (1) Nhóm nhân vật vua chúa, tướng lĩnh; (2) Nhóm nhân vật quan lại - nho sĩ; (3) Nhóm nhân vật nữ và (4) Nhóm nhân vật quần chúng. Trong nhóm (1), nổi bật hơn cả là Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, người mang gươm đi mở cõi, vị Chúa của lòng dân. 2.2. Hình tượng nhân vật Chúa Tiên Nguyễn Hoàng 2.2.1. Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Hoàng quê ở làng Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Giang, lộ Thanh Hoa, về sau thuộc tổng Thượng Bàn, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là con trai thứ hai của Nguyễn Kim, tức Nguyễn Cam (1468-1545) dưới thời nhà Lê. Ông sinh ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu tức ngày 28 tháng 8 năm 1525 tại lộ Thanh Hoa. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi năm Đinh Hợi 1527, Nguyễn Kim phò nhà Lê sang lánh nạn tại nước Ai Lao để mưu việc lớn vì vậy đã giao Nguyễn Hoàng lúc đó mới hai tuổi cho người em vợ là Thái Phó Uy Quốc Công Nguyễn Ư Kỷ nuôi dạy để mình lo việc nước. Nguyễn Hoàng đã được cậu ruột hết lòng chăm sóc, dạy dỗ. Khi lớn lên, Nguyễn Hoàng tỏ ra là một thanh niên tuấn tú, minh mẫn. Khi thân sinh ông mất (do bị tướng nhà Mạc Dương Chấp Nhất đầu độc), ông làm quan dưới thời vua Lê Trang Tông (1533-1548) khi mới 21 tuổi và được phong tước Hạ Khê Hầu. Ông đã nhiều lần được vua Lê giao cho đi đánh quân nhà Mạc và có lần giết được tướng nhà Mạc nên được vua Lê hết mực khen ngợi và ban thưởng. Về sau, ông được vua Lê phong tấn, phong tước Thái Bảo Đoan Quận Công. Tuy nhiên, thời kì này, Hữu Tướng Trịnh Kiểm (1545-1569) chuyên quyền vua Lê và tranh chấp quyền lực với họ Nguyễn. Y đã ám hại người anh ruột của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng là Lãng Quận Công Nguyễn Uông và có ý âm mưu ám hại cả Nguyễn Hoàng. Điều này đã làm cho ông rất lo ngại. Trước tình thế đó, nghe theo lời của cậu là Thái Phó Uy Quốc Công Nguyễn Ư Kỷ, Nguyễn Hoàng xin ý kiến của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được ông cho lời sấm truyền “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân” nên đã giả điên và nhờ chị Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm vào trấn đất Thuận Hóa. Từ đây sự nghiệp nhà Chúa Nguyễn bắt đầu và Nguyễn Hoàng là vị chúa đầu tiên mang gươm đi mở cõi. Năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng đem những người đồng hương huyện Tống Sơn và nghĩa dũng xứ Thanh Hoa vào đóng ở xã Ái Tử huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, Quảng Trị). Ngài vỗ về dân quân, thu dung hào kiệt, sưu thuế nhẹ nên nhân dân mến phục, thường xưng tụng là Chúa Tiên. Năm Canh Ngọ (1570), ngài dời đô qua làng Trà Bát cũng thuộc huyện Vũ Xương, năm này ngài được phong làmTổng Trấn Tướng quân kiêm lãnh hai xứ Thuận - Quảng. Năm Nhâm Thân (1572), tướng Mạc là Lập Bạo đem quân vào đánh Thuận Hoá bị ngài đánh bại và giết chết. Năm Qúy Dậu (1573), vua Lê Thế Tông lên ngôi, sai sứ đem sắc tấn phong ngài chức Thái Phó. Năm Quý Tỵ (1593), Trịnh Tùng dẹp nhà Mạc, rước vua Lê trở về Đông Đô, ngài đem quân ra yết kiến được vua phong chức Trung quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc chưởng phủ sự, Thái Uý Đoan Quốc Công, Ngài ở Đông Đô 8 năm, thường đem quân đi đánh dẹp tàn quân nhà Mạc, đánh đâu thắng đó. Năm Kỷ 175 Hợi (1599), vua Thế Tông băng, vua Kính Tông lên ngôi, tấn phong ngài làm Hữu tướng. Ngài ở Đông Đô lập nhiều chiến công, Trịnh Tùng không cho ngài trở về Thuận Hoá vì sợ “thả hổ về rừng”. Năm Canh Tý (1600), ngài lập kế đi đánh Phan Ngạn Bùi Văn Khuê, rồi đem tướng sĩ, binh thuyền theo đường biển về Thuận Hoá. Ngài dời dinh sang phía đông dinh Ái Tử gọi là dinh Cát. Muốn Chúa Trịnh khỏi nghi ngờ, ngài để lại một người con là Nguyễn Hải và một cháu là Nguyễn Hắc ở lại làm con tin và sau lại gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả của Trịnh Tùng). Vua Lê và Chúa Trịnh sai sứ vào phủ dụ. Năm Tân Sửu (1601), ngài cho xây chùa Thiên Mụ. Năm Nhâm Dần (1602), ngài sai Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên làm Trấn thủ dinh Quảng Nam là xứ đất tốt, dân đông, sản vật giàu có để cho Thế Tử tập làm chính sự. Ngài cho lập thêm các chùa Long Hưng (Duy Xuyên, Quảng Nam), Bảo Châu (Trà Kiệu, Quảng Nam) và Kính Thiên (Lệ Thủy, Quảng Bình). Năm Quý Sửu (1613), ngày mồng 3 tháng 6, ngài yếu, cho triệu Thế Tử và thân thần đến trước ngự sang bảo rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng nên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông vui lòng giúp đỡ cho nên công nghiệp”. Rồi ngài dặn Thế Tử: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em phải thương yêu nhau. Con mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Ngài lại nói: “Đất Thuận – Quảng, Bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, Nam có núi Hải Vân và núi Thạch Bi bền vững, núi sẵn vàng, sắt; biển sẵn cá, muối thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh chống với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không thể địch được thì cố giữ đất đai chờ cơ hội, đừng bỏ qua lời dặn của ta. Dặn dò xong ngài băng, ở ngôi 56 năm, thọ 89 tuổi. Với tổ chức chính sự rộng rãi, có quy củ, sưu thuế nhẹ, quân lệnh nghiêm trang, lấy sự an cư lạc nghiệp của dân làm gốc, ngài đã mở đầu cho sự phát triển nửa nước trù phú về phía Nam của dân tộc Việt. Dưới thời ngài, biên giới đất nước đã đến tận Phú Yên. 2.2.2. Khí chất minh quân Có thể nói, Nguyễn Hoàng vốn sinh ra bản chất thông minh, mẫn tiệp hơn người. Không dưới một lần Nguyễn Khoa Chiêm khẳng định điều này. Có thể chính những tố chất này đã giúp cuộc đời của Chúa Tiên chuyển họa thành phúc, biến nguy nan thành cơ hội. Ngay từ khi còn nhỏ Nguyễn Hoàng đã được mọi người nhận xét là người “bẩm tính thông minh mẫn tiệp, trí tuệ hơn người”; Hay như chính Trịnh Kiểm cũng đã nhận xét về Nguyễn Hoàng: “Em Đoan là kẻ anh hùng tuấn kiệt, đủ trí nhiều mưu, có thể dùng vào việc lớn, nào phải người đần độn đâu”. Đặc biệt lí do Nguyễn Hoàng bị nhà chúa Trịnh lưu giữ ở Đàng Ngoài bởi sợ để Ngài vào đất Thuận Hóa coi như “thả hổ về rừng” là bởi vì Trịnh Tùng đã nhận ra: “Đoan quốc công Nguyễn Hoàng là người khí chất hùng vĩ khác kẻ bình thường, được các quan trong triều yêu mến, ngưỡng mộ”. Vì vậy mà Trịnh Tùng đã sinh lòng ngờ vực, muốn tính kế trừ đi để khỏi mối lo về sau. Dù trước đó Trịnh Tùng đã từng hết lòng mến mộ Đoan quốc công: “Đoan quốc công là kẻ anh hùng tái thế, công đức lớn lao, dẫu là các bậc danh tướng đời xưa cũng không sánh kịp. Trường quốc công cả mừng, lấy tình thân thiết, máu mủ mà đối xử, phong Đoan quốc công làm hữu thừa tướng, ngôi thứ xếp sau 176 Trường quốc công một bậc. Từ đó về sau, ngày đêm không dời, ăn tất cùng mâm, ngồi ăn cùng ắt cùng chiếu, thân thiết như tim phổi, tin dùng như chân tay”. 2.2.3. Mưu cao, chí bền 2.2.3.1. Trong quan hệ với các chúa Trịnh Như trên đã đề cập, có lẽ chính khí chất thông minh vốn có đã nhiều lần cứu nguy cho chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Tuy nhiên, để có được công trạng hiển hách ngàn đời như vậy có lẽ cũng phải nhờ đến mưu lược nhà binh. Việc Nguyễn Hoàng nghe theo lời chị Ngọc Bảo giả điên xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa thì quả đây là con người biết nuôi chí lớn, biết đợi thời cơ, có thể một lúc chịu nhẫn nhục mà cả đời thoát khỏi vòng kiềm tỏa của chúa Trịnh. Hơn nữa khi đi, Nguyễn Hoàng tỏ ra là một người vô cùng khôn ngoan khi mang theo đều là những người thân cận, những người trung thành từ đời thân sinh Nguyễn Kim: “Đoan quốc công vái tạ trở về phủ từ biệt chị là Nguyễn phi. Rồi Đoan quốc công cùng với các công tử thái bảo Hòa quận công, Thụy quận công và các tướng Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc ngay ngày hôm ấy đem một nghìn quân thủy ra cửa biển nhằm theo hướng hai xứ Thuận, Quảng mà tiến”. Tuy nhiên trong các mưu kế của chúa Nguyễn Hoàng có những khi còn chưa được lòng người. Nhận thấy mình như bị giam lỏng ở Đàng Ngoài 8 năm, Nguyễn Hoàng đã bàn mưu tính kế rút về Thuận Hóa êm xuôi nhưng đã khiến cho bọn Kế quận công Phan Ngạn và Mỹ quận công Bùi Văn Khuê mưu phản và tàn sát lẫn nhau dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt. Hơn thế để kế hoạch được thuận buồm, xuôi gió Nguyễn Hoàng còn để con và cháu ở lại làm tin và khi về còn gả con gái là Trịnh Tú cho Trịnh Tráng nhằm mưu đồ chính trị. 2.2.3.2. Trong quan hệ với đội quân nhà Mạc Ngay từ khi còn ở Đàng Ngoài, Đoan quốc công đã khiến cho quan nhà Mạc nghe tiếng mà khiếp sợ, đánh đâu thắng đó “Nguyễn Hoàng lớn lên theo Kiểm đi chinh chiến, trong nhiều năm đều lập được nhiều chiến công, được Trang Tông gia phong nhiều lần, làm quan đến chức hữu tướng” hay như năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Trị thứ nhất (1588) “Đoan quận công Nguyễn Hoàng đi đánh nhà Mạc lập nhiều công lớn, đi đến đâu quân địch đều kinh sợ tháo chạy, dân chúng ngưỡng mộ mến yêu”. Điều này càng khẳng định Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng là một vị tướng có tài thao lược. Khi vào trấn xứ Thuận Hóa để dẹp nhà Mạc xây dựng cơ đồ riêng. Lúc này quân đội nhà chúa còn yếu, vũ khí thô sơ và chiến thuyền không nhiều, trong khi đó tướng nhà Mạc là quận thì quân đông, thuyền nhiều. Nguyễn Hoàng đã rất lo lắng, suy xét trước sau; cho quân sĩ đi dò la để tìm địa thế thuận lợi cũng như tìm cách chống lại quận Lập. Một đêm chúa đang ngồi đốt đuốc, bỗng nghe bên bờ tiếng dòng nước kêu vang “trảo trảo” chúa rất lấy làm lạ, bèn cầu khấn thần linh. Đêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng mơ thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm chiếc quạt đến nói rằng: “Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng, cần lập kế dụ chúng đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phải phiền nhiễu đến nhân dân trong miền”. Chúa tỉnh dậy mới biết mình nằm mộng và nghĩ rằng có thần linh giúp sức ắt hẳn sẽ thắng. Sau đó Nguyễn Hoàng đã dùng mĩ nhân kế và diệt được quận Lập mà không hề hao binh, tổn tướng. Kế sách này từ cổ chí kim đã có nhiều người sử dụng; 177 tuy nhiên trong truyện lại có thêm sự phù trợ của thần linh làm cho câu chuyện càng nên phần thuyết phục. Bởi ở vào thời điểm đó, nhân dân vẫn có niềm tin (dẫu không là tuyệt đối) vào thần linh. Vẫn dùng những kế sách thông minh, mưu lược; khi giặc nhà giàu tiến quân vào biển ngoài khơi Cửa Việt, chúng dùng thuyền nhỏ vào bờ cướp bóc dân lành. Nguyễn Hoàng liền sai chính con trai mình là Thụy quận công đi tiêu diệt, cũng không phải tốn nhiều công sức mà đã đuổi được bọn giặc nhà giàu và thu về một số chiến lợi phẩm. Có lẽ Thụy quận công và các con của ngài đã được thừa hưởng mưu lược tài ba của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. 2.2.3.3. Trong quan hệ với nhân dân và quận thần thân cận Dựa vào sức dân có lẽ là một trong những kế sách khôn ngoan nhất của các vị vua chúa, tướng lĩnh mọi thời đại. Dường như nhận rõ được điều đó nên ngay từ khi Nguyễn Hoàng mở cõi về phương Nam đã rất chú trọng đến điều này. Đầu tiên là mưu kế thôn tính quận Lập chúa đã phải dùng đến nàng hầu Ngô Thị Lâm. Khi xong việc vẫn hết sức vỗ về và trù tính cho mọi việc trọn vẹn. Có thể thấy đây chính là kế sách chú trọng đến lòng dân. Khi Chúa thu phục được quân hai xứ Thuận, Quảng những của cải vật chất đều sung vào việc công để ban phát ân đức, chiêu vỗ muôn dân, thân yêu trăm họ. Khi gần như bị giam lỏng 8 năm ở Đàng Ngoài trở về, chúa lại sai sửa sang lại thành trì, thi hành nhân chính để vỗ về dân chúng, trăm họ thái bình, muôn dân mến phục. Một trong những chính sách thu phục và an dân khôn ngoan nhất của Đoan quận công có lẽ là dựa vào sức mạnh của thần linh. Vì vậy mà Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa một số yếu tố kì ảo vào trong truyện. Đầu tiên là chi tiết thôn tính quận lập, đó là chi tiết trong giấc mơ một người đàn bà mặc áo xanh đến mà nói rằng: “Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ chúng đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phiền nhiễu đến nhân dân trong miền”. Sau này những việc xây chùa, tu bổ đền đài miếu mạo, hay những chuyện liên quan đến sinh mệnh con người đều có liên quan đến thần linh. Những chuyện tâm linh ấy vô tình đã đánh trúng tâm lí của người Việt vốn từ xứ rất tôn sùng đạo Phật. Người ta thường tin vào những lực lượng thần bí duy tâm nên có lẽ đây cũng là cách thuyết phục nhất. Chính vì vậy mà mặc dù “Nam triều công nghiệp diễn chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử nhưng không hề khô khan, máy móc, rập khuôn; trái lại tác phẩm lại có sự thú vị, hấp dẫn riêng với độc giả. Không chỉ có chính sách an dân, Nguyễn Hoàng còn rất chú trọng đến các tướng lĩnh. Ví như Nguyễn Tạo theo lệnh của Trịnh Tùng vào Đàng Trong đo đạc ruộng đất vậy mà Nguyễn Hoàng cũng thu phục được. Chính vì thế mà Nguyễn Tạo đã tự ý báo cáo bớt đi phân nửa diện tích đất đai với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đó chính là một việc làm có lợi cho người dân thời bấy giờ. Đặc biệt là khi Nguyễn Hoàng nhờ mưu kế thoát khỏi sự kiềm tỏa của chú Nguyễn thì Nguyễn Tạo (lúc này đã cáo quan) lại đi theo Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong. 4. Kết luận Có thể nói, với nhân vật Nguyễn Hoàng, Nguyễn Khoa Chiêm đã dựng lên một vị chúa đầu tiên của ở Đàng Trong đúng với nhìn nhận của nhân dân thời đó. Một vị chúa hết lòng vì nhân dân; khéo léo, tinh tế trong cách xử lí tình huống; mưu lược, tâm công trong điều tướng, khiển 178 quân. Từ quan sát của chúng tôi, trong tác phẩm còn nhiều chi tiết chênh với tiến trình của lịch sử, chưa ăn nhập với những sự kiện đã từng diễn ra song đó lại là những biên độ cho phép của nhà tiểu thuyết. Đây chính là một trong những hướng nghiên cứu mà chúng tôi quan tâm và muốn tiếp tục đi sâu lí giải một cách có hệ thống về sự tương đồng và khác biệt của loại hình nhân vật Vua Chúa, Tướng lĩnh từ lịch sử đến diễn ngôn nghệ thuật mà Nam Triều công nghiệp diễn chí chỉ là một trường hợp điển hình./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại Nam thực lục (2002), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002. 2. Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc (1995), Nguyễn Phúc tộc thế phả, Nxb Thuận Hóa, Huế. 3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1988), Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1 Phủ biên tạp lục (1977), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. 5. Trần Nghĩa chủ biên (1997), Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập III, Nxb Thế Giới, Hà Nội. 6. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 7. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân loại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3. Ngày nhận bài: 11/11/2016 Biên tập xong: 15/12/2016 Duyệt đăng: 20/12/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf165_3259_2215217.pdf
Tài liệu liên quan