Tài liệu Bài tập thực hành: Tố tụng dân sự có đáp án: BÀI TẬP THỰC HÀNH: TỐ TỤNG DÂN SỰ CÓ ĐÁP ÁN
Bài tập 1
a) Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ chồng và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án.
Khoản 4 Điều 68. Đương sự trong vụ việc dân sự quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Căn cứ vào Công văn của Tòa án nhân dân tối cao số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn: Điều 5 Mục III về Dân sự nêu rõ: “Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường h...
19 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập thực hành: Tố tụng dân sự có đáp án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP THỰC HÀNH: TỐ TỤNG DÂN SỰ CÓ ĐÁP ÁN
Bài tập 1
a) Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ chồng và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án.
Khoản 4 Điều 68. Đương sự trong vụ việc dân sự quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Căn cứ vào Công văn của Tòa án nhân dân tối cao số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn: Điều 5 Mục III về Dân sự nêu rõ: “Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc người nợ phải trả nợ cho họ;
- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.
- Chủ nợ chưa có yêu cầu vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ”.
Khi giải quyết yêu cầu ly hôn và chia tài sản, nếu vợ chồng không yêu cầu người nợ phải trả cho họ hoặc chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng phải trả nợ cho mình hoặc chủ nợ chưa có yêu cầu vợ chồng phải trả nợ thì Tòa án sẽ không giải quyết yêu cầu đòi nợ và giải quyết ly hôn, chia tài sản vợ chồng trong cùng một vụ án.
Với tình huống trên, khi anh Hồng làm đơn xin ly hôn và xin chia tài sản chung với chị Thủy, ông C là chủ nợ đã đề nghị Tòa án buộc anh Hồng và chị Thủy thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Vậy Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án mà trong đó, ông C tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi liên quan.
b) Giả sự chị Thủy đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì anh Hồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn không?
Trong trường hợp chị Thủy đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì anh Hồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Căn cứ Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn”.
Sở dĩ luật quy định như vậy là để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em. Trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì quyền yêu cầu xin ly hôn của người chồng bị hạn chế. Tuy nhiên, ngược lại nếu người vợ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi mà có căn cứ yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án vẫn giải quyết việc ly hôn như luật định.
Bài 2
a) Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án huyện Y có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc trên vì
- Cơ sở pháp lý: Điều 26, Điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự
- Trước hết vụ việc trên là tranh chấp về hợp đồng sân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Bởi lẽ giữa A với B đã thiết lập hợp đồng vay tiền “ A cho B vay với số tiền là 200 triệu đồng” với thời hạn là một năm. Tranh chấp giữa hai chủ thể của hợp đồng xảy ra khi hết thời hạn mà B không trả nợ và A khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc V trả số tiền vay nói trên. Tranh chấp giữa các chủ thể của 1 hợp đồng dân sự và có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên như trên là một dạng tranh chấp về hợp đồng dân sự theo khoản 3 điều 26 và Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết vụ việc này. Vấn đề đặt ra là Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết
Theo quy định tại điều 39, điều 40 thì tranh chấp về hợp đồng vay trong trường hợp này không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh mà thẩm quyền sơ thẩm thuộc về Tòa án nhân dân huyện.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 thì thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc nếu bị đơn là các nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hoon nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Đối chiếu với tình huống thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong trường hợp này đó là Tòa án nơi B cư trú. Nhưng phức tạp ở chỗ tại thời điểm xảy ra tranh chấp( khi A gửi đơn kiện) thì B thường trú ở 1 nơi “ở huyện Y tỉnh K”, tạm trú ở một nơi “ở quận B thành phố H” và như vậy nơi nào được xem là “nơi cư trú” của A. Tại điều 52 Bộ luật dân sự quy định “ Nơi cư trú của các nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống” trường hợp mà không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là “nơi người đó đang sinh sống”. Từ quy định này ta có thể suy luận được rằng nơi cư trú của cá nhân là nơi thường trú của họ, trường hợp không xác định được nơi thường trú thì nơi cư trú của các nhân là nơi họ đăng ký tạm trú và đang sinh sống. Nếu hiểu theo cách này thì Tòa án huyện Y (nơi B có hộ khẩu thường trú) có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án trên.
Tuy nhiên tại khoản 1 Điều 12 Luật cư trú 2006 lại quy định “ Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú” Nếu như vậy thì đối với tranh chấp trên thì huyện Y hoặc quận B đều là nơi cư trú của B. Kết hợp với điều 39 BLTTDS thì cả Tòa án huyện Y và cả tòa án quận B đều có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ tranh chấp trên.
Nói tóm lại dù trường hợp nào đi chăng nữa thì Tòa án nhân dân huyện Y đều có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc trên theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
b) Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì A cũng có thể yêu cầu Tòa án huyện X (nơi A có hộ khẩu thường trú) giải quyết vụ việc nếu được B đồng ý bằng văn bản. Điều luật này ghi rõ “Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Theo điều luật này thì Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết khi thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất đó là có sự thỏa thuận của các bên và sự thỏa thuận đó phải được ghi nhận bằng văn bản. Đối chiếu với tình huống thì nếu B đồng ý bằng văn bản cho A yêu cầu tòa án huyện X giải quyết cũng đồng nghĩa với việc giữa A và B có sự thỏa thuận về việc Tòa án nơi nguyên đơn cư trú (Tòa án huyện X) có thẩm quyền giải quyết và sự thỏa thuận đó được thiết lập dưới hình thức văn bản. Quy định này thể hiện bản chất của tố tụng dân: tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của đương sự.
Bài 3
a) Nếu ông M cư trú tại quận B thành phố H và C, D, E cư trú tại thành phố M tỉnh T thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án quận X nơi có bất động sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
Theo đầu bài thì đây là tranh chấp liên quan đến bất động sản, do đó tranh chấp này sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản. Bởi lẽ, bất động sản là một tài sản gắn liền với đất không thể dịch chuyển được và thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản đó lưu giữ. Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để tiến hành xác minh, xem xét tại chỗ tình trạng của bất động sản và thu thập giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản.
Do đó, tại điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS có quy định “ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản” , bên cạnh đó theo điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26. Theo tinh thần của quy định này thì tòa án quận X (nơi có mảnh đất 100m2 mà ông M thuê) sẽ là tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn kiện của C, D, E.
b) Giả sử ông M cư trú tại quận B thành phố H; C, D cư trú tại thành phố M tỉnh T và E đang định cư ở Canada, thì lúc này đơn kiện của C, D, E sẽ do tòa án thành phố H giải quyết (quận X thuộc thành phố H_ nơi có bất động sản) theo quy định tại khoản 3 Điều 39 BLTTDS và điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
Như đã phân tích ở trên ( ý a) tranh chấp có liên quan đến bất động sản sẽ do tòa án có bất động sản giải quyết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS, nhưng do 1 bên đương sự cụ thể là E đang định cư ở Canada (“ Đương sự ở nước ngoài bao gồm: Đương sự là cá nhân không phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam mà không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam để nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án” theo quy định tại mục 4, tiểu mục 4.1 NQ 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của BLTTDS 2004) thì tranh chấp giữa ông M và những người con của ông bà A, B sẽ không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện (tức là quận X) theo quy định tại khoản 3 Điều 39 BLTTDS, bên cạnh đó theo khoản 1 Điều 37 BLTTDS thì tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 39 BLTTDS sẽ do tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết, do đó thẩm quyền giải quyết tranh chấp này sẽ do tòa án thành phố H giải quyết.
Tóm lại, khi C, D, E cùng khởi kiện ông M ra tòa (E đang định cư ở Canada) thì Tòa án thành phố H nơi có bất động sản sẽ có thẩm quyền thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 39, khoản 1 Điều 37 BLTTDS.
Bài 4
1. Tình huống thứ nhất :
Cần khẳng định rằng việc Tòa án đã không thụ lí đơn khởi kiện của C là đúng.
Ta thấy rằng, trong vụ việc này các anh chị C, D, E đang tranh chấp với nhau về quyền thừa kế tài sản do cha mẹ để lại, tuy nhiên, đây lại là một loại tài sản rất đặc biệt : quyền sử dụng đất (không có tài sản trên đất). Vì vậy, để giải quyết được vụ việc trên không những ta phải dựa vào Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) mà còn phải căn cứ vào luật nội dung là Luật đất đai. Theo qui định tại điều 206 Luật đất đai năm 2013 : “1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà không có các loại giấy tờ hợp pháp hoặc hợp lệ kể trên thì Tòa án sẽ không thụ lí mà thẩm quyền giải quyết những tranh chấp này thuộc hệ thống cơ quan hành chính (Điều 206 khoản 2 Luật đất đai).
Quyền sử dụng đất được coi là tài sản và được pháp luật bảo hộ nếu như người sử dụng đất có đủ giấy tờ cần thiết chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của mình. Tòa án trong những vụ tranh chấp như thế này chỉ có chức năng và nhiệm vụ phân xử và giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự với nhau chứ không thể và không phải chứng minh tính hợp pháp của tài sản thừa kế. Trong trường hợp này, nếu C, D, E muốn yêu cầu Tòa án bảo vệ những quyền lợi của mình từ di sản cho cha mẹ để lại thì điều cần thiết là phải chứng minh được tài sản để lại thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cha mẹ họ.
Như vậy, nếu như ông bà A, B không có giấy tờ hợp pháp hoặc một trong những giấy tờ hợp lệ theo qui định của pháp luật thì tòa án có căn cứ để không thụ lí giải quyết vụ án trên.
2. Tình huống thứ hai :
Giả sử vụ việc trên thuộc thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân dân thì Tòa án nhân dân quận M thành phố H - nơi có mảnh đất đang tranh chấp - sẽ có thẩm quyền giải quyết. Bởi vì : Điều 39 khoản 1 điểm c luật TTDS qui định : “ Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản”.
Bất động sản là một loại tài sản gắn liền với đất, không thể chuyển dịch được và thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan tới bất động sản sẽ do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản đó lưu giữ. Do đó tòa án nơi có bất động sản là tòa án có điều kiện tốt nhất để tiến hành xác minh, xem xét tại chỗ tình trạng của bất động sản và thu thập các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản.
Theo qui định tại điều 39 luật TTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại các Điều 28 và Điều 26 của Bộ luật này. Và theo qui định tại Điều 26, các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm : “7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.”
Bài 5
a, Lý do khiếu nại của A có cơ sở để chấp nhận không? Tại sao?
Trước hết ta cần xác định tranh chấp giữa A và B có phải là trannh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điều 26 BLTTDS hay không. Có thể thấy giữa A và B không có quan hệ hợp đồng do đó theo Điều 604 BLDS quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì “ Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Trong tình huống này do xô xát A đã làm B bị thiệt hại do đó theo Điều 604 BLDS thì giữa A và B phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Như vậy tranh chấp giữa A và B trong tình huống này là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại khoản 6 Điều 26 BLTTDS.
Lý do khiếu nại của A có cơ sở để chấp nhận căn cứ vào Điều 79 BLTTDS quy định về người giám định, Điều 102 BLTTDS quy định về trưng cầu giám định và Điều 103 BLTTDS quy định về trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo. Theo các điều luật này thì Tòa án chỉ có quyền trưng cầu giám định khi có sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đượng sự (theo Điều 79, Điều 102) và trong trường hợp trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo theo Điều 103 thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 BLTTDS.
Quay trở lại bài tập ta có thể thấy giữa A và B không có thỏa thuận trưng cầu giám định cũng như bản thân A và B không ai có yêu cầu Tòa án phải ra quyết định trưng cầu giám đinh do đó trong trường hợp này lý do khiếu nại của A là có cơ sở để chấp nhận.
b, Giả sử A có nơi cư trú tại quận 1 thành phố H, B cư trú tại quận K thành phố Đ và tai nạn xảy ra tại thành phố TH thuộc tỉnh T. Hãy xác định những Tòa án có thẩm quyền mà B có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết vụ án?
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự theo quy định tại Điều 26 BTTDS. Như vậy Tòa án quận 1 thành phố H, Tòa án quận K thành phố Đ và Tòa án thành phố TH tỉnh T đều có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Điều 26 BLTTDS.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS về thẩm quyền của Tóa án theo lãnh thổ thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:“a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 40 BLTTDS quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu thì:“d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;”
Quay lại tình huống trên có thể xác định những Tòa án có thẩm quyền mà B có thể gửi đơn yêu cầu là:
- Tòa án quận 1 thành phố H nơi bị đơn (anh A) cư trú (căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39).
- Tòa án quận K thành phố Đ nơi nguyên đơn (anh B) cư trú (căn cứ điểm d khoản 1 Điều 40).
- Tòa án thành phố TH thuộc tỉnh T nơi xảy tai nạn xảy ra (căn cứ điểm d khoản 1 Điều 40).
Bài 6
1. Việc cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương từ chối không cung cấp tài liệu xác định quyền sở hữu ngôi nhà là Sai. Bởi vì:
Căn cứ Khoản 3 Điều 139 Luật Nhà ở năm 2005 quy định: “Cơ quan quản lý hồ sơ nhà ở có trách nhiệm cung cấp các thông tin về hồ sơ nhà ở khi tổ chức cá nhân có yêu cầu”
Căn cứ Khoản 3 Điều 71 Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 do Chính phủ ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung về phát triển nhà ở, quản lý việc sử dụng nhà ở, sở hữu nhà ở, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở quy định tại Luật Nhà ở ngày 29 tháng 11 năm 2005 có quy định: “ 3. Cơ quan quản lý hồ sơ nhà ở có trách nhiệm cung cấp các thông tin về nhà ở cho các cơ quan quy định tại khoản 7 Điều này và các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhà ở đó khi họ có yêu cầu”.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 7 BLTTDS quy định về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát.”.
Theo đó, việc cung cấp tài liệu xác định quyền sở hữu ngôi nhà trên cho D,E là nghĩa vụ theo Luật định của cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương. Mặt khác, D,E đề nghị cung cấp thông tin về nhà ở phải có văn bản đề nghị cung cấp thông tin. Văn bản đề nghị phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu cung cấp thông tin, nội dung các thông tin đề nghị cung cấp và mục đích của việc đề nghị cung cấp thông tin (theo khoản 5 Điều 71 Nghị định 90/2006/NĐ-CP).
Như vậy, Vì Tình huống trên không nói rõ nên ta coi D, E tuân thủ đầy đủ các quy định trên khi yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương cung cấp bản sao trích lục bản đồ địa chính và các tài liệu liên quan đến nhà đất nói trên. Do đó, việc cơ quan này từ chối không cung cấp với lý do : “cho rằng chỉ có nghĩa vụ cung cấp khi Toà án yêu cầu” là trái pháp luật - sai về mặt nội dung do vi phạm nghĩa vụ luật đinh. Nhưng đúng về mặt thủ tục do cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương ra văn bản nêu rõ lý do từ chối không cung cấp chứng cứ. Từ đó, cho thấy sự thiếu hiểu biết pháp luật của một số cán bộ trong cơ quan quản lý nhà đất địa phương và cần khắc phục trong thời gian tới.
2. Việc Toà án không chấp nhận yêu cầu của D, E về việc tiến hành thu thập chứng cứ là Sai. Bởi vì:
Trong Tố tụng dân sự, khi cần khởi kiện để giải quyết tranh chấp và khẳng định việc khởi kiện, phản tố việc kiện có căn cứ và đúng pháp luật, thì các đương sự phải tự mình thu thập, cung cấp và chuyển giao chứng cứ, tài liệu này cho Toà án dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 109 và khoản 1 Điều 106 của BLTTDS quy định, chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì mới có quyền yêu cầu Tòa án thu thập. Trên cơ sở các quy định này, tại khoản 5 Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 1.9.2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn cụ thể: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án cần giải thích cho đương sự biết quy định tại Điều 6 của BLTTDS về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi biết chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý, thì căn cứ vào quy định tại điều này, đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ cho đương sự, thì phải thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ cho đương sự biết để họ chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả và yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ”.
Xét trong tình huống trên ta thấy, D, E đã yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương cung cấp bản sao trích lục bản đồ địa chính và các tài liệu liên quan đến nhà đất nói trên. để làm chứng cứ cho vụ tranh chấp, nhưng đã bị cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương từ chối không cung cấp với lý do : “cho rằng chỉ có nghĩa vụ cung cấp khi Toà án yêu cầu. Điều đó cho thấy D, E đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được. Do đó, D,E có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ tại cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương.Trong trường hợp này, Toà án phải có trách nhiệm tiến hành thu thập chứng cứ theo các quy định trên. Tuy nhiên, Toà án không chấp nhận với lý do Toà án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ là Sai pháp luật, chưa làm đúng nghĩa vụ của mình. Điều này đặt ra mối nghi ngờ rằng, một cơ quan chuyên bảo vệ sự đúng đắn của pháp luật lại làm trái pháp luật. Đây phải chăng là do sự thiếu hiểu biết về pháp luật hay do cố ý làm trái pháp luật vì một mục đích nào đó.
Trên đây là hai hành vi Sai pháp luật phổ biến nhất trong lĩnh vực tranh chấp về đất đai hiện nay. Điều này làm cản trở việc giải quyết vụ án. Từ thực tiễn trên cho thấy, Bộ luật TTDS cần quy định rõ hơn về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các tổ chức cá nhân cũng như nghĩa vụ tiến hành thu thập chứng cứ của Toà án trong trường hợp cụ thế. Ngoài ra, các cấp có thẩm quyền cần tiến hành phổ biến, giải thích các quy định trên để các cơ quan liên quan có cách hiểu thống nhất, chính xác về các quy định này mới có thể áp dụng đúng đắn.
Bài 7
a. Quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ việc trên là quan hệ hôn nhân thực tế, được pháp luật thừa nhận.
Quan hệ hôn nhân trái pháp luật là quan hệ hôn nhân phát sinh từ việc kết hôn trái pháp luật. Theo Điểm 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Kết hôn trái pháp luật được hiểu là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định”.
Trong trường hợp nêu trên, anh A và chị B làm lễ cưới trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn. Như vậy, quan hệ giữa anh A và chị B không phải là quan hệ hôn nhân trái pháp luật.
Thêm vào đó, theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ – CP:
“Những trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, mà chưa đăng ký kết hôn, thì được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp này không bị hạn chế về thời gian.”
Theo quy định nêu trên, pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987.
Trong trường hợp này, anh A và chị B làm lễ cưới năm 1986 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn. Như vậy, pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B.
Qua phân tích, ta có thể thấy quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ việc nói trên là quan hệ hôn nhân thực tế bởi bên cạnh việc làm đám cưới năm 1986, anh chị tuy chưa có con chung nhưng họ chung sống với nhau tại nhà bố mẹ anh A cho tới năm 2000 khi mối quan hệ rạn nứt và năm 2002, chị B đã bỏ về sống với bố mẹ chị tại thôn Y. Mặc dù không có con chung nhưng họ đã sống hạnh phúc với nhau 15 năm và pháp luật nước ta thừa nhận đó là quan hệ hôn nhân thực tế.
b. TAND quận H không có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.
Theo Điểm a Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10:
“ Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”
Như vậy, việc anh A gửi đơn đến Tòa án với nội dung yêu cầu hủy hôn nhân
trái pháp luật giữa anh và chị B là không đúng. Tòa án huyện H sẽ không thụ lý đơn xin hủy hôn nhân trái pháp luật của anh A.
Nếu anh A làm đơn xin ly hôn với chị B thì thẩm quyền giải quyết sẽ được xem xét theo Điểm a, b Khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Nếu anh A và chị B thỏa thuận với nhau (bằng văn bản) yêu cầu tòa án quận H giải quyết thì tòa án quận H sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ án trên. Nếu anh A và chị B không có thỏa thuận thì thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về nơi cư trú của bị đơn (tức chị H) là huyện Đ.
Bài 8
a) Khoản 2. Điều 28 BLTTDS 2015 có quy định yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản sau khi ly hôn là một trong những yêu cầu về Hôn nhân- gia đình thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án .
* Theo quy định tại Điểm b khoản 2 Điều 35 BLTTDS Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với tất cả các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, Hôn nhân- gia đình thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án ( trừ những tranh chấp, yêu cầu mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án ở nước ngoài ) .
* Điểm h, khoản 2 Điều 39 BLTTDS quy định: Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn .
Từ những căn cứ trên, áp dụng trong trường hợp của anh A và chị B, sau một thời gian chung sống phát sinh mâu thuẫn, chị B chuyển đến sinh sống và đăng kí tạm trú tại quận C thành phố H, anh A ở tại nhà cũ ở huyện N tỉnh Q, nay có đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì đơn đó có thể thỏa thuận nộp tại Tòa án nhân dân huyện N hoặc Tòa án nhân dân quận C vì hai TAND này đều có thẩm quyền giải quyết việc dân sự này. Trong trường hợp này, mặc dù tài sản chung được chia là một căn nhà (bất động sản) nhưng pháp luật không yêu cầu Tòa án giải quyết loại việc dân sự này buộc phải là Tòa án nơi có bất động sản. Bởi lẽ bản chất của thuận tình ly hôn là hai bên đã thỏa thuận thống nhất và không có tranh chấp về việc chia tài sản cũng như nuôi con. Do đó, thiết nghĩ việc thu thập các tài liệu, giấy tờ liên quan đến bất động sản... để phục vụ quá trình tố tụng cũng như việc thi hành án là không cần thiết.
b) Có ý kiến cho rằng yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được toà án giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự, trong khi đó, bản chất của việc dân sự là sự xác nhận một sự kiện pháp lý nên về nguyên tắc, không có thủ tục hòa giải và không có thủ tục phản tố. Có ý kiến lại cho rằng việc tiến hành hòa giải là bắt buộc vì quan hệ hôn nhân gia đình có tính chất đặc biệt so với các quan hệ dân sự khác. Sở dĩ có những cách hiểu khác nhau như vậy là do quy định của pháp luật. Nếu như trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự các quy định về thủ tục từ nhận đơn, hướng dẫn bổ sung nội dung đơn kiện, trả lại đơn hay thụ lý đơn, việc ra các quyết định và các thủ tục khác được quy định rất chi tiết thì đối với thủ tục giải quyết việc dân sự, phần nhiều các quy định của Luật còn mang tính khái quát, thiếu cụ thể và chi tiết.
Theo cách hiểu của em, về nguyên tắc chung việc giải quyết việc dân sự, những quy định tại chương XXIII “Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự” được ưu tiên áp dụng, những vấn đề chưa được quy định cụ thể tại chương XXIII thì được áp dụng các quy định khác của BLTTDS (Điều 361 BLTTDS). Tại Điều 10 BLTTDS cũng quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Điều 88 và 90 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì tòa án phải tiến hành hòa giải. Trong trường hợp tòa án hòa giải không thành thì tòa án lập biên bản về sự tự nguyện ly hôn và hòa giải đoàn tụ không thành. Điểm a Điều 9 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn một số vấn đề luật hôn nhân và gia đình cũng quy định: trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải. Như vậy, việc nói tòa án buộc phải tiến hành hòa giải đối loại việc thuận tình ly hôn là có cơ sở pháp lý. Hơn nữa, việc hòa giải cũng có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, có không ít những trường hợp hòa giải thành. Tuy vậy, nên chăng pháp luật tố tụng dân sự nên quy định cụ thể hơn các trường hợp buộc phải tiến hành hòa giải tùy theo thời gian hai người sống ly thân ( khái niệm này chưa có trong pháp luật, xong thực tiễn lại diễn ra rất nhiều). Giống như trường hợp mà đề bài ra, chị B đã chuyển tới nhà mẹ đẻ sinh sống từ năm 2002, đến năm 2010 mới có đơn yêu cầu ly hôn, 8 năm là khoảng thời gian không ngắn để họ bình tĩnh suy nghĩ về việc có nên chấm dứt hôn nhân hay không . Khi họ đã đưa ra quyết định, lúc này mục đích của việc hòa giải liệu có đạt được hay không ?
Bài 9
a) Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của vợ chồng anh chị A, B theo thủ tục tố tụng dân sự.
Về nguyên tắc, hầu hết các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình do Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh đều thuộc thẩm quyền dân sự của tòa án. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân cũng vậy. Căn cứ vào Điều 28, Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự những vụ việc về hôn nhân và gia đình sau đây:
- Li hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi li hôn;
- Các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi li hôn; về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; về cấp dưỡng;
- Các yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; công nhận thuận tình li hôn, nuôi con, chia tài sản khi li hôn; hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi li hôn; chấm dứt việc nuôi con nuôi; tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.
Việc anh A và chị B thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân với lí do anh A muốn mở công ti kinh doanh bất động sản riêng là phù hợp với qui định của pháp luật (căn cứ vào Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Tuy nhiên đối với yêu cầu về công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân của anh A và chị B thì pháp luật tố tụng dân sự lại không có qui định. Do đó vấn đề này không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Quan điểm cá nhân về vấn đề này: Theo quan điểm của người viết, pháp luật tố tụng dân sự nên hướng tới việc trao thẩm quyền giải quyết cho tòa án nhân dân đối với yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Người viết đưa ra quan điểm như vậy là dựa với các lí do:
- Khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 qui định: “1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.” Như vậy cùng là một vụ việc dân sự - chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhưng tòa án lại chỉ có thẩm quyền giải quyết khi các bên không thể tự thỏa thuận và đưa yêu cầu ra tòa án (tức là đã phát sinh vụ án dân sự).
Còn trường hợp như tình huống đưa ra là yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân – yêu cầu công nhận việc dân sự thì lại không qui định có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân hay không? Rõ ràng điều này đã làm nảy sinh khá nhiều khó khăn trong thực tiễn giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhất là một khi có tranh chấp xảy ra. Do đó theo quan điểm người viết nên trao thẩm quyền này cho tòa án.
- Tại các Khoản 2, Khoản 3 Điều 29 BLTTDS 2015 pháp luật đã qui định tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận của vợ chồng về các vấn đề li hôn, nuôi con, chia tài sản khi li hôn, vậy cũng nên công nhận tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
- Khoản 7 Điều 29 BLTTDS 2015 qui định tòa án có thẩm quyền giải quyết “các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có qui định”. Vậy các yêu cầu khác ở đây được hiểu là những yêu cầu như thế nào? Pháp luật hiện hành chưa đưa ra một cách giải thích cụ thể, vì vậy thiết nghĩ cần có một qui định rõ ràng hơn để tránh tình trạng chồng chéo trong việc xác định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước.
b) Tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị B.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 35 BLTTDS 2004 thì tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp, yêu cầu qui định tại Khoản 1, Khoản 2 điều này mà có đương sự ở nước ngoài. Đương sự ở nước ngoài được giải thích tại điểm a tiểu mục 4.1 mục I nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP như sau: “Đương sự là cá nhân không phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam mà không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Toà án thụ lý vụ việc dân sự; đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài hoặc người nước ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam để nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án.”
Theo đó, chị B thuộc trường hợp đương sự đang học tập ở nước ngoài và được coi là đương sự nước ngoài nên tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị B. Trường hợp này, căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015, chị B phải gửi đơn lên tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Bài 10
a) Nếu các con của ông A, bà B không chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao?
Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết một vụ án hay việc dân sự nào đó khi được pháp luật trao quyền. Khoản 4 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định về thẩm quyền giải quyết “Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ” của tòa án. Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra, tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết và có thể giải quyết theo tố tụng dân sự.
Khái niệm “tranh chấp” về vấn đề này trong các quy định của pháp luật chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, khái niệm “tranh chấp” được hiểu theo phạm vi rộng, nghĩa là, không chỉ những người được nhận là cha, mẹ không đồng ý nhận con hay con mà còn cả những trường hợp khác như: Vợ, chồng, bố, mẹ, con của người được nhận là cha, mẹ, con; những người đã nuôi dưỡng người xin nhận cha, mẹ, con không đồng ý việc nhận cha, mẹ, con; hoặc có thêm người thứ ba đứng ra nhận người cha, mẹ, con đó là cha, mẹ, con của mìnhnhư vậy là có tranh chấp.
Vì các con ông A, bà B không chấp nhận anh M là con của ông A – đó chính là tranh chấp về xác định cha của anh M nên căn cứ khoản 4 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự.
b) Nếu các con của ông A, bà B đều chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao?
* Trường hợp 1: Không có yếu tố nước ngoài
Theo quy định của pháp luật thì con đã thành niên hoặc người giám hộ của con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự được làm thủ tục nhận cha trong trường hợp cha đã chết; nếu việc nhận cha là tự nguyện và không có tranh chấp.
Khi anh M gửi đơn lên Tòa án yêu cầu Tòa án xác nhận ông A là cha (đã chết), các con ông A đã không phản đối, như vậy việc xác nhận cha là hoàn toàn tự nguyện và không có tranh chấp. Do đó, việc xin xác nhận ông A là cha của anh M không thuộc thẩm quyền của Tòa án mà thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã, phường, thị trấn và được thực hiện theo thủ tục hành chính. Theo đó, anh M có quyền gửi đơn yêu cầu tại UBND cấp xã, phường, thị trấn theo Điều 33 Nghị định 158/2006.
Việc anh M gửi đơn đến Tòa án yêu cầu xác định cha trong trường hợp không có tranh chấp là không đúng với quy định của pháp luật. Tòa án phải trả lại đơn với lý do yêu cầu của anh M không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Khoản 3 điều 191 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ). Khi trả đơn, Tòa án nên giải thích cho anh M rõ quy định của pháp luật, hướng dẫn anh M làm đơn gửi UBND xã để xác định cha theo thủ tục hành chính.
* Trường hợp 2: Có yếu tố nước ngoài
Nếu anh M rơi vào trường hợp quy định tại điều 28 NĐ 68/2002: Do ông A đã chết trước thời điểm anh M làm thủ tục xác nhận cha, nên Tòa án có thể căn cứ Khoản 7 điều 29 bộ luật tố tụng dân sự 2004 để giải quyết cho anh M. Khi đó, Tòa án có thể giải quyết cho anh M theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo điều 28 NĐ 68/2002 thì về nguyên tắc việc nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chỉ được tiến hành nếu cả bên nhận cha, mẹ con và bên được nhận cha, mẹ , con đều còn sống vào thời điểm nộp đơn yêu cầu và không có tranh chấp. Do vậy, sở tư pháp UBND tỉnh cũng không có thẩm quyền mà thuộc thẩm quyền Tòa án.
Bài 11
a. Việc tách vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng hay sai và giải thích tại sao?
Quy định về việc tách vụ án dân sự của Tòa án tại khoản 2 Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
...”2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật.”
Về nguyên tắc, việc tách vụ án chỉ thực hiện trong trường hợp vụ án có nhiều quan hệ pháp luật có thể giải quyết một cách độc lập mà không ảnh hưởng tới việc giải quyết các quan hệ pháp luật khác. Việc tách vụ án phải đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng và đúng pháp luật các yêu cầu của đương sự. Trong trường hợp các quan hệ pháp luật có tranh chấp độc lập với nhau và việc nhập các quan hệ pháp luật để giải quyết trong cùng một vụ án sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì tòa án nên tách các quan hệ pháp luật để giải quyết trong các vụ án khác nhau. [1, tr.80 – 81].
Trong tình huống nêu trên, chúng ta thấy có những vấn đề như sau:
- Khoản nợ 100 triệu của công ty T đối với công ty UNI Việt Nam đã trở thành một điều khoản thanh toán của hợp đồng số 02/ĐL (theo như thỏa thuận của hai bên)
- Công ty T vi phạm nghĩa vụ trả tiền trong quá trình thực hiện hợp đồng số 02/ĐL
- Công ty UNI khởi kiện đòi công ty T trả 100 triệu đồng còn nợ của hợp đồng số 01 và tiền hàng còn thiếu của hợp đồng số 02. Vì số nợ 100 triệu kia đã trở thành một điều khoản của hợp đồng số 02 theo thỏa thuận của hai bên, cho nên việc giải quyết khoản nợ này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng số 02 của hai bên. Đồng thời, tranh chấp ở đây đều là tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại (do bên công ty T vi phạm nghĩa vụ trả tiền đối với công ty UNI Việt Nam).
Nên việc tòa án cấp sơ thẩm tách vụ án dân sự trong trường hợp này là không hợp lí. Tòa án hoàn toàn có thể giải quyết tranh chấp giữa hai bên trong cùng một vụ án dân sự.
b. Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên và giải thích tại sao?
Trước hết, chúng ta xác định rằng tranh chấp giữa công ty UNI Việt Nam và công ty T là tranh chấp về kinh doanh, thương mại, cụ thể là tranh chấp về vấn đề đại lý (quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Theo quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện tại điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy tranh chấp này sẽ được giải quyết bởi Tòa án nhân dân cấp huyện.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Ở trong tình huống này, nguyên đơn là công ty UNI Việt Nam có trụ sở tại Huyện X, tỉnh B; bị đơn là công ty T có trụ sở tại quận T thành phố U. Vậy, Tòa án nhân dân quận T sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự này. Song bên cạnh đó, các bên cũng có thể tự thỏa thuận bằng văn bản với nhau yêu cầu Tòa án nhân dân huyện X thụ lí vụ việc trên.
Bài 12
1. Theo anh (chị) quan điểm của công ty V về thẩm quyền của Tòa án là đúng hay sai? Tại sao?
Thỏa thuận luôn được coi là nguyên tắc căn bản của luật dân sự nói chung và luật thương mại nói riêng, và trong chế định hợp đồng thì nguyên tắc này càng thể hiện được vai trò của nó. Sự thỏa thuận được coi như “luật của các bên” trong quan hệ hợp đồng. Các bên trong quan hệ có nghĩa vụ thực hiện một cách trung thực, thiện chí theo những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng nếu các thỏa thuận đó không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội
Theo đề bài công ty B và công ty V có thỏa thuận trong hợp đồng là “mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sẽ do Tòa án huyện K tỉnh HN giải quyết”, đây là một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành do đó các bên có nghĩa vụ thực hiện theo những gì đã thỏa thuận. Bởi lẽ:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh giữa công ty B và công ty V là một tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 30 BLTTDS 2015: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hóa”.
Thứ hai, Luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã cho phép các bên có thể thỏa thuận về vấn đề Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh. Cụ thể, tại điểm b, khoản 1, Điều 39 BLTTDS năm 2015 đã quy định: “Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Điều luật này đã quy định rất rõ ràng quyền của các đương sự được tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản để yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn giải quyết vụ việc. Đây cũng là điểm mới so với quy định tại Điều 14 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Quy định này đã tháo gỡ vướng mắc để Tòa án không phải lúng túng khi giải quyết tranh chấp của các đương sự.
Do đó, theo thỏa thuận bằng văn bản trong hợp đồng thì Tòa án huyện K tỉnh HN sẽ giải quyết và tranh chấp này hoàn toàn phù hợp với thẩm quyền của Tòa án huyện K tỉnh HN. Vì vậy, quan điểm của công ty V là Sai.
2. Giả sử sau khi Tòa án huyện K thụ lý vụ án trên thì công ty V có văn bản chuyển vụ án cho Tòa án tỉnh HN giải quyết với lí do Chánh án của Tòa án huyện K là người thân thích với giám đốc của công ty B. Anh (chị) hãy cho biết, trong trường hợp này, Tòa án tỉnh HN có thẩm quyền giải quyết vụ án hay không? Tại sao?
Trước hết, cần phải thấy rằng theo quy định của pháp luật thì Tòa án tỉnh HN có thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc nêu trên nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 37, BLTTDS. Tại điều luật này đã nêu rõ “Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”.
Thêm vào đó, có thể thấy rằng Tòa án tỉnh thường lấy các vụ án của Tòa cấp huyện lên giải quyết khi các vụ án đó có nhiều tình tiết phức tạp, việc giải quyết ở Tòa án tỉnh sẽ thuận lợi hơnHơn nữa, việc công ty V cho rằng Chánh án của Tòa án huyện K là người thân thích với giám đốc của công ty B, đây không phải là một căn cứ để Tòa tỉnh lấy vụ án lên để giải quyết
Trên thực tế có thể thấy, nếu việc đề nghị của công ty V là có cơ sở thì theo quy định tại Điều 52 BLTTDS sẽ phải thay đổi người tiến hành tố tụng. Việc thay đổi người tiến hành tố tụng mà cụ thể là Chánh án Tòa án huyện K sẽ đảm bảo sự vô tư, khách quan khi tiến hành giải quyết vụ án và thủ tục này cũng đơn giải hơn nhiều so với việc Tòa án tỉnh HN lấy vụ án này lên để giải quyết.
Như vậy, có thể kết luận rằng: về mặt lý thuyết thì Tòa án tỉnh HN cũng có thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 52 BLTTDS. Tuy nhiên, trên thực tế việc công ty V cho rằng Chánh án Tòa án huyện K không đảm bảo sự vô tư khách quan thì Tòa án sẽ tiến hành thay đổi người tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 52 BLTTDS. Đây không phải là một căn cứ để Tòa án tỉnh HN lấy vụ án lên để giải quyết.
Bài 12
a. Toà án có thẩm quyến giải quyết vụ việc trên là Toà án nhân dân thành phố H.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 33 thì “Toà án nhân dân huyện,thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyển giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại điều 25 và điều 27 bộ luật này”.
Theo Khoản 5 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thì “Tranh chấp về thừa kế tài sản” là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về thừa kế, trong đó phải kể đến yêu cầu chia di sản thừa kế, có thể theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trong vụ việc đề ra, Ông bà M, N có 4 người con là A, B, C, D , sau khi qua đời để lại ngôi nhà trên diện tích đất 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H. D có hộ khẩu thường trú tại thành phố M thuộc tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất cha mẹ để lại và có đăng ký tạm trú tại phường K, quận D, thành phố H, A cho rằng anh D có ý định chiếm toàn bộ nhà đất nên có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Như vậy đương sự trong vụ việc này chỉ bao gồm anh A (nguyên đơn) và anh D ( bị đơn).
Trong 4 người con của ông bà M,N thì anh C hiện đang cư trú tại Mỹ, tuy nhiên vì anh C không hề có yêu cầu gì trong vụ tranh chấp này nên đây không phải là tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài (đương sự ở nước ngoài- Khoản 3, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự). Nếu là tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên sẽ là Tòa án nhân dân cấp tỉnh của thành phố H, hoặc Tòa án nhân dân thành phố H nếu như H là thành phố trực thuộc trung ương – theo Điểm c Khoản 1 Điều 36 – Bộ luật Tố tụng dân sự.
b.Ý kiến cho rằng anh A phải khởi kiện tại Toà án nhân dân thành phố M thuộc tỉnh TG theo em là sai, bởi vì:
Theo Điểm c Khoản 1 Điều 39 về Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ: “Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản”.
Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì bất động sản là tài sản gắn liền với đất không thể dịch chuyển được, các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản đó cũng thường do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản nắm giữ. Vì thế, toà án nơi có bất động sản sẽ là toà án có điều kiện tốt nhất trong vịêc xác minh, xem xét tình trạng của bất động sản, thu thập các giấy tờ tài liệu liên quan đến bất động sản đó. Pháp luật không cho phép các bên thoả thuận về việc yêu cầu toà án nơi không có bất động sản giải quyết vụ việc trên.
Trong đề bài, bản chất của tranh chấp là tranh chấp về quyền thừa kế tài sản, tuy nhiên đối tượng mà hai bên hướng đến là bất động sản: ngôi nhà trên diện tích 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H.
Có thể thấy rằng, trong vụ việc này, tranh chấp giữa các bên chỉ là quyền thừa kế bất động sản chứ không hề có động sản, hơn nữa, anh D tuy đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố M, tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng ngôi nhà do cha mẹ để lại, và cũng đăng ký tạm trú tại đây, cho nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp chia thừa kế sẽ thuộc về Tòa án nhân dân thành phố H.
Trong thực tiễn, việc vận dụng quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xác định thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp thừa kế nhà đất cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế nhà đất không phải là tranh chấp về bất động sản vì đối với tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất thì trước hết phải xác định xem ai là người có quyền thừa kế rồi mới chia, trong số các đương sự thì có đương sự chỉ yêu cầu hưởng giá trị chứ không yêu cầu chia hiện vật. Vì vậy, Toà án có thẩm quyền giải quyết phải là Toà án nơi có bị đơn. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế thì di sản có thể bao gồm cả động sản, bất động sản cho nên không thể áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền của Toà án theo nơi có bất động sản toạ lạc. Pháp luật cần đặt ra những quy định để làm rõ hơn vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với tranh chấp về chia tài sản thừa kế.
Theo pháp luật một số nước thì nguyên tắc nơi phát sinh sự kiện mở thừa kế được áp dụng để xác định thẩm quyền của Tòa án trong vụ việc yêu cầu chia thừa kế. Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ là Toà án nơi mở thừa kế hay Toà án nơi có di sản. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay không đề cập đến nguyên tắc này. Do vậy, trong khi nhà lập pháp chưa có những quy định khác thì việc xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ tạm thời vẫn được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, trên nguyên tắc ưu tiên thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có bất động sản (nếu có nhiều bất động sản thì là Toà án nơi có một trong các bất động sản).
Bài 14
1. Theo em, toà án quận 1 thành phố H không có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.
Theo dữ kiện của đề bài thì có thể xác định đây là vụ án về ly hôn, chia tài sản khi ly hôn theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS), trong đó anh A là nguyên đơn, chị B là bị đơn. Vấn đề là Tòa án theo lãnh thổ nào sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ án trên?
Theo điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn. Theo quy định tại Điều 52 BLDS 2005 và Điều 12 Luật cư trú 2006 thì nơi cư trú của một cá nhân được hiểu là nơi người đó thường xuyên sinh sống, ổn định, không có thời hạn ở một chỗ nhất định và có hộ khẩu thường trú. Trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú (nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú) và có đăng ký tạm trú. Khi không xác định được nơi cư trú của cá nhân thì nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc nơi có phần lớn tài sản (nếu tài sản của người đó có ở nhiều nơi) cũng được coi là nơi cư trú.
Ở đây anh A và chị B đã sống chung ở quận 1 thành phố H từ năm 2000 đến 12/2005 nhưng chưa chuyển khẩu, đến tháng 1/2006 chị B đã về sống tại thành phố MT thuộc tỉnh TG (có đăng ký tạm trú). Vậy trường hợp này nơi cư trú của chị B được xác định là thành phố MT thuộc tỉnh TG (nơi chị B có hộ khẩu thường trú hoặc có đăng ký tạm trú). Như vậy, Tòa án quận 1 thành phố H không có thẩm quyền giải quyết vụ án. Trong trường hợp này anh A nếu muốn Tòa án quận 1 thành phố H giải quyết thì phải thỏa thuận được bằng văn bản với chị B về việc yêu cầu tòa án nơi anh A cư trú, làm việc giải quyết theo điểm b khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
Sẽ có ý kiến cho rằng vì khối tài sản chung của anh A chị B là bất động sản thì phải áp dụng điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS để giải quyết, theo đó, tòa án quận 1 thành phố H vẫn có thẩm quyền giải quyết vụ án. Theo em ý kiến này không hợp lý vì đối với một vụ án ly hôn có kèm yêu cầu phân chia tài sản thì về nguyên tắc Tòa án phải giải quyết ly hôn trước rồi mới tiến hành chia tài sản được, nếu không có vấn đề ly hôn thì sẽ trở thành chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Do đó Tòa án cũng không thể tách vụ án ra làm hai để giải quyết được mà phải giải quyết luôn trong một vụ án, cho nên trường hợp này, tòa án có thẩm quyền giải quyết phải là tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu các bên không có thỏa thuận khác.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết là toà án quận 1 thành phố H hoặc tòa án quận BT thành phố H tùy theo yêu cầu của nguyên đơn.Vì:
Nếu anh A và chị B không yêu cầu giải quyết ly hôn mà chỉ yêu cầu giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng thì có thể xem đây là tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vì về mặt pháp lý thì hôn nhân của hai người vẫn tồn tại (hôn nhân chỉ chấm dứt về mặt pháp lý khi ly hôn; một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết). Do đó, tranh chấp về vấn đề này sẽ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 BLTTDS.
Theo tình huống của đề bài thì sau khi kết hôn anh A và chị B đã mua chung một căn nhà tại quận 1 thành phố H, đồng thời có hùn vốn mua chung với anh C một lô đất tại quận BT thành phố H. Căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì căn nhà và lô đất trên chính là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy tài sản chung mà vợ chồng anh A chị B có tranh chấp chính là căn nhà và phần quyền sử dụng lô đất, được xác định là tranh chấp về bất động sản bởi vì đối tượng của vụ tranh chấp này chính là bất động sản.(1).
Theo điểm c Khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Quy định này được xây dựng dựa trên quan niệm Toà án nơi có bất động sản là Toà án có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp vì tất cả các hồ sơ, giấy tờ về bất động sản do cơ quan quản lý bất động sản nắm giữ, cơ quan này nắm vững thực trạng, nguồn gốc của bất động sản(2). Tuy nhiên, theo tình huống đề bài thì tài sản tranh chấp là bất động sản của hai vợ chồng có ở những địa phương khác nhau (nhà thì ở quận 1 thành phố H, lô đất thì ở quận BT thành phố H), căn cứ điểm i khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì trường hợp này nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết mà không cần điều kiện nào (theo hướng dẫn tại mục 5 phần I nghị quyết số 01/2005/NQ_HĐTP). Có nghĩa là Tòa án quận 1 thành phố H và tòa án quận BT quận H đều có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này, tùy thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn.
(1) Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật dân sự 2005 thì bất động sản bao gồm:đất đai; những công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định.
(2) Đọc “thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất”_Trần Anh Tuấn, tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7 (144) tháng 4/2009, tr 55
Bài 15
a. Các căn cứ để chứng minh quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên không phải là quan hệ pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản đó là:
Thứ nhất, căn cứ theo quy định tại Điều 428 của Bộ luật dân sự 2005 về Hợp đồng mua bán tài sản thì: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Đối chiếu với quy định trên nhận thấy rằng:
+ Trong vụ án trên, quan hệ pháp luật giữa ông A và ông K là quan hệ mua bán tài sản ( Ông A có nghĩa vụ chuyển giao vật liệu xây dựng cho ông K và có quyền nhận 200 triệu đồng tiền của K cùng với đó thì ông K có quyền nhận vật liệu xây dựng từ ông A và có nghĩa vụ hoàn trả số tiền 200 triệu ông A).
+ Tuy nhiên, quan hệ pháp luật xảy ra tranh chấp (giữa ông A và ông B) lại không thể hiện đầy đủ các yếu tố của quan hệ mua bán tài sản vì: Trong vụ án này giữa ông A và ông B không xuất hiện việc ông A chuyển giao tài sản (vật liệu xây dựng) cho ông B và nhận tiền của ông B đồng thời với việc việc ông B quyền nhận tài sản (vật liệu xây dựng) từ ông A và có nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông A mà chỉ xuất hiện việc ông B có nghĩa vụ thanh toán cho ông A số tiền 50 triệu đồng cho ông A.
- Thứ hai, căn cứ Điều 315 Bộ luật dân sự 2005 về Chuyển giao nghĩa vụ dân sự thì: “ 1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Trong vụ án trên thấy rằng: Việc ông A khởi kiện ông B ra tòa buộc ông B phải thanh toán số tiền 50 triệu đồng là xuất phát từ sự thỏa thuận của ông K với ông A và ông B với nội dung ông B sẽ tiếp tục thực hiện việc thanh toán số tiền 50 triệu đồng mà ông K nợ ông A. Bằng việc thỏa thuận này ông B đã trở thành người thế nghĩa vụ và có nghĩa vụ thực hiện thanh toán số tiền 50 triệu đồng cho ông A trong mối quan hệ hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ.
→ Như vậy, từ hai căn cứ trên đi đến kết luận quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên không phải là quan hệ pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản.
b. Để xác định tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên cần dựa trên các căn cứ sau:
- Tòa án có thẩm quyền giải quyết hay không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về Những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có bao gồm: “ Tranh chấp về hợp đồng dân sự”. Như vậy, tranh chấp giữa ông A và ông B về việc thanh toán số tiền 50 triệu đồng theo hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Cấp Tòa án có thẩm quyền.
Căn cứ theo Điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm “Tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của bộ luật này” . Như vậy, vì đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự giữa ông A và ông B ( cụ thể là về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán 50 triệu đồng theo hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ) thuộc khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau: “a)Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này.
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định
Tóm lại: Từ các căn cứ trên đưa ra kết luận sau:
+ Nếu ông A và ông B không có thỏa thuận về nơi giải quyết tranh chấp Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh TB nơi cư trú của ông B (bị đơn) là Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết.
+ Nếu ông A và ông B có thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú của ông A (nguyên đơn) giải quyết tranh chấp này thì Tòa án nhân dân huyện X tỉnh TB là Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tap_ttds_0898.docx