Bài tập Nghiên cứu lịch sử Việt Nam

Tài liệu Bài tập Nghiên cứu lịch sử Việt Nam: Viện Đại học Mở Hà Nội Khoa Du Lịch BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Mạnh Tùng Thực hiện: Lớp A3K18 Năm 2010 ĐỀ TÀI: LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Ánh Lớp: A3K18 Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam luôn tự hào có một nền văn hiến lâu đời với hơn 4000 nghìn năm lịch sử hào hùng. Có được những trang sử hào hùng ấy là nhờ công lao của biết bao thế hệ cha ông, tổ tiên và các bậc tiền nhân hào kiệt đã nối tiếp nhau thêu dệt nên. Đặc biệt phải kể đến những trang sử vẻ vang của buổi đầu dựng nước khi khai thiên lập địa,đánh dấu sự khởi đầu của đất nước ta, làm nên bước ngoặt cho lịch sử dân tộc Việt. Đó là trang sử về Lạc Long Quân và Âu Cơ – về tổ tiên con dân nước Việt, về nguồn cội dòng giống dân tộc Việt và sự hình thành nhà nước đầu tiên của chúng ta. Tác phẩm nghiên cứu lịch sử mang tên “Lạc long Quân và Âu Cơ” hứa hẹn sẽ mang lại cho các bạn nguồn cảm hứng, cái nhìn toàn diện, những khám phá mới mẻ, hoài niệm thú...

doc349 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài tập Nghiên cứu lịch sử Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Viện Đại học Mở Hà Nội Khoa Du Lịch BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Mạnh Tùng Thực hiện: Lớp A3K18 Năm 2010 ĐỀ TÀI: LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Ánh Lớp: A3K18 Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam luôn tự hào có một nền văn hiến lâu đời với hơn 4000 nghìn năm lịch sử hào hùng. Có được những trang sử hào hùng ấy là nhờ công lao của biết bao thế hệ cha ông, tổ tiên và các bậc tiền nhân hào kiệt đã nối tiếp nhau thêu dệt nên. Đặc biệt phải kể đến những trang sử vẻ vang của buổi đầu dựng nước khi khai thiên lập địa,đánh dấu sự khởi đầu của đất nước ta, làm nên bước ngoặt cho lịch sử dân tộc Việt. Đó là trang sử về Lạc Long Quân và Âu Cơ – về tổ tiên con dân nước Việt, về nguồn cội dòng giống dân tộc Việt và sự hình thành nhà nước đầu tiên của chúng ta. Tác phẩm nghiên cứu lịch sử mang tên “Lạc long Quân và Âu Cơ” hứa hẹn sẽ mang lại cho các bạn nguồn cảm hứng, cái nhìn toàn diện, những khám phá mới mẻ, hoài niệm thú vị về đề tài Lạc long Quân và Âu Cơ . Tác phẩm gồm 5 phần xuyên suốt và thống nhất theo một chủ đề. Phần I: Lạc Long Quân và Âu Cơ. Phần II: Ý nghĩa và giá trị. Phần III: Chuyện bên lề. Phần IV: Con Rồng Cháu Tiên. Phần V: Khám phá hình ảnh. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khởi đầu bằng một huyền thoại cao đẹp, huyền thoại "Con Rồng Cháu Tiên". Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết duyên thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một người con trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng Lâm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi. Chàng đã giúp dân trừ được rất nhiều tai ương, hoạn nạn như diệt Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh. Không những thế chàng còn chỉ cho nhân dân biết cách trồng lúa, đánh cá, làm nhà mà làm ăn sinh sống. Chàng được nhân dân khắp mọi nơi yêu quý, khâm phục. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ (con gái Đế Lai-người từ phương Bắc) ở động Lăng Xương (nay là huyện Thanh Thủy, Phú Thọ) kết duyên thành vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Tục truyền rằng, Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con lớn lên, Lạc Long Quân đã nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó...” Vì thế, hai vị đã chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để lưu truyền được lâu dài. Vương thứ nhất, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo.Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời vua đều lấy hiệu là Hùng Vương, trị vì đất nước trong 2621 năm (từ năm Nhâm Tuất 2879 TCN đến năm 258 TCN), trở thành tổ tiên của các tộc người, dòng họ Việt Nam ngày nay. Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên lần đầu tiên được chép trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp với tựa đề Hồng Bàng Thị. Không đơn thuần chỉ phản ánh một nguồn cội con người, một giống nòi dân tộc, truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ còn chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa toát lên ở nhiều khía cạnh về đất nước và con người Việt Nam: về lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, tâm linh… Câu chuyện thần thoại mà thấm đẫm ý nghĩa, giá trị lịch sử và nhân văn cao cả; ăn sâu vào nếp nghĩ và tâm hồn người Việt. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ đánh dấu sự ra đời nhà nước đầu tiên của dân tộc ta, quốc hiệu là Văn Lang, kinh đô đóng ở Phong Châu (Phú Thọ), chia nước làm 15 bộ (bao gồm :Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phú Lộc, Việt Thường, Cửu Đức, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải,Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, nơi vua ở là bộ Văn Lang ) đều là đất thần thuộc của Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang từ khi thành lập đã là một nhà nước độc lập, tự chủ, có bờ cõi, lãnh thổ riêng, có tổ chức chính trị riêng, được phân công quản lí rõ ràng , đứng đầu là vua Hùng. Qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy sự hình thành nhiều tập tục trong đời sống sinh hoạt, sản xuất và văn hóa có giá trị sâu sắc còn lưu truyền đến ngày nay như: Làm nhà sàn, trồng lúa nếp, thổi cơm lam, tục vẽ mình, vẽ mắt thuyền khi ra khơi đánh bắt…Nhân dân biết giúp đỡ nhau , dựa vào nhau cùng chung sống. Với sức mạnh phi thường của Lạc Long Quân, chàng đã cứu giúp nhân dân khỏi 3 hoạn lớn. Những địa danh nổi tiếng như: núi Cẩu Đầu Sơn, Cẩu Đầu Thủy, đảo Bạch Long Vĩ đã được hình thành từ việc giết Ngư Tinh. Và đầm Xác Cáo, nay là Tây Hồ có tên nhờ việc diệt Hồ Tinh. Vùng Quỷ Xương Cuồng cũng nhờ dự đánh đuổi Mộc Tinh của chàng. Cộng đồng người Việt đã góp mặt vào cộng đồng nhân loại từ rất lâu đời cách đây hơn 4000 năm, sinh sống và phát triển thành một xã hội to lớn. Con người Việt Nam từ buổi sơ khai hình thành đã có những phẩm chất tốt đẹp đáng quý không thua kém gì con người trên khắp thế giới. Người Việt có tiếng nói riêng và có ý thức dân tộc sâu sắc; cùng nhau thêu dệt nên bản sắc dân tộc Việt. Người Việt Nam tin rằng mình vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng ,bởi thế đối với người Việt Nam nói riêng, con rồng thực sự là một con vật hết sức thiêng liêng và cao quý. Rồng là tổ tiên của con người Việt Nam. Nó tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực của dân tộc Việt Nam và được nhân dân khắp nơi quý trọng, tôn thờ. Con rồng trong Phật giáo là linh vật Hộ Pháp, tức là bảo vệ cho giáo lí Phật giáo và những ai theo đuổi giáo lí đó. Con rồng được xem là một trong tứ quý: Long, Lân, Quy, Phụng. Nhiều nơi người ta lập đền thờ để thờ con rồng. Tiên được quan niệm là người sống trên núi, hiền từ thanh thoát, sống mãi không chết. Còn rồng thì được coi là chúa tể của biển cả, làm mưa làm gió, thiên biến vạn hóa. Qua biểu tượng rồng tiên trên đây ông bà tổ tiên muốn dạy chúng ta rằng: con người là một kết hợp vừa biến hóa vừa trường cửu, vừa vật chất, vừa siêu phàm, vừa linh ẩn, vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền, vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương, vừa uy lực vô song. Và để tưởng nhớ các bậc thủy tố, các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước ,nhân dân Việt Nam nhiều nơi đã xây các công trình đền thờ, khu di tích lịch sử, bảo tàng văn hóa lịch sử về Lạc Long Quân, Âu Cơ và các vị vua Hùng nhằm thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”,tấm lòng hiếu đạo của những người con đất Việt. Hàng năm nhân dân đều tổ chức các lễ hội, lễ hành hương, các chương trình văn hóa nghệ thuật để bày tỏ tình cảm của mình với tổ tiên. Như đền Mẫu Âu Cơ ở Hạ Hòa – Phú Thọ, đền Báo Ân ở Hưng Yên; đền Lạc Long Quân ở Việt Trì – Phú Thọ, đền Kim Liên ở Hà Nội, đền Tổ đình Quốc tổ Lạc Hồng ở phường 3 – Gò Vấp- tp Hồ Chí Minh . Thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử; có sót lại chăng chỉ còn là những tục ngữ ca dao và cổ tích lưu truyền trong dân gian. Nhưng ngày giỗ Tổ Hùng Vương vẫn ăn sâu vào tâm linh người Lạc Việt. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc dưới ách đô hộ phong kiến Bắc phương; tiếp theo là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử; tâm linh của người Lạc Việt vẫn luôn nhớ về cội nguồn. Ngày giỗ Tổ 10 – 3 là một trong những ngày lễ hội thiêng liêng nhất của người Lạc Việt. Dù đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Dù ai buôn bán gần xa Nhớ ngày giỗ tổ hang ba mùng mười Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ mãi mãi trường tồn với non nước, con người Việt Nam. Nó không những trở thành một ý niệm thiêng liêng, lòng tự hào , tự tôn dân tộc của nhân dân Việt Nam, mà còn là một biểu tượng cao đẹp của dân tộc Việt Nam mà bạn bè khắp năm châu luôn ngưỡng mộ. Câu chuyện thuở xưa còn gìn giữ đến ngày nay đã phản ánh rất sinh động linh hồn người Việt, xứng đáng mang một tầm vóc lịch sử quốc gia của một dân tộc anh hùng. ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY Người thực hiện: Đặng Tuấn Anh Lớp: A3K18 Trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam, bánh chưng là món ăn truyền thồng nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu với cha ông và trời đất, xứ sở. Nó có nguồn gốc từ thời vua Hùng thứ VI. Bánh chưng song hành cùng lịch sử dân tộc và trở thành biểu tượng của ngày Tết cổ truyền Việt Nam. Bánh chưng được gói từ lá dong với thịt lợn, đỗ xanh, gạo nếp. Bánh được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán và ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch). Dịp Tết ngày nay ít thấy cảnh các bà các chị tất bật chuẩn bị làm bánh chưng, nào rửa lá dong, nào ngâm gạo hay đãi đỗ, cảnh trẻ con háo hức xem bố mẹ gói bánh, cảnh già trẻ lớn bé ngồi quây quần bên bếp lửa nấu bánh chưng, mặc cho ngoài trời sương lạnh giá. Với nhiều thế hệ, chiếc bánh chưng là niềm hân hoan của ngày Tết sum vầy, đoàn tụ. Những chiếc bánh đẹp, đầy đặn, vuông vức được dành riêng để cúng Tổ tiên. Bánh chưng vẫn nhắc nhở con cháu ngàn đời về truyền thống dân tộc. Ngày nay, nguyên liệu làm bánh chưng vẫn vậy, vẫn gạo nếp, lá dong, thịt mỡ, đỗ xanh. Bánh muốn ngon thì phải chuẩn bị nguyên liệu thật kĩ: gạo ngâm đãi thật kĩ,đậu xanh đồ vừa chín tới, thịt phải có cả mỡ, nạc, bì, ướp đủ gia vị, gói xong phải luộc ngay bánh mới xanh. Để chiếc bánh vuông đẹp, chín rền thì lúc gói phải “ đỗ trong gạo, gạo trong lá”, gói chặt tay, không cần ép mà bánh vẫn để được lâu, miếng bánh sau khi cắt nhân đỗ, thịt nạc luôn cân đối ở tất cả các phần. Lại nói về cách cắt bánh, ngày nay, mọi người cắt bánh thành 4 hoặc 8 phần. Lạt được tước nhỏ, đặt theo hình chữ thập chính giữa bánh, rồi lại đặt 2 chiếc lạt theo 4 góc thành một hình chữ thập nữa. Kế đó, lật ngược chiếc bánh lên, thắt lạt lại theo thứ tự để cắt bánh. Với cách cắt này, các miếng bánh thật đều nhau, đều có cả thịt và nhân đỗ. Thế nhưng, rất ít người biết đến cách bánh của người xưa. Người xưa cắt bánh thành 9-16 miếng vuông vức. Những miếng bánh ở giữa được dành cho người lớn tuổi. Nhưng miếng bánh xung quanh được dành cho cha mẹ,tiếp theo nữa là dành cho con cháu. Điều dó thể hiện truyền thống tôn trọng người cao tuổi,"kính già, già để tuổi cho" của dân tộc. Song hành với bánh chưng là bánh dày. Bánh có hình tròn, thường được làm bằng gạo nếp. Bánh được làm chủ yếu trong dịp giỗ tổ Hùng Vương. Cách làm bành tuy đơn giản nhưng lại rất kì công. Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục đích này nhiều hơn. Bánh dày loại phổ biến nhất là loại bánh dày trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2 cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, ruốc… Có một địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ Hà Nội đi Hải Dương. Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh dày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi. Các loại bánh của nông thôn miền bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo hoặc ôi thiu. Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như bánh tổ Dáng vuông của bánh chưng, dáng tròn của bánh dày đã thể hiện vũ trụ quan của người Việt cổ. Hình tròn tượng trưng cho bầu trời,hình vuông tượng trưng cho mặt đất.Người xưa đã khéo léo lựa chọn hai sản vật thật đặc biệt dâng lên trời đất, dâng lên tổ tiên. Hai thứ bánh này cũng thể hiện sụ tương giao hòa hợp của hai hình thể "rỗng" và "đặc", "vuông" và "tròn"- tuy tương khắc nhau như "trời" và "đất", "đàn ông" và "đàn bà" nhưng phải kết giao với nhau, tạo nên vạn vật. "Lễ vuông tròn" của bánh chưng - bánh dày thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung của vợ chồng, giống như câu thơ của Nguyễn Du: "Trăm năm tính cuộc vuông tròn Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông." Bánh chưng - bánh dày đã trở thành món ăn truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua hàng ngàn năm,bánh chưng-bánh dày vẫn trường tồn,vẫn cách làm ấy,vẫn nguyên liệu ấy, vẫn hương vị ấy... Bánh chưng-bánh dày thể hiện truyền thống quý báu của nhân dân ta. Đặc biệt,chiếc bánh chưng là tín hiệu của ngày Tết,là biểu tượng của sum họp,đoàn tụ,là món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết: "Thịt mỡ,dưa hành,câu đối đỏ, Cây nêu,tràng pháo,bánh chưng xanh." ĐỀ TÀI: NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN Người thực hiện: Nguyễn Thị Mai Anh Lớp A3K18 Nữ tướng Lê Chân không chỉ là niềm tự hào của người dân Hải Phòng nói riêng mà còn là niềm tự hào của dân tộc ta đặc biệt là đối với người phụ nữ Việt Nam. I. TIỂU SỬ Về nữ tướng Lê Chân hiện nay không rõ cụ thể năm sinh năm mất, chỉ biết bà xuất thân trong một gia đình có truyền thống dạy học và chữa bệnh. Cha bà là Lê Đạo nổi tiếng là ngươi nhân đức luôn sẵn lòng giúp đỡ những người dân nghèo khổ. Mẹ bà là Trần Thị Châu – một người phụ nữ đảm đang hiền thục. Hai người lấy nhau đã lâu sau một lần đến vùng đất Yên Tử linh thiêng thành tâm cầu khấn mới sinh hạ được Lê Chân. Nàng không chỉ xinh đẹp tài năng mà còn đặc biệt có chí hơn người. Chính sắc đẹp của nàng là nguyên nhân gây ra thảm họa cho cả gia đình. II. CUỘC ĐỜI Vào mùa xuân năm Kiến Vũ thứ 16 tức tháng ba năm 40 TCN, thời gian đó, quân Hán đang xâm lược nước ta trong một lần đi kinh lý qua vùng Đông Triều, tên Thái thú nhà Hán là Tô Định nghe kẻ nịnh thần tâu về sắc đẹp như tiên nữ giáng trần của Lê Chân. Hắn ngỏ ý muốn lấy nàng làm thiếp nhưng Lê Chân và cha mẹ nhất mực khước từ. Tức giận vì việc cầu hôn không thành, theo truyền thuyết Tô Định đã sát hại cha mẹ Lê Chân. Căm hận quân cướp nước tham tàn bỉ ổi, nuôi mối thù nhà Lê Chân tìm thầy ôn luyện binh thư võ nghệ quyết chí trả thù. Sau khi võ nghệ đã tinh thông nàng tìm về khu vực An Dương là cửa sông Cấm Hải Phòng ngày nay để sinh cơ lập nghiệp. Lúc bấy giờ đây mới chỉ là một vùng đất hoang toàn bồi bãi, nhưng với ý chí và lòng quyết tâm từ lâu luôn nung nấu, chỉ sau khoảng 10 năm Lê Chân đã biến vùng biển nay trở thành một nơi trù phú. Trong thời gian sinh sống tại đây, Lê Chân không ngừng tích trữ lương thực và huấn luyện binh sĩ. Khi lương thảo binh lực đã có sẵn trong tay mùa xuân năm 40 Lê Chân phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh đánh quân Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa của bà được nhân dân khắp nơi ủng hộ và hưởng ứng. Cho đến giờ cuộc khởi nghĩa vẫn luôn là niềm tự hào của dân tộc ta. Lê Chân đã tìm lên xứ Đoài gặp Trưng Trắc Trưng Nhị và xin nhập vào đội quân của hai bà. Từ căn cứ An Biên Lê Chân đưa quân lên hợp lực bàn mưu tính kế với hai bà Trưng. Chảng bao lâu khởi nghĩa đã lan rộng ra khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Trong một thời gian ngắn quân ta đã tiêu diệt được sáu mươi lăm thành trì trên cả nước khiến bọn tàn quân Tô Định phải cuống cuồng bỏ chạy. Đây là một chiến công vang dội. Trong các trận đánh, Lê Chân luôn luôn là thủ lĩnh của đội quân tiên phong lập được nhiều công lớn. Khi kháng chiến thành công Hai bà Trưng đã xưng vương Lê Chân được phong chức “Chưởng quản binh quyền” kiêm trấn thủ Hải Tần. Phụng mệnh, nàng trở về vùng Đông Triều Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay tiếp tục trấn giữ vùng trọng yếu phía đông Tổ quốc. Nàng đã động viên khuyến khích nhân dân trong vùng chịu khó chăm lo sản xuất, tiếp tục khai khẩn đất hoang biến nơi đây thành một vùng đất thực sự giàu có, trù phú, ấm no. Bà đặt tên cho nơi đây là An Biên trang để tưởng nhớ về quê cũ. Học theo công đức người cha, Lê Chân thường xuyên giúp đỡ chữa bệnh cứu ngươi. Có truyền thuyết cho rằng Lê Chân được phong là “Thánh Chân công chúa” chuyên lo việc tiếp quản binh quyền, huấn luyện binh sĩ . Có thể coi thời đại Hai Bà Trưng là chính quyền phong kiến đầu tiên của nước ta dù còn sơ khai. Chính quyền này kéo dài đến năm 40 TCN, vua Hán đã sai tướng giỏi của hắn là Mã Viện cầm quân sang đàn áp Hai Bà Trưng. Một lần nữa hai bà lại chiến đấu vô cùng quả cảm, nhưng cảm thấy sự chênh lệch lớn về lực lượng, biết không thể thắng nổi quân giặc, Hai Bà đã trầm mình tự vẫn ở dòng sông Hát, tuy nhiên đây mới chỉ là một trong số những giả thuyết về cái chết của hai bà. Về phía Lê Chân bà cũng mất vào cùng năm đó nhưng xoay quanh cái chết của bà còn tồn tại nhiều truyền thuyết: Có thế bà đã trầm mình tự vẫn cùng các Trưng Vương. Hoặc bà đã chiến đấu vô cùng anh dũng tại sông Bạch Đằng nhưng sau đó buộc phải rút về Mai Động Hà Nội ngày nay và hy sinh tại đó. Giả thuyết thứ 3 là bà đã trầm mình tự vẫn hoăc hy sinh anh dũng tại vùng núi Kim Bảng. III. TƯỞNG NHỚ Tưởng nhớ đến công lao của bà, người dân Hải Phòng đã lập đền thờ bà. Hiên nay Đền Nghè là ngôi đền tiêu biểu nhất thờ nữ tướng Lê Chân. Lúc đầu, đền thờ chỉ là một gian miếu nhỏ, mái lợp gianh. Từ sau năm 1919, đền Nghè mới được xây dựng khang trang như hiện nay. Năm 1919 tòa Hậu Cung của đền được xây dựng. Năm 1925 tòa Hậu cung được trùng tu đến năm 1926 tòa Tiền Bái được xây dựng. Hiện nay Đền có 2 nhà chính - Tiền tế và Hậu cung. Giữa Tiền tế và Hậu cung là nhà Thiên Hương 2 tầng, mái tâm đầu đao. Trong toà hậu cung đặt tượng bà Lê Chân, hai bên là tượng song thân của bà . Đến thăm Đền Nghè, quí khách thường chú ý đến 2 vật tích độc đáo– đó là Khánh đá và Sập đá. Khánh làm bằng một tấm đá nguyên dày 5cm được tách ra thành hình chiếc khánh (có chiều cao 1m, rộng 1,6m). Mặt trước khánh khắc nổi 2 con rồng chầu mặt nguyệt và hình mây bay xung quanh. Mặt sau khánh khắc hình mây bay và sóng nước cả hai mặt có 2 núm tròn, lồi cao là chỗ để gõ. Tiếng khánh đá trong ngân vang êm dịu, lan tỏa, hướng ta tới cõi tâm linh huyền ảo mà thiêng liêng. Đền Nghè mở hội lễ chính vào ngày mùng 8, 9, 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Lê Chân. Tại đềncòn dâng lễ vào ngày đại thắng 15 tháng 8, và ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Mở đầu hội là lễ rước ngai, mũ ,ấn từ đền Nghè vào đình làng, khi rước phải xin phép Thành Hoàng cho dân được hành lễ. Đi đầu cuộc rước là người cầm cờ, rước phướn đủ màu sắc; theo sau là các hiệu chiêng hiệu trống, phường bát âm, theo sau là các bô lão. Lễ rước về đến đình thì dừng lại, các đồ thờ lưu lại trong đính suốt 3 ngày, mỗi ngày các quan tế tiến lễ hai lần, gồm hương, hoa, xôi, quả, khi có lợn thì phải làm sạch ,bỏ ruột và gan, tế lễ xong đem chia đều cho dân làng ,không phân biệt nam hay nữ. Trong 3 ngày hội dân làng diễn nhiều trò vui như : cờ người, đấu vật, thi tài, ban đêm thì hát xướng. Sáng ngày mồng 10, cuộc rước từ đình về đền được cử hành long trọng. Khi về đến đền Nghè cử hành lễ tế. Đặc biệt những người chủ trì và tham dự lễ đều là phụ nữ, các vai nữ quan cũng thành thục theo nghi lễ truyền thống. Tương truyền bà Lê Chân sống khôn chết thiêng, khi mất xác bà hóa đá trôi từ phía sông Kinh Thầy đến vùng bến Bính Hải Phòng ngày nay. Nhân dân nhìn thấy biết là bà linh ứng nên đã khiêng tượng đá về lập đền thờ . Đền Nghè là một ngôi đền xinh xắn với quy mô không lớn nhưng nổi tiếng rất linh thiêng và vẻ đẹp kiến trúc mang đậm màu sắc của kiến trúc các triều đại trước, hết sức khéo léo và tinh tế .Nhân dân Hải Phòng và các tỉnh lân cận như Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh… Hàng năm đến ngày lễ Tết đều về đây thắp hương, cúng bái cầu mong những điều thuận lợi và may mắn. Về sau nữ tướng Lê Chân được phong làm Thượng đẳng Phúc thần công chúa. Tưởng nhớ công ơn bà, một nữ tướng tài ba, nhân dân Hải Phòng đã tạc tượng bà bằng đồng với dáng đứng uy nghi nhưng đầy chất nữ tính, biểu tượng cho người con gái Việt Nam. Tượng đài nữ tướng Lê Chân được nhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1 năm 2001. Hiện nay Đền Nghè tọa lạc trên phố Mê Linh cách Nhà Hát Lớn thành phố khoảng 600m. Tuy nhiên đây không phải là nơi duy nhất thờ nữ Tướng Lê Chân. Tại vùng núi Lạt Sơn cũng có Đền thờ Bà Lê Chân với quang cảnh núi rừng bao quanh rất đẹp như Voi phục. Diện tích khu vực này lên đến 20ha nhưng rất tiếc vẫn chưa được công nhận là di tích lịch sử. Tại làng Mai Động cũng lập đền thờ bà và tôn bà là Thành Hoàng làng. Hàng năm làng mở hội vào các ngày 4, 5, 6 tháng 1 Âm lịch. Vào ngày hội, dân làng chuẩn bị lễ vật cúng thần và sau những lễ nghi truyền thống, là các cuộc đấu vật diễn ra ở Đồng Vật. Tục truyền đây là nơi nữ tướng Lê Chân từng luyện võ vật cho trai gái làng thuở đó. Hội vật làng Mai Động đến nay vẫn được duy trì và tổ chức trong ngày hội làng . Gần 96 Mê Linh Hải Phòng còn có một ngôi Đền nhỏ thờ nữ tướng Lê Chân của con cháu dòng họ Lê nhưng được rất ít người biết đến. Có thể nói nũ tướng Lê Chân là một niềm tự hào không chỉ của riêng người dân Hải Phòng. Hy vọng rằng, trong một tương lai không xa những ngôi đền thờ vị nữ tướng miền biển này sẽ trở thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế ĐỀ TÀI: THÁNH GIÓNG Người thực hiện: Vũ Hồng Anh Lớp: A3K18 Thánh Gióng hay gọi là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương, là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Tứ bất tử). Người có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước. I. TRUYỀN THUYẾT Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời vua Hùng thứ 6. Thánh Gióng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ tuy lên ba mà không biết nói cười, đi đứng. Nhưng khi có bộ tộc khác (truyền thuyết ghi là giặc Ân) tràn xuống thì cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng đi đánh giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay về trời. Nơi ông hóa chính là núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Trong trận chiến với nhà Ân Thánh Gióng cùng chiến đấu với Thánh Hùng Linh Công, cả hai cùng hợp binh lại đánh một trận quyết định ở chân núi An Vũ Ninh Sơn. Hùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu (1718 - 1631 TCN), ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióng đánh tan giặc Ân. Ông được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA khoảng 3700 năm nay. Thánh Gióng thể hiện tinh thần và sức mạnh của người Việt trong đấu tranh chống ngoại xâm, giữ nước. II. TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG GỬI GẮM NHỮNG GIÁ TRỊ LỚN LAO Truyền thống yêu nước và đánh giặc bảo vệ đất nước xuất phát ngay từ những buổi đầu dựng nước. Sự đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh tinh thần dân tộc to lớn của người Việt Xuất hiện những đồ vật bằng sắt cho thấy người Việt đã biết sử dụng những đồ vật bằng sắt thành thạo, có khả năng chế tác thành những công cụ đó một cách thành thục.Điều này thể hiện trình độ văn hóa rất phát triển của chúng ta lúc bấy giờ. Hình ảnh cây tre đánh giặc chứa đựng những giá trị tinh thần, sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ. Hành động ngoái nhìn lại quê hương, vái lạy mẹ cùng những người dân trong làng và để lại áo giáp sắt, mũ sắt của Thánh Gióng cũng là bài học về tấm lòng hiếu nghĩa, uống nước nhớ nguồn, không màng vinh hoa phú quí, danh lợi. III. TƯỞNG NHỚ Về di tích đền Phù Đổng, đây là một công trình kiến trúc mang đậm bản sắc văn hóa dân gian. Đền Phù Đổng thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội qua cầu Chương Dương theo quốc lộ 1 tới cầu Đuống, vượt sang bên kia sông rồi rẽ phải đi thêm 5 km là xã Phù Đổng. Đền được vua Lý Thái Tổ cho lập từ khi dời đô ra Thăng Long (1010) và được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Ngôi đền hiện nay gồm: bái đường, hậu cung, nhà thủy đình múa rối nước ở ao trước đền. Trong đền, tượng Thánh Gióng khá lớn ngồi giữa, hai bên là tượng các quan hầu. Gía trị lớn nhất là đôi rồng đá cách điệu đặt ở bậc thềm, đôi sư tử đá tạc vào thế kỉ XIX, cỗ ngai trạm trổ rất đẹp, tấm bia đá khắc năm 1660 và đôi chén sứ. Phù Đổng còn có các di tích đền Hạ thờ mẹ Thánh Gióng và miếu Ban, Cố Viên gắn với truyền thuyết Thánh Gióng chào đời, mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người khổng lồ; Giá Ngự và mộ Trần Đô Thống- vị tướng tiên phong trong đoàn quân phá giặc Ân; chùa Kiến Sơ, nơi Lý Công Uẩn được Thánh Gióng chúc mừng bằng bài thơ hiện lên thân cây, khi người đến thăm chùa. Hàng năm, tại đền Gióng, cứ vào ngày 9 tháng 4 âm lịch, dân làng Phù Đổng mở hội diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân. Bên cạnh đó ở rất nhiều nơi trên đất nước cũng tổ chức lễ hội tưởng niệm người anh hùng dân tộc này như: Chi Nam, Xuân Đỉnh, Bộ Đầu… Thánh Gióng- một trong “Tứ bất tử” theo quan niệm dân gian xưa luôn là đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học. Gần đây Tiến sỹ Hán học Cung Khắc Lược và Tiến sĩ Lương Văn Kế đã công bố những phát hiện mới về nguồn gốc Thánh Gióng. Những công bố này được căn cứ vào một bản thần phả của đền Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội). Theo thần phả thì Thánh Gióng có họ Đổng, xuất thân rõ ràng, có cha, có mẹ. Đặc biệt, dòng họ Đổng nổi tiếng với những chiến công trị thủy, giúp nước cứu dân. Những phát hiện này đã mở rộng thêm tư liệu cho vị thánh, mang đến những phát hiện thú vị, chân thực hơn. Nếu ai đã từng đến với hội Gióng hẳn không thể nào bỏ qua được những điệu hát, những tích truyện và những giá trị văn hóa lưu truyền đến ngày nay. Hội Gióng chứa đựng những giá trị văn hóa dân tộc. Do đó Hội Gióng xứng đáng được bình chọn là Di sản Văn hóa Phi vật thể của toàn nhân loại. Việc Hội Gióng  đựợc công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của nhân loại có ý nghĩa rất lớn đối với người dân Thủ đô nói riêng và Việt Nam nói chung. Để bày tỏ tấm lòng thành kính với vị thánh bất tử này, vào ngày 21-9, tại Hà Nội, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (TƯGHPGVN) đã tổ chức họp báo công bố tiến độ xây dựng tượng đài Thánh Gióng, chương trình Lễ khai quang yên vị - hô thần nhập tượng và cầu nguyện quốc thái dân an. Vào lúc 21h 30 ngày 26/9, tại đỉnh núi Đá Chồng thuộc khu di tích đền Sóc, xã  Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ Khai quang yên vị - Hô thần nhập tượng Đức Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương. Đây là công trình trọng điểm kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Thánh Gióng là vị Thánh lớn nhất trong hàng “Tứ bất tử” biểu tượng tinh thần quật khởi ý chí vươn lên triệu người như một, biểu tượng tinh thần “Từ bi bác ái”, “Công thành thần thoái” của dân tộc Việt Nam. Có thể nói Thánh Gióng là một trong những vị thần tồn tại mãi mãi, trường cửu trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam ngàn đời. ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU Người thực hiện: Bùi Thị Kim Anh Lớp: A3K18 Mỗi khi thưởng thức trái dưa hấu ngon ngọt, thơm mát, chắc hẳn ai cũng đã một lần được nghe kể về “Sự tích dưa hấu” và chàng Mai An Tiêm – người đã có công phát hiện, gieo trồng trái dưa quý, góp phần làm phong phú thêm vườn cây trái của đất Việt ta. I. SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU Câu chuyện bắt đầu từ việc Mai An Tiêm may mắn được Vua Hùng nhận làm con nuôi. Do thông minh, tài trí hơn người, lại chăm chỉ tháo vát nên Vua Hùng rất yêu mến chàng và thường ban cho những sản vật quý. Tuy nhiên trước một xã hội phong kiến còn mang nhiều những phong tục và luật lệ hà khắc, lại không thể tránh khỏi nhiều kẻ quan lại tham lam ganh ghét, đố kỵ. Đó cũng là lẽ thường bởi xã hội nào cũng có kẻ tốt người xấu. Những tên tham quan thường hay xu nịnh vua luôn tìm cách “bới lông tìm vết” để hại Mai An Tiêm. Nhưng An Tiêm cũng không vì thế mà lo sợ, chàng vẫn luôn thẳng thắn nói với vợ con: “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Lũ nịnh thần đã nhân cơ hội đó đặt điều nói xấu chàng với Vua Hùng. Và chàng đã không tránh khỏi cơn thịnh nộ của nhà vua. Là một vị vua, người đứng đầu đất nước, nắm trong tay toàn bộ quyền cai trị, vua bảo “chết” thì phải tuân lệnh. Thế là trong lúc tức giận, nhà vua đã ra lệnh đày gia đình An Tiêm ra một hòn đảo hoang trên biển Đông mà chỉ cho mang theo một chút lương thực. Cuộc sống trên đảo của gia đình An Tiêm vô cùng vất vả nhưng chàng không bao giờ mất đi hy vọng, luôn tin vào một tương lai tươi đẹp phía trước. Và quả thật ông Trời đã không phụ lòng người, một hôm chàng thấy một con chim đang ăn một thứ quả màu đỏ. Với ý nghĩ rằng chim ăn được thì chắc người cũng ăn được nên An Tiêm đã nhặt hạt về đem gieo ở một khoảnh đất. Ngày ngày, hai vợ chồng An Tiêm chăm sóc giống cây đó rất chu đáo và hồi hộp chờ đợi cây ra hoa rồi kết quả, nhưng trái lạ đó cứ lớn mãi, không biết lúc nào có thể thu hoạch. Thế rồi một hôm có một đàn quạ ở đâu bay đến mổ trái dưa lạ, An Tiêm thấy thế bèn cắt vào ăn thử và thấy vị thanh ngọt, khoan khoái trong người. Từ đó, gia đình chàng cùng nhau chăm sóc và trồng thêm thứ quả lạ, vì không biết dưa ấy tên là gì, mới nhân chim tha từ phương tây đem đến nên đặt tên là “Tây qua” hay còn gọi là dưa tây. Cứ mỗi lần thu hoạch dưa, chàng lại dành ra mấy quả rồi lấy dao vạch lên đó, đem thả ra biển với ước mong có con thuyền nào đó bắt gặp trái dưa này và biết chàng ở đây. Quả nhiên, có một thuyền buôn đã đến hòn đảo và An Tiêm đã lấy dưa để đổi lấy vật dụng trong nhà, cuộc sống dần dần khá lên.Về phần Vua Hùng, sau khi đày An Tiêm ra đảo hoang, vua cứ nghĩ là An Tiêm đã chết. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng thứ quả lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm trở về. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu hoạch hết những quả dưa chín và đem hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm và dạy cho họ cách trồng dưa. Kể từ đó, nước Văn Lang có thêm loại dưa hấu đỏ, đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay. Ngoài ra vẫn còn nhiều dị bản về Mai An Tiêm, trong đó tôi xin đưa ra một dị bản mà bạn đọc có thể tham khảo: Chuyện “dưa hấu” trong “Lĩnh Nam chích quái”. II. Ý NGHĨA Cũng như nhiều truyền thuyết khác kể về thời dựng nước của các vua Hùng, truyện "Sự tích dưa hấu" giải thích thêm nguồn gốc một sản vật quý của đất nước cũng xuất hiện ở thời Hùng Vương. Câu chuyện còn minh họa cho tục ngữ của người Việt đúc kết kinh nghiệm sống. Câu chuyện có thể là một chứng tích mở đầu cuộc phiêu lưu trên biển đầu tiên của người Việt cổ, với những chi tiết phong phú, sống động. Câu chuyện còn mang ý nghĩa ca ngợi ý chí vươn lên của con người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào (gia đình An Tiêm trên đảo hoang), tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của cư dân đất Việt (bà con hàng xóm giúp đỡ gia đình An Tiêm). Đồng thời, đề cao tình cảm gia đình khăng khít bền chặt, càng thêm cảm phục người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh nàng Ba - người phụ nữ : có tấm lòng thuỷ chung son sắt, hiền hậu, đảm đang, chăm chỉ, tháo vát, yêu thương chồng con… Bên cạnh cái mẫu chung: Mai An Tiêm và sự tích Quả dưa hấu cũng chỉ là truyền thuyết, là truyện dân gian như ngàn vạn câu chuyện dân gian và sự tích khác, thì ở đây nó còn có một đặc trưng rất riêng, đó là vì nó gắn với  mảnh đất, ngọn núi Mai An Tiêm, tên người và một dòng họ Mai có thực. Mảnh đất Nga Sơn được biểu tượng như thánh địa của dòng họ này. Trong tất cả các dòng họ đang hiện hữu ở Việt Nam thì có lẽ dòng họ Mai có một niềm tự hào lớn nhất, vì theo truyền thuyết thì đây là dòng họ có nguồn gốc từ Vua Hùng. Mai An Tiêm là con trai vua Hùng. Các dòng họ lớn như Ngô, Đinh, Lí, Trần, Lê, Nguyễn... đồ sộ hoành tráng gắn với lịch sử dựng nước oai hùng của dân tộc, với những tài năng trác tuyệt  là vậy mà cũng chưa có được minh chứng là trực hệ  của vua Hùng, dù chỉ là truyền thuyết. Nó vừa là truyền thuyết, vừa là dã sử, lại cũng vừa là hình bóng của  lịch sử. Từ chính truyền thuyết, người xưa đã cung cấp cho chúng ta những cứ liệu tham chiếu về một thời đại rất đáng quan tâm: Thời đại Hồng Bàng  - Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Truyền thuyết là của dân gian tạo ra, truyền đời này qua đời khác, ai muốn cảm nhận nó theo góc độ nào tuỳ ý. Mọi người Việt Nam đều có chung quyền lợi thụ hưởng tinh hoa và cùng nhau chia sẻ những trắc uẩn từ đó mà ra. Thiết nghĩ, truyền thuyết Mai An Tiêm gắn với quả dưa hấu Nga Sơn cũng chỉ đủ căn cứ cho sự suy luận đến mức độ đó. Đáng tiếc, trong những năm gần đây, trước yêu cầu tôn tạo, trùng tu, bảo quản và phát triển di sản văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, nhiều nơi nhiều người đã đi hơi quá bước. Họ đã viết lại truyện dân gian, bịa ra truyền thuyết với bố cục chặt chẽ, hợp lí, chấm phá các chi tiết li kì, quái đản nhằm tạo lực hút cho những người mê tín và khách du lịch hiếu kì phương xa. Đó là một lỗi lầm của truyền thuyết và văn hoá. May mắn thay, truyền thuyết Mai An Tiêm và Quả dưa đỏ  không chịu chung cảnh ngộ. Những gì hiện diện trong truyền thuyết này đã mang giá trị phản ánh một hiện thực hoặc chí ít cũng biểu đạt một quan niệm của cha ông ta từ ngàn năm trước về thời đại các vua Hùng vẫn được giữ gìn nguyên bản.  Hậu thế có quyền tự hào; có quyền phán xét.  Cũng từ đây, truyền thuyết đã cho chúng ta những ý niệm về xã hội Việt Nam thời Hồng Bàng; đó là một quốc gia, một dân tộc có văn hoá và chính trị độc lập, vào loại sớm nhất thế giới.  III. TƯỞNG NHỚ Mai An Tiêm được coi là ông tổ của nghề trồng dưa hấu ở Việt Nam. Để tưởng nhớ công ơn của Mai An Tiêm, người dân Nga Sơn đã lập đền thờ ông và suy tôn ông là “Bố cái dưa Tây” và tổ chức lễ hội vào ngày 12 - 15/3 âm lịch hàng năm. Ngôi đền Mai AN Tiêm thuộc xã Nga Phú huyện Nga Sơn. Cách huyện lỵ Nga Sơn 5km về phía Đông Bắc. Ngoài ra, nhân dân ta còn tổ chức lễ hội Mai An Tiêm – một lễ hội văn hoá, lịch sử giàu truyền thống, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối đã có công gây dựng, gìn giữ và bảo vệ non sông đất nước. Lễ hội cũng là dịp để các thế hệ con cháu tri ân, đồng thời tiếp nối truyên thống lịch sử vẻ vang của cha ông, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, khai thác mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dưa hấu là một loại quả có vai trò rất quan trọng đối với đời sống.Vào những ngày Tết, trên bàn thờ ông bà, thường có bộ lư hương bằng đồng được lau chùi sáng bóng, hai bên có chân đèn cắm nến đỏ, một cặp dưa hấu đẹp nhất đặt trang trọng trên bàn thờ. Ngày đầu xuân, trái dưa bổ đôi , màu đỏ ngọt ngào như lời chúc một năm mới đầy may mắn và hạnh phúc.Màu đỏ của trái dưa hấu tượng trưng cho tài lộc, may mắn. Bổ trái dưa mang màu sắc đỏ thắm ai ai cũng mừng vui, kỳ vọng cho công việc làm ăn cả năm được hưng thịnh. Là một loại quả có hình dáng khá đẹp, đối với những người phụ nữ khéo tay thì dưa hấu rất thích hợp dùng để trang trí. Tuy nhiên để trang trí được một quả dưa đẹp còn phụ thuộc nhiều vào sự khéo léo, tỉ mỉ và cả tấm lòng người khắc. Ngoài ra, dưa hấu còn được dùng tươi tráng miệng sau bữa ăn và giải khát chống nhiệt. Đặc biệt, vào những ngày nắng nóng, đối với những người làm việc mệt nhọc hoặc đi đường xa khát nước, một vài miếng dưa hấu cũng đủ làm bớt mệt, đỡ khát, sảng khoái, dễ chịu. Không chỉ là một loại quả may mắn bày trên mâm ngũ quả ngày Tết, món quả giải khát tuyệt vời ấy còn là một vị thuốc thanh nhiệt, tiêu khát, giải độc rất hiệu quả. Thật là một sản vật quý hiếm của tạo hoá. ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH TRẦU CAU Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan Anh Lớp: A3K18 Ngày nay, qua nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau là hai loại cây đã xuất hiện rất lâu đời ở vùng Trung Ấn, Đông Nam Á và ở một số quần đảo trên Thái Bình Dương. Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi, trầu, cau, cũng như các loại lá, rễ, quả của nhiều thứ cây khác tìm được để bảo vệ sức khỏe, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả thực, ăn trầu đã giúp cho cơ thể được ấm nóng chống lạnh, chống sơn lam thủy khí; ăn trầu lại sạch miệng, răng lợi và xương cốt được bồi dưỡng, vững mạnh. Trong sự tích Trầu Cau, ta thấy tác giả muốn giải thích cho mọi người hiểu rằng, dân tộc ta đã có một đời sống văn hoá khá cao ngay từ thuở xa xưa, từ thời Hùng Vương kia. Ngay từ thuở đó, xã hội Việt Nam đã có truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết thương quí nhau, trên kính dưới nhường; vợ chồng lấy nhau vì tình nghĩa, và người đàn bà đã biết trọn niềm chung thuỷ, son sắt với chồng…. Không phải đợi đến khi người Trung Hoa sang đô hộ nước ta, dân ta mới biết thế nào là hiếu đễ, thế nào là tiết nghĩa. Và cũng vì Sự tích Trầu Cau có ý nghĩa sâu sắc như thế nên tục ăn trầu của dân ta đã được thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính chất đặc thù của một nền văn minh cổ Đông Nam Á. I. TRẦU CAU NƠI QUÊ HƯƠNG Với chúng ta, hình ảnh những hang cau thẳng tắp, cao vút cùng hình ảnh những giàn trầu không xanh rờn với những chiếc lá to bằng bàn tay, có hình trái tim duyên dáng nơi góc vườn,… đều là những hình ảnh thân quen đãin sâu vào kí ức của nhiều người. Ngày nay chúng đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho quê hương trong nỗi nhớ, niềm thương của những người con xa xứ. II. CÔNG DỤNG CỦA TRẦU CAU Trầu cau rất đa dụng, nhất là cau. Thân cau được dung làm cột nhà, làm cầu, người ta bắc thành cầu khỉ hay đóng thành bè thay cầu ván. Mo cau để lợp nhà, làm quạt, làm gầu tát nước, đôi khi còn để đựng đồ như gói tiền, gói vàng hay bọc thức ăn. Tàu cau thì làm chổi quét sân... Trong Đông y, ngành thuốc Nam, trầu cau được dung làm thuốc chữa bệnh. Còn cau thì vỏ cau chữa bệnh bụng đầy trướng, bí tiểu, ốm nghén, nôn mửa. Hạt cau khô giúp sự tiêu hoá, viêm ruột, sốt rét, sán lãi và bệnh chốc đầu ở trẻ em. Tất nhiên, công dụng chính của trầu cau là để ăn. III. TỤC MỜI TRẦU Tục mời trầu ở xứ ta cho thấy, trầu cau là phương tiện không thể thiếu trước nhất trong những nghi thức giao tế hang ngày ngoài xã hội. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, là “đầu trò tiếp khách”, nên chỉ vừa gặp nhau, sau mấy tiếng chào hỏi, người ta liền mở trầu mời ẳnồi mới nói gì thì nói, bàn gì thì bàn. Trong phạm vi tình yêu và hôn nhân, tục mời trầu đã được người bình dân khai thác triệt để. Vì trầu cau còn là lễ vật cưới xin nên những hình ảnh, màu sắc, hương vị của trầu, cau, vôi,... luôn luôn gợi ý cho thanh niên nam nữ liên tưởng tới những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận lứa đôi. IV. TRẦU CAU TRONG NGHI LỄ CƯỚI HỎI Người bình dân Việt Nam xưa nhờ vào hoàn cảnh sống gần gũi với thiên nhiên , nhờ điều kiện sinh hoạt tập thể về nông nghiệp, hội hè, hát xướng, lại nhờ vào tục mời trầu của xã hội... đã giúp cho tình yêu của họ dễ dàng nảy nở, cởi mở, hồn nhiên. Dù thế nào chăng nữa, tình yêu của họ cũng không cuồng nhiệt, tự do quá trớn đến vượt ra khỏi vòng lễ giáo gia đình và phong tục xã hội. Bắt chước theo Trung Hoa, tẩt cả phải trải qua sáu lễ: Lễ Nạp thái còn gọi là sơ vấn, nhà trai đưa lễ vật để tỏ ý đã kén chọn. Lễ này nôm na gọi là lễ chạm ngõ hay giạm vợ. Lễ Vấn danh: hỏi tên tuổi và họ người con gái Lễ Nạp cát: báo cho nhà gái biết đã bói được điềm tốt Lễ Thỉnh kì: xin định ngày cưới Lễ Nạp tệ: tệ là lụa, nghĩa là đem lụa hay phẩm vật quí đến nhà gái, nói chung là đem đồ sính lễ đến nhà gái trong ngày cưới. Lễ Thân nghênh: lễ đón dâu. Sáu lễ kể trên về sau ta giảm xuống còn ba là lễ Sơ vấn ( chạm ngõ) , lễ Vấn danh (ăn hỏi) và lễ Thân nghênh (đón dâu). Nghi thức cũng đã được thây đổi phần nào cho hợp với phong cách Việt Nam. Theo phong tục của nước ta thì cả ba lễ này, trầu cau đều là lễ vật căn bản. V. PHONG TỤC ĂN TRẦU Tự bao giờ, trầu cau đã gắn liền với đời sống của người Việt. Trầu cau dùng để tiếp khách hàng ngày như bát nước chè xanh, như điếu thuốc lào, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui, buồn của làng quê, trầu trong các buổi lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ thọ, lễ mừng.... Trầu cau còn là quà tặng, là sính lễ trong đám hỏi, trầu thay thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ. Miếng trầu tuy đơn giản nhưng mang bao ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóa  của người Việt Nam… Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Miếng trầu chứa đựng nhiều tình cảm, nhiều ý nghĩa thiêng liêng, gắn bó thân thiết trong tâm hồn mỗi người. Trong mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay và có lẽ là mãi mãi, trầu cau luôn hiện diện trong đời sống các dân tộc Việt Nam và các dân tộc châu Á. Dù giàu nghèo ai cũng có thể có, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám, bổ tư quyện vào rễ vỏ chay đỏ luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Dân gian có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu đi đôi với lời chào, lời thăm hỏi hay làm quen. Đối với các nam nữ thanh niên nam nữ xưa kia thì miếng trầu là nguyên cớ để bắt đầu một tình yêu, một cuộc hôn nhân - "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong việc cưới, hỏi nhận lễ vật trầu cau là đồng nghĩa với việc nhận lời cầu hôn, là giao ước giữa hai họ. Đó là một nghi thức độc đáo của người Việt. Trong hôn nhân, trầu cau có một vai trò quan trọng. Tuy chỉ "Ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong lễ cưới, hỏi và mâm cỗ cúng tơ hồng - vị thần của hôn nhân, bao giờ cũng phải có buồng cau và tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp không, cuống lá trầu có tươi không mà ước đoán được rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không. Miếng trầu nồng thắm luôn có mặt trong hôn lễ là sự khơi gợi, nhắc nhở mọi người hướng về một tình yêu son sắt, một cuộc sống vợ chồng gắn bó, thủy chung và luôn lấy nghĩa tình làm trọng Trầu cau còn đi vào giấc ngủ của con người từ ngày này qua năm khác và hiển nhiên đi vào cuộc sống sinh hoạt của người Việt bằng những câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian, những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu của trai gái. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng"… VI. TRIẾT LÝ TRẦU CAU Miếng trầu, đơn giản thế thôi: Trầu, cau, vôi, nếu có thể thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người ăn "trầu thuốc"). ấy thế mà miếng trầu mang đậm "cá tính con người". Người ta têm trầu là để mời trầu, mời người khác ăn trầu. Điếu thuốc lá công nghiệp ngày nay là phi cá tính. Còn miếng trầu thủ công nghiệp ngày xưa đã được cá tính hóa. Vậy phép biện chứng của miếng trầu là nó vừa mang nặng bản sắc xã hội (phương tiện giao tiếp), vừa mang nặng bản sắc cá nhân. Miếng trầu Việt Nam mang nặng tình người và chở nặng tính người nhất: con người, về bản chất, vừa là một sinh vật xã hội, vừa là một cá nhân. ứng xử hài hòa hai mặt đối lập mà hòa hợp đó là ứng xử cao nhất của xã hội loài người. VII. TRẦU CAU TRONG LỊCH SỬ Trầu cau có thể nói là hai loại cây song sinh rất phổ thông ở nước ta, đặc biệt càng về phía nam, nghĩa là càng nóng và mưa nhiều, thì trầu cau càng ngon và càng phong phú, nên nhiều người thường buôn trầu cau từ miền nam ra miền bắc. Cây trầu và cây cau là hai loại cây địa phương Việt Nam, được người bản địa sử dụng lâu đời, và việc ăn trầu trở thành một phong tục chủ chốt trong mọi sinh hoạt truyền thống của người Việt và đặc biệt luôn luôn có mặt trong lễ cưới hỏi của người Việt . Khi về già, người Việt còn dùng một cái cối nhỏ để xoáy cau trầu cho mềm mà ăn. VIII. TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG – NÉT ĐẸP VĂN HÓA ĐẤT KINH BẮC Trầu têm cánh phượng là hình ảnh đẹp, gợi về truyện cổ tích Tấm Cám và tục ăn trầu đã trở thành tập quán, truyền thống của dân tộc Việt. Từ xa xưa, miếng trầu đã đi vào thơ ca, huyền thoại, cổ tích... phản ánh nhiều nét đẹp văn hóa, thăng hoa tình cảm, tình yêu thương con người, hình thành văn hóa vùng rõ rệt. Trầu là món ăn không giải quyết việc đói, no. Người ta ăn trầu là để thưởng thức vị cay thơm của lá trầu không, vị chát của vỏ, vị ngọt bùi của cau, vị nồng nàn của vôi... tất cả hòa quyện với nhau trong một màu đỏ sẫm. Nhiều người ăn trầu đã thành thói quen, rồi thành nghiện-nghiện trầu. Nhưng điều kì diệu của thói nghiện trầu phải chăng là ở chỗ, người ăn thấy nó gắn bó với số phận con người, bởi tách riêng, thì cay đắng, éo le, nhưng khi đã hòa chung thì tình cảm của họ lại thắm tươi, đẹp đẽ. Nói đến trầu têm cánh phượng là nói đến miếng trầu vùng Kinh Bắc. Cũng vẫn nguyên liệu ấy, nhưng cách têm đẹp, kiểu cách, đã thể hiện sự khéo léo của những liền chị-người gái quê Kinh Bắc. Vì thế, miếng trầu có sức hấp dẫn đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc cho bất cứ ai, dù chỉ một lần được mời. Ngày nay không còn nhiều người Việt ăn trầu nữa nhưng nó đã trở thành một nét văn hóa, một tập tục không thể thiếu được trong các nghi lễ thường thức của nhân dân. Miếng trầu vẫn là hình ảnh đầu tiên của một tiệc cưởi hỏi. Người ta trao nhau miếng trầu để dễ bắt nhịp vào câu chuyện, để mong một khởi đầu thành ý, thuận lợi. ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH MỊ CHÂU - TRỌNG THỦY Người thực hiện: Đàm Thị Lan Anh Lớp: A3K18 I. SỰ TÍCH An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây mãi vẫn đổ, nhờ có Rùa Vàng giúp mới xây xong. Rùa cho nhà vua lẫy nỏ, nhờ đó mà đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Triệu Đà cầu hoà, cho con trai Trọng Thuỷ sang kết thân với Mị Châu, con gái An Dương Vương và ở rể trong thành Cổ Loa. Trọng Thuỷ ăn cắp lẫy nỏ, Triệu Đà liền cử quân sang tái xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương thua trận, đem theo Mị Châu chạy trốn. Đến bờ biển, Rùa Vàng hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém đầu con gái rồi đi xuống biển. Trọng Thuỷ tiếc Mị Châu, tự vẫn ở giếng trong thành. Mị Châu chết, máu thành ngọc trai, xác thành ngọc thạch, ngọc đem rửa nước giếng trong thành thì sáng hơn. II. Ý NGHĨA Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng thuỷ là một trong những truyền thuyết tiêu biểu hấp dẫn và có ý nghĩa nhất trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương trong kho tàng văn học dân gian phong phú của dân tộc ta. Trong tác phẩm, bằng chí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa những yếu tố hư cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta đã đưa ra cách lí giải của riêng mình về nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bày tỏ tình cảm, thái độ và cách đánh giá về An Dương Vương, Trọng Thuỷ, Mị Châu, những nhân vật của một thời kì lịch sử. Đồng thời, thông qua tác phẩm, ông cha ta cũng để lại những bài học lịch sử cho con cháu muôn đời trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Về phía An Dương Vương, nhà vua là người xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng đất nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, là một trong những nguyên nhân chính đẩy Âu Lạc rơi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử không thể tha thứ. Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”. Còn Trọng Thủy là chồng Mị Châu nhưng cũng là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Mối tình Mị Châu – Trọng Thuỷ không phải là tình yêu lứa đôi đích thực. Đó là một tình yêu bi kịch. Ý nghĩa: sáng tạo câu chuyện tình Mị Châu – Trọng Thuỷ ông cha ta nói lên tiếng nói chống chiến tranh xâm lược. “Ngọc trai – Giếng nước” là hình ảnh mang ý nghĩa của sự hoá giải hận thù, nói lên truyền thống ứng xử bao dung, đầy nhân hậu của dân gian đối với hai nạn nhân tỉnh ngộ muộn màng của cuộc chiến tranh xâm lược.  Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy  muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân văn, từ bài học cảnh giác  cũng như lời nhắc nhở về cách giải quyết các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng. Câu chuyện bi kịch thấm thía ấy cũng là sự thể hiện lập trường và tình cảm rõ ràng của nhân dân ta trước các vấn đề lịch sử và quan hệ con người. Người xưa đã sáng tạo nên truyền thuyết lịch sử đầy cảm động, xót xa. Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ vẫn mãi là một câu chuyện, một bài học lớn lao về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyền thuyết ấy sẽ còn tiếp tục được kể cho muôn thế hệ con cháu đời sau để cùng nhau khắc cốt, ghi tâm, lời căn dặn cảnh giác trước kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước, bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng và hạnh phúc của mỗi gia đình . Tuy đây chỉ là một truyền thuyết nhưng là một bài học cảnh giác cho con cháu đời sau trong quá trình xây dựng đất nước. Câu chuyện đó cũng có thể phán quyết bằng những quy định của pháp luật ngày nay. Từ nội dung câu chuyện trên đây, chiếu theo những quy định của pháp luật ngày nay ta có thể định tội danh cho từng người. Trọng Thuỷ sẽ bị truy tố về Tội gián điệp theo khoản 1 Điều 80 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 điều này quy định: Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Theo luật ngày nay, nàng Mị Châu cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vô ý làm lộ bí mật Nhà nước theo Điều 264 BLHS. 1. Người nào vô ý làm lộ bí mật nhà nước hoặc làm mất tài liệu bí mật nhà nước, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Vì sự ngây thơ của nàng mà mất nước, do vậy nàng sẽ bị truy tố theo khoản 2 và hình phạt cao nhất có thể lên tới 7 năm tù. Thông điệp về văn hoá, nhất là văn hoá ứng xử của người Việt mà cha ông ta gửi gắm trong tác phẩm khiến chúng ta lấy đó làm tự hào. Thông điệp đó cứ lung linh như viên ngọc được giấu kín trong từng câu chữ, như một mạch nước ngầm trong mát nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ độc giả. III. TƯỞNG NHỚ Thành Cổ Loa gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của dân tộc Việt, về việc vua An Dương Vương định đô, xây thành; về chiếc nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc; về mối tình bi thương và cảm động của Mị Châu - Trọng Thuỷ... Từ bao đời nay, ngôi thành cổ này cùng với những nhân vật lịch sử được huyền thoại hoá đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam. Đây là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam được vua Thục Phán An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc, nay thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội. Hàng năm, lễ hội Cổ Loa tưởng nhớ vua An Dương Vương được tổ chức vào mùa xuân, ngày mồng 6 tháng giêng. Có 8 làng trong xã Cổ Loa tổ chức rước kiệu truyền thống tụ về sân đình Cổ Loa, dâng lễ, thể hiện tấm lòng thành kính đối với vị vua có công lao to lớn trong việc dựng nước và giữ nước, chỉ đứng sau các vua Hùng. ĐỀ TÀI: TRƯNG NỮ VƯƠNG Người thực hiện: Nguyễn Thị Vân Anh Lớp: A3K18 I. TIỂU SỬ Hai Bà Trưng là tên gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai chị em là những nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia độc lập với kinh đô tại Mê Linh và xưng vương. Đại Việt Sử Kí toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử và truyền thuyết kể rằng hai chị em thuộc dòng dõi Lạc tướng ở huyện Mê Linh, Phong Châu nay là Mê Linh, Phú Thọ. Mẹ hai bà là bà Man Thiện, sớm goá bụa song đã nuôi dạy con cái theo tinh thần thượng võ và yêu nước. Khoảng năm 40, Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách – con trai một Lạc tướng huyện Chu Diên. II. SỰ NGHIỆP Các Lạc tướng huyên Mê Linh và Chu Diên có ý chống láịư cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Tô Định bèn bắt giết Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt. Trước cảnh nước mất nhà tan, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quyết tâm tiến hành khởi nghĩa NỢ NƯỚC THÙ NHÀ. Tháng 3 năm 40, Hai Bà Trưng lập đàn thờ trên cửa sông Hát làm lễ ra quân, thay vì mặc đồ tang, Hai Bà đã khoác lên mình những bộ chiến phục rực rỡ. Trong tiếng trống đồng trầm hùng, âm vang lời thề của Hai Bà trước giờ xuất binh: Một xin rửa sạch nước thù Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này. Nhân dân các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Chỉ trong thời gian ngắn, Hai Bà đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi, Tô Định chạy về nước. Hai Bà lấy lại được 65 thành trì ở Lĩnh Nam và xưng vương, đóng đô ở Mê Linh. Hai Bà đã củng cố đất nước bằng một số biện pháp như bãi bỏ các loại thuế mà viên chức Hán bắt các Lạc hầu cống nạp. Nhà Hán thấy Hai Bà tự xưng làm vua đem quân đánh các thành ấp làm cho các nơi biên giới bị khổ sở , liền hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa sẵn lương thóc, phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân sang đàn áp. Tháng Giêng năm 42, Mã Viện tiến theo đường biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc đánh nhau với quân Trưng vương. Hai Bà thấy thế giặc mạnh, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê, quân cũng cho vua là đàn bà, không địch nổi với Hán nên đã tự tan rã. Năm 43. Hai Bà Trưng chông cự lại với quân Hán, thế cô bị thua và đều tử trận. Về cái chết của Hai Bà trong lịch sử đã thấy nhiều cách nói Thứ nhất: khi chống cự với kẻ thù, thế cùng, hai bà quyết không rơi vào tay giặc nên đã gieo mình xuống dòng sông Hát tự vẫn, hoá thành hai tảng đá trắng trôi về bãi Đồng Nhân(nay là phường Đông Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội đêm đêm thường phát sáng rực rỡ. Thứ hai: trong bia đá ở đền thờ Hai Bà ghi lại Hai Bà cùng nghĩa quân chiến đấu đến cùng và hi sinh trong chiến trận. Thứ ba: theo sử sách Trung Quốc truyền lại Hai Bà Trưng bị quân Mã Viện bắt và xử chém tại Trung Quốc. Sau khi đã đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã cho thu gom tất cả đồ đồng của nhân dân, đúc một con ngựa dâng cho vua Hán báo công và một cái cột đồng cho chôn trên lãnh thổ quận Giao Chỉ làm giới hạn của nhà Hán, trên cột khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (tức là cột đồng bị gãy thì Giao Chỉ bị diệt). Vì thế mỗi người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đất đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Trải qua hàng trăm năm cho đến hiện nay không còn ai biết cột đồng ấy ở đâu và như thế nào. Từ đó nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán, tiếp tục thời kì 1000 năm Bắc thuộc. III. TƯỞNG NHỚ Hai Bà Trưng là anh hùng của Việt Nam, được thờ cúng ở nhiều đền thờ. Trong đó lớn nhất là đền Hai Bà Trưng (đền Đồng Nhân), đền cũng được gọi là chùa Viên Minh, toạ lạc ở cuối phố Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Và đền Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội-quê hương của Hai Bà. Các cách xưng hô của Hai Bà (Trưng Trắc và Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng) còn được đặt tên cho nhiều trường học, đường phố. quận ở Việt Nam. Hằng năm vào ngày 6-2 âm lịch là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai Bà được tổ chức tại nhiều nơi trong nước Việt Nam cũng như cộng đồng người Việt tại nước ngoài. ĐỀ TÀI: BÀ TRIỆU Người thực hiện: Bùi Đức Anh Lớp: A3K18 Bà Triệu (chữ Hán: 婆趙), còn được gọi là Triệu Ẩu (趙嫗), Triệu Trinh Nương (趙貞娘), Triệu Thị Trinh (趙氏貞), Triệu Quốc Trinh (225–248), là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Sử gia Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15 viết: Triệu Ẩu (tức Bà Triệu) là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới. Sử nhà Nguyễn ở thế kỷ 19 cũng đã chép: Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triểu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu. I. BỐI CẢNH Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về Bắc thuộc Quảng Châu dùng Lữ Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về Nam là Giao Châu, sai Đại Lương làm thái thú, và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại. Thứ sử Lữ Đại bèn xua quân sang đánh dẹp. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết chết Huy, còn mấy anh em thì đem về đất Ngô làm tội. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lữ Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người. II. TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Ất Tỵ (225) tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Thủa nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên. Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi bà vào ở trong núi Nưa (nay thuộc xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ. Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em. Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này. Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng. Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào ngày 21 tháng 2 âm lịch năm Mậu Thìn (tức ngày 1 tháng 4 năm 248), năm 23 tuổi. Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265. Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!” III. TƯỞNG NHỚ Đền thờ Bà Triệu ở Hậu Lộc Thanh Hóa Về sau vua Lý Nam Đế (tức Lý Bí) khen Bà Triệu là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bất chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân". Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc), vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà. Tại nhiều tỉnh thành trong nước Việt Nam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu. IV. GIAI THOẠI Vùng Bồ Điền, Triệu Lộc ngày nay, hiện còn nhiều di tích và truyền thuyết liên quan đến Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa của bà. Trích giới thiệu hai truyện: Thu phục voi trắng một ngà Vùng núi Quân Yên lúc bấy giờ có một con voi trắng một ngà rất hung dữ hay đến phá hoại mùa màng, mọi người đều kinh sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa hãy còn lầy lội) rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi và đã khuất phục được nó. Con voi trắng sau này được bà dùng để cưỡi mỗi khi ra trận. Giả đá biết nói Những ngày đầu tụ nghĩa, Bà Triệu đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo: Có bà Triệu tướng, Vâng lệnh trời ta. Trị voi một ngà, Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước, Theo gót Bà Vương. V. THƠ CA, CÂU ĐỐI Tương truyền quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu: Phiên âm: Hoành qua đương hổ dị, Đối diện Bà vương nan. Dịch: Múa giáo đánh cọp dễ, Đối mặt Vua Bà thì thực khó. Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau: Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi, lên núi mà coi, Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng. Túi gấm cho lẫn túi hồng Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân. Tùng Sơn nắng quyện mây trời, Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh. Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt, Lục Dận Nhiều phen mắt đã vàng. Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc; Ngồi yên ngựa khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi. (Khuyết danh) Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Nam quốc sử diễn ca, và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự...đều có thơ khen ngợi Bà Triệu. VII. VẤN ĐỀ LIÊN QUAN Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa Lâu nay sử sách đều biên chép cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, và bà đã tự vẫn năm 248. Tuy nhiên, GS. Lê Mạnh Thát đã dẫn Thiên Nam ngữ lục và Ngụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây. Và Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến khi Đặng Tuân được Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ vào năm 257.[14] Tuy nhiên, ý kiến mới mẻ này còn phải được sự đồng thuận của nhiều người trong giới. VIII. TÊN GỌI Những bộ sử cổ chỉ gọi bà là Triệu nữ (cô gái Triệu), Triệu Ẩu (sẽ nói sau). Những tên gọi Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Trinh... theo Văn Lang thì rõ ràng là mới đặt gần đây. Tác giả cho biết vấn đề tên gọi này (cũng như tên gọi của Bà Trưng) thuộc phạm trù ngôn ngữ Việt cổ và cách đặt tên người ở thời gian đầu Công nguyên, còn đang được nghiên cứu (tr. 33). Ngoài ra, Bà triệu còn được người đời gọi tôn là Nhụy Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều) và Lệ Hải bà vương (vua bà ở vùng biển mĩ lệ). Riêng cái tên Triệu Ẩu (趙嫗), thấy xuất hiện lần đầu trong Nam Việt chí, Giao Châu ký (thế kỷ 4, 5) rồi đến Thái bình hoàn vũ (thế kỷ 10) chua dưới mục Quân Ninh (tức Quân Yên cũ). Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hoá kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục...đều gọi bà là Triệu Ẩu . Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản Việt Nam sử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh (tr. 52). Kể từ đó, có nhiều lý giải khác nhau: Sử gia Phạm Văn Sơn: vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu (Ẩu có nghĩa là mụ) để tỏ ý khinh mạn (tr. 205). Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1): sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu (người vú em) (tr. 109). Một số người lại giải thích “ẩu” nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là “nữ tù trưởng Triệu”... Trước những ý kiến khác nhau này cần phải tra cứu thêm. IX. HÌNH TƯỢNG VÚ DÀI Sách Những trang sử vẻ vang… giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129). Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước… Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà… (tr. 345). ĐỀ TÀI: LÝ NAM ĐẾ Người thực hiện: Nghiêm Trần Minh Anh Lớp: A3K18 Lý Nam Đế (503 – 548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lý Bí , còn gọi là Lý Bôn, người làng Thái Bình, phủ Long Hưng, Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, Hà Nội) Lý Nam Đế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (chưa rõ ở đâu, có lẽ gần thành phố Bắc Ninh ngày nay). I. NGUỒN GỐC Nhiều sách sử cho biết tổ tiên của Lý Nam Đế là người Trung Quốc, vào cuối thời Tây Hán thì tránh sang ở Việt Nam (lúc đó đang là thuộc địa của Trung Quốc) để trốn nạn binh đạo. Qua 7 đời, đến đời Lý Bí thì dòng họ Lý đã ở Việt Nam được hơn 5 thể kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân". Theo sách Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh căn cứ các thần phả thì Lý Bí không phải là thế hệ thứ 7 mà là thế hệ thứ 11 của họ Lý từ khi sang Việt Nam. Khoảng cách 11 thế hệ trong 5 thế kỷ hợp lý hơn là 7 thế hệ trong 5 thế kỷ. Theo đó, đời thứ 7 là Lý Hàm lấy bà Ma thị là người Việt, sinh ra Lý Thanh. Lý Thanh phục vụ dưới quyền thứ sử Giao châu là Đàn Hòa Chi nhà Lưu Tống thời Nam Bắc Triều (Trung Quốc). Lý Thanh sinh ra Lý Hoa, Lý Hoa sinh ra Lý Cạnh. Lý Cạnh sinh ra Lý Thiên Bảo và Lý Bí. Nguồn tài liệu khác cho biết vợ Lý Cạnh là Phí thị, ngoài Lý Thiên Bảo và Lý Bí còn sinh ra Lý Xuân và Lý HùngVề quê hương Lý Bí, các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí ghi ông là người Thái Bình, phủ Long Hưng. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: "tên Thái Bình đặt từ thời Đường (618-907), còn Long Hưng đặt từ thời Trần (1225-1400)", như vậy gọi Thái Bình và Long Hưng là gọi theo tên sau này đặt. Các sử gia nhà Nguyễn xác định Long Hưng thuộc Thái Bình và cho rằng quê Lý Bí thuộc Thái Bình. Việt Nam Sử Lược ghi rằng phủ Long Hưng thuộc tỉnh Sơn Tây (cũ). Các nhà nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng: thời Bắc thuộc, tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn là biển. Tên gọi Thái Bình thời Bắc thuộc nằm trong khoảng vùng Sơn Tây. Tại khu vực này có nhiều đền thờ Lý Bí và những người gắn bó với ông như Triệu Túc, Phạm Tu, Lý Phật Tử. II. TIỂU SỬ Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Một hôm, có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người. Do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ. III. CUỘC ĐỜI 1. Khởi nghĩa đuổi Tiêu Tư Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục phục tài đức của ông nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ cho chức "gác cổng thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bí. Ngoài ra trong lực lượng của Lý Bí còn có một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi. Thần phả còn ghi nhận thêm các tướng theo giúp Lý Bí là Trịnh Đô, Lý Công Tuấn. Lý Bí liên kết với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Theo sách Lương thư của Trung Quốc, Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng châu. Quân của Lý Bí đánh chiếm lấy thành Long Biên. Tuy Tiêu Tư đã bỏ chạy nhưng Lý Bí mới kiểm soát được vùng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay, các châu phía nam vẫn trong tay nhà Lương. Tháng 4 năm 542, Lương Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu, thứ sử La châu là Ninh Cự, thứ sử An châu là Úy Trí, thứ sử Ái châu là Nguyễn Hán cũng hợp binh đánh Lý Bí. Nhưng Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, làm chủ toàn bộ Giao châu. 2. Đánh lui cuộc phản công của nhà Lương Cuối năm 542, Lương Vũ Đế lại sai thứ sử Giao châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sợ thế mạnh của Lý Bí nên không dám tiến quân, xin khất tới mùa thu năm sau. Thứ sử Quảng Châu là Hoán (theo Trần thư là Tiêu Ánh) không cho, Tiêu Tư cũng thúc giục, nên Quýnh và Hùng buộc phải tiến quân. Được tin quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đi đến Hợp Phố, bị quân Lý Bí đánh bại, 10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã. Chiến thắng này giúp Lý Bí kiểm soát toàn bộ Giao châu, tức là miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, cộng thêm quận Hợp Phố thuộc Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay. 3. Đánh đuổi Lâm Ấp Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía nam, vua Lâm Ấp định nhòm ngó Giao châu. Biên giới giữa Giao châu và Lâm Ấp lúc đó là dãy Hoành Sơn. Tháng 5 năm 543, vua Lâm Ấp mang quân xâm chiếm quận Nhật Nam và tiến đến quận Cửu Đức. Lý Nam Đế sai Phạm Tu cầm quân vào nam đánh Lâm Ấp. Sử sách không mô tả rõ diễn biến trận đánh này, chỉ ghi sơ lược: Phạm Tu tiến quân vào Nam đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức khiến vua Lâm Ấp phải bỏ chạy Có ý kiến cho rằng người đi đánh Lâm Ấp là Lý Phục Man chứ không phải Phạm Tu và đây là 2 vị tướng khác nhau; lại có ý kiến cho rằng chính Phạm Tu là Lý Phục Man, vì có công đánh Lâm Ấp mà được ban họ Lý, đổi tên Phục Man (chinh phục người Man). 4. Dựng nước Vạn Xuân Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ. 5. Chạy về động Khuất Lao Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Thiêu (Thiệu hay Phiêu) làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với Phiêu ở Giang Tây. Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Khi quân của Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy về thành Gia Ninh (xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay). Quân Lương đuổi theo vây đánh. Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Phú Thọ), đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Trần Bá Tiên nhân đó đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ. Lý Nam Đế phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo, ông ủy cho con thái phó Triệu Túc là tả tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên. 6. Qua đời Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3 (tức ngày 13-4 dương lịch), Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ông ở ngôi được 5 năm (544-548), thọ 46 tuổi. Theo sách "Việt Nam văn minh sử cương" của Lê Văn Siêu dẫn một số nguồn tài liệu cổ, Lý Nam Đế ở lâu ngày trong động, vì nhiễm lam chướng nên bị mù hai mắt. Vì vậy đời sau đến ngày giỗ thường phải xướng tên các đồ lễ để vua nghe thấy. Lại cũng theo tài liệu này, có thuyết cho rằng không phải Lý Nam Đế ốm chết mà vua bị người Lạo làm phản giết hại. Tướng Lý Phục Man cũng mất theo vua vì nạn này. 7. Hoàng hậu Theo thần tích cổ, Lý Nam Đế có người vợ là Hứa Trinh Hòa, con ông Hứa Minh và bà Bùi Thị Quyền người làng Đông Mai, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Bà được Lý Nam Đế lập làm hoàng hậu. Bà đã cùng chồng chinh chiến ngoài mặt trận và bị tử trận do thuyền đắm tại hồ Điển Triệt cuối năm 546. Sau này bà được Triệu Việt Vương lập đền thờ tại quê nhà. IV. TƯỞNG NHỚ Đường dài hoa trắng nắng đu đưa Phố Lý Nam Đế ở Hà Nội được gọi là "làng vi tính" vì ở đây từ năm 1990 tập trung nhiều cửa hàng bán thiết bị vi tính. ĐỀ TÀI: TRIỆU QUANG PHỤC Người thực hiện: Nguyễn Hoàng Cẩm Anh Lớp: A3K18 TIỂU SỬ Triệu Việt Vương (趙越, 549-571) tên thật là Triệu Quang Phục (趙光復), là một nhà lãnh đạo độc lập của Vạn Xuân, sống ở thế kỉ VI, được biết đến nhờ chiến công đánh thắng quân Lương đã đưa đất nước Vạn Xuân về nền độc lập. Ông là con Triệu Túc, người huyên Châu Diên (Hải Hưng), uy tráng dũng liệt, theo Lý Nam Đế đi đánh dẹp có công, được trao chức tả tướng quân. Lý Nam Đế mất, ông xưng vương, sau khi đánh tan quân nhà Lương năm 550, đóng đô ở Long Biên, sau dời sang Vũ Ninh (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Năm 571, ông bị quân của Lý Phật Tử đánh úp và thua trận. Ông tự tử ở cửa sông Đáy, kết thúc triều đại Triệu Việt Vương. II. CUỘC ĐỜI Sau khi được Lý Nam Đế trao toàn bộ binh quyền, Triệu Quang Phục thấy rõ lúc đó giặc còn mạnh, không thể đánh thắng ngay được nên đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng tìm cách đánh giặc. Vốn thông thuộc miền sông nước Chu Diên, ông đưa quân về Dạ Trạch (Bãi Màn Trò, Hải Hưng) một vùng đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất khô ráo có thể ở được. Ngay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã nghĩ đến việc tự túc lương thực để kháng chiến lâu dài. Ông chia quân ra làm nhiều tóan: tóan chặt cây làm trại, tóanh chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, toán chuyên bắt cá, toán đi săn chim, vịt trời để nuôi quân. Lương thực thiếu, Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân ăn củ súng, khoai dại, để dành thóc gieo mạ. Khi doanh trại đã căn bản xây dựng xong cũng là lúc tướng giặc là Trần Bá Tiên đánh hơi được, đem quân trùng trùng, điệp điệp đến bủa vây. Trần Bá Tiên chia quân lập thành một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm cắt đứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn không thể ngờ được, bên trong vòng vây, Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung giặc, mặt khác cho đắp bờ, khoanh bãi, tôn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế, vị tướng tài còn nhằm trước khu đất cao ở gần sông Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất cả những công việc này đều được tiến hành trong điều kiện thiếu thốn nông cụ và sức kéo. Vì vậy trong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục lúc cầm cày, khi cùng nghĩa quân thi nhau dùng đòn kéo thay trâu. Vì vậy sau những ngày thiếu thốn, nghĩa quân chẳng những có đủ lương ăn mà còn có thóc để dành, đủ sức quần nhau với giặc lâu dài. Bao vây lâu ngày không thấy nghĩa quân chết đói, ngược lại các đồn giặc liên tiếp bị đánh, lương thực bị cướp nên chính giặc lâm vào tình trạng thiếu thóc gạo trầm trọng. Giặc càng khó khăn, đêm đêm nghĩa quân đánh càng mạnh. Sau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhân nhà Lương có loạn to, thế giặc suy yếu, Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch, biết rõ gan ruột giặc, xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đô, khôi phục lại nền độc lập dân nước. Khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân. Bị quân Lương truy đuổi, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử phải chay sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương. Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 của đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi nhà Lý. Nhưng đánh không thắng, Phật Tử xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý , cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử. Phật Tử đóng ở Ô Diên (làng Đại Mỗ, Từ Liêm) Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quần Thần (làng Thượng Cát, Từ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cải Nương cho Nhã Lang con Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn tính.Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành động. Năm Tân Mão (571), Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đi đánh Triệu Việt Vương. Vì không phòng bị Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường gieo mình xuống biển tự vẫn. TRUYỀN THUYẾT Trong sử sách cổ đại có nói rằng nguyên nhân được thua của ông là do được và mất mũ đầu mâu móng rồng. Thực ra, đó chỉ là huyền thoại. Truyện kể như sau: Năm 549, ông ở trong đầm thấy quân Lương không lui, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi (tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời xuống, rút móng rồng trao cho ông, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc). Năm 557, con gái của Triệu Quang Phục lấy con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang. Năm 570, Nhã Lang nói với vợ rằng: "Trước hai vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là thông gia, chẳng cũng hay lắm ư? Nhưng cha nàng có thuật gì mà có thể làm lui được quân của cha tôi?". Cảo Nương không biết ý của chồng, bí mật lấy mũ đâu mâu móng rồng cho xem. Nhã Lang mưu ngầm tráo đổi cái móng ấy, rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng: "Tôi nghĩ ơn sâu của cha mẹ nặng bằng trời đất, vợ chồng ta hòa nhã yêu quý nhau không nỡ xa cách, nhưng tôi phải tạm dứt tình, về thăm cha mẹ". Nhã Lang về, cùng với cha bàn mưu đánh úp, chiếm được nước. Truyện này nghe tựa như truyền thuyết Mỵ Châu-Trọng Thủy thời Triệu Đà đánh An Dương Vương. TƯỞNG NHỚ Người đời sau lập đền thờ ông ở cửa biển Đại Nha (Đại Nha có tên khác là Đại Ác, thời nhà Lý đổi là Đại An), nay là cửa Liêu (cửa sông Đáy). Các đền thờ tập chung chủ yếu ở vùng ven biển 2 tỉnh Ninh Bình và Nam Định. Đền thờ ở cửa biển tương truyền nay thuộc xã Nam Điền huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Ông cũng được thờ tại chùa Độc Bộ, huyện Ý Yên. Một nơi khác ở Nam Định nữa thờ ông là chùa Thiên Biên Tự, thuộc xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định Huyện Kim Sơn-Ninh Bình cũng thuộc cửa biển Đại Nha xưa có rất nhiều đền thờ Triệu Việt Vương như Đình Chất Thành (xã Chất Bình, Kim Sơn), miếu Thượng (xã Thượng Kiệm, Kim Sơn), đền Ứng Luật (Quang Thiện, Kim Sơn), đình xã Lưu Phương, Kim Sơn và đình Thổ Mật (xã Yên Mật, Kim Sơn) Tại vùng văn hóa cửa biển Thần Phù, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, Ninh Bình có đình Phù Sa là di tích văn hóa cấp quốc gia thờ Triệu Việt Vương là thành hoàng làng. Xã Yên Từ cũng có đền thờ Triệu Việt Vương. Tại Ngã ba mỏ neo (sông Hoàng Long, Hoa Lư) và Thị trấn Yên Ninh thuộc Yên Khánh, Ninh Bình gần cửa sông Đáy xưa cũng có đền thờ riêng ông. ĐỀ TÀI: MAI HẮC ĐẾ Người thực hiện: Phạm Thanh Bình Lớp: A3K18 I. TIỂU SỬ Mai Hắc Đế (?–722), tên thật là Mai Thúc Loan hoặc Mai Huyền, sinh vào khoảng cuối thế kỷ 7, tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Theo "Việt điện u linh", Bố Mai Thúc Loan là Mai Sinh, mẹ là Vương Thị nguyên gốc Lộc Hà - Hà Tĩnh, lưu lạc sang vùng Nam Đàn - Nghệ An. Năm Mai Thúc Loan 10 tuổi, mẹ đi hái củi bị hổ vồ, ít lâu sau bố cũng mất. Ông được người bạn của bố là Đinh Thế đem nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho. Sinh thời Mai Thúc Loan vốn rất khỏe mạnh, giỏi vật, học rất giỏi và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai tráng trong vùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông trang, nhờ đó "gia sản ngày một nhiều, môn hạ ngày một đông". Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm, Bộ Tân,... KHỞI NGHĨA Khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh đạo nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713).Khởi nghĩa nổ ra tại Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn(Nghệ An). Tương truyền lúc đó ông cùng đoàn phu gánh vải nộp cho nhà Đường, đã kêu gọi các phu gánh vải nổi dậy chống quân Đường. Tuy nhiên, hiện nay các nhà nghiên cứu đều thống nhất: sưu cao, thuế nặng là nguyên nhân khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường, nổi bật là khởi nghĩa Hoan Châu. Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn thời cơ, không phải một cuộc bạo động. Chuyện "cống vải" là một chi tiết của truyền thuyết, không thể và không phải là nguyên nhân chính nổ ra cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc do Mai Thúc Loan lãnh đạo. Tháng 4 năm 713, Mai Thúc Loan lên ngôi vua, sử gọi ông là Mai Hắc Đế (Mai Hắc Đế mang mệnh thủy tức là nước, mà nước được tượng trưng là màu đen. Vì vậy, ông lấy hiệu là Hắc Đế để hợp với mệnh của mình (theo Việt điện u linh)). Ông cho xây thành lũy, lập kinh đô Vạn An (thuộc xã Văn Diên và thị trấn Nam Đàn hiện nay), tích cực rèn tập tướng sỹ. Cuộc nổi dậy của ông được hưởng ứng rộng rãi ở trong nước và có thể có cả sự trợ giúp của Lâm Ấp và Chân Lạp. Năm Giáp Dần (714), Mai Hắc Đế tiến binh đánh thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Thái thú nhà Đường là Quách Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy về nước. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới chục vạn quân. Nhà Đường bèn huy động 10 vạn quân do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách sang đàn áp. Quân quan nhà Đường tiến theo đường bờ biển Đông Bắc và tấn công thành Tống Bình. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, nghĩa quân tan vỡ. Không đương nổi đội quân xâm lược, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất. Từ thời điểm đánh chiếm Hoan Châu, lên ngôi vua, củng cố lực lượng, Mai Thúc Loan đã giải phóng toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713 - 722), không phải cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo nổ ra và bị dập tắt ngay trong cùng một năm 722 như các tài liệu phổ biến hiện nay. Tương truyền, con trai thứ ba của ông là Mai Thúc Huy lên ngôi Hoàng Đế tức Mai Thiếu Đế và tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723. Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa này, nhà Đường không bắt dân An Nam đô hộ phủ nộp cống vải quả hằng năm nữa. TƯỞNG NHỚ Đời sau nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Ngày nay tại địa phận xã Vân Diên, huyện Nam Đàn có khu di tích tưởng niệm ông. Một bài thơ chữ Hán còn ghi trong Tiên chân báo huấn tân kinh để ở đền thờ, ca tụng công đức ông như sau (bản dịch): Hùng cứ châu Hoan đất một vùng, Vạn An thành lũy khói hương xông, Bốn phương Mai Đế lừng uy đức, Trăm trận Lý Đường phục võ công. Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn, Hùng Sơn gió lặng, khói lang không. Đường đi cống vải từ đây dứt, Dân nước đời đời hưởng phúc chung. ĐỀ TÀI: NHÀ TRẦN Người thực hiện: Đỗ Hoành Cường Lớp: A3K18 Nhà Trần hoặc Trần triều (Hán-Nôm: 家陳・陳朝 - Nhà Trần - Trần triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm1225 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm. Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tông) nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (8 tuổi; 1218 - 1277) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225. Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quânNguyên thành công vào các năm 1258, 1285 và 1288. Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Ông Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện Thiên Trường, nay là vùng đất thuộc Thái Bình - Nam Định. Trần Quốc Kinh lấy vợ ở Tức Mạc, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý và Trần Hoằng Nghi. Trần Lý sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và Trần Thị Dung- sau được tôn là Trần Thái Tổ.Trần Hoằng Nghi sinh được ba người con trai: Trần An Quốc, Trần An Bang và Trần Thủ Độ  I. NHỮNG CẢI CÁCH TIẾN BỘ TIÊU BIỂU 1. Hành chính Thời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như sau: Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan. Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng Giang, Diễn Châu. 2. Luật pháp Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại như sau: Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển. Định bị đồ có mức độ khác nhau: Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc. Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương. Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn. 3. Kinh tế Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào (là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương. Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua. Còn rất nhiều cải cách nữa trong thời Trần nhưng đây là những cải cách tiêu biểu. Thời Trần đã phải 3 lần chống giặc Nguyên xâm lược vào những năm 1258, 1285, 1288.Người có công lớn nhất trong 3 cuộc chống Nguyên này là Trần Quốc Tuấn. II. ĐỀN THỜ CÁC VUA TRẦN Các vua Trần đã cho xây dựng một hành cung Long Hưng để tổ chức những đại lễ mừng chiến thắng và Tam đường là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, Thái tổTrần Hấp, Nguyên tổ Trần Lý, Thái thượng hoàng Trần Thừa... Khi các vị vua và hoàng hậu băng hà thì có tới trên một nửa được an táng tại quê nhà và đều được xây lăng miếu phụng thờ, trong đó Thái Đường Lăng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp tác tại các lăng mộ như Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng. Năm tháng qua đi, lăng mộ ba vị vua đầu triều Trần và dòng sông Thái Sư vẫn còn đó. Hơn 7 thế kỷ, những di vật nằm sâu trong lòng đất Tam Đường đã được khai quật, giúp hậu thế tìm lại một quần thể kiến trúc lăng mộ, kiến trúc hành cung Long Hưng uy nghi, hoành tráng. Trên diện tích 5175m2, đền thờ các vua Trần và Đức thánh Trần Hưng Đạo đã được xây dựng công phu, uy nghi bề thế toạ lạc trên nền phế tích nằm giữa trung tâm xã Tiến Đức với các hạng mục đã hoàn thành là toà hậu cung, toà bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hoá vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình kiến trúc liên quan. Đây là một tổng thể kiến trúc rộng lớn, là nơi thờ tự các vua Trần. Các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian, như: không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến trúc dân tộc - kiến trúc đình làng. Riêng Toà hậu cung đền Trần là một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu chữ đinh, gồm hai toà tám gian, trên diện tích 359m2, được khởi dựng bởi sự tài hoa của những người thợ; sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động. Hưng Hà (Thái Bình) vốn là một vùng đất cổ xưa của tỉnh Thái Bình được hình thành trong thời kỳ văn hoá Đông Sơn. Trải qua hàng ngàn năm phát triển, mảnh đất và con người nơi đây đã kiến tạo, bồi đắp nên những giá trị văn hoá đặc sắc, những nét tiêu biểu riêng của một miền quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi mang đậm nét văn hoá, văn hiến cách mạng, từng xuất hiện nhiều danh tài, danh tướng làm vẻ vang lịch sử dân tộc. Vùng đất “địa linh nhân kiệt” ấy hiện còn bảo tồn, lưu giữ 552 di tích, trong đó có 22 di tích được xếp hạng quốc gia, 60 di tích cấp tỉnh. Một trong những di tích quốc gia tiêu biểu, được sự quan tâm tôn tạo, tu bổ của Đảng và Nhà nước, đó là cụm di tích Đền thờ các vua Trần - mà người xưa gọi là Thái Đường Lăng, nay thuộc địa bàn làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ĐỀ TÀI: NHÀ VĂN BĂNG SƠN Người thực hiện: Đoàn Hồng Châu Lớp: A3K18 Thăng Long – Hà Nội là mảnh đất của nghìn năm văn hiến. Ở nơi đây đã chứng kiến biết bao trang sử oanh liệt và hào hùng của dân tộc ta: từ thời phong kiến của nhà Lý, Trần, … đến thời đại Hồ Chí Minh với hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống lại thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và nay là thời kì Đổi mới. Trên mỗi trang sử vàng son ấy của Hà Nội, luôn có tên những người con yêu quí của đất Hà Thành. Họ - những con người đã sống và trọn một đời cống hiến cho Thủ đô yêu dấu – có khi là những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Kinh Kì, có khi lại là những người dân tứ xứ hội tụ về đây lập nghiệp. Nhưng dù xuất thân đến từ vùng miền nào của Tổ quốc, họ đều mang trong mình một tình yêu sâu nặng với Hà Nội. Cũng vì tình yêu ấy, rất nhiều trong số họ đã mang sức lực, trí tuệ, thậm chí là dành cả cuộc đời mình để đóng góp cho Thủ đô thân yêu. Trong số biết bao con người ấy không thể không kể đến nhà văn Băng Sơn. I. TIỂU SỬ VÀ CUỘC ĐỜI Nhà văn Băng Sơn tên khai sinh là Trần Quang Bốn, sinh ngày 18/12/1932. Quê cha của ông ở Bình Lục (Hà Nam); quê mẹ ở làng Sét, Thanh Trì (Hà Nội). Ông sinh ra và lớn lên tại Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông sinh sống và gắn bó với đất Hà Thành từ năm 1947 cho đến cuối cuộc đời. Với những đóng góp của mình, ông được vinh danh là hai nhà HÀ NỘI HỌC và nhận Giải thưởng “Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội” năm 2009. Ông gặp gỡ và bắt đầu mối tình đầu tiên – cũng là mối tình duy nhất - của mình trong những ngày ông còn làm diễn viên đầu những năm 1950. Chính mối tình của ông với cô diễn viên Mai Phương (mà sau này trở thành người vợ hiền của ông) đã là nguồn cảm hứng cho tình yêu và những sáng tác về Hà Nội của nhà văn. Mối tính ấy cũng là sợi dây gắn kết hai con người với nhau suốt hơn mọt nửa thế kỉ dù cho bao sóng gió của cuộc đời có đi qua. Sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật, ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3/9/2010 tại nhà riêng trong con ngõ số 7 phố Ngô Thì Nhậm, Hà Nội bên con cháu và người vợ đã sẻ chia cùng ông bao đắng cay ngọt bùi của cuộc đời – bà Mai Phương. II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC Năm 1949, nhà văn Băng Sơn có bài thơ đầu tiên được đăng báo. Sau một thời gian dài chỉ sáng tác thơ, ông đã “ngộ” ra một điều: Thơ không thể nói hết được bao điều cần nói, nên phải viết văn xuôi. Sau khi tự thể nghiệm qua nhiều thể loại, ông tự chọn cho mình con đường viết tuỳ bút và đoản văn. Tùy bút hay đoản văn đều là những trang văn xuôi ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy - lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân - nhà văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam - cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặc trưng nghệ thuật của thể tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người nghệ sĩ. Tuy nhiên, những điểm bất cập và chưa thỏa đáng cũng nảy sinh từ chính sự giản đơn ấy. Bất kỳ sáng tác văn chương có giá trị nào cũng đều bắt đầu từ những cung bậc cảm xúc đậm màu sắc chủ quan, chứ không riêng gì tùy bút. Để cho ngọn bút có thần thì cảm xúc ở người nghệ sĩ phải chân thành, phải thăng hoa đến độ mãnh liệt. Mặt khác, một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ rất dễ dẫn đến lẫn lộn giữa lối viết phóng khoáng, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt tùy tiện; đồng thời cũng không chỉ ra được bản chất và vai trò của yếu tố chủ quan trong tùy bút. Bởi vì:“Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể thẩm mỹ vẫn phải chân thực”. Nếu coi tùy bút là một cách viết hay một kiểu bút pháp thì chỉ mới dừng lại ở mức độ cảm tính trong nhận thức, chưa bao quát hết đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học có những đặc trưng rõ nét cả về nội dung và nghệ thuật biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần vào việc xác định khái niệm và phân định loại hình của tùy bút. Trong Hán Việt từ điển giản yếu, từ “tùy bút” được Đào Duy Anh giải nghĩa là “tùy thời mà biên chép”. Nghĩa là thể loại này không chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết mà còn phải chịu sự chi phối từ hoàn cảnh khách quan. Còn từ “bút”, ngoài nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là biên chép. Với hai thể loại văn học rất phóng khoáng này, nhà văn Băng Sơn được tự do thể hiện những cảm xúc của ông, không bị gò ép nhưng cũng không bị xa đà vào những vấn đề ngoài lề. Cùng cách tư duy bằng ý thơ nhưng biểu đạt bằng văn xuôi, một cây bàng, một khóm tre, một cánh buồm, một chiếc điếm canh đê, một hương hoa, một góc phố,… đều có thể trở thành chủ đề với lối viết đầy cảm xúc làm rung động mọi trái tim độc giả. Nhà văn Băng Sơn từng nói: “Nếu còn sống, tôi còn tiếp tục viết, và viết về Hà Nội, nơi tôi sống, rất yêu và đã từ lâu tôi xem như là máu thịt của mình…”. Và quả đúng như vậy. Trọn một đời ông dành để viết về Hà Nội, viết cho Hà Nội. “Ông nhớ và biết rất rõ từng con phố của Hà Nội dài, ngắn thế nào, những ngôi nhà khác nhau ra sao, trong một số ngôi nhà, ông cũng nhớ có ai đang ở trong đó, họ là người như thế nào... Tất cả những gì thuộc về Hà Nội, của Hà Nội dường như đã lọt hẳn vào trong trí não, tâm hồn, con người ông” (Huy Thông). Những tập tuỳ bút của ông đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi chúng không chỉ là những nghiên cứu hết sức cặn kẽ, uyên bác mà còn là những câu chuyện bình dị gắn liền với cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Đọc tuỳ bút và đoản văn của Băng Sơn, ta không những được biết thêm về nhiều nét văn hoá đẹp trong đời sống Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, ta còn được chiêm nghiệm lại mình, để thấy được những giá trị cao quí đang mất dần đi bởi nhịp sống vội vã. Có thể dễ dàng tìm thấy ở “Thú ăn chơi người Hà Nội” cái gì đó thật thanh lịch, tao nhã và rất nhẹ nhàng của văn hoá nghìn năm Thủ đô; hay những con phố nhỏ, những con ngõ nhỏ, những quán cóc vên đường đầy chất thơ trong “Những nẻo đường Hà Nội”; một làng quê Việt Nam điển hình, bình dị đầy nhung nhớ trong “Ngàn mùa hoa”… Mỗi tác phẩm của nhà văn Băng Sơn đều đẹp như một bức tranh, nhưng lại thật sinh động để bất cứ ai ở bất cứ lứa tuổi nào đều có thể hiểu thấu, nhìn thấu những nét tinh tế mà chính nhà văn Băng Sơn đã nhìn thấy. Văn tuỳ bút của Băng Sơn dễ đọc, dễ ngấm. Nó ngấm vào tâm hồn độc giả, làm cho ta nhận ra ta đã quá vội vã bỏ qua những điều giản dị thân thương ấy. Với lượng tác phẩm đồ sộ lên tới con số khoảng 3000 tác phẩm (mà hầu hết đã được xuất bản) thì tình yêu mà nhà văn Băng Sơn dành cho Hà Nội, cho những nét đẹp văn hoá của Việt Nam như đã và đang được truyền đến cho rất nhiều người trên khắp mọi miền đất nước cũng như bạn bè năm châu. Thật đáng tiếc khi con số 3000 phải dừng lại vì sự ra đi đột ngột của ông, nhưng “Người tình” lớn của Hà Nội vẫ sẽ tiếp tục thắp lên những tình yêu mới với Thủ đô phồn hoa trong tim của bao độc giả. Tuy cũng là một người con Hà Nội, nhưng tôi vẫn luôn kính phục và ngưỡng mộ tình cảm nhà văn Băng Sơn dành cho mảnh đất này. Chính từ những tác phẩm của ông mà một người Hà Nội thuộc thế hệ sau như tôi được biết thêm nhiều hơn về cuộc sống và con người Hà Nội xưa, biết thêm về những nét đẹp đã phần nào bị phai mờ khi cuộc sống kinh tế thị trường nhộn nhịp bao trùm lấy chúng ta. Bản thân tôi tự hào khi là một người con được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhiều thế hệ sống ở Hà Nội, nhưng có những thứ tôi chỉ có thể học được trong văn của Băng Sơn. Đọc tuỳ bút của Băng Sơn, có khi ta chỉ muốn đến ngay góc phố ấy, căn nhà ấy, đứng dưới bóng cây ấy để được thấy những gì ông đã thấy, được cảm nhận những thứ ông đã cảm nhận, được tận hưởng cái không gian mà ông miêu tả trong tác phẩm của mình. Ông truyền thêm cảm hứng cho tình yêu Hà Nội trong tôi và trong biết bao người khác. Và tình yêu của ông dành cho mảnh đất Kinh kì này là một tình yêu vĩnh cửu. Ông không ồn ã, phô trương, cũng chẳng cần khoe mẽ ta đây người Hà Thành. Ông không cần phải mặc những chiếc áo “Tôi ♥ Hà Nội” như nhiều bạn trẻ hay mặc trên phố. Ông lặng lẽ ngắm nhìn thành phố của mình đổi thay từng ngày, ghi lại những khoảnh khắc quí giá của nó, những giá trị tuy bé nhỏ mà tinh tuý. Ông buồn khi thành phố của ông đổi khác theo hướng nào đó có chút ít tiêu cực, nhưng hạnh phúc khi nét đặc sắc riêng của nó vẫn còn. Ông viết với tất cả trái tim để những thế hệ mãi sau này cũng có thể hiểu được thành phố của ông, tình cảm của những người đi trước như ông đã dành cho Hà Nội yêu thương. Và theo một phương diện nào đó, cũng là cách ông hướng độc giả của mình đừng đi theo những con đường sai lệch, để gìn giữ mãi tinh hoa của Thăng Long. III. KẾT LUẬN Nhà văn Băng Sơn ra đi để lại bao tiếc thương trong lòng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, trong lòng những độc giả ngưỡng mộ ông và cả những người yêu Hà Nội. Ông sống, ông cống hiến trọn đời cho thành phố này vậy mà ông lại đi khi chưa kịp nhìn thấy Thủ đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo- Nghiên cứu lịch sử VN.doc