Tài liệu Bài giảng tạo giống cây trồng chuyên khoa 2: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN
BÀI GIẢNG
TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG CHUYÊN KHOA 2
Người biên soạn: PGS.TS Trần Văn Minh
Huế, 08/2009
1
CHỌN TẠO GIỐNG KHOAI LANG
1. NGUỒN GỐC CÂY KHOAI LANG
Khoai lang, Ipomoea batatas (L.) Lam, là một loại cây thân bò thuộc họ bìm
bìm (Convolvulaceae). Trong các loài thuộc Ipomoea có lẽ khoai lang là loài duy
nhất có củ ăn được.
Cây khoai lang có nguồn gốc ở Tân Thế Giới và được thuần hoá từ thời tiền
Columbus và phát tán ra các đảo Thái Bình Dương rồi trở thành một cây trồng quan
trọng ở Niu Zilân (Yen, 1974). Với sự hình thành và phát triển của thương mại quốc
tế, cây khoai lang lan nhanh ra các vùng nhiệt đới. Người Tây Ban Nha mang khoai
lang từ Mêhicô và Philippin, rồi từ đó phát tán ra các đảo khác. Người Bồ Đào Nha
đưa cây khoai lang từ vùng Caribê và Nam Mỹ sang Châu Âu, Châu Phi, Đông
Nam Châu Á và Ấn Độ (Yen, 1976). Cây khoai lang du nhập vào Việt Nam vào
cuối thế kỉ 16 có lẽ từ Phúc ...
43 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 902 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng tạo giống cây trồng chuyên khoa 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN
BÀI GIẢNG
TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG CHUYÊN KHOA 2
Người biên soạn: PGS.TS Trần Văn Minh
Huế, 08/2009
1
CHỌN TẠO GIỐNG KHOAI LANG
1. NGUỒN GỐC CÂY KHOAI LANG
Khoai lang, Ipomoea batatas (L.) Lam, là một loại cây thân bò thuộc họ bìm
bìm (Convolvulaceae). Trong các loài thuộc Ipomoea có lẽ khoai lang là loài duy
nhất có củ ăn được.
Cây khoai lang có nguồn gốc ở Tân Thế Giới và được thuần hoá từ thời tiền
Columbus và phát tán ra các đảo Thái Bình Dương rồi trở thành một cây trồng quan
trọng ở Niu Zilân (Yen, 1974). Với sự hình thành và phát triển của thương mại quốc
tế, cây khoai lang lan nhanh ra các vùng nhiệt đới. Người Tây Ban Nha mang khoai
lang từ Mêhicô và Philippin, rồi từ đó phát tán ra các đảo khác. Người Bồ Đào Nha
đưa cây khoai lang từ vùng Caribê và Nam Mỹ sang Châu Âu, Châu Phi, Đông
Nam Châu Á và Ấn Độ (Yen, 1976). Cây khoai lang du nhập vào Việt Nam vào
cuối thế kỉ 16 có lẽ từ Phúc Kiến (Trung Quốc) hay đảo Lu-zôn của Philippin.
Khoai lang được trồng cách đây trên 5000 năm. Qua những nghiên cứu mới
đây, nhiều bằng chứng về khảo cổ học, ngôn ngữ học, nông nghiệp và chủng tộc
học chứng tỏ từ Nam Mêhicô xuống Trung Mỹ và bắc Nam Mỹ, đặc biệt là vùng
Tây bắc, Nam Mỹ là trung tâm khởi nguyên sơ cấp của khoai lang. Yen (1982) đề
xuất 3 con đường mà khoai lang được phát tán và truyền bá từ trung tâm khởi
nguyên, trong đó con đường kamote do người Tây Ban Nha truyền bá trực tiếp từ
Mêhicô sang Philippin qua Hawai và Guam vào thế kỉ 16. Từ Nam Thái Bình
Dương và Philippin khoai lang được phát tán sang các nước châu Á khác, trong đó
có Việt Nam. Ngày nay trung tâm khởi nguyên thứ cấp bao gồm Trung Quốc, Đông
Nam Á, Papua Niu Ghi-nê và Đông Phi.
Việc chọn tạo giống khoai lang có năng suất cao, chống chịu những điều kiện
bất thuận, chất lượng tốt (tinh bột, lượng đường cao, hương vị), đã và đang trở
thành nhu cầu cấp thiết của sản xuất.
2. PHÂN LOẠI KHOAI LANG
Khoai lang thuộc họ bìm bìm, chi Ipomoea với số nhiễm sắc thể cơ bản là n =
15. Chi Ipomoea có khoảng 500 loài và được phân thành 13 phân chi. Khoai lang
trồng được xếp trong phân chi Batatas với tổng số 13 loài có quan hệ họ hàng với
nhau (Austin, 1983; Huaman, 1992). Trong nội bộ phân chi số nhiễm sắc thể xôma
thay đổi từ 30 (lưỡng bội) đến 60 (tứ bội) và 90 (lục bội). Các loài trong phân chi
này được nghiên cứu nhiều để xác định mối quan hệ họ hàng, đặc biệt nguồn gốc
của khoai lang lục bội và chuyển các gen có ích vào khoai lang.
Khoai lang là một thể lục bội tự nhiên duy nhất trong phân chi Batatas có khả
năng hình thành củ ăn được. Tuy vậy, bản chất và nguồn gốc lục bội vẫn là vấn đề
còn nhiều tranh luận và đến nay vẫn chưa có giả thuyết chắc chắn giải thích và xác
định được các loài tổ tiên tham gia vào sự tiến hoá của khoai lang trồng ngày nay
Nishiyama và cộng sự (1975) cho rằng khoai lang trồng là một thể đa bội cùng
nguồn được chọn lọc từ dạng lục bội tạo thành từ tổ hợp lai giữa một dạng lưỡng
bội (I.Leucantha) và một dạng tứ bội (I.littoralis) trong phức hợp I.trifida. Ngược
2
lại Ting và Kehr (1953) nghiên cứu quá trình phân chia giảm nhiễm ở các giống
khoai lang Mỹ lại cho rằng khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Jones
(1965) cũng quan sát thấy quá trình phân chia giảm nhiễm bình thường ở 40 giống
nghiên cứu và tần số đa trị tương đối thấp. Điều đó chứng tỏ bố mẹ tiền thân của
khoai lang không có quan hệ thân thuộc và do đó khoai lang có thể là một đa bội thể
khác nguồn.
Nhìn chung vấn đề phân loại và mối quan hệ họ hàng của khoai lang trồng với
các loài hoang dại trong phân chi Batatas còn nhiều điểm chưa thống nhất do tính dị
hợp tử cao của khoai lang, sự tồn tại của nhiều biến dị tương đồng ở nhiều tính
trạng giữa khoai lang và các loài hoang dại và khó khăn trong việc lai giữa các loài.
Martin (1974) cho rằng nguồn gốc khoai lang phải giải thích được khả năng hình
thành củ cũng như màu sắc ruột củ và những đặc điểm khác không phát hiện được ở
các loài hoang dại. Tuy nhiên, qua những nghiên cứu gần đây phần lớn các nhà
nghiên cứu nhất trí I.trifida (gồm các dạng nhị bội, tứ bội và lục bội) là họ hàng
thân thuộc nhất của khoai lang. Các loài họ hàng này đã và đang được sử dụng để
tăng cường nguồn gen và chuyển các gen có ích vào khoai lang trồng.
3. MỘT SỐ ĐẶC TÍNH DI TRUYỀN CỦA CÂY KHOAI LANG
3.1. Đặc điểm ra hoa
Hoa khoai lang tương tự như hoa của các loài thuộc họ bìm bìm. Hoa lưỡng
tính, mọc thành từng chùm 5 đến 22 hoa từ nách lá. Mỗi hoa chỉ nở một lần, thường
vào sáng sớm và tàn vào lúc giữa trưa. Trong điều kiện trời mát hoa nở muộn và
kéo dài tới tận chiều. Màu sắc của các bộ phận hoa thay đổi từ trắng đến tím và tím
đậm. Hoa khoai lang hình chuông hay hình phễu. Chiều dài ống tràng dài từ 32 đến
55mm. Năm cánh hoa dính liền nhau và nhị đực gắn vào đế cánh hoa. Mỗi hoa có
một vòi nhuỵ và năm nhị đực. Độ dài nhị thay đổi theo giống và không đều nhau.
Bao phấn thường có màu trắng. Vòi nhuỵ dài 8 – 25mm. Đầu nhuỵ phân 2 thuỳ và
thường có màu trắng. Đáy ống tràng có các hạch chứa mật hấp dẫn côn trùng. Bầu
có hai ngăn và trong mỗi ngăn có hai noãn. Do đó mỗi quả có tối đa 4 hạt. Quả thụ
phấn bằng tay thường chỉ có hai hạt, trong khi đó quả thụ phấn tự do thường có 2 –
3 hạt. Hạt chín già thường có hình đa diện với 2 mặt phẳng còn mặt kia tròn, đường
kính 2 – 5mm, thường có màu nâu sẫm hoặc đen.
Hạt khoai lang có vỏ cứng và có thể duy trì khả năng sống 20 năm hoặc lâu
hơn. Vì vậy hạt thường nảy mầm không đều nếu không xử lí phá ngủ. Để phá ngủ,
ngâm hạt trong dung dịch acid sunfuaric đậm đặc từ 20 – 60 phút, sau đó rửa sạch
bằng nước lã hay trung hoà bằng dung dịch bicacbonat và rửa bằng nước sạch.
Cũng có thể phá ngủ bằng tay hay cơ giới trước khi gieo.
Khoai lang là cây ngày ngắn do vậy ngày dài cản trở quá trình ra hoa. Xử lí
ngày ngắn hay ghép lên các loài dễ ra hoa thuộc chi Ipomoea như Pharbitis nil hay
giống khoai lang có xu hướng ra hoa mạnh như: American Yellow Skin có thể thúc
đẩy sự ra hoa. Ở các nước ôn đới khoai lang thường khó ra hoa, trong khi đó lại ra
hoa rất dễ dàng ở Ha Oai, Cuba, Guam, Philippin, Gia va, Braxin Ở miền Nam
nước ta khoai lang cũng ra hoa dễ dàng trong mùa khô. Ở miền Bắc, nếu trồng vào
3
đầu tháng 9 hoặc sớm hơn, khoai lang thường ra hoa vào cuối tháng 10 và có thể
kéo dài đến tận tháng 1 hoặc tháng 2. Tuy nhiên nhiệt độ thấp trong khoảng thời
gian này ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thụ phấn, đậu quả và kết hạt. Ngoài ra sai
khác lớn về tính di truyền của khả năng ra hoa giữa các giống, các yếu tố ngoại
cảnh như độ ẩm đất và lượng đạm cũng ảnh hưởng tới sự ra hoa. Một số giống thể
hiện khả năng ra hoa ổn định từ năm này sang năm khác, trong khi đó một số giống
khác ra hoa thất thường hay không ra hoa trong bất kì điều kiện nào. Giải pháp tốt
nhất đối với vấn đề ra hoa là chọn lọc khả năng ra hoa. Vì thế, trong các chương
trình lai cần phải chú ý tới tính trạng này.
Kỹ thuật lai ở khoai lang tương đối đơn giản vì hoa và các bộ phận của hoa
tương đối lớn. Thời điểm thuận lợi nhất để khử đực là chiều hôm trước và thụ phấn
vào sáng hôm sau. Có thể cách li hoa khử đực bằng giấy bóng mờ hoặc bằng một
mẫu ống hút.
3.2. Tính bất hợp của khoai lang
Khoai lang là cây tự bất hợp. Tính bất hợp và các quá trình hạn chế sự kết hạt
ở khoai lang được coi là sự bất dục và hàng rào cản trở trong việc chọn tạo giống.
Hệ thống tự bất hợp ở khoai lang và các loài thuộc chi Ipomoea là hệ thống bất
hợp bào tử kiểu đa alen. Một loạt các alen ở một lôcút kiểm soát kiểu gen của bố
mẹ. Phản ứng bất hợp được xác định bởi tương tác giữa 2 alen, và tất cả hạt phấn
biểu hiện cùng một kiểu hình bất hợp. Vì thế phần lớn các giống tự bất hợp, một
số giống khác tương hợp và tính tương hợp có thể biểu hiện một chiều.
Các nhà khoa học Nhật Bản đã xây dựng một hệ thống phân loại theo các
nhóm bất hợp. Các dòng trong một nhóm bất hợp trong khi đó các dòng giữa các
nhóm tương hợp và có thể lai được với nhau.
Phần lớn các cơ thể bất hợp hay bất dục hoạt động sau quá trình thụ phấn và
thụ tinh. Martin (1981) chỉ ra rằng đa bội thể là nguyên nhân của sự bất dục và gây
ra những sai sót trong quá trình phân chia giảm nhiễm dẫn đến khiếm khuyết trong
bộ gen, phân li và tái tổ hợp làm cho sự phân chia gen mất cân bằng. Một tỉ lệ giao
tử và phôi nhận được các tổ hợp gen không thuận lợi nên không có khả năng hoạt
động đầy đủ trong những hoàn cảnh nhất định.
Do bản chất lục bội, cây khoai lang có độ dị hợp tử cao và thể hiện biến động
di truyền lớn về hình thái như dạng lá, màu sắc vỏ và thịt củ, dạng củ, hàm lượng
chất khô, tinh bột và nhiều tính trạng khác. Chọn giống khoai lang mang đặc điểm
của cả cây sinh sản hữu tính lẫn cây sinh sản vô tính. Mỗi một cây con phát triển từ
hạt thụ phấn tự do hay lai có kiểm soát đều có đặc điểm di truyền khác với những
cây khác và đều có tiềm năng trở thành giống mới. Hơn nữa các kiểu gen tốt xác
định được trong bất kì giai đoạn nào của quá trình chọn giống đều có thể duy trì vô
thời hạn. Do bản chất đa bội sự biểu hiện kiểu hình là kết quả của sự tái tổ hợp các
gen và ưu thế lai. Độ dị hợp tử đối với khoai lang rất cần thiết để duy trì sức sống và
năng suất. Vì vậy các phương pháp chọn giống cần phải hướng vào việc duy trì hay
nâng cao độ dị hợp tử đồng thời lưu ý các hiệu ứng di truyền cộng và tương tác.
3.3. Hệ số di truyền của một số tính trạng
4
Do bản chất lục bội, khoai lang là một loài không thích hợp cho các nghiên
cứu di truyền Mendel. Mỗi lôcut gen có 6 alen nên tỉ lệ phân li trong tổ hợp lai
thường phức tạp. Ở phần lớn các trường hợp, khoai lang biểu hiện hiệu ứng liều
lượng nên sự phân li mang tính liên tục, thậm chí khi tính trạng chỉ kiểm soát bởi
một gen. Đại đa số các tính trạng có ý nghĩa kinh tế mang tính di truyền số lượng.
Các giá trị ước lượng chứng tỏ các tính trạng có thể cải tiến bằng con đường
chọn lọc hỗn hợp. Hơn nữa những nghiên cứu về tương quan cho thấy các tính trạng
tương đối độc lập với nhau cho phép chọn lọc theo trình tự có hiệu quả và kết hợp
các tính trạng có lợi trong một giống tương đối dễ dàng.
Giá trị hệ số di truyền của một số tính trạng chủ yếu ở khoai lang
HỆ SỐ DI TRUYỀN (%) TÍNH TRẠNG NGHĨA RỘNG NGHĨA HẸP
Khối lượng củ 71 25 - 57
Số củ 73 – 83 24 - 43
Hàm lượng chất khô - 48 - 65
Tinh bột thô - 57
Chiều dài thân - 60
Màu sắc thịt củ 97 53 - 66
Màu sắc vỏ củ 97 81
Chất xơ - 47
Khả năng kháng sâu hà 79 - 84 34 - 36
Khả năng kháng virus 48 - 93 -
4. CHỌN GIỐNG CÂY KHOAI LANG
4.1. Phương pháp chọn giống
Về cơ bản đối với cây khoai lang có 3 phương pháp thu nhận các giống cải
tiến:
- Thu thập, đánh giá và chọn từ nguồn giống địa phương.
- Nhập các giống đã được tạo ra ở các nước khác và đánh giá chúng trong điều
kiện của mình.
- Chọn tạo giống mới trong chương trình chọn giống riêng.
Chương này chỉ tập trung vào phương pháp cuối cùng, có hai phương pháp lai
cơ bản là phương pháp đột biến và phương pháp lai. Sơ đồ tổng quát được trình bày
trong sơ đồ 1.
4.1.1. Phương pháp gây đột biến cảm ứng
Đột biến cảm ứng ở khoai lang được quan tâm nhiều vì mức đa bội thể cao và
khả năng ra hoa kém kèm theo tính bất hợp lai. Đột biến tự phát ở khoai lang xảy ra
với tần số tương đối cao. Ví dụ người ta đã phát hiện được 23 thể đột biến ở giống
Centennial. Một số giống ưu tú được tạo thành từ phương pháp đột biến như giống
“Beniaka” được trồng gần một thế kỉ ở Nhật Bản. Trước khi kỹ thuật cảm ứng ra
5
hoa được hoàn thiện, công tác cải lương giống khoai lang ở Mỹ chủ yếu giới hạn
trong việc chọn các thể đột biến tốt từ các giống đang trồng trong sản xuất, đặc biệt
là giống Porto Rico.
Tần số và dạng đột biến phụ thuộc vào giống. Phần lớn các đột biến tự phát
hay cảm ứng là các biến đổi màu sắc vỏ củ và thịt củ, trong khi đó tần số đột biến ở
các yếu tố cấu thành năng suất thường thấp. Hơn nữa đa số các đột biến xảy ra theo
chiều hướng không có lợi. Vì thế, việc chọn lọc kỹ lưỡng và liên tục trong vườn sản
xuất hom giống rất cần thiết để loại bỏ các dạng xấu và phân lập các dòng tốt. Ngày
nay công tác chọn giống đột biến tập trung chủ yếu vào biến đổi kiểu cây, tăng hàm
lượng chất khô và tinh bột. Tác nhân đột biến thường sử dụng là tia X và tia gamma
( Co60). Bộ phận xử lí thường dùng là hom cắt, tuy nhiên ngọn, củ và lá đều có thể
xử lí đột biến.
4.1.2. Phương pháp lai
Cũng như các loại cây trồng sinh sản bằng hạt khác, sau khi kỹ thuật cảm ứng
ra hoa ở khoai lang được hoàn thiện vào cuối những năm 30, lai là phương tiện chủ
yếu để tạo ra biến dị di truyền nhờ sự tổ hợp các gen từ các dạng bố mẹ khác nhau.
Phương pháp chủ yếu là lai từng cặp và đa giao rồi thông qua chọn lọc để tập hợp
các tính trạng tốt trong một cá thể hay một nhóm cá thể. Phương pháp lai từng cặp
có hiệu quả đối với chương trình cải tiến ngắn hạn ở một số tính trạng nhất định.
Kỹ thuật đa giao ở khoai lang ban đầu được đề xuất làm phương tiện để tăng
khả năng đậu quả và kết hạt trong quá trình chọn giống, ý tưởng này đã hấp dẫn
nhiều nhà chọn giống. Jones (1965) đã đề xuất một quy trình chọn giống nhằm tăng
khả năng tái tổ hợp và tăng sự biểu hiện của các nhóm gen mới. Kỹ thuật chọn
giống này cho phép nhà chọn giống nâng cao tối đa kết quả chọn lọc thông qua tích
luỹ các gen có lợi mà vẫn duy trì được biến dị di truyền cần thiết cho những thế hệ
chọn lọc sau. Phá vỡ mối liên kết có ý nghĩa rất quan trọng để chuyển các tính trạng
có ích từ các loài có quan hệ họ hàng.
4.1.2.1. Vườn lai:
Các dòng bố mẹ có giá trị chọn giống đã chọn, được trồng trong vườn lai, cách
li với các ruộng khoai có khả năng ra hoa khác. Có thể trồng bố mẹ trong chậu để dễ
quản lí, khử đực và thụ phấn bằng tay khi cần tạo ra những tổ hợp lai nhất định theo
quy hoạch. Cũng có thể trồng ngoài đồng ruộng theo sơ đồ thí nghiệm nhất định và
cho phép thụ phấn tự do nhờ côn trùng sẵn có trong tự nhiên. Tuy nhiên bằng con
đường thụ phấn tự do nhà chọn giống chỉ biết được nguồn mẹ của sản phẩm lai.
Trong điều kiện miền Bắc khoai lang ra hoa vào cuối thu đầu mùa đông, để
đảm bảo đủ số hoa để lai nên trồng bố mẹ từ đầu đến giữa tháng 9. Trồng với
khoảng cách sao cho việc đi lại dễ dàng và thuận tiện, tốt nhất khoảng cách giữa
hàng là 1 - 1,2m và cây cách cây trên hàng 1m, mỗi hốc trồng 2 - 3 hom. Số lần lặp
lại thay đổi tuỳ theo phương thức lai, số bố mẹ và khả năng ra hoa. Tuỳ thuộc số bố
mẹ, vườn đa giao có thể sắp xếp theo kiểu ô vuông la tinh hoặc khối ngẫu nhiên
hoàn toàn. Tại mỗi hốc trồng cắm cọc cao khoảng 2m, đánh dấu số dòng làm bố mẹ,
buộc dây theo cọc để tăng khả năng ra hoa, tạo điều kiện thụ phấn bằng tay hoặc
6
côn trùng. Không nên bón nhiều phân đạm sẽ làm thân lá phát triển mạnh và giảm
khả năng ra hoa. Vườn lai cần được kiểm tra sâu bệnh và phun thuốc kịp thời, đặc
biệt đối với các loài sâu hại hoa. Nên sử dụng các loại thuốc tiếp xúc và phun vào
chiều tối để tránh gây hại cho ong và các loài côn trùng thụ phấn khác.
4.1.2.2. Thụ phấn:
Để tiến hành thụ phấn (bằng tay) có kiểm soát cần tuân thủ 4 bước sau:
- Ngăn ngừa côn trùng thụ phấn trước khi thụ phấn bằng tay.
- Thụ phấn bằng tay.
- Ngăn ngừa côn trùng thụ phấn sau khi thụ phấn bằng tay.
- Ghi nhãn.
Kỹ thuật lai khoai lang rất đơn giản vì hoa và các bộ phận của hoa lớn và dễ
nhận biết. Thời gian khử đực ở cây mẹ và chọn hoa thụ phấn ở cây bố tốt nhất từ 3 -
5 giờ chiều. Để khử đực hoa cái, dùng lưỡi lam chia đôi ống tràng từ trên đỉnh
xuống đáy thành hai phần bằng nhau nhưng không làm tổn thương bầu nhuỵ. Nhẹ
nhàng kéo xuôi từng nửa một để loại bỏ nhị đực. Hoa đã được khử đực có thể cách
li bằng giấy bóng mờ, ống hút bằng nhựa hay bằng giấy. Ống giấy có thể tự làm
được với đường kính 7mm. Cùng thời gian trên dùng kẹp giấy kẹp đầu hoa ở cây
dùng làm bố để ngăn ngừa không cho hoa nở. Thụ phấn được tiến hành vào sáng
hôm sau, trùng với thời điểm nở hoa rộ trong ngày, thường từ 7 - 11 giờ sáng. Ngắt
những hoa được kẹp ở cây bố, nhẹ nhàng mở bao ống cách li ở cây mẹ. Nhấc kẹp ra
khỏi hoa bố, xé xuôi cánh hoa để làm cán và xát bao phấn nhẹ nhàng lên đầu vòi
nhụy của cây mẹ. Sau khi thụ phấn, chụp ống cách li lại, ghi nhãn và buộc vào từng
cuống hoa đã thụ phấn. Để ngăn ngừa tạp phấn mỗi lần thay nguồn bố phải rửa tay
hoặc lau sạch, 2 - 3 ngày sau khi thụ phấn bỏ ống cách li cho bầu phát triển.
4.1.2.3. Thu hoạch và bảo quản hạt:
Hạt chín sau 5 - 6 tuần kể từ khi thụ phấn. Thu hoạch từng quả kèm theo nhãn
khi quả đã ngã màu nâu, cuống quả khô và teo lại, tách hạt trong phòng và có thể
gộp chung hạt chắc của cùng bố mẹ vào cùng một bao và ghi chép số hạt thu được.
Hạt khoai lang duy trì sức sống 20 năm trong điều kiện bảo quản tốt (180C và
độ ẩm không khí 50%) và 5 năm trong bình hút ẩm để trong tủ lạnh. Có thể bảo
quản hạt đơn giản hơn trong bình hút ẩm thuỷ tinh dưới đáy rải một lớp silicagel
hoặc gạo rang.
4.1.2.4. Vườn ươm cây con:
Sau khi đã xử lí phá ngủ hạt, có thể gieo trực tiếp ra vườn ươm đã chuẩn bị
trước. Hạt cũng có thể gieo trong đĩa petri để ở trong phòng và gieo hạt ra vườn
ươm khi hạt vừa nứt nanh. Hạt thường được gieo với khoảng cách hàng cách hàng
30cm, cây cách cây 5cm. Thu hoạch dây khi cây con cho 3 - 5 hom ngọn.
4.1.2.5. Đánh giá và chọn lọc:
Sau khi nhân dòng từ cây con, các dòng được đánh giá và chọn lọc theo
nguyên tắc sàng lọc: số dòng giảm dần, số lần lặp lại và số điểm thí nghiệm lại tăng
lên. Ví dụ, thí nghiệm khảo sát sơ bộ có 1.000 - 5.000 dòng với 5 cây/dòng trong
7
khi đó thí nghiệm so sánh năng suất chỉ 10 - 15 dòng với 20 - 30 cây/dòng và lặp lại
4 lần.
Tính trạng đánh giá chọn lọc phụ thuộc vào mục tiêu của chương trình chọn
giống. Để cung cấp một số ý niệm cơ bản, các chỉ tiêu cần đánh giá ở một số khâu
trình bày trong bảng 2.
4.1.2.6. Phổ biến giống:
Công việc của nhà chọn giống chưa hoàn thành nếu giống mới chưa được phổ
biến cho nông dân. Sau khi chọn lọc dựa vào kết quả khảo nghiệm quốc gia và thí
nghiệm trên đồng ruộng giống mới chính thức được công nhận, đặt tên và phổ biến
cho nông dân. Khâu này đòi hỏi phải nhân giống đủ số lượng và chất lượng để cung
cấp cho nông dân. Hom giống 2,5 tháng tuổi thường là tốt nhất nên phải có kế
hoạch phù hợp với thời vụ trồng. Để nhân giống có thể sử dụng hom cắt hoặc củ
nảy mầm. Một hom giống sau 2,5 tháng thường cho 5 hom mới trong khi đó một củ
có thể sản xuất được khoảng 20 hom. Để duy trì độ thuần giống, khi nhân nên chọn
hom giống cẩn thận và thường xuyên theo dõi để loại bỏ dạng lẫn.
Các tính trạng cần đánh giá ở một số khâu trong quá trình
chọn giống
THÍ NGHIỆM PHƯƠNG THỨC
TRỒNG
TÍNH TRẠNG
Vườn ươm 30 x 15cm 1 cây/dòng
Sinh trưởng, chiều dài thân, đường
kính thân, kiểu cây, màu sắc vỏ củ
và thịt củ.
Thí nghiệm khảo sát
sơ bộ Ô nhỏ, 3 – 5 cây/ô
Chiều dài thân, đường kính, màu
sắc vỏ củ và thịt củ, năng suất (cao,
trung bình, thấp), chất khô, sâu
bệnh, dạng củ.
Thí nghiệm năng suất 4 lần lặp lại 25 cây/ô
Mức độ sâu hại (sâu hà, đục thân,
virus), chiều dài thân, đường kính
thân, màu sắc vỏ củ và thịt củ,
dạng củ, trọng lượng củ thương
phẩm, trọng lượng củ và số củ
dùng được, hàm lượng chất khô,
chất lượng ăn uống.
Thí nghiệm sản xuất Gieo trồng như điều
kiện sản xuất
Sâu bệnh năng suất, thương phẩm
(trọng lượng, số củ), năng suất củ
dùng được, chất lượng ăn uống: tất
cả được đánh giá và chọn lọc với
sự tham gia của người sản xuất.
4.1.3. Phương pháp chọn lọc chu kì
8
Chọn lọc chu kì là một chương trình chọn giống toàn diện đề cập đến cả hai
vấn đề ngắn hạn và dài hạn. Chọn lọc chu kì tạo ra những quần thể có thể di truyền
rộng và có khả năng duy trì tiến bộ chọn giống thường xuyên và lâu dài. Với mỗi
chu kì chọn lọc quần thể chọn giống được cải tiến, tăng tần số gen có lợi và tăng
xác suất tìm ra các dòng có nhiều tính trạng mong muốn.
Có ba bước trong chương trình chọn tạo bằng chọn lọc chu kì.
- Tạo ra quần thể nền bằng cách chọn các dòng bố mẹ và cho chúng giao phối
với nhau ở mọi tổ hợp có thể.
- Gieo trồng, đánh giá và chọn lọc các dòng hình thành từ hạt, và cho các dòng
giao phối với nhau.
- Đưa nguồn gen mới vào vườn lai nếu có.
Trong chương trình chọn tạo giống bằng phương pháp chọn lọc chu kì việc
làm trước tiên là tạo ra quần thể nền hay còn gọi là quần thể nguồn. Để có một quần
thể nền tốt cần phải khởi đầu bằng nguồn di truyền rộng, bằng cách chọn tối thiểu ít
nhất 20 dòng bố mẹ không có quan hệ họ hàng với nhau và có đủ loại tính trạng.
Giao phối giữa các dòng bố mẹ có thể tiến hành bằng tay, nhưng tốt nhất là áp dụng
kỹ thuật đa giao. Việc chọn lọc các dòng hình thành từ hạt chủ yếu dựa vào sự đánh
giá trên đồng ruộng và số vụ đánh giá phụ thuộc vào nguồn lực cụ thể. Tuy nhiên
trong 2 hay 3 chu kì đầu tiên chỉ nên áp dụng cường độ chọn lọc thấp đến trung
bình tạo điều kiện tối đa cho quá trình tái tổ hợp và tăng dần áp lực chọn lọc ở các
thế hệ sau. Trong các chu kì sau có thể đưa một ít dòng có triển vọng từ các chương
trình chọn phương pháp hay nguồn gen mới vào vườn lai. Quy trình chọn tạo giống
bằng phương pháp chọn lọc chu kì được tổng hợp trong sơ đồ sau.
Sơ đồ Phương pháp chọn lọc chu kì ở khoai lang
CHỌN TẠO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG
1. NGUỒN GỐC CÂY ĐẬU TƯƠNG
Cây đậu tương (Glycine max L. Merrill) có nguồn gốc ở Trung Quốc, đã được
biết đến cách đây 5.000 năm. Vavilop (1951) đã khẳng định đậu tương có nguồn
Chọn 20 – 30 dòng bố mẹ;
Giao phấn tự do
30 dòng được chọn giao phấn tự do
Tiếp tục khảo nghiệm đưa ra giống mới
Đánh giá các
dòng, chọn lọc
Các dòng được
Nguồn gen
mới
9
gốc ở Trung tâm phát sinh cây trồng Trung Quốc. Fukada (1933); Hymowitz (1970)
đã kết luận: đậu tương xuất hiện đầu tiên ở dạng cây thuần hoá từ 1.100 trước công
nguyên, tại vùng Đông bắc Trung Quốc. Từ phía Bắc Trung Quốc đậu tương phát
triển sang Triều Tiên, Nhật Bản, thế kỉ 17 thâm nhập sang châu Âu.
Ở miền Đông và Nam Trung Quốc, đậu tương truyền lan sang các nước Đông
Nam châu Á. Ngày nay nông dân các nước châu Á coi cây đậu tương là một trong
các cây trồng chính.
Ở Việt Nam đậu tương được trồng đã lâu đời. Từ thế kỉ 13 Lê Quý Đôn đã ghi
chép lại trong sách “Vân đài loại ngữ” đậu tương trồng ở một số tỉnh vùng Đông
Bắc, miền Bắc nước ta. Các sản phẩm chính của đậu tương được nhân dân chế biến
phổ biến là: đậu phụ, chao, tương, dầu, sữa, làm bột trong một số loại thực phẩm và
làm kẹo, bánh
Đậu tương phân bố rộng, được gieo trồng ở nhiều nước trên thế giới, từ 48 vĩ
độ Bắc đến 30 vĩ độ Nam. Đậu tương có phản ứng chặt chẽ với độ dài ngày, là cây
ngày ngắn điển hình. Theo phản ứng quang chu kì đậu tương được chia ra 13 nhóm
chín khác nhau. Các nhóm chín sớm thích hợp ngày dài và mùa hè ngắn ở phía nam
Canada và Bắc Mỹ. Nhóm chín muộn thích hợp với ánh sáng ngày ngắn của các
vùng nhiệt đới cận xích đạo.
2. PHÂN LOẠI ĐẬU TƯƠNG
Đậu tương có số lượng nhiễm sắc thể 2n = 40 thuộc họ Fabaceae, họ phụ
Leguminosae ,Việt Nam thường gọi “đậu tương” hoặc “đậu nành”.
Vấn đề phân loại đậu tương cho đến nay chưa được thống nhất. Các nghiên
cứu gần đây nhất đã đưa ra sự phân loại được nhiều người công nhận là của tác giả:
R.C. Palmer, T.Hymowitz và R.L. Nelson (1996). Theo các tác giả này chi Glycine
Willd là hợp lại từ 2 chi phụ: Glycine và Soja (Moench) F.J. Herm.
Các loài chủ yếu của chi Glycine L (Wild) và sự phân số của chúng
LOÀI 2n SỰ PHÂN BỐ
Chi phụ Glycine
1. G. albicans Tind và Craven
2. G. arenaria Tind
3. G. argyrea Tind
4. G. canescens F.j. Herm
5. G. clandestina Wendl
6. G. curvata Tind
7. G. cyrtoloba Tind
8. G. falcata Benth
9. G. hirticaulis Tind và Craven
10. G. lactovirens Tind và Craven
11. G. latifolia (benth) Newell và
Hymowitz
40
40
40
40
40
40
40
40
40 ;
80
40
40
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
Australia
10
12. G. latrobeana (meissn) Benth
13. G. microphylla (Benth) Tind
14. G. Pindanica Tind và Craven
15. G. tabacina (labill) Benth
16. G. tomentella Hayata
Chi phụ Soja (Moench) F.J. Herm
17. G. Soja Sieb và Zucc
18. G.max (L) merrill
40
40
40
40
40 ;
80
38 ;
40
78 ;
80
40
40
Australia
Australia
Australia
Australia, các đảo Nam Thái Bình
Dương
Australia, Papua New, Guinea
Australia, Philippin, Đài Loan
Trung Quốc, Nga, Đài Loan, Nhật
Bản, Triều Tiên - đậu t ương dại.
Đậu t ương trồng hiện nay trên thế
giới có ở nhiều nước.
- Chi phụ: Glycine:
Các loài trong chi phụ Glycine hầu hết là những cây lưu niệm, hoang dại cổ
xưa, được tìm thấy ở Australia, các đảo phía nam Thái Bình Dương, Philippin, Đài
Loan và Đông Nam Trung Quốc. Các loài này không có trong nền nông nghiệp
thâm canh, trừ loài Glycine Canescens F.J. Herm có giá trị trồng làm cỏ khô, dự trữ
thức ăn cho gia súc. Tất cả các loài trong chi phụ này có các bộ gen có thể là nhị
bội, tứ bội và có các dạng lệnh bội (40; 80; 38; 78). Lai giữa các loài trong chi phụ
này rất khó khăn, ít có kết quả. Bằng cách sử dụng nuôi cấy In vitro ở giai đoạn tiền
phôi, có thể thu được một số quả chín khi lai giữa các loài nhị bội của chi phụ này
với loài Glycine max. Một số tổ hợp lai giữa G.max với loại tứ bội là loài G.max
với loại tứ bội là loài G.tomentella có thể thu được hạt lai và cây F1, nhưng cây F1 là
bất dục.
- Chi phụ Soja (Moench) F.J. Herm
Chi phụ Soja bao gồm loài G.Soja Sieb và Zucc và loài G.max là loài đậu
tương trồng, có ý nghĩa kinh tế và quan trọng nhất. Khi lai trong loài G.max có thể
thu được kết quả trong các tổ hợp lai. Loài G.max là loại cây thân thảo hàng năm,
chưa bao giờ tìm thấy trong trạng thái hoang dại, được gieo trồng ở nhiều nước trên
thế giới.
Loài G. Soja Sieb và Zucc cũng thuộc loại cây thân thảo hàng năm, dạng cây
bò leo với các lá kép có 3 thuỳ nhỏ và hẹp. Hoa tím, hạt nhỏ, cứng tròn có màu đen,
nâu tối. Mọc hoang dại ở các tỉnh phía Bắc và Đông Bắc Trung Quốc, Liên Xô (cũ),
Triều Tiên, Nhật Bản.
Cả 2 loài G. max và G. Soja và Zucc đều có số lượng nhiễm sắc thể 2n = 40.
3. ĐẶC ĐIỂM CƠ QUAN SINH SẢN CỦA CÂY ĐẬU TƯƠNG
Đậu tương thường ra hoa sau khi gieo trồng từ 25 – 35 ngày đối với các giống
ngắn ngày chín sớm, các giống chín muộn từ 40 – 50 ngày. Thời gian ra hoa còn tuỳ
thuộc các vụ trong năm. Hoa đậu tương có các màu chủ yếu: tím, hồng, trắng. Các
11
hoa được mọc ra ở nách lá, đầu cành, đầu thân, mỗi cụm hoa có thể từ 3 - 35 hoa.
Hoa đậu tương thường nở vào buổi sáng từ 8 - 9 giờ đến 11 - 12 giờ. Nhiệt độ thuận
lợi cho nở hoa, tung phấn và thụ tinh là 250 - 280C, độ ẩm không khí 75 - 80%.
Hoa đậu tương có kích thước rất bé, chiều dài từ 5 - 7mm. Một hoa bình
thường bao gồm các bộ phận: đài hoa hình ống, 5 cánh hoa trong đó có 1 cánh rộng
nhất gọi là cánh cờ, 2 cánh bên và 2 cánh thìa, 2 bó nhị đực dính liền nhau và 1 nhị
đực tách rời, tạo thành 1 hình ống bao quanh nhị cái. Bầu nhụy cái hơi cong về phía
nhị đực tách rời, đỉnh của bầu nhụy là một cụm vòi nhụy. Với cấu tạo hoa như vậy,
đảm bảo cho sự tự thụ phấn của cây đậu tương.
Số quả hạt trên chùm thay đổi từ 2 đến 20 quả và có thể có đến 400 quả/cây.
Quả đậu tương chứa từ 1 đến 5 hạt, thông thường từ 2 đến 3 hạt trên quả. Màu sắc
quả khi non thường có màu xanh, khi chín màu vàng, nâu, xám hoặc đen.
Hình dạng hạt đậu tương có thể hình gần tròn, ovan, dẹt. Màu hạt: vàng, xanh,
đen, nâu. Cấu tạo hạt: bao gồm vỏ hạt, rốn hạt, phôi mầm, nội nhũ. Khối lượng
1.000 hạt thay đổi từ 45g đến 50g. Đậu tương rau yêu cầu khối lượng 1000 hạt từ
300 - 500g.
Đậu tương là cây tự thụ phấn điển hình, tỉ lệ giao phấn tự nhiên từ 0,5 – 1%.
Vào thời gian thụ phấn bó các nhị đực kéo dài ra giống như 1 cái chuông bao quanh
nhụy. Các hạt phấn rơi trực tiếp trên nuốm nhụy, vì thế tỉ lệ tự thụ rất cao. Thời gian
từ khi thụ phấn đến thụ tinh vào khoảng 8 – 10 giờ. Sự tự thụ phấn có thể xảy ra
trước ngày hoa nở ở bên trong nụ hoa. Vì thế ngày hoa nở đầy đủ là ngày thụ tinh
hoặc sau khi thụ tinh.
4. PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG
4.1. Mục đích chung của chọn tạo giống đậu tương
- Năng suất cao, thời gian chín phù hợp cho từng vùng, vụ khác nhau.
- Khả năng chống chịu sâu bệnh, tính chống đổ, chống tách vỏ, chống chịu với
điều kiện môi trường không thuận lợi.
- Khả năng tổng hợp nitơ, thành phần và chất lượng hạt. Ngoài ra trong các
điều kiện cụ thể cho từng khu vực sinh thái và các mục đích sử dụng riêng biệt.
4.2. Thu thập đánh giá nguồn gen
Bằng cách thu thập nguồn gen của các vùng sinh thái khác nhau ở trong và
ngoài nước, có thể là các loài hoang dại, các dòng mới chọn tạo, các giống bao gồm
các kiểu gen khác nhau, có thể thu được các nguồn gen quý như khả năng chống
chịu sâu bệnh.
Các vật liệu từ giống địa phương và nhập nội đều là nguồn gen quý. Sau khi
đánh giá, trồng thủ trong sản xuất, có thể phát triển thành giống tốt.
Khi nghiên cứu đánh giá nguồn gen trên đồng ruộng cần chú ý một số vấn đề
sau: thí nghiệm tập đoàn không cần nhắc lại, cứ sau 10 mẫu giống gieo kèm 1 hoặc
2 đối chứng. Diện tích 1 ô từ 2 - 3m2, gieo 2 hàng, khoảng 50cm x 12,5cm, 1 hốc để
2 cây cố định. Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất.
12
- Các chỉ tiêu đánh giá như: màu sắc thân, mầm hoa, lá, vỏ quả, vỏ hạt, rốn hạt,
hình dạng lá, mức độ phát triển lông trên lá. Các chỉ tiêu này sử dụng thang điểm từ
1 đến 7 để đánh giá.
Về khả năng chống chịu sâu bệnh, tính chống đổ, chống tách vỏ, chịu nóng,
chịu lạnh và chịu hạn Căn cứ vào % và diện tích cây bị hại để cho điểm khi đánh
giá.
Sau khi nghiên cứu, đánh giá nguồn gen, có thể chọn lọc ra các dòng có triển
vọng, phát triển thành giống tốt hoặc có thể dùng làm các dạng bố mẹ trong tổ hợp
lai.
4.3. Phương pháp lai hữu tính đối với đậu tương
Về nguyên tắc và kỹ thuật lai được sử dụng tương tự như các cây tự thụ phấn
khác. Nhưng ở cây đậu tương khi lai, thường số hạt lai thu được không nhiều. Vì
thế trong kỹ thuật lai hữu tính cần chú ý một số điểm sau:
4.3.1. Chọn cây bố mẹ
Các dòng, giống sử dụng làm bố mẹ được tiến hành gieo trồng trên đồng ruộng
tránh đất đai bị nhiễm bệnh, chủ động tưới tiêu, không để cỏ dại, tạo mọi điều kiện
chăm sóc cho các cây sinh trưởng phát triển tốt. Cũng có thể chọn lọc các dạng làm
bố mẹ ngay trong vườn đánh giá nguồn gen. Để biết có thu được hạt lai thực hay
không, khi chọn các dạng làm bố mẹ nên sử dụng cây có hoa tím lai với cây hoa
trắng, dạng thân sinh trưởng hữu hạn với dạng thân sinh trưởng vô hạn. Đến thời kì
ra hoa tiến hành chọn lọc các cây sinh trưởng khoẻ, không bị bệnh, thân to có nhiều
hoa để làm cây mẹ hoặc lấy phấn làm bố cho tổ hợp lai.
4.3.2. Khử đực và thụ phấn
Chọn các chùm hoa trên thân chính, nên tỉa bớt các hoa không cần thiết.
- Các hoa chọn để khử đực phải là hoa phát triển bình thường, hoàn toàn chưa
nở, các tràng hoa mới nhú lên khỏi đài hoa, chưa nhìn rõ các cánh hoa một cách rõ
ràng.
- Khử đực: dùng panh, nhẹ nhàng tách các tràng hoa, sau đó gắp toàn bộ các
nhị đực ra ngoài (cụm 9 nhị đực và 1 nhị đực tách rời thường thấp hơn). Tránh làm
tổn thương bầu nhụy cái.
Thụ phấn: lấy 1 – 2 bao phấn của cây dùng làm bố, đặt vào hoa cái đã khử đực.
Sau khi thụ phấn có thể dùng 1 – 2 lá chét ở gần hoa lai để bao cách li hoa đã lai.
Bằng cách này cũng làm tăng tỉ lệ đậu hạt so với khi lai xong không bao.
Phấn hoa của cây bố có thể bảo quản trong bình hút ẩm ở điều kiện bình
thường để sử dụng trong ngày. Tuy nhiên sau khi khử đực cần tiến hành thụ phấn
ngay là tốt nhất. Thời gian khử đực và thụ phấn được tiến hành trong buổi sáng từ 8
- 11 giờ.
4.4. Phương pháp xử lý đột biến đối với đậu tương
Đậu tương là cây mang lại nhiều kết quả trong xử lí đột biến cảm ứng để tạo ra
các giống và nguồn vật liệu mới.
Sử dụng các tác nhân gây đột biến đậu tương đã đem lại kết quả ở một số nước
trên thế giới và Việt Nam. Thái Lan sử dụng chương trình đột biến để tạo giống đậu
13
tương có khả năng chống bệnh rỉ sắt. Xử lí phối hợp tia và EMS (Ethylmethane
Sulphonate) đã làm tăng năng suất 6%, tăng hàm lượng protein 2,5% và chín sớm
hơn giống không xử lí 30 ngày (Mekhan jiew, 1981).
Các giống đậu tương của Việt Nam đã được các cơ quan nghiên cứu trong
nước chọn tạo ra bằng phương pháp xử lí đột biến như: DT84, DT90, DT95 và
M103.
Các tác nhân gây đột biến thường sử dụng cho chọn tạo giống đậu tương là tia
nguồn Co60. liều lượng với hạt khô là 18 – 20Krad. Các chất đột biến hoá học có
hiệu quả cao, thuộc nhóm Alkyl, nồng độ thường từ 0,001% đến 0,4%. Ngoài ra các
azide cũng có hiệu quả gây đột biến ở đậu tương.
- Bộ phận xử lí: hạt khô, hạt ướt (đã ngâm nước từ 2 – 3 giờ), hạt nảy mầm, xử
lí khi ra hoa.
- Thời gian xử lí đột biến hoá học từ 3 – 16 giờ tuỳ thuộc vào vật liệu và chất
đột biến. Xử lí trong điều kiện pH = 3, nhiệt độ từ 25 – 35oC.
Chú ý mẫu hạt xử lí phải đúng giống và có độ nảy mầm cao (trên 70% cho nảy
mầm), sức sống hạt giống tốt. Sau khi xử lí hoá chất rửa sạch hạt bằng nước lã
nhiều lần, gieo trong điều kiện đất ẩm.
4.5. Phương pháp chọn lọc đối với đậu tương
Về cơ bản các phương pháp chọn lọc đối với cây đậu tương được sử dụng
tương tự như các cây tự thụ phấn khác. Tuy nhiên các phương pháp hay dùng cho
các thế hệ lai hữu tính là: phương pháp chọn lọc 1 hạt (Single – Seed descent),
phương pháp chọn lọc phả hệ (Pedigree). Chọn lọc đối với các giống địa phương,
quần thể tự nhiên, các giống mới đã phát triển trong sản xuất để duy trì quần thể. Có
thể sử dụng phương pháp chọn lọc hỗn hợp hoặc chọn lọc cá thể một lần hay nhiều
lần.
Trong phương pháp phả hệ (Pedigree) ở thế hệ F2 đơn vị đánh giá là từng cây,
sau khi đánh giá, chọn lọc phải thu hoạch, bảo quản riêng. Thế hệ F3 nếu có các
dòng thể hiện, khả năng chống đổ và chống bệnh tốt có thể thu hoạch cả dòng. Thế
hệ F4 đơn vị chọn lọc là dòng, các dòng tốt được thu hoạch và bảo quản riêng, loại
bỏ các dòng xấu. Thế hệ F5, sơ bộ đánh giá các dòng tốt, có thể bố trí 2 – 3 lần
nhắc lại, diện tích ô từ 2 – 3m2, có đối chứng để chọn ra các dòng triển vọng. So
sánh các dòng tốt đã chọn ở F5. Thí nghiệm ở 4 lần nhắc lại, diện tích ô từ 5 –
10m2. Các chỉ tiêu nông sinh học được đánh giá đầy đủ. Thí nghiệm được lặp lại 2
– 3 vụ, nhằm chọn ra dòng tốt nhất đưa đi khảo nghiệm giống Nhà nước.
Đối với phương pháp chọn lọc 1 hạt chú ý ở thế hệ F2 vào thời kì chín ngọn
ngẫu nhiên ở tất cả các cây, mỗi cây 1 quả 3 hạt (trường hợp cây không có quả 3
hạt, có thể ngẫu nhiên 2 quả, loại bỏ bớt số hạt, chỉ giữ lại 1 mẫu 3 hạt).
Ưu điểm của phương pháp 1 hạt: giảm bớt được diện tích gieo trồng và giảm
khối lượng công việc mà vẫn giữ được các biến dị di truyền.
Nhược điểm: có thể bỏ sót một số kiểu gen tốt trong quá trình chọn lọc, nếu
như một mẫu hạt nào đó bị chết đi trong các thế hệ đầu. Ngược lại có những kiểu
14
gen không mong muốn nhưng vẫn giữ lại thế hệ F4 hoặc F6, đáng lẽ phải loại từ thế
hệ F2. Thời gian chọn tạo giống lâu, phải chờ đến F6.
Ngoài các phương pháp cơ bản đã trình bày ở trên. Vấn đề ưu thế lai ở cây đậu
tương cũng được một số tác giả nêu ra, nhờ phát hiện ra hiện tượng bất dục đực ở
cây đậu tương do 1 cặp gen lặn ms1s1. Song vấn đề sản xuất hạt lai để phát triển các
giống đậu tương ưu thế lai có nhiều khó khăn, cho đến nay chưa được áp dụng rộng
rãi.
Trong cải tiến quần thể nhằm làm tăng năng suất và tăng hàm lượng protein
người ta đã sử dụng hiện tượng bất dục đực vào chọn lọc chu kì, với mục đích tái tổ
hợp gen được tăng lên và sẽ thu được nguồn gen phong phú.
5. KỸ THUẬT SẢN XUẤT HẠT GIỐNG ĐẬU TƯƠNG
Vật liệu khởi đầu cho sản xuất giống có thể là hạt giống tác giả, hạt giống lấy
từ cơ sở sản xuất. Sản xuất giống được tiến hành qua các giai đoạn sau:
- Năm thứ 1 (vụ thứ 1): gieo vật liệu khởi đầu với số lượng cây để sau này khi
chọn phải được 2.000 – 3.000 cây mới đảm bảo độ di truyền không bị thu hẹp.
Thông thường phải có từ 3 – 4kg hạt gieo ở vụ thứ 1. Tiến hành chọn lọc các cây
sinh trưởng phát triển tốt, đúng với nguyên bản của giống định sản xuất. Quan sát
và chọn lọc vào 2 thời kì: khi ra hoa và chín trước khi thu hoạch, dựa vào các đặc
điểm chính như: dạng cây, dạng lá, màu sắc lá, hoa, vỏ quả, vỏ hạt, rốn hạt, hình
dạng và kích cỡ hạt. Thời gian ra hoa và thời gian chín. Các cá thể chọn được thu
hoạch và bảo quản riêng, tránh mất sức nảy mầm.
- Năm thứ 2 (vụ thứ 2): mỗi cây chọn được từ vụ một đều được lấy ra 20 hạt
đem gieo. Sau mỗi nhóm 9 cá thể gieo kèm 1 giống đối chứng. Chọn thời vụ tốt
nhất để gieo, tất cả các cá thể đã chọn ở vụ thứ 1 được gieo hết, các ô đất có chiều
ngang từ 1 - 2m, chiều dài 30 - 50m. Mật độ gieo 300.000 cây/ha. Tiến hành chọn
lọc các cá thể tốt đúng nguyên bản, thu hoạch đập hạt và tập trung lại bảo quản để
gieo vào vụ tới.
- Năm thứ 3 (vụ thứ 3): Toàn bộ hạt thu được ở vụ thứ 2 đem gieo ở mật độ
350.000 - 400.000 cây/ha, tiến hành chọn lọc loại bỏ các cây không đúng nguyên
bản, các cây bị bệnh vào thời kì ra hoa và chín trước thu hoạch. Hạt thu được ở vụ
này là hạt của thế hệ 1 siêu nguyên chủng.
- Năm thứ 4 (vụ thứ 4): Sản xuất hạt siêu nguyên chủng. Thực chất để tăng số
lượng hạt siêu nguyên chủng, vì toàn bộ hạt đã giữ lại ở vụ thứ 3 được gieo hết, các
tiêu chuẩn chọn lọc và loại thải giống vụ 3.
- Năm thứ 5 (vụ thứ 5): Sản xuất hạt nguyên chủng: Các tiêu chuẩn chọn lọc và
loại thải các cá thể ra khỏi quần thể tương tự vụ 4, nhưng bên cạnh ruộng sản xuất
hạt nguyên chủng phải gieo đối chứng lấy từ vụ thứ 1 và 1 giống đối chứng là giống
hiện đang phổ biến tại địa phương để đánh giá.
Nhân hạt giống xác nhận thường qua 2 vụ, nhân tại các cơ sở Nhà nước, đến
năm thứ 3 nhân lớn ở các cơ sở sản xuất để cung cấp số lượng hạt giống để cung
cấp cho đại trà. Hạt giống các cấp phải được đối chiều đúng tiêu chuẩn Nhà nước
quy định.
15
Các ruộng sản xuất giống được gieo trồng cách li với các giống khác ít nhất 3m.
16
CHỌN TẠO GIỐNG MÍA
1. NGUỒN GỐC CÂY MÍA
Cây mía có nguồn gốc ở nam Thái Bình Dương, vùng quần đảo Ghinê. Có thể
cây mía xuất hiện từ hàng vạn năm về trước, khi quần đảo Á – Úc còn dính liền.
Người ta đã tìm thấy những loài dại thuộc chi Saccharum phân bố rộng khắp ở Ấn
Độ, Trung Quốc, các quần đảo ở nam Thái Bình Dương (Philippin, Indonesia,
Australia).
Ở Trung Quốc và Ấn Độ, nghề trồng mía làm đường có cách đây hơn 2.000
năm. Từ hai nước này, nghề trồng mía được phổ biến rộng khắp vùng Đông Nam Á
và Nam Á (Philippin, Nhật Bản, Indonesia, Việt Nam). Cũng từ Ấn Độ, nghề này
được truyền qua phía Tây tới Iran, Ai Cập, Tây Ban Nha, Italia Các nước vùng
Địa Trung Hải trồng mía khoảng đầu thế kỷ XIII.
Năm 1490, Cristop Colombo đưa mía sang châu Mỹ và tại đây, chúng được
phát triển mạnh ở Trung và Nam Mỹ (Cu Ba, Mexico, Braxin, Pêru).
Ngày nay, mía được trồng rộng rãi ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới khắp các
châu lục với sản lượng đường đạt trên 80 triệu tấn/ năm chiếm 60 – 70% tổng sản
lượng đường trên thế giới (đường củ cải 30 – 35%).
2. PHÂN LOẠI MÍA
Mía thuộc họ Gramineae (hoà thảo), họ phụ Andropogoneae, tộc
Saccharinnae, chi Saccharum. Chi Saccharum có 10 loài, trong đó chủ yếu có 3 loài
mía trồng và 2 loài dại.
2.1. Các loài mía trồng
2.1.1. Loài Saccharum officinarum L (1753) (mía nhiệt đới, mía quý)
Là loài mía trồng chính, vì vậy tên Saccharum officinarum.L được dùng để chỉ
chung cho các loài mía trồng.
Loài mía này thích hợp vùng nhiệt đới. Đặc điểm chính là: cây to, thịt mềm,
nhiều nước, tỉ lệ đường cao. Nhược điểm chính: tính kháng bệnh thấp. Các giống
địa phương của nước ta thuộc loài S. officinarum có mía voi, mía đỏ, mía tím, mía
mưng
2.1.2. Loài Saccharum sinense Roxb, Emend, Jesw (1819) (mía Trung Quốc)
Thân nhỏ, lóng hình thót, lá mía hẹp, mềm rủ. Chín sớm, đẻ khoẻ, để gốc tốt.
Loài này phân bố chủ yếu ở vùng nam Trung Quốc, bắc Việt Nam. Các giống mía
Gie của ta thuộc loài này.
2.1.3. Loài Saccharum barberi Jesw (1925) (mía Ấn Độ)
Thích hợp điều kiện á nhiệt đới. Thân nhỏ, lóng hình trụ, tỉ lệ xơ cao. Đặc tính
nông học có lợi là sức sống khoẻ, đẻ khoẻ, bộ rễ phát triển mạnh, chịu hạn tốt,
kháng được nhiều loại sâu bệnh.
2.2. Các loài mía dại
17
2.2.1. Loài Saccharum spontaneum L.(1771) (mía dại vùng Tây Nam Á)
Đặc điểm chủ yếu là thân nhỏ, vỏ cứng, sức sống khoẻ, tỉ lệ xơ cao, đường rất
thấp, ra hoa sớm, tính thích ứng rộng, ít bị sâu phá hoại, có khả năng kháng bệnh
tốt.
Các loại lau, sậy ở nước ta thuộc loài này.
2.2.2. Loài Saccharum robustum Bround Jesw (1929)
Jeswiet phát hiện ra loài này ở Tân Gui-nê năm 1929. Đặc điểm loài này là
thân nhỏ, lóng dài, tỉ lệ đường thấp, sức sống khoẻ và ra hoa. Thân cây tuy cao
nhưng cứng nên chống được gió bão và sâu đục thân, kháng bệnh kém, nhất là
những bệnh ở cổ rễ.
Trong tộc Saccharinae có nhiều chi có quan hệ chặt chẽ với chi Saccharum.
Mulkherjee đã xếp các chi này vào một hệ thống gọi là “phức hệ Saccharum”, gồm
các chi: Saccharum + Eriathus + Sclerostachya + Narenga + Sorghum.
Trong thiên nhiên, các chi trong phức hệ Saccharum có thể tạp giao với nhau
và sự tạp giao này đã xảy ra trong quá trình phát triển và di chuyển của giống.
Brande cho rằng sự xuất hiện các dạng đa bội là bằng chứng rõ rệt về sự tạp giao
này. Sự tạp giao tự nhiên này đã phát sinh loài S.- officinarum – cơ sở của những
giống mía đầu tiên.
3. ĐẶC TÍNH DI TRUYỀN CỦA CÂY MÍA
3.1. Số nhiễm sắc thể
Chỉ có loài S. officinarum có số nhiễm sắc thể cố định (2n = 80). Còn các loài
khác đều có số nhiễm sắc thể không cố định. Đây là kết quả của tạp giao tự nhiên
giữa các loài thuộc chi Saccharum.
Theo Daniels và Roach (1987), phả hệ giản lược của các loài mía được trình
bày theo sơ đồ sau:
3.2. Di truyền nhiễm sắc thể ở cây lai
Sự kết hợp nhiễm sắc thể ở con lai rất phức tạp, khó tìm được quy kết hợp rõ
ràng.
Khi lai một giống của S. officinarum có n = 40 với giống mía dại Glagah
(S.spontaneum) có n = 56, người ta thu được con lai F1 có 2n = 136 tức là bằng [(40
x 2) + 56] chứ không phải (40 + 56 = 96) như theo quy luật thông thường. Trong
Sacchrum spontaneum
2n = 40 - 128
Erianthus sp
2n = 20 – 30 – 40 – 60
Miscanthus sp
2n = 38 – 114
Saccharum sp
2n = 100
S. barberi
2n = 81 – 124 S. barberi 2n = 81 – 124
Saccharum robustum
2n = 60 – 80
S. siennse
2n = 111– 120
18
trường hợp này, số đơn bội của S. officinarum đã tăng lên gấp 2 tức là không có quá
trình giảm phân. Tiếp theo, cho hồi giao F1 với S. officinarum, theo tỉ lệ kết hợp 1 :
1 thì con lai phải có 2n = 68 + 40 = 108. Nhưng kết quả lại là 2n = 148, nghĩa là 80
của S. officinarum và 68 của F1. Ở 2 lần lai, số nhiễm sắc thể của S. officinarum
được nhân 2. Tuy nhiên, tiếp tục cho hồi giao lần 2 với S. officinarum, con lai có 2n
= [(148/2 + 40] = 114, tức là có giảm phân ở S. officinarum. Nếu tiếp tục cho hồi
giao với S. officinarum thì số nhiễm sắc thể ở con lai biến động khoảng 94 – 100,
nghĩa là không theo quy luật nào cả.
4. PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG MÍA
4.1. Tuyển chọn từ tập đoàn giống mía tư liệu
Đây là phương pháp tuyển chọn giống nhanh, có thể tiến hành ở các cơ sở
nghiên cứu chưa có điều kiện tạo giống mới bằng các phương pháp khác. Đồng
thời, phương pháp tuyển chọn cũng là giai đoạn cuối của các phương pháp tạo
giống mới.
Phương pháp này có những ưu điểm là:
+ Rút ngắn thời gian nghiên cứu, không đòi hỏi phải có điều kiện nghiên cứu
cao, trang thiết bị phức tạp, do đó giảm nhiều chi phí nghiên cứu.
+ Tiếp thu được những thành tựu nghiên cứu của các nước khác và của các cơ
sở khác trong nước. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, đây là phương pháp chọn lọc - bồi dục giống, đánh giá và khu vực
hoá giống mà bản thân nó không nhằm tạo ra giống mới.
4.2. Phương pháp lai hữu tính đối với cây mía
Cho đến nay, đây là phương pháp tạo giống mía chủ yếu, nhiều giống mía nổi
tiếng thế giới, cho năng suất cao, phẩm chất tốt đã được tạo bằng phương pháp này.
Những giống mía lai đã thực sự tạo cuộc cách mạng trong công nghệ sản xuất mía
đường.
Các giống mía lai nổi tiếng đều là kết quả của phương pháp lai nhiều lần, kết
hợp lai tích luỹ, lai trở lại và các tổ hợp lai đầu tiên thường là lai khác loài kể cả lai
khác chi trong tộc Saccharinea để sử dụng gen tốt của cả các loài dại.
4.2.1. Lai khác loài
Điển hình thành công của phương pháp lai này giống POJ. 2878.
♀
Black
Cheribon
(S.offcinaru
Glagah
(S.spon
t)
♂ ♀
Bandijermasin
Hitam
(S.offcinarum)
Loethers
(S.officinar
um)
♂ ♀
Labaina
(S.robustu
m)
Fidji
(S.officinar
um)
♂
Kassa
er
POJ.1
00
EK-2
♂ ♀ ♂ ♀
POJ.1
00
♀
EK-
28
♂
POJ.28
19
Đầu tiên người ta tạo giống mới từ 3 cặp lai của 6 giống, trong đó 4 thuộc S.
officinarum, 1 thuộc S. spontaneum và 1 là S. robustum. Như vậy trong 3 cặp lai
này có 2 cặp là lai khác loài (giữa 1 loài giống và 1 loài dại). Sau đó tiến hành lai
nhiều lần giữa các con lai nhằm củng cố tính tốt của loài S. officinarum. Giống POJ.
2878 được tạo bằng phương pháp này là giống vượt hơn hẳn các giống đang trồng
lúc bấy giờ về nhiều tính trạng nông học.
4.2.2. Lai xa khác chi
Lai xa giữa các chi trong và ngoài phức hệ Saccharum nhằm mục đích phát
triển và củng cố cơ cấu di truyền của các giống mía. Ở các tổ hợp lai này, cây mẹ
thường là S. officinarum. Các chi khác thường được chọn làm cây bố.
Tính đa bội thể rất phổ biến trong chi Saccharum là kết quả của lai xa trong tự
nhiên đồng thời cũng là điều kiện để chi này dễ dàng lai với các chi khác trong
Gramineae.
Những kết quả nghiên cứu cho thấy lai giữa chi Saccharum (mẹ) và chi
Shorgum (bố) đã cho kết quả khả quan hơn cả, con lai có thời gian sinh trưởng chỉ 6
tháng tuổi. Đây là hướng tạo chọn giống mía cực ngắn ngày.
4.2.3. Kỹ thuật lai
Chuẩn bị tổ hợp lai: khi chọn tổ hợp lai, phải kiểm tra khả năng hữu thụ của
hạt phấn bằng dung dịch Lugon (1g Iod + 1gKI + 100ml nước). Nếu tỉ lệ hữu thụ
của hạt phấn đạt > 50% thì dùng làm dòng bố; nếu < 50% thì dùng làm dòng mẹ.
Giao phấn trong lồng vải: (phương pháp INICA, 1982).
+ Dùng 1 lồng vải trùm lên 1/3 cây mẹ (trùm kín cả bông cờ).
+ Cắt 2/3 thân cây bố (gồm cả bông cờ), trồng trong dung dịch dinh dưỡng
(hoặc bó bầu cho cây bố). Đưa cờ của cây bố vào cùng lồng với cây mẹ. Nếu nhiều
cây bố (tạp giao hỗn hợp) thì cũng đưa tất cả vào lồng vải.
+ Thời gian giao phấn 15 - 20 ngày. Có thể thay cây bố 2 - 3 lần (5 - 7 ngày
thay một lần).
Thu hoạch hạt: thời gian hạt chín (từ giao phấn đến khi thu hoạch bông)
khoảng 35 - 45 ngày. Cắt riêng từng bông, cho mỗi bông vào 1 túi vải phơi ở nơi
râmmát khoảng 5 - 7 ngày.
Gieo hạt: hạt thu hoạch, phơi khô nên gieo ngay. Nếu chưa gieo được thì
phải bảo quản lạnh ở 2 - 40C.
4.2.4. Tuyển chọn cây lai
Gieo hạt lai thành từng dòng để theo dõi. Cần tiến hành theo dõi 2 vụ liên tiếp
(1 vụ mía tơ và 1 vụ mía gốc).
Sau khi nhận xét con lai ở F1, tiến hành nhân ngay những dòng triển vọng bằng
phương pháp nhân vô tính (bằng hom) để đưa vào các thí nghiệm khảo nghiệm, so
sánh giống và khu vực hoá.
4.3. Phương pháp xử lí đột biến đối với cây mía
20
Phương pháp xử lí hoá chất mạnh như EMS (Etil - metano - sulfonat), và
MMS (Metil - metano - sulfonat) hay được sử dụng và tần số đột biến cao hơn
phương pháp vật lí. Vật liệu xử lí chủ yếu là mầm để gây biến dị mầm.
Một số thành công của phương pháp này như tạo giống đột biến mất khả năng
ra hoa, tạo giống chống bệnh.
Tuy vậy, cho đến nay chưa có giống mía cải tiến nào có triển vọng tốt được tạo
ra bằng phương pháp này. Vấn đề vai trò các đột biến và phương pháp xử lí còn cần
được nghiên cứu thêm.
4.4. Phương pháp nuôi cấy mô
Phương pháp nuôi cấy mô đã được áp dụng trong việc nhân và chọn giống cây
trồng nông nghiệp.
Đối với mía, phương pháp này có thể dùng để bổ trợ cho phương pháp lai hữu
tính để giữ một số đặc tính di truyền tốt của bố mẹ mà chúng không có khả năng kết
hợp trong tổ hợp lai.
Tuy việc nghiên cứu sử dụng phương pháp nuôi cấy mô đối với mía đã được
tiến hành từ những năm 1970, nhưng đến nay vẫn còn là vấn đề mới mà các nhà tạo
giống cần phải nghiên cứu thêm.
5. NHÂN GIỐNG MÍA
5.1. Nhân giống bằng hom ngọn
Khi thu hoạch mía, người ta chặt lấy hom ngọn. Dùng dao sắc chặt hom sau đó
chặt bỏ ngọn cây (phân mô phân sinh ngọn).
Hom giống nên trồng ngay khi còn tươi. Nếu chưa trồng ngay thì cần bảo quản
nơi thoáng mát. Tốt nhất bảo quản hom trong hố cát ẩm. Hom được bó thành từng
bó, mỗi bó 30 – 40 hom. Khi trồng nên phơi hom 1 – 2 nắng nhẹ cho giảm lượng
nước trong hom, trước khi trồng nên xử lí hom bằng nước vôi hoặc dung dịch
CuSO4 1% trong 5 – 15 phút.
5.2. Nhân giống bằng hom thân
Phương pháp này nhằm mục đích nhân nhanh giống mía tốt đã được xác định,
mở rộng nhanh diện tích trồng mía hoặc để giải quyết giống cho vụ trồng trái vụ
không có hom ngọn.
Khi mía chuẩn bị chuyển từ thời kì vươn cao sang thời kì chín (từ 6 đến 9
tháng tuổi) thì thu hoạch lấy hom, như vậy có thể trồng năm 2 vụ hoặc 2 năm 3 vụ.
Để nâng cao hệ số nhân giống, nên chặt hom có 2 - 3 mầm. Kỹ thuật đặt hom thân
như với hom ngọn.
5.3. Nhân giống bằng để gốc
Sau khi thu hoạch mía cây, những mầm thân ở phần gốc còn lại sẽ có khả năng
nảy mầm và mọc thành cây con. Lợi dụng đặc điểm này, người ta tiến hành xử lí kỹ
thuật để thu hoạch 1 vụ mía nữa - gọi là vụ mía gốc.
Kỹ thuật xử lí mía gốc
+ Trồng và chăm sóc tốt mía tơ: để chuẩn bị vụ mía gốc, ngay khi trồng mía tơ
phải trồng sâu, bón đủ phân và chăm sóc tốt. Trước khi thu hoạch mía tơ 1 - 2 tháng
21
cần bón thúc để nâng cao sức sống của gốc. Lượng phân bón cho 1 ha khoảng 6 - 8
tấn phân chuồng hoặc 300 - 350kg NPK (5 - 10 - 6).
+ Sau khi thu hoạch mía tơ, cần phải bạt gốc ngay. Dùng cuốc sắc bạt gốc sâu
để loại bỏ những mầm ở cao.
+ Cày xả để kích thích những mầm ở sâu nảy mầm và làm đứt rễ già. Sau khi
cày xả 10 - 15 ngày thì bón phân và vun gốc.
Để tăng hệ số nhân giống mía, cần trồng mật độ thấp, tập trung chăm sóc, bón
phân, tưới nước đầy đủ và áp dụng tất cả các biện pháp nhân giống có thể đưa hệ
số nhân lên tới 30 - 35 lần/năm.
22
CHỌN TẠO GIỐNG BÔNG
1. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY BÔNG
Cây bông thuộc bộ Gossypyeae, họ Malvaceae, chi Gossypium (Hutchinson,
1947; Ximongulian, 1987;).
Tổ tiên của bông là cây lâu năm, do quá trình phân li tính trạng trong tự nhiên,
do sự thuần hoá của con người khi gieo trồng, một số loài bông, đặc biệt các loài
bông trồng trọt, đã biến đổi thành cây hàng năm.
Gossypium có 5 loài bông trồng trọt, và trên 50 loài bông dại. Trong 5 loài
trồng trọt có 4 loài phổ biến khắp các vùng trồng bông là:
- Bông cỏ Châu Á (Gossypium arboreum L.) có xuất xứ từ Châu Á. Một số
giống thuộc loài này hiện nay vẫn còn trồng ở các vùng núi phía bắc nước ta.
- Bông cỏ Châu Phi (Gossypium herbaceum L.) có nguồn gốc từ Châu Phi,
phân bố chủ yếu trên một số vùng khí hậu khắc nghiệt của Châu Phi và một số vùng
Châu Á.
- Bông luồi (Gossypium hirsutum L.) có nguồn gốc từ Trung Mỹ, chiếm
khoảng 90% diện tích trồng bông trên Thế giới.
- Bông Hải Đảo (Gossypium barbadense L.) có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Phân
bố chủ yếu ở một số nước Bắc Phi như Ai Cập, Marôc
Hai loài bông cỏ thích ứng tốt với các điều kiện khắc nghiệt, đất nghèo dinh
dưỡng, chống chịu khá với các loài sâu bệnh, nhưng năng suất thấp và phẩm chất xơ
xấu. Bông Hải Đảo năng suất cao hơn bông cỏ nhưng vẫn vào loại thấp, chất lượng
xơ bông Hải Đảo rất tốt. Còn loài bông luồi năng suất cao đồng thời chất lượng xơ
tốt, cũng chính vì vậy bông luồi phát triển rất nhanh, chiếm phần lớn diện tích các
vùng trồng bông trên Thế giới. Di cư đến các vùng địa lí và khí hậu khác nhau loài
bông luồi liên tục biến đổi trở nên rất đa dạng: bao gồm các dạng hoang dại, bán
hoang dại, dạng trồng trọt, dạng thân gỗ cao lớn, dạng thân bụi thấp cây, dạng lâu
năm và dạng hàng năm
Hai loài bông cỏ có nguồn gốc từ Châu Á và Châu Phi nên còn được gọi là
bông cực lục địa, còn 2 loài bông luồi và bông Hải Đảo có nguồn gốc từ Châu Mỹ
nên được gọi là bông Tân lục địa.
Rất nhiều người đã nghiên cứu tìm xuất xứ của cây bông và cũng có những ý
kiến khác nhau về vấn đề này. Tổ tiên cây bông (dạng bông lâu năm) có thể tìm
thấy ở khắp nơi trên thế giới nhưng tập trung nhất là ở Châu Mỹ, Châu Phi và Châu
Á.
Sơ đồ vị trí của bông luồi trong sơ đồ đơn giản về phân loại cây bông
(Theo Mayer, 1954)
Gossypium
G.herbaceum L.
G.arboreum L.
G.hirsutum L.
G.barbadeuse L.
G.Tricussbidatum L.
Các loài hoang dại
ssp.mexicanum
(dạng dại)
ssp.punetatum
(cây lâu năm)
ssp.panicum
(dạng trồng, cây cao, vùng nhiệt đới)
ssp.euhirsutum
(dạng bông luồi trồng trọt hàng năm)
var.nervosum
var.microcarpum
var.taitense
23
F.M.Mayer cho rằng do diễn biến của các quá trình địa chất, khí hậu thay đổi
dẫn đến hình thành 3 nhóm các loài bông theo nguồn gốc địa lí: nhóm Á – Phi,
nhóm Châu Mỹ và nhóm Châu Úc. Về sau từ nhóm Á – Phi hình thành nên nhóm
Châu Á (gồm vùng Nam Á và Đông Nam Á) và nhóm Châu Phi (gồm vùng Châu
Phi và các nước Tây Nam Á). Nhóm Châu Mỹ phân thành 2 nhóm các loài vùng
Trung Mỹ và Nam Mỹ. Con người đã sử dụng 1 số loài Á – Phi và 1 số loài Châu
Mỹ vào sản xuất và phát triển lên vùng cận nhiệt đới và ôn đới.
Sau khi phát hiện Châu Mỹ, cây bông được trao đổi và di thực giữa các châu
lục. Sự thay đổi điều kiện đất đai khí hậu là nguyên nhân tạo ra hàng loạt biến dị di
truyền làm vật liệu cho các quá trình chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Ngoài
ra trong khi phát triển, giữa các loài bông cũng có thể xảy ra lai tự nhiên và cả lai
nhân tạo, đã làm xuất hiện vô số tổ hợp lai có kiểu gen khác nhau. Đấy là những
nguyên nhân dẫn đến sự đa dạng di truyền của cây bông như ngày nay.
2. ĐẶC TÍNH DI TRUYỀN CỦA CÂY BÔNG
2.1. Cơ quan sinh sản của cây bông
Hoa bông được hình thành từ nách lá của thân hoặc cành. Hoa bông lưỡng
tính. Hoa bông có 3 lá đài xuất hiện sớm và khá lớn, lá đài có màu xanh và xẻ thuỳ
sâu. Cánh hoa lớn, có màu trắng, màu kem, vàng, da cam, đỏ, nâu hoặc tím, 5 cánh
hoa tách rời ở phía trên nhưng gắn liền nhau ở phần gốc nơi tiếp giáp với bầu hoa.
Bầu hoa bông rất lớn nằm giữa hoa, vòi nhụy vươn cao. Nhị đực gồm nhiều bao
phấn, chỉ nhị gắn vào ống nhị đực bao quanh vòi nhụy. Phấn bông lớn, có hình cầu,
bề mặt phấn phủ nhiều gai nhỏ, nhờ những gai này phấn bông dễ dàng bám vào nhị
cái hoặc vào thân côn trùng. Chính vì vậy phấn bông không bị gió cuốn đi, bông
không thụ phấn nhờ gió mà chỉ tự thụ phấn hoặc thụ phấn nhờ côn trùng. Bầu hoa
bông có 3 – 5 ô, mỗi ô phát triển thành 1 múi, mỗi múi có khoảng 6 - 11 noãn (là
những hạt bông sau này).
Bông là cây tự thụ phấn, nhưng chúng cũng có thể thụ phấn chéo nhờ côn
trùng. Ở một số giống, trong những điều kiện nhất định khả năng thụ phấn chéo rất
cao (từ 10 đến 90%). Có những giống bông thụ phấn kín do hoa không mở, với
những giống này không thể có thụ phấn chéo trong tự nhiên.
2.2. Quỹ gen cây bông
Quỹ gen lớn về cây bông được xây dựng từ lâu ở các nước trồng nhiều bông
như Mỹ, Ấn Độ, Liên Xô (cũ), Pakistan, Brazil, Trung Quốc Đặc biệt Viện
nghiên cứu cây trồng VIR thuộc Liên bang Nga đã thu thập tập đoàn giống bông
trồng và bông dại từ những năm 20 của thế kỉ này và hàng năm đều được bổ sung
thêm. Cho đến nay Viện VIR đã nghiên cứu, bảo quản trên 6.000 mẫu giống bông
(Lemeshev, 1987). Hiện nay tại Viện tài nguyên di truyền cây trồng quốc tế
(IPGRI) cũng lưu giữ một quỹ gen khá lớn của cây bông.
24
Ở Việt Nam việc thu thập quỹ gen cây bông chỉ mới được thực hiện một cách
có hệ thống từ sau năm 1975, sau khi Trung tâm nghiên cứu cây bông được thành
lập. Cho đến nay tại trung tâm này đã thu thập, nghiên cứu, bảo quản được gần
1.500 mẫu giống, trong đó gồm 45 giống bông cỏ Châu Á, 56 giống bông Hải Đảo
và 1.215 giống bông luồi. Các mẫu giống thu thập từ các nguồn địa phương và nhập
nội từ Ấn Độ, Liên Xô (cũ), Mỹ, Mexico, Israel, Brazil (Trần Thanh Hùng, 1994;
Bùi Thị Ngọc, 1995). Hàng năm Công ty bông Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu
cây bông Nha Hố vẫn tiếp tục thu thập bổ sung cho nguồn gen này.
Tập đoàn giống bông của nước ta trong những năm gần đây đã được quan tâm
nghiên cứu và khai thác có hiệu quả, đây là nguồn vật liệu chủ yếu để chọn tạo các
giống bông thuần cũng như bông lai đang phổ biến trong sản xuất.
2.3. Đặc tính di truyền của cây bông
Trong chi bông có 5 hệ gen (genom) khác nhau, kí hiệu A, B, C, D, E. Các loài
bông cỏ Châu Phi và bông cỏ Châu Á có hệ gen A, chúng đều là loài lưỡng bội (2n
= 26). Hai loài này khác nhau bởi một số trao đổi chéo nhiễm sắc thể nên bộ lưỡng
bội của chúng được kí hiệu là A1A1 và A2A2. Hai loài tuy cùng lưỡng bội nhưng lai
tự nhiên giữa chúng rất khó xảy ra, dù trồng xen kẽ với nhau chúng vẫn giữ được
tính đặc thù của từng loài. Bông luồi và bông Hải Đảo là những loài đa bội (2n =
56), chúng là kết quả lai tự nhiên của các loài lưỡng bội, sau đó con lai tự đa bội
hoá mà thành. Riêng loài G.tomentosum L. cũng là loài đa bội được hình thành từ
các giao tử không giảm nhiễm của các loài lưỡng bội (F.M.Mayer, 1954).
Thành phần hệ gen của một số loài bông
(Theo Sauder – Gulaev, 1975)
TÊN LOÀI SỐ NHIỄM SẮC THỂ HỆ GEN
Các loài bông trồng trọt
G.herbaceum
G. arboreum
G.hirsutum
G.barbadense
Các loài hoang dại
G.anomalum
G.thurberi
G.raimondii
G.tomentosum
26
26
52
52
26
26
26
52
A1A1
A2A2
A1A1D1D1
A2A2D2D2
B1B1
D1D1
D5D5
A3A3D3D3
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG BÔNG
3.1. Nhập nội giống bông
Nhập nội và thuần hoá các giống đóng vai trò rất quan trọng trong chương trình
chọn tạo giống bông ở nước ta.
Đối với các quốc gia trồng bông, nơi đầu tiên có thể tìm kiếm nguồn gen tốt để
nhập nội là Viện tài nguyên di truyền cây trồng Quốc tế (IPGRI), Viện nghiên cứu
cây trồng VIR Liên bang Nga, ngoài ra các quốc gia trồng nhiều bông đều có quỹ
25
gen cây bông lớn có thể tìm kiếm để nhập nội như Mỹ, Ấn Độ, Pakistan,
Uzbekistan, Australia, Israel, Trung Quốc Khi nhập giống từ nước ngoài và
người chọn giống phải thực hiện đầy đủ các khâu bắt buộc với công tác nhập nội
giống nói chung như:
- Kiểm dịch thực vật để đề phòng khả năng cùng với giống bông còn nhập
thêm cả cỏ dại và các loại sâu bệnh.
- Khảo nghiệm các giống nhập từ mức thấp đến mức cao. Khảo sát tập đoàn
nhập nội, phân nhóm sử dụng, các giống có triển vọng đưa khảo nghiệm so sánh,
giống tốt nhất có thể gửi đánh giá ở mức cao hơn cho đến khảo kiểm nghiệm
giống quốc gia, nếu vượt các đối chứng ở mức có ý nghĩa thì đưa sản xuất thử để
tiến tới công nhận giống.
Những giống không sử dụng trực tiếp làm giống được có thể lưu giữ để làm
vật liệu chọn tạo giống sau này.
Cần lưu ý là tuyển chọn giống đưa vào sản xuất trực tiếp từ nguồn nhập nội
thường có hiệu quả tốt khi xuất xứ của giống có các điều kiện tự nhiên cũng như tập
quán canh tác gần giống với nơi được nhập vào, đặc biệt với các quốc gia có cùng
vĩ độ thì việc nhập nội, trao đổi giống dễ thành công hơn.
3.2. Phương pháp lai hữu tính đối với cây bông
3.2.1. Lai trong loài
Các giống bông trồng cùng một loài lai với nhau trong nhiều trường hợp cho
các dạng biến dị tổ hợp rất tốt.
Khi chọn các giống bố mẹ để lai cần lưu ý đến các đặc tính kinh tế quan trọng
như số quả/ cây, kích thước quả, tỉ lệ xơ, chất lượng xơ, tính chống chịu để có thể
chọn được từ con lai, những biến dị tổ hợp với nhiều tính trạng quý. Các giống bố
mẹ có thể khác nhau về hình thái, xa nhau về địa lí, vùng sinh thái
Tuỳ theo yêu cầu cụ thể có thể lai đơn, lai kép hoặc lai phức tạp hơn. Muốn
tăng tính trạng có lợi hoặc loại bỏ tính trạng xấu có thể sử dụng phương pháp lai lại
(backcross).
Vì bông là cây tự thụ phấn cũng có tỉ lệ giao phấn khá cao (nhờ côn trùng) do
đó vật liệu lai cần được chọn lọc kỹ và phải cho tự thụ phấn kèm theo cách li chặt
chẽ trước khi lai vài ba thế hệ để bảo đảm độ thuần của giống dòng.
Chọn lọc đối với con lai bắt đầu từ F2 và tiếp tục ở các thế hệ tiếp sau. Chọn
lọc có hiệu quả đối với quần thể con lai ở cây bông là chọn lọc theo phả hệ
(pedigree).
3.2.2. Lai xa
Đối với cây bông lai xa rất có ý nghĩa. Rất nhiều dạng lai có giá trị thu được từ
lai xa: các dạng lai có xơ bền, sợi mịn, xơ dài, kháng côn trùng và tuyến trùng,
chống chịu bệnh héo nhũn, bệnh giác ban, bệnh xoăn lùn do virus
26
Lai xa giữa các loài bông có cùng số lượng nhiễm sắc thể thường dễ thu
được kết quả (bông luồi với bông Hải Đảo, bông cỏ châu Á với bông cỏ châu
Phi).
Lai xa giữa các loài khác nhau về số lượng nhiễm sắc thể (2x và 4x) thường rất
khó khăn. Hạt lai thường bị rỗng do phôi chết sớm, quả lai thường rụng sớm, nếu
thu được kết quả thì con lai F1 cũng thường bất dục.
Để khắc phục hiện tượng không kết hạt khi lai xa đầu tiên phải tạo điều kiện
tốt cho cây mẹ trong và sau khi lai như chế độ dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng để
bảo đảm an toàn cho quá trình thụ phấn, thụ tinh và phát triển của phôi, quả. Lựa
chọn giống thích hợp để lai khác loài nhiều khi cho hiệu quả hoàn toàn khác nhau.
Khắc phục hiện tượng bất dục ở con lai F2 bằng cách lai lại, hoặc tạo con lai đa
bội khác nguồn. Ở Uzbekistan đã tạo giống lai giữa các loài có số nhiễm sắc thể
khác nhau như sau: G. arboreum x G.thurberi (cùng có 2n = 26). Con lai F2 được đa
bội hoá (2n = 52) lai tiếp với G.hirsutum (2n = 52). Con lai ba này có độ bền xơ cao
nhất trong các giống đang sản xuất tại vùng Trung Á thuộc Liên Xô (cũ). Ở Bờ Biển
Ngà cũng trồng phổ biến các giống lai ba khác loài là HAR (hirsutum x arboreum x
raimondci) và ATH (arboreum x thurberi x hirsutum). Các giống này có năng suất,
tỉ lệ xơ và chất lượng xơ đều cao.
Ở Ấn Độ lai xa giữa G. arboreum với G.thurberi và giữa G.thurberi với
G.raimandii cũng đã cho những giống lai quý chín sớm, quả to, chất lượng xơ cao.
Lai giữa bông luồi và thứ bông luồi dạng dại (G.hirsutum x ssp. Mexicanum
var.nervosum) là phép lai thông dụng để tạo dạng chống bệnh héo nhũn do nấm.
F1 (giống bông luồi x mexicanum) x giống hoặc giống x F1 (giống bông luồi x
mexicanum).
F1 có thể lai với chính giống làm mẹ hoặc có thể lai với một giống khác để có
được con lai vừa có nhiều tính quý của giống vừa chống chịu bệnh tốt.
3.3. Phương pháp xử lý đột biến đối với cây bông
Các tác nhân đột biến có thể làm thay đổi nhiều đặc tính quan trọng ở cây bông
như chiều cao cây, kích thước quả, độ lớn thân, cành, tăng số quả/cây, tăng độ lông
phủ trên thân lá thay đổi tỉ lệ và chất lượng xơ
Xử lí đột biến có thể với hạt khô, hạt ngậm no nước, hạt đang nảy mầm, cây
đang ra hoa, phấn hoa, hợp tử. Nhưng tần số đột biến cao nhất thu được khi xử lí
các giao tử chín và hợp tử.
Tác nhân gây đột biến sử dụng cho cây bông cũng giống như với các cây trồng
khác. Về liều lượng xử lí phải tuỳ theo độ mẫn cảm của từng loài, từng giống khác
nhau.
Với tia Co60 liềul lượng xử lí trung bình là:
- Với hạt khô: 20 - 30 Krad
- Với hạt ngâm đủ no nước: 10 Krad
- Với hạt đang nảy mầm: 1 - 2 Krad
Với các tác nhân hoá học Viện nghiên cứu cây bông Tashken đã xử lí có hiệu
quả như sau:
27
- Ethylenimin (El): 0,005% - 0,02%
- Nitrozomethyl urea (NMU): 0,05%
Ngâm hạt khô trong dung dịch đột biến 12 giờ, sau đó rửa sạch trong dòng
nước chảy 10 - 12 giờ rồi đem gieo.
Hạt bông của các loài lưỡng bội ít mẫn cảm với các tác nhân đột biến hơn so
với hạt tứ bội.
Những đột biến trội như chín sớm, độ lớn của quả, hạt có thể bắt đầu từ M1,
còn nói chung quá trình chọn lọc đột biến bắt đầu từ M2.
Vì đa số các tính trạng kinh tế của cây bông đều là những tính trạng đa gen, do
đó các đột biến phải được đánh giá và chọn lọc kỹ qua nhiều thế hệ cho đến khi có
kiểu hình thật ổn định. Chọn lọc đột biến với cây bông thông thường được thực hiện
theo phương pháp phả hệ.
3.4. Tạo giống bông ưu thế lai
Từ 1909 J.Cook đã đề nghị sử dụng ưu thế lai ở cây bông trong sản xuất. Tuy
bông là cây tự thụ phấn nhưng ưu thế lai bông đã được khai thác ở hầu hết các nước
có sản xuất bông hàng hoá.
Ưu thế lai về năng suất bông hạt có thể đạt rất cao (từ 20% đến 140% và cá
biệt có thể cao hơn nữa). Tương ứng với năng suất các yếu tố tạo thành năng suất
cũng biểu hiện ưu thế lai cao. Riêng về chất lượng xơ nhiều nhà nghiên cứu đều cho
thấy ít biểu hiện hoặc không biểu hiện.
Lai các giống trong loài cũng như lai khác loài ở bông đều có biểu hiện ưu thế
lai. Nhiều cặp lai trong loài bông luồi đã cho ưu thế lai cao về năng suất. Lai giữa
bông luồi và bông Hải Đảo, Manxurov (1978) đã thu được con lai Vakh-1 và Vakh-
2 có thời gian sinh trưởng ngắn hơn bố mẹ 8 - 11 ngày, năng suất bông hạt tăng so
với bố mẹ từ 60 - 70%.
Tại các vùng khí hậu khô như vùng Trung Á, Ấn Độ, Pakistan, Israel, lai
giữa bông luồi và bông Hải Đảo thường cho ưu thế lai về năng suất cao hơn lai
trong loài bông luồi. Tại các vùng mưa nhiều, độ ẩm cao như Việt Nam lai giữa 2
loài này thường con lai cho năng suất thấp, không có ưu thế lai, con lai xa này
không thích nghi được và quả rụng nhiều do bị bệnh nấm (Vũ Công Hậu, 1978; Lê
Minh Thức, 1996).
Giống bông ưu thế lai (thường gọi tắt là giống bông lai) được sử dụng khá phá
biến ở các nước trồng bông. Năm 1968 Ấn Độ là nước đầu tiên sử dụng thành công
giống bông ưu thế lai hybrid-4 (có tiềm năng năng suất 100tạ/ha) trong sản xuất.
Với các giống bông lai và các tiến bộ về giống nói chung trong 1 thời gian ngắn đã
đưa năng suất bông trung bình trong cả nước lên gấp đôi (Singh, 1983).
Để sử dụng quần thể con lai trong sản xuất như một giống thì con lai F1 không
những phải vượt trội hơn bố mẹ mà còn phải vượt trội hơn cả giống tốt đang sử
dụng trong sản xuất. Vì thế khi đánh giá ưu thế lai ngoài so sánh với bố mẹ trung
bình (ưu thế lai trung bình), hoặc với bố mẹ tốt nhất (ưu thế lai tuyệt đối) nhất thiết
phải so sánh với giống chuẩn (ưu thế lai chuẩn).
28
Các tính trạng quan trọng nhất cần được quan tâm đầu tiên khi đánh giá ưu thế
lai bông là: năng suất bông hạt, tỉ lệ xơ, chất lượng xơ và khả năng chống chịu.
Ngoài ra muốn có đủ hạt lai để đưa vào sản xuất phải chọn những cặp lai có khả
năng kết hạt tốt, con lai F1 phải có khả năng kết hạt tốt, hạt phải mẩy đều, nếu nhiều
hạt lép xơ cán sẽ không sạch hạt, làm giảm phẩm chất xơ hàng hoá.
Bông là cây tự thụ phấn nhưng hoa bông lớn nên các thao tác khử đực và thụ
phấn nhân tạo thực hiện dễ dàng. Do vậy khá nhiều giống bông lai đã được đưa vào
sản xuất.
Tạo giống bông lai cũng phải thực hiện qua các bước tương tự như với các cây
giống khác:
- Thu thập vật liệu lai theo các mục đích chọn giống.
- Cho tự phối để làm thuần vật liệu. Ở bông thường cho tự thụ phấn kèm cách
li côn trùng chặt chẽ trong vài ba thế hệ.
- Thử khả năng kết hợp để chọn tổ hợp lai tốt nhất.
- Đánh giá ưu thế lai ở các tính trạng quan trọng. Nếu ưu thế lai tuyệt đối và ưu
thế lai chuẩn đều cao thì có thể sản xuất hạt lai để gửi đi khảo nghiệm sinh thái và
khảo nghiệm giống quốc gia.
- Nếu được chấp nhận thì sản xuất hạt lai để cung cấp giống cho sản xuất đại
trà.
4. SẢN XUẤT HẠT GIỐNG BÔNG
4.1. Sản xuất hạt giống bông thuần
Quy trình nhân giống có thể thực hiện như sau:
Năm thứ nhất gieo hạt giống tác giả trong vườn cách li côn trùng (nếu có thể
nên dùng lưới cách li hoặc phải thực hiện cách li thông thường trong thời kì nở hoa,
để đảm bảo khả năng tự thụ phấn hoàn toàn). Chủ yếu thu hạt giống từ những quả
tốt vào các lứa quả nở rộ nhất (thường bỏ những quả đầu tiên và các quả cuối vụ).
Năm thứ 2 đem hạt thu được gieo ra ruộng cách li không gian với những ruộng
bông khác khoảng 200m. Để đảm bảo độ thuần cùng giống cao người ta loại bỏ
diện tích xung quanh không thu hoạch (có khi phải loại bỏ đến 10 - 20% số hạt của
năm thứ 2).
Năm thứ 3 có thể nhân lớn ở các trạm trại hoặc hộ gia đình tin cậy.
Tuỳ theo nhu cầu cụ thể, có thể nhân tiếp năm thứ 4 sau đó khi đã có số lượng
hạt lớn đưa vào sản xuất.
4.2. Sản xuất hạt giống lai F1
Công việc quan trọng nhất trong sản xuất hạt bông lai là:
- Bảo đảm tỉ lệ hợp tử cao nhất.
- Giá thành hạ.
- Đủ số lượng lớn để cung cấp cho sản xuất.
Như vậy sau khi đã thu được tổ hợp lai tốt cần phải cho tự thụ phấn bắt
buộc và chọn lọc kỹ để đảm bảo độ thuần, phải nhân nhanh các dòng bố mẹ để
có đủ số lượng hoa cho quá trình lai và tổ chức sản xuất hạt lai tốt. Tất cả các
công việc này phải thực hiện tại cơ quan sản xuất giống nhà nước (ở Việt Nam
29
hạt giống lai được Trung tâm nghiên cứu cây bông Nha Hố chịu trách nhiệm sản
xuất).
CHỌN TẠO GIỐNG CÀ CHUA
1. NGUỒN GỐC CÂY CÀ CHUA
Nhiều nghiên cứu cho rằng quê hương của cà chua ở vùng Nam Mỹ, dọc theo
bờ biển Thái Bình Dương, từ quần đảo Galapagos tới Chilê.
Các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của cà chua
trồng. Một số tác giả cho rằng cà chua trồng có nguồn gốc từ L. esculentum
var.piminellifolum, tuy nhiên nhiều tác giả khác nhận định L. esculentum
var.cerasiforme (cà chua anh đào) là tổ tiên của cà chua trồng. Theo các nghiên cứu
của Jenkins (1948), có thể dạng này được chuyển từ Peru và Equado tới nam
Mehico, ở đó nó đã được dân bản xứ thuần hoá và cải tiến. Câu hỏi đặt ra là dạng cà
chua trồng quả lớn được hình thành như thế nào? Về vấn đề này có nhiều ý kiến
khác nhau. Đa số các tác giả cho rằng, trong tiến hoá đã xảy ra quá trình đột biến
liên quan tới sự liên kết ở noãn, dẫn tới hình thành dạng quả lớn, theo Leslry (1926)
dạng đột biến quả lớn được kiểm tra bởi hai gen lặn. Theo Stuble (1967), kết quả
quá trình tích luỹ dần các gen đột biến (lặn) ở dạng dại L. esc.var.pimpinellifolium
đã xuất hiện cà chua trồng.
Jenkins (1948) đã đề xuất 2 hướng tiến hoá về kích thước và hình dạng quả.
Một hướng liên quan đến việc tăng kích thước ô hạt, hạt và thịt quả, kết quả hình
thành quả hình mận, hình lê và các dạng quả hình dài khác. Hướng thứ hai ở noãn
xảy ra sự liên kết các ô hạt làm quả tăng về đường kính, hình thành dạng quả lớn có
nhiều ô hạt.
Brezhnev (1964) đã chia sẻ ý kiến là dạng hạt quả lớn hình thành do kết quả
tiến hoá tăng kích thước và số lượng ô hạt ở noãn.
Theo Luckwill (1943) cà chua từ Nam Mỹ được đưa vào châu Âu từ thế kỉ 16,
và đầu tiên được trồng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, từ đó cà chua được lan truyền
đi các nơi khác. Rất nhiều năm con người đã coi cà chua như cây thuốc và cây cảnh,
mãi đến cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 cà chua mới được liệt vào cây rau thực phẩm có
giá trị và từ đó nó được phát triển mạnh.
2. PHÂN LOẠI CÂY CÀ CHUA
Cà chua thuộc chi Lycopersicon Tourn, họ cà (Solanaceae), Chi Lycopersicon
Tourn được phân loại theo nhiều tác giả: Muller (1940), Daskalov và Popov (1941),
Luckwill (1943), Lehmann (1953), Brezhnev (1955, 1964), Zhucopski (1964). Ở
Mỹ thường dùng phân loại của Muller, ở Châu Âu, Liên Xô (cũ) thường dùng phân
loại của Brezhnev. Với cách phân loại của Brezhnev (1964), chi Lycopersicon
Tourn được phân làm 3 loài thuộc 2 chi phụ.
30
- Subgenus 1 - Eriopersicon. Chi phụ này gồm các loài dại, cây dạng một năm
hoặc nhiều năm, gồm các dạng quả có lông, màu trắng, xanh lá cây hay vàng nhạt,
có các vệt màu atoxian hay xanh thẫm. Hạt dầy không có lông, màu nâu Chi phụ
này gồm 2 loài và các loài phụ.
1. Lycopersicon peruvianum Mill.
1a. L.peruvianum var.Cheesmanii Riloey và var.Cheesmanii f.minor
C.H.Mull (L. esc.var.miror Hook).
1b. L.peruvianum var.dentatum Dun.
2. Lycopersicon hirsutum Humb.et.Bonpl.
2a. L.hirsutum var.glabratum C.H.Mull.
2b. L.hirsutum var.glandulosum C.H.Mull.
Subgenus 2 – Eulycopersicon. Các cây dạng một năm, quả không có lông, màu
đỏ hoặc màu đỏ - vàng, hạt mỏng, rộng chi phụ này gồm một số loài.
3. Lycopersiconesculentum Mill. Loài này bao gồm 3 loại phụ:
a. L.esculentum Mill.ssp.spontaneum Brezh – cà chua dại bao gồm 2 dạng
sau:
- L.esculentum var.pimpinellifolium Mill. (Brezh).
- L. esculentum var.racemigenum (Lange) Brezh.
b. L.esculentum Mill.ssp.subspontaneum – cà chua bán hoang dại, gồm 5
dạng sau:
- L. esculentum var.cersiforme (A Gray) Brezh – cà chua anh đào.
- L. esculentum var.pyriforme (C.H.Mill) Brezh – cà chua dạng lê.
- L. esculentum var.elongatum Brezh – cà chua dạng mận.
- L. esculentum var.elongatum Brezh – cà chua dạng quả dài.
- L. esculentum var.succenturiatum Brezh – cà chua dạng nhiều ô hạt.
c. L. esculentum var.Mill.ssp.cultum – cà chua trồng, có 3 dạng sau:
- L. esculentum var.vulgare Brezh.
- L. esculentum var.validum (Bailey) Brezh.
- L. esculentum var.grandiflium (Bailey) Brezh.
3. ĐẶC TÍNH DI TRUYỀN CÂY CÀ CHUA
3.1. Cơ quan sinh sản của cây cà chua
Hoa cà chua mọc thành chùm, có 3 dạng chùm hoa (h.2). Số lượng hoa/chùm,
số quả/cây rất khác nhau ở các giống. Chùm hoa đầu thường nở sau khi hạt nảy
mầm 40 – 60 ngày, khoảng 10 ngày sau đó là chùm 2 và các chùm tiếp theo.
Đài hoa cà chua thuộc dạng bánh xe, màu vàng, số lá đài và số cánh hoa tương
ứng nhau (5 – 9). Hoa lưỡng tính, nhị đực liên kết thành bao hình nón, bao quanh
nhụy cái. Khi cánh hoa nở 1 – 2 ngày, các bao phấn tách theo chiều dọc ở phía trong
thụ phấn cho nhụy cái. Cấu trúc hoa đảm bảo cho cà chua có mức tự thụ cao (tuy
nhiên, giao phấn chéo có thể xảy ra, nhiều khi đạt 4%).
31
Quả cà chua thuộc dạng quả mọng, có 2, 3 hay nhiều ngăn (ô hạt). Độ lớn và
hình dạng quả rất khác nhau ở các giống (h.3)
Sự xác định hình dạng quả được căn cứ vào tỉ lệ chiều cao và đường kính quả.
Cà chua là cây ưa ẩm, nhiệt độ tối ưu cho cây phát triển, đậu quả là 20 – 27oC
(ban ngày), 13 – 16oC (ban đêm). Nhiệt độ tăng làm giảm khả năng đậu quả. Tuy
nhiên các giống chịu nóng có khả năng đậu quả ở 30oC và cao hơn. Nhiệt độ thấp
(dưới 100C) làm cây phát triển chậm và ngừng sinh trưởng. Để cây ra hoa, nhiệt độ
đòi hỏi không thấp hơn 14 – 15oC (ban ngày).
Cà chua thuộc cây ưa ánh sáng. Điều kiện ánh sáng chủ yếu làm giảm hàm
lượng vitamin C trong quả. Trong thời gian ra hoa, đậu quả và phát triển cà chua có
nhu cầu tưới ẩm tăng hơn. Khi ẩm độ quá thừa và ít ánh sáng cây dễ bị nhiễm các
bệnh hại. Ở điều kiện gió khô cây có tỉ lệ rụng hoa cao.
Cà chua trồng có thể lai với các loài cà chua hoang dại, bán hoang dại thuộc chi
Lycopersicon Tourn, kết quả thu được các con lai có độ hữu dục đảm bảo cho các
nghiên cứu ở các thế hệ.
3.2. Quỹ gen cây cà chua
Kết quả của chọn giống cà chua phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có việc
đánh giá và sử dụng nguồn vật liệu khởi đầu.
Các loài cà chua hoang dại và bán hoang dại là nguồn vật liệu rất quý cho chọn
tạo giống cà chua.
L.peruvianum sinh trưởng tốt ở điều kiện nhiệt độ thấp, chứa hàm lượng
vitamin C rất cao, kháng virus khảm thuốc lá, tuyến trùng
L.hirsutum chịu lạnh, chịu hạn tốt, sống được ở nhiều chân đất, kháng nhiều
bệnh như Septoria, bệnh virus.
L.ecsulentum var. pimpinellpolium có nhiều đặc tính quý như: chín sớm, hàm
lượng đường, vitamin C, -caroten cao, chống nứt quả, kháng nhiều loại bệnh như
Cladosporium, Fusarium, Phytophthora inpestans
Các dạng quả cà chua
a. Dạng dẹt
b. Dạng tròn - dẹt
c. Dạng tròn
d. Dạng o van
e. Dạng lê
g. Dạng dài (trụ)
32
Các dạng cà chua bán hoang dại thuộc loài L. esculentum Mill như
var.cerasiforme, pyriforme, pruniforme, elongatum là nguồn vật liệu quý cho
chọn giống. Theo thống kê về các phân tích hoá sinh của nhiều tác giả cho thấy,
hàm lượng đường của các dạng bán hoang dại lớn hơn ở các loài hoang dại. Nhiều
mẫu trong nhóm hoang dại có hàm lượng vitamin C đạt tới 138mg%, ở nhóm bán
hoang dại đạt tới 114mg%, các giống cà chua trồng hàm lượng vitamin C dao động
từ 12 - 36mg% (theo Balashova, Samovol, 1988). Dùng phương pháp lai trở lại,
nhiều tác giả đã thu được các dòng có hàm lượng vitamin C đạt tới 32 - 66mg%.
Sử dụng nguồn gen từ cà chua hoang dại và bán hoang dại đã thu được kết quả
về cải tiến hàm lượng caroten ở cà chua trồng. Glusenco (1979) lai cà chua trồng
với S.pennelli, đã thu được một số dòng có hàm lượng caroten tăng hơn giống trồng
9 - 10 lần. Bên cạnh đó, sử dụng nguồn gen cà chua hoang dại còn cho phép giải
quyết vấn đề tạo giống có hàm lượng - caroten (tiền vitamin A) cao, được phối
hợp với các hàm lượng lycopen nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng và tăng cường độ
chín đỏ của quả.
Chỉ số đặc biệt quan trọng trong tạo giống cà chua chế biến là hàm lượng chất
khô cao (độ brix cao). Hàm lượng chất khô cao, về cơ bản liên quan tới hàm lượng
các chất pectin trong quả. Sử dụng nguồn gen cà chua hoang dại đã cải tiến tính
trạng này ở cà chua trồng. Vấn đề này được thực hiện nhiều ở Mỹ, khi lai
L.esculentum Mill với L.peruvianum đã thu được nhiều dòng có hàm lượng các chất
pectin cao, có thịt quả chắc hơn và hàm lượng chất khô tăng. Có thể khai thác
nguồn gen cà chua L.chemieliewskii về hàm lượng đường và độ chắc của quả cao.
Các loài hoang dại và bán hoang dại cũng là nguồn vật liệu quý và phong phú
cho tạo giống chống chịu các bệnh ở cà chua. Các gen kháng bệnh mốc sương
(Phytophthora infestans) tìm thấy ở nhiều mẫu thuộc L.escubentum
var.pimpinellifolium, ở các dạng dại như L.escubentum var.racemigenum.
var.cerasiforeme và ở một số mẫu giống cà chua khác.
Khả năng chịu bệnh virus khảm thuốc lá (các gen Tm - 1, Tm - 2, Tm - 22)
quan sát thấy ở L.peruvianum, L.hirsutum, L.escubentum var.pimpinellfolium,
L.chilense,.. cà chua L.chilesne còn có khả năng kháng cao tới virus gây biến vàng
lá (gemini virus). Từ các loài cà chua trên đã đưa ra rất nhiều mẫu giống kháng bệnh
virus phục vụ cho tạo giống.
Bệnh nấm gây héo ở cà chua rất nguy hiểm. Ở một số mẫu cà chua L.
esculentum var pimpinellifolium đã phát hiện ra gen I - kháng bệnh héo do nấm
Fusarium oxysporum f.lycopersisi, và gen Ve - kháng bệnh héo do nấm Verticilum
albo - âttum, V.dahliae, năm 1941 đã đưa ra giống kháng Fusarium đầu tiên. Từ
1952 đã đưa ra nhiều giống kháng Verticilum (nhóm giống VF). Trong tạo giống
kháng Fussarium còn sử dụng các giống như Roma. Marglobe, Campblê 146, ở
chúng có gen I (kháng Fusarum) giống Anaxy ngoài khoáng Fusarium còn mang
gen Mi - kháng tuyến trùng. Ở nấm Fusarium oxysporum f.lycopersisi đã phân lập
ra 3 chủng 1, 2, 3. Các gen kháng I đã lập ra I, I2, I3.
33
Bệnh héo xanh do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây hại nhiều ở các
nước nhiệt đới. Loài vi khuẩn này đã phân lập ra 5 chủng (chúng gây bệnh ở nhiều
đối tượng).
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG CÀ CHUA
4.1. Phương pháp lai đối với cà chua
Ở cà chua, hoa cấu tạo thành chùm. Hoa cà chua thuộc dạng lưỡng tính. Nhị
đực bao gồm các bao phấn liên kết nhau tạo thành hình nón bao quanh nhụy cái.
Khi cánh hoa mở 1 – 2 ngày (bao phấn mở theo chiều dọc ở phía trong) sẽ xảy ra tự
thụ phấn. Khử đực ở cây mẹ cần thực hiện trước khi bao phấn mở. Quan sát hoa ở
trạng thái nụ, khi cánh hoa chuyển màu chuyển bị mở, hoặc mới hé mở là thời điểm
khử đực. Dùng panh gạt các cánh hoa, tách bỏ các bao phấn. Chú ý vòi nhụy cái còn
nguyên vẹn. Sau khi khử đực dùng bông bao hoa lại để cách li.
Phấn của cây bố được thu từ bao phấn khi cánh hoa đã mở toàn bộ, màu vàng
tươi. Chú ý lấy phấn ở các hoa mới mở, vào buổi sáng. Sau khi khử đực ở cây mẹ 1
ngày, tiến hành thụ phấn. Tháo bông cách li, dùng đầu panh, que, hay đầu chổi lông
nhỏ lấy phấn đưa lên đầu vòi nhụy cái, sau đó hoa được bọc bông cách li trở lại.
Sau khi lai, cây mẹ được đeo thẻ, ghi rõ tổ hợp lai. Khi hoa đã thụ phấn khoảng
4 – 5 ngày, bầu nhụy cái bắt đầu nở phình ra, báo hiệu hoa lai đậu quả. Các hoa ở
chùm không phát triển đều nhau, vì thế chúng có thể được lai một vài lần. Các hoa
không lai cần ngắt bỏ. Mỗi cây có thể lai tới 20 – 25 hoa.
Cũng như ở các đối tượng khác, ở cà chua lựa chọn bố mẹ đưa vào các tổ hợp lai
theo kết hoạch vạch ra: lai đơn (P1 x P2), lai ba (P1 x P2) x P3, lai kép (P1 x P2) x (P3
x P4), lai trở lại (lai hồi quy, lai bão hoà) Sau đây là một số sơ đồ lai.
Phương pháp lai trở lại thường dùng để chuyển một số gen giá trị từ dạng cho
(DP) tới dạng nhân (RCP) nhằm cải tiến, bổ sung thêm gen mới, theo sơ đồ như
sau:
Ở mỗi thế hệ BC đều tiến hành chọn lọc cây có gen cần thiết để đem lai tiếp
tục. Khi sử dụng phương pháp lai trở lại cần lưu ý một số điểm sau:
1. Khi áp dụng đối với các tính trạng số lượng, phương pháp cho hiệu quả kém,
hoặc không có hiệu quả.
RCP x DP
RCP x F1
RCP x BC1
BC6
50% DP, 50% RCP
25% BP, 75% RCP
0,8% DP, 99,2% RCP
34
2. Gặp nhiều khó khăn trong chọn lọc tính trạng mong muốn khi nó liên kết với
tính trạng gây hiệu quả xấu.
3. Trường hợp cần chuyển các gen lặn (từ DP) quá trình tiến hành kéo dài,
phức tạp hơn. Vì ở mỗi thế hệ BC phải cho tự thụ một đời để chọn ra kiểu phân li
lặn.
4.2. Phương pháp chọn lọc đối với cà chua
4.2.1. Chọn lọc phả hệ (Pedigree method).
Phương pháp này có hiệu quả tốt, tập trung chọn lọc ra các kiểu gen cần thiết,
được phân lập chi tiết ngay từ quần thể phân li F2. Ở kết quả có thể thu được các
dòng giá trị, chúng được đánh giá khá chuẩn xác trước khi đưa thử nghiệm. Cần chú
ý tới điều kiện môi trường, ở đó các gen quan trọng phải được thể hiện để có thể
chọn lọc ở nhiều thế hệ. Công việc chọn lọc đòi hỏi tinh tế, quan sát từng cá thể, đòi
hỏi công sức tốn kém và thời gian tiến hành khá lâu.
Ở nhiều trường hợp, để giảm bớt khối lượng công việc và thời gian chọn giống,
có thể áp dụng chọn lọc pedigree gián đoạn. Thu hoạch F3 theo phân lập các dòng.
Ở F4 bắt đầu tiến hành các công việc đánh giá, so sánh, thử nghiệm các dòng trong
một số thế hệ. Ở một số thế hệ chỉ tiến hành chọn lọc quần thể dương tính (hay âm
tính). Sau khi tuyển chọn ra một số dòng có thể đáp ứng cho thử nghiệm sản xuất
(số dòng này đã ở đời F6, F7) chúng tiếp tục được chọn lọc để thu dòng cho thử
nghiệm sản xuất.
Ở cà chua mỗi tổ hợp lai trồng khoảng 15 cây F1. F2 của mỗi tổ hợp nghiên cứu
khoảng 200 - 400 cây (tuỳ thuộc vào các trường hợp cụ thể). Ở các dòng chọn lọc
(từ F3 và các thế hệ) trồng khoảng 30 - 60 cây.
4.2.2. Phương pháp chọn lọc hỗn hợp cải tiến (Bulk Method)
Ở đây không tiến hành phân lập dòng từ quần thể F2. Sau một số thế hệ cho tự
thụ, tới đời chọn lọc quần thể đã có mức đồng hợp tử khá cao.
4.2.3. Phương pháp một hạt (Single, Seed Descendent Method - SSD)
Đây là phương pháp biến dạng từ các phương pháp Pedigree và Bulk - Method.
Phương pháp này tạo điều kiện duy trì sự đa dạng trong quần thể, đồng thời tới đời
chọn lọc phân dòng đã thu được quần thể có mức độ đồng hợp tử khá cao.
Số lượng các cây ở quần thể (chưa phân dòng) F2, F3, F4 tuỳ thuộc vào từng
trường hợp nghiên cứu cụ thể, có thể từ 200, 300 - 600 cá thể. Phương pháp một hạt
(SSD) tiến hành theo sơ đồ.
5. NHÂN GIỐNG CÀ CHUA
5.1. Nhân giống cà chua thuần
Khi triển khai nhân giống (để phát triển giống mới) cần xác định số lượng hạt
giống cần thiết, mức độ thuần, độ sạch và các chỉ tiêu chất lượng khác của hạt
giống.
Ở miền Bắc nước ta sản xuất hạt giống cà chua thường được triển khai vào vụ
đông (vụ thuận lợi trong năm). Ruộng nhân giống cà chua nên bố trí cách li khoảng
30 - 40cm trở lên và cần được đảm bảo tốt quy trình kỹ thuật chăm sóc. Tiến hành
35
loại bỏ các cây không đạt tiêu chuẩn của giống vào thời kì rộ hoa, rộ quả, gần thu
hoạch lứa quả đầu.
Một số quả đầu và lứa quả ngọn không dùng lấy hạt làm giống. Khi quả đã
chuyển chín đỏ, hoặc chín một nửa là có thể thu hoạch để lấy hạt. Ở kho tiếp tục để
quả chín. Tiến hành bổ quả, vắt hạt, cho lên men từ 2 – 5 ngày (tuỳ nhiệt độ), đãi
hạt, rửa thật sạch. Sau đó hạt được phơi ở nắng nhẹ, gió nhẹ, hoặc sấy. Hạt khô
được bảo quản đúng kỹ thuật.
5.2. Sản xuất hạt giống cà chua ưu thế lai
Các giống ưu thế lai F1 hay còn gọi là các giống lai có ưu điểm mà các giống
thuần khó có thể đạt được. Ngày nay việc nghiên cứu tạo ra các giống lai và công
nghệ sản xuất hạt lai F1 được thế giới rất quan tâm.
Để tạo giống ưu thế lai cần xây dựng tập đoàn các giống, dòng, chúng được
nghiên cứu tốt về các đặc trưng, đặc tính. Việc đánh giá các khả năng kết hợp chung
(g.c.a), kết hợp riêng (s.c.a) của các giống, dòng là vấn đề rất quan trọng và cần
thiết trong việc tạo giống ưu thế lai. Để đánh giá các khả năng kết hợp, ta thường áp
dụng các phương thức lai như dialen, lai đỉnh với việc sử dụng bộ giống thử tốt. Từ
đó ta thiết lập các chương trình để thu các F1 từ các tổ hợp lai (tập đoàn giống lai
F1) đánh giá, chọn lọc ra các tổ hợp có triển vọng và chúng được đưa vào các thử
nghiệm khác nhau, từ đó chọn ra giống lai phục vụ sản xuất theo các mục tiêu đề ra.
Đối với các giống lai F1, hàng năm cần phải liên tục sản xuất hạt giống trên cơ
sở lai giữa bố mẹ. Vì thế công nghệ sản xuất hạt giống lai F1 là vấn đề hết sức quan
trọng, nó quyết định quy mô sử dụng và hiệu quả kinh tế của giống lai.
Chi phí lớn cho sản xuất hạt giống lai F1 là việc khử đực và thụ phấn. Để giảm
nhẹ chi phí cho khử đực, có thể sử dụng các dòng mẹ có các dạng bất dục đực khác
nhau. Ở cà chua đã phát hiện ra nhiều gen (lặn) ở nhân gây bất dục hạt phấn như ms
- 32, ms - 35, 446 ms Ngoài ra, đã phát hiện ra các dạng bất dục đực có chức
năng có ý nghĩa ứng dụng như gen ps – bao phấn không mở, các dạng có vòi nhụy
cái vươn cao hơn bao phấn Tuy nhiên, khi sử dụng các dạng bất dục đực nêu trên
thường gặp nhiều trở ngại như tính bất dục thường có hiệu quả đa hiệu bất lợi, ảnh
hưởng lớn tới năng suất và khả năng thích ứng của các con lai.
Vấn đề khử đực bằng tay (thủ công) vẫn là phương thức khử đực chủ yếu trong
sản xuất hạt lai. Đặc điểm cấu trúc hoa cà chua không gây nhiều khó khăn cho việc
thực hiện thao tác này. Hơn nữa từ một quả cà chua lai có thể thu được nhiều hạt.
Nếu hạch toán kinh tế, việc sản xuất hạt lai cà chua F1 với khử đực thủ công vẫn
đem lại hiệu quả tốt, và có thể sản xuất ra khối lượng hạt giống F1 đủ lớn đáp ứng
cho nhu cầu sản xuất.
Ruộng sản xuất hạt lai F1 thường bố trí tỉ lệ 1 bố - 6 mẹ. Cây bố có thể trồng
mau hơn và thường trồng trước cây mẹ 6 - 7 ngày. Các cây mẹ trồng ở luống theo
hàng đôi, luống có rãnh rộng để tiện cho việc thao tác đi lai. Ở miền Bắc Việt Nam
sản xuất hạt lai cà chua F1 thường tiến hành vào vụ đông (vụ thuận lợi trong năm).
Sau khi thụ phấn 4 - 5 ngày, bầu nhụy cái bắt đầu nở phình ra, báo hiệu hoa lai
đậu quả. Khi quả chuyển chín đỏ có thể thu hoạch để lấy hạt theo quy trình kỹ thuật.
36
37
Trường đại học Nông Lâm Huế CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Khoa Nông học Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------------------- -------------***------------------
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
NGÀNH ĐÀO TẠO: Khoa học cây trồng
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC
1. Tên môn học: Tạo giống cây trồng chuyên khoa 2
2. Số bài: 3 (2 bài lý thuyết và 2 bài thực hành)
3. Số tín chỉ: 1 (22,5 tiết)
4. Trình độ: Kỹ sư Trồng trọt năm thứ 3 (học kỳ 2).
5. Phân bố thời gian:
Lý thuyết: 14,5 tiết
Thực hành: 8 tiết
6. Điều kiện tiên quyết: sinh viên phải học môn Chọn giống cây trồng đại cương
7. Mục tiêu môn học:
Giúp sinh viên hiểu được nguồn gốc, phân loại, đặc điểm di truyền của một số
cây trồng quan trọng, từ đó hiểu được cơ sở khoa học và các phương pháp chọn tạo
giống đối với các cây trồng đó.
8. Mô tả vắn tắt nội dung môn học:
Tạo giống cây trồng chuyên khoa bao gồm các nội dung về nguồn gốc phát sinh, phân loại, đặc điểm di truyền v
chuyên sâu về lĩnh vực tạo giống.
9. Tài liệu học tập:
1. Lê Trần Bình và các tác giả, 1997, Công nghệ sinh học thực vật trong cải tiến
giống cây trồng, NXBNN.
2. Công nghệ sinh học và một số ứng dụng ở Việt Nam, Tập 2, NXBNN, 1994.
3. G.V. Guliaev, IU.L. Gujop, 1978, Chọn giống và công tác giống cây trồng
(bản dịch), NXB Nông nghiệp.
4. Nguyễn Văn Hiển, 2000, Chọn giống cây trồng, NXB Giáo dục.
5. Võ Hùng, Nguyễn Dũng Tiến, Trần Văn Minh, 1992, Giáo trình chọn tạo và
sản xuất giống cây trồng, NXB Nông nghiệp.
6. Trần Đình Long, 1997, Chọn giống cây trồng, NXB Nông nghiệp.
7. Pháp lệnh giống cây trồng, 2004, NXB Chính trị Quốc gia.
8. Trần Duy Quý, 1997, Các phương pháp mới trong chọn tạo giống cây trồng,
NXB Nông nghiệp.
9. Trần Duy Quý, 1994, Cơ sở di truyền và kỹ thuật gây tạo sản xuất lúa lai.
NXBNN.
10. Trần Thượng Tuấn, 1992; Giáo trình chọn giống và công tác giống cây trồng.
Trương đại học Cần Thơ.
38
10. Thang điểm đánh giá: 10 bao gồm đánh giá các phần: bài tiểu luận, seminar,
thực hành và thi viết kết thúc môn học.
11. Phương tiện giảng dạy: Bài giảng sách, bài giảng điện tử, máy tính, projector,
tranh ảnh minh hoạ, phòng thí nghiệm và các dụng cụ phụ trợ...
12. Nội dung bài giảng:
PHẦN LÝ THUYẾT (14,5 tiết)
BÀI 1: TẠO GIỐNG KHOAI LANG, ĐẬU TƯƠNG, CÀ CHUA ................................7 tiết
1.1. TẠO GIỐNG CÂY KHOAI LANG .............................................................................2 tiết
1.1.1. Nguồn gốc và phân loại cây khoai lang
1.1.2. Đặc điểm di truyền của cây khoai lang
1.1.3. Các phương pháp chọn tạo giống khoai lang
1.2 TẠO GIỐNG CÂY ĐẬU TƯƠNG ................................................................................2 tiết
1.2.1. Nguồn gốc và phân loại cây ngô
1.2.2. Đặc điểm di truyền của cây ngô
1.2.3. Các phương pháp chọn tạo giống ngô
1.3 TẠO GIỐNG CÂY CÀ CHUA ......................................................................................2. tiết
1.3.1. Nguồn gốc và phân loại cây cà chua
1.3.2. Đặc điểm di truyền của cây cà chua
1.3.3. các phương pháp chọn tạo giống cà chua
1.6 THẢO LUẬN ..................................................................................................... ...............1 tiết
BÀI 2: TẠO GIỐNG MÍA, BÔNG ..................................................................................... 6,5tiết
2.1. TẠO GIỐNG CÂY MÍA .................................................................................................3 tiết
2.1.1. Nguồn gốc và phân loại cây mía
2.1.2. Đặc điểm di truyền của cây mía
2.1.3. các phương pháp chọn tạo giống mía
2.2 TẠO GIỐNG CÂY BÔNG ........................................................................................... 2,5 tiết
2.2.1. Nguồn gốc và phân loại cây bông
2.2.2. Đặc điểm di truyền của cây bông
2.2.3. các phương pháp chọn tạo giống bông
2.3. THẢO LUẬN .......................................................................................................................1 tiết
3. KIỂM TRA .............................................................................................................................1 tiết
PHẦN THỰC HÀNH (8 tiết)
Bài 1. Phân loại khoai lang ........................................................................................................4 tiết
Bài 2. Lai cà chua........................................................................................................................4 tiết
13. Kế hoạch bài giảng:
PHẦN LÝ THUYẾT
BÀI 1. TẠO GIỐNG CÂY KHOAI LANG, ĐẬU TƯƠNG, CÀ CHUA
1. Vị trí của bài học: tiết 1 – 7.
39
2. Mục tiêu: Giúp sinh viên hiểu được: nguồn gốc, phân loại, đặc điểm di
truyền và các phương pháp chọn tạo giống của cây khoai lang, cây đậu tương
và cây cà chua.
3. Phương pháp giảng dạy: lên lớp kết hợp với các bài thực hành cũng như
buổi thảo luận trên lớp về các vấn đề liên quan.
4. Mối quan hệ kết nối với bài học trước đó: là bài học đầu tiên trong môn
học.
5. Hoạt động học tập của người học:
- Chuẩn bị bài ở nhà.
- Học trên lớp.
- Chuẩn bị và tham gia các bài thảo luận.
6. Các cơ sở vật chất cần cho bài học: Phòng học, máy tính, projector, bảng,
bút viết...
7. Các câu hỏi đánh giá:
- Nguồn gốc phát sinh của cây khoai lang, cây đậu tương, cây cà chua ?.
- Phân loại của cây khoai lang, cây đậu tương, cây cà chua ?.
- Những phương pháp chủ yếu sử dụng trong quá trình tạo giống cây khoai
lang, cây đậu tương, cây cà chua ?.
8. Các chủ đề của các bài học kế tiếp: Các phương pháp chọn tạo cây mía,
cây bông.
9. Bài tập ở nhà và các công việc khác của người học:
- Sinh viên tìm hiểu cơ sở của các phương pháp tạo giống cây khoai lang,
cây đậu tương, cây cà chua giải thích trên cơ sở các kiến thức đã học.
- Liên hệ các kiến thức đã học với thực tiển chọn tạo giống của các loại cây
trồng đó.
- Chuẩn bị bài thảo luận.
10. Nhận xét đánh giá cuối bài học:
Đánh giá qua các câu trả lời, bài thảo luận, câu hỏi cũng như mức độ tham
gia của sinh viên vào các hoạt động học tập.
BÀI 2. TẠO GIỐNG CÂY MÍA, CÂY BÔNG
1. Vị trí của bài học: tiết 8 - 14,5.
2. Mục tiêu: Giúp sinh viên hiểu được: nguồn gốc, phân loại, đặc điểm di truyền
và các phương pháp chọn tạo giống của một số cây mía, cây bông.
3. Phương pháp giảng dạy: lên lớp kết hợp với các bài thực hành cũng như
buổi thảo luận trên lớp về các vấn đề liên quan.
4. Mối quan hệ kết nối với bài học trước đó: là những cây trồng chuyên khoa
khác nhau nên không có mối quan hệ kết nối với bài trước.
5. Hoạt động học tập của người học:
- Chuẩn bị bài ở nhà.
- Học trên lớp.
- Chuẩn bị và tham gia các bài thảo luận.
40
6. Các cơ sở vật chất cần cho bài học: Phòng học, máy tính, projector, bảng,
bút viết...
7. Các câu hỏi đánh giá:
- Nguồn gốc phát sinh của cây mía, cây bông?.
- Phân loại của cây mía, cây bông ?.
- Những phương pháp chủ yếu sử dụng trong quá trình tạo giống cây mía, cây
bông?.
8. Các chủ đề của các bài học kế tiếp: là các bài thực hành về phân loại cây
khoai lang và lai cây cà chua.
9. Bài tập ở nhà và các công việc khác của người học:
- Sinh viên tìm hiểu cơ sở của các phương pháp tạo giống cây mía, cây bông
giải thích trên cơ sở các kiến thức đã học.
- Liên hệ các kiến thức đã họcvới thực tiển chọn tạo giống của cây mía, cây
bông.
- Chuẩn bị bài thảo luận.
10. Nhận xét đánh giá cuối bài học:
Đánh giá qua các câu trả lời, bài thảo luận, câu hỏi cũng như mức độ tham gia của sinh viên vào các ho
PHẦN THỰC HÀNH (8 tiết)
BÀI 1. Phân loại khoai lang
1. Vị trí của bài học: Từ tiết 15,5 - 18,5.
2. Mục tiêu:
Biết được nguồn gốc phát sinh, sự đa dạng di truyền của cây khoai lang.
Nắm được phương pháp phân loại đối với cây khoai lang, nhận biết được các
loại giống khoai lang.
3. Phương pháp giảng dạy: Giáo viên hướng dẫn thực hành sau đó mỗi sinh
viên tự tiến hành các thao tác để quan sát các mẫu vật giống khoai lang để
tiến hành phân loại.
4. Mối quan hệ kết nối với bài học trước đó: Bài học cung cấp cho sinh viên
cái nhìn thực tế về các kiến thức đã học trong phần lý thuyết.
5. Hoạt động học tập của người học:
- Sinh viên chuẩn bị bài ở nhà.
- Sinh viên tiến hành quan sát và phân loại các giống khoai lang dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
6. Các cơ sở vật chất cần cho bài học:
Phòng thí nghiệm, cây khoai lang, củ khoai lang, bảng, bút viết, giấy để mô
tả và các dụng cụ trong phòng thí nghiệm ...
7. Các câu hỏi đánh giá:
- Nguồn gốc phát sinh và sự đa dạng sinh học của cây khoai lang, đặc điểm
và tập tính ra hoa của cây khoai lang có liên quan thế nào đến quá trình
lai đối với cây trồng này?.
41
- Cách phân biệt và phân loại các giống khoai lang.
8. Các chủ đề của các bài học kế tiếp: lai cà chua.
9. Bài tập ở nhà và các công việc khác của người học: sinh viên viết, giải
thích, vẽ hình minh họa và nộp bài thu hoạch.
10. Nhận xét đánh giá cuối bài học: Đánh giá qua các bảng mô tả, phân loại
của sinh viên, kiểm tra bằng cách đặt câu hỏi, chấm bài thu hoạch.
BÀI 2. Lai cà chua
1. Vị trí của bài học: Từ tiết 19,5 - 22,5.
2. Mục tiêu:
Biết được cấu tạo hoa của cây cà chua thuộc nhóm cây tự thụ phấn. Nắm
được phương pháp lai đối với cây cà chua.
3. Phương pháp giảng dạy: Giáo viên hướng dẫn thực hành sau đó mỗi sinh
viên tự tiến hành các thao tác để quan sát và thực hành trên mẫu vật.
4. Mối quan hệ kết nối với bài học trước đó: Bài học cung cấp cho sinh viên
cái nhìn thực tế về các kiến thức đã học trong phần lý thuyết.
5. Hoạt động học tập của người học:
- Sinh viên chuẩn bị bài ở nhà.
- Sinh viên tiến hành quan sát và chọn cây, chọn hoa, khử đực, lấy hạt
phấn, thụ phấn, bao cách li, ghi thẻ tổ hợp lai dưới sự hướng dẫn của
giáo viên.
6. Các cơ sở vật chất cần cho bài học:
Phòng thí nghiệm, cây cà chua đang thời kỳ ra hoa, bảng, bút viết, kéo, panh,
các hoá chất và các dụng cụ trong phòng thí nghiệm ...
7. Các câu hỏi đánh giá:
- Đặc điểm và tập tính ra hoa của cây cà chua có liên quan thế nào đến quá
trình lai đối với cây trồng này?.
- Cách chọn cây, chọn hoa để lai, cách khử đực, cách thu thập phấn hoa cây
bố, cách thụ phấn và cách bao cách li
8. Các chủ đề của các bài học kế tiếp: Đây là bài thực hành cuối cùng của
chương trình.
9. Bài tập ở nhà và các công việc khác của người học: sinh viên viết báo cáo,
giải thích, vẽ hình minh họa và nộp bài thu hoạch.
10. Nhận xét đánh giá cuối bài học: Đánh giá qua các hoa cà chua của sinh
viên làm tại phòng, kiểm tra bằng cách đặt câu hỏi, chấm bài thu hoạch.
Ngày soạn thảo: 9 tháng 2 năm 2008
Người soạn thảo:
Họ tên Nghề nghiệp Đơn vị Địa chỉ
PGS. TS. Trần Văn Minh Giáo viên Trường đại học Nông 102 Phùng Hưng,
42
Lâm Huế Huế
Ngày đệ trình chương trình môn học:
Chuẩn chương trình môn học đã được phê duyệt bởi Bộ môn và Hội đồng
khoa học ngành Trồng trọt
Trưởng Bộ môn Trưởng Khoa Nông học
TS. Trần Thị Lệ TS. Lê Tiến Dũng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA NÔNG HỌC
--------------------***---------------------
BIÊN SOẠN: PGS.TS Trần Văn Minh
BÀI GIẢNG
TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG
CHUYÊN KHOA 2
Huế: tháng 7 năm 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- taogiongcautrongchuyenkhoa2_2955.pdf