Bài giảng Pháp luật đại cương

Tài liệu Bài giảng Pháp luật đại cương: TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Giảng viên: CN.Nguyễn Thị Thu Hồng Đà Nẵng, ngày 30 tháng 7 năm 2012 LỜI NÓI ĐẦU Theo Quyết định số 33/2008/QĐ- BGDĐT ngày 01/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, kể từ năm học 2008 - 2009, môn Giáo dục pháp luật có một tên gọi mới: Môn học pháp luật. Môn học này nhằm cung cấp cho sinh viên những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật, làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn về nhà nước và pháp luật, đồng thời nghiên cứu các môn khoa học pháp lý chuyên ngành trong chương trình đào tạo. Môn học này cũng góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, biết phân biệt và lựa chọn hành vi trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó hình thành những thói quen, hành vi tốt, góp phần xây dựng nề nếp, kỷ cương học đường trong sinh viên. Tuy nhiên, lý luận về nhà nước và pháp luật cũng như các ngành luật trong giai đoạn hiện nay liên tục có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ...

doc128 trang | Chia sẻ: Khủng Long | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Pháp luật đại cương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á KHOA KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Giảng viên: CN.Nguyễn Thị Thu Hồng Đà Nẵng, ngày 30 tháng 7 năm 2012 LỜI NÓI ĐẦU Theo Quyết định số 33/2008/QĐ- BGDĐT ngày 01/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, kể từ năm học 2008 - 2009, môn Giáo dục pháp luật có một tên gọi mới: Môn học pháp luật. Môn học này nhằm cung cấp cho sinh viên những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật, làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn về nhà nước và pháp luật, đồng thời nghiên cứu các môn khoa học pháp lý chuyên ngành trong chương trình đào tạo. Môn học này cũng góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, biết phân biệt và lựa chọn hành vi trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó hình thành những thói quen, hành vi tốt, góp phần xây dựng nề nếp, kỷ cương học đường trong sinh viên. Tuy nhiên, lý luận về nhà nước và pháp luật cũng như các ngành luật trong giai đoạn hiện nay liên tục có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội nên việc hoàn thiện bài giảng này có nhiều khó khăn. Mặc dù trong bài giảng đã cập nhật những văn bản mới nhất nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của sinh viên và của các đồng nghiệp để bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn. Đà Nẵng, ngày 30 tháng 7 năm 2012 Tác giả PHẦN I (PHẦN KIẾN THỨC BẮT BUỘC) Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC —&– 1.1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC 1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước 1.1.1.1 Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc. Theo học thuyết Mác - Lênin, Nhà nước không tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nếu muốn hiểu về nguồn gốc của Nhà nước thì cần phải biết về chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc. - Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. - Thị tộc là cơ sở tồn tại của xã hội cộng sản nguyên thủy. Trong thị tộc mọi người đều bình đẳng, không một ai có đặc quyền, đặc lợi. Thị tộc tổ chức theo huyết thống. - Quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thủy là quyền lực mang tính chất xã hội, gắn liền với xã hội, không tách rời dân cư. Để cho công việc của thị tộc tiến hành một cách trôi chảy, tức là để tổ chức và quản lý thị tộc, đã xuất hiện tổ chức Hội đồng thị tộc. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó mọi người lớn tuổi không phân biệt đàn ông hay đàn bà, đều là thành viên và có tính bắt buộc chung đối với mọi người. Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự,...để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc. 1.1.1.2. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và Nhà nước xuất hiện - Sự tan rã của tổ chức thị tộc do các nguyên nhân sau đây: + Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất: công cụ lao động ngày một cải tiến, con người phát triển từng bước về thể chất và trí lực, tích lũy ngày càng nhiều kinh nghiệm trong lao động, sản xuất,... lần đầu tiên trong xã hội thị tộc có sự phân công lao động xã hội lớn, đó là nghề chăn nuôi dần dần trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi ngành trồng trọt. Sau lần phân công lao động xã hội đầu tiên này, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã phân chia thành người giàu, kẻ nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện đã làm thay đổi chế độ hôn nhân. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế cho chế độ quần hôn. Gia đình cá thể ra đời. + Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chăn nuôi và trồng trọt, thủ công nghiệp cũng ra đời và phát triển, dẫn đến lần phân công lao động xã hội thứ hai là thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự phân công lao động xã hội lần thứ hai này đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội, là cho sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngay càng sâu sắc, mâu thuẩn giai cấp ngày càng tăng. + Sự ra đời của sản xuất hàng hóa làm cho thương nghiệp phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội lần thứ ba. Đây là lần phân công lao động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Sự phân công lao động xã hội lần này làm xuất hiện một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và buộc người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế và bóc lột cả người lao động lẫn người tiêu dùng. - Sự xuất hiện Nhà nước: như chúng ta đã biết, tổ chức thị tộc, vốn sinh ra và tồn tại trong một xã hội không biết đến mâu thuẩn nội tại, thì nay một xã hội mới ra đời do ba lần phân công lao động xã hội đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẩn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội mới này đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp và giữ cho các cuộc xung đột giai cấp ấy trong vòng “trật tự”. Tổ chức đó là Nhà nước. So với tổ chức thị tộc trước đây, nhà nước có hai đặc trưng cơ bản khác biệt với thị tộc: - Một là, tổ chức thị tộc trước đây, được hình thành và tồn tại trên cơ sở ,.của quan hệ huyết thống. Ngược lại, nhà nước tổ chức dân cư theo lãnh thổ. - Hai là, quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thủy là quyền lực công cộng (quyền lực xã hội), không tách khỏi dân cư. Ngược lại, quyền lực Nhà nước là quyền lực thuộc về giai cấp thống trị, trước hết phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, quyền lực đó tách khỏi dân cư, được thực hiện bằng một bộ máy cưỡng chế của Nhà nước. 1.1.2. Bản chất của Nhà nước 1.1.2.1. Nhà nước là gì? Xem xét Nhà nước dưới phương diện bản chất giai cấp của nó thì: Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. - Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước còn có tính xã hội. Tính xã hội của Nhà nước thể hiện ở chỗ cùng với việc bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, Nhà nước còn đồng thời phải đảm đương các công việc công ích, vì lợi ích chung của toàn xã hội như đắp đê điều, chống ô nhiễm, dịch bệnh, bảo vệ trật tự công cộng,... Như vậy, Nhà nước là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp, đồng thời còn là bộ máy duy trì trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. 1.1.2.2. Sự khác nhau giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội không phải là Nhà nước Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh Nhà nước còn có các tổ chức chính trị - xã hội khác không phải là Nhà nước như công đoàn, các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng,... sự khác nhau giữa Nhà nước với các tổ chức không phải là Nhà nước thể hiện ở các điểm chủ yếu sau đây: - Nhà nước là một bộ máy của giai cấp thống trị để duy trì sự thống trị của mình đối với giai cấp khác. Do đó, trong bộ máy này bao gồm một lớp người chuyên hoặc dường như chuyên làm nghề quản lý. - Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính. - Nhà nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia đó là quyền độc lập, tự quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. - Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân bằng pháp luật. - Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền đặt ra các loại thuế và thu các thuế đó. 1.1.3. Chức năng của Nhà nước 1.1.3.1. Chức năng của Nhà nước là gì? Chức năng của Nhà nước là những phương diện (hay là những mặt) hoạt động cơ bản của Nhà nước thể hiện bản chất và vai trò của Nhà nước. 1.3.3.2. Phân loại chức năng của Nhà nước Các chức năng của Nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước diễn ra ở trong nước. Chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với các Nhà nước và dân tộc khác. Các chức năng đối nội và các chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và phải phục vụ cho việc thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời việc thực hiện các chức năng đối nội lại có tác dụng trở lại đối với việc thực hiện các chức năng đối ngoại. So với các chức năng đối ngoại thì các chức năng đối nội giữ vai trò quyết định. 1.2. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC 1.2.1.Khái niệm bộ máy nhà nước Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước thuộc các lĩnh vực khác nhau từ trung ương xuống địa phương; được thành lập, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất; nhằm thực hiện các chức năng do bản chất nhà nước quy định. Từ khái niệm trên cho thấy có 2 khía cạnh sau đây: - Nói đến bộ máy nhà nước là nói đến tổng thể các cơ quan nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều cấp khác nhau. Mỗi cơ quan nhà nước đều có chức năng riêng, do công việc quản lý xã hội đòi hỏi. - Tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều phải thiết kế thống nhất, dựa trên những nguyên tắc chung do bản chất của nhà nớc chi phối. Bộ máy nhà nước trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ nhìn chung đơn giản và chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng của từng loại cơ quan. Về sau một số nhà nước đã bước đầu có sự phân công, chuyên môn hoá chức năng của các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước phong kiến đều do vua đứng đầu. Vua được thừa nhận quyền lực tuyệt đối. Hệ thống các quan lại ở trung ương (triều đình) và các địa phương đều do vua bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức. Bộ máy nhà nước tư sản có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó. Nền tảng căn bản để xây dựng bộ máy nhà nước tư sản dựa trên nguyên tắc phân quyền, đó là phân chia quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bộ máy nhà nước XHCN nhấn mạnh nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân mà đại diện là hệ thống cơ quan dân cử. Bộ máy nhà nước XHCN không có sự phân quyền mà có sự phân công, phân nhiệm nhằm đảm bảo tính tập trung, thống nhất trong việc thực hiện các mục tiêu XHCN. 1.2.2.Nhà nước pháp quyền Có thể hiểu nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó đòi hỏi tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế và mọi công dân phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để nhất. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền có mối quan hệ chặt chẽ với việc tăng cường pháp chế, trong đó cần chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho tất cả mọi công dân. 1.3. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCN VIỆT NAM 1.3.1. Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” Nhà nước ta là kiểu Nhà nước XHCN, là Nhà nước kiểu mới có bản chất khác hẳn với các Nhà nước bóc lột. Nhà nước ta là công cụ thống trị của giai cấp công nhân. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với đa số nhân dân lao động bị áp bức bóc lột để bảo vệ lợi ích của chúng. Còn sự thống trị của giai cấp công nhân là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp công nhân là nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả mọi người lao động. Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam không chỉ là bộ máy cưỡng chế, trấn áp mà còn là bộ máy tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội của nhân dân lao động với mục đích xây dựng một xã hội mới trong đó nhân dân lao động là người làm chủ. Từ sự phân tích trên, như Điều 2 Hiến pháp năm 1992 đã xác định bản chất của Nhà nước ta là: “...Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. 1.3.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 1.3.2.1. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam Tính dân tộc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta thể hiện ở các điểm cơ bản sau đây: - Hiến pháp cùng các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước đều ghi nhận Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị chia rẽ dân tộc. - Tất cả các dân tộc đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình. - Tất cả các dân tộc đều có quyền và nghĩa vụ tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tính dân tộc thể hiện sâu sắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta thống nhất với tính giai cấp công nhân của Nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. 1.3.2.2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở lên minh xã hội rộng lớn Đây là đặc trưng khác biệt với các Nhà nước bóc lột. Sự khác biệt này là ở chỗ các Nhà nước bóc lột dựa trên cơ sở các giai cấp và các đảng phái, các tầng lớp thuộc giai cấp bóc lột. Ngược lại, Nhà nước ta dựa “trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. 1.3.2.3. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại: “độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” 1.3.3. Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam Chức năng của Nhà nước là những phương diện hay những mặt hoạt động cơ bản của Nhà nước. 1.3.3.1. Các chức năng đối nội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 3.1.1Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học 3.1.2 Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và âm mưu phản cách mạng khác 3.1.3 Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân Đây là một trong những chức năng đối nội quan trọng. Bởi vì, mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, tạo lập một trật tự xã hội ổn định và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. 1.3.3.2. Các chức năng đối ngoại 1.3.3.2.1. Chức năng bảo vệ tổ quốc 1.3.3.2.2. Chức năng mở rộng và tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau 1.3.4. Bộ máy nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. 1.3.4.1. Bộ máy Nhà nước ta Bộ máy Nhà nước ta là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ Trung ương tới địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo lập một cơ cấu đồng bộ để thực hiện các chức năng của Nhà nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước, bộ máy Nhà nước ra có các đặc điểm sau đây: - Ở nước ta, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân lao động. - Bộ máy Nhà nước ta vừa là tổ chức hành chính cưỡng chế vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội. - Đội ngũ công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước ta đại diện và bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, luôn hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hoạt động của công chức và viên chức phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước và chỉ được hành động khi pháp luật cho phép. - Bộ máy Nhà nước gồm nhiều cơ quan Nhà nước hợp thành, có mối liên kết chặt chẽ với nhau; thống nhất về quyền lực Nhà nước, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bộ máy Nhà nước ta, hiện nay theo Hiến pháp năm 1992 gồm 4 hệ thống cơ quan Nhà nước: + Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước bao gồm: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. + Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước bao gồm: Chính phủ, các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và các Sở, Phòng, Ban thuộc Ủy ban. + Hệ thống cơ quan xét xử bao gồm: TAND tối cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự các cấp. + Hệ thống cơ quan kiểm sát bao gồm: VKSND tối cao; VKSQS các cấp; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và VKSND cấp huyện. 1.3.4.2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo, là căn cứ và là điểm xuất phát cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước tạo thành bộ máy Nhà nước. Việc tuân thủ các nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho bộ máy Nhà nước hoạt động nhịp nhàng, thống nhất như một cổ máy; đảm bảo cho bộ máy Nhà nước giữ vững được bản chất thực sự của dân, do dân và vì dân. 1.3.4.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Đây là nguyên tắc bảo đảm cho bộ máy Nhà nước trong tổ chức và hoạt động giữ vững được bản chất giai cấp sâu sắc và tính nhân dân rộng rãi. Đây còn là nguyên tắc bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước có hiệu lực, hiệu quả và căn cứ khoa học. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương và định hướng lớn về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đồng thời, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác cán bộ, giới thiệu những cán bộ ưu tú có đức, có tài, để Nhà nước lựa chọn giữ những cương vị trong bộ máy Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên, tổ chức đảng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo bộ máy Nhà nước không có nghĩa là bao biện, làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo chính là phát huy vai trò, năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước. Phương pháp lãnh đạo của Đảng là giáo dục, thuyết phục và tuyên truyền. 1.3.4.2.2. Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý Nhà nước Nguyên tắc này không những tạo ra khả năng phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc Nhà nước, làm cho Nhà nước vững mạnh mà còn là một trong những phương pháp hữu hiệu góp phần hạn chế tệ nạn quan liêu, tham nhũng, cửa quyền trong bộ máy Nhà nước. Nhân dân lao động tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước bằng nhiều phương thức phong phú như bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước, tham gia thảo luận đóng góp ý kiến vào các dự án luật, giám sát cơ quan Nhà nước tham gia vào hoạt động xét xử,... nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 53 Hiến pháp 1992. 1.3.4.2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ Tuân thủ nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho bộ máy Nhà nước không độc đoán, chuyên quyền hoặc hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật. Điều 6 Hiến pháp 1992 ghi nhận nguyên tắc này. Nội dung thể hiện ở chỗ: cơ quan cấp dưới phục tùng cơ quan cấp trên, cơ quan địa phương phục tùng cơ quan Trung ương, cơ quan quản lý Nhà nước phục tùng cơ quan quyền lực Nhà nước, nhân viên phục tùng thủ trưởng. Nhưng đồng thời phải phát huy vai trò sáng tạo, dân chủ bàn bạc của các chủ thể chấp hành trước khi quyết định. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các hệ thống cơ quan Nhà nước khác nhau là khác nhau. 1.3.4.2.3. Nguyên tắc pháp chế XHCN Nội dung của nguyên tắc này là đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật. Tất cả công chức và viên chức trong bộ máy Nhà nước đều phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật khi thi hành các quyền hạn và nhiệm vụ của mình. Đây là nguyên tắc có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước tuân theo ý chí của nhân dân, làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động đồng bộ nhịp nhàng, phát huy được hiệu lực quan lý của Nhà nước. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích nguồn gốc ra đời của nhà nước? Từ đó nêu bật quan điểm của bản thân đối với một số quan niệm về nguồn gốc nhà nước phi Mác - xít? 2.Trình bày bản chất của nhà nước? Từ đó có sự phân tích đánh giá bản chất của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam? BÀI TẬP NHÓM 1.Các nhóm lựa chọn các quan niệm về nguồn gốc nhà nước để tranh luận, từ đó nêu được những ưu điểm và hạn chế của các học thuyết vể nguồn gốc nhà nước 2.Các nhóm lựa chọn cho nhóm mình 1 kiểu nhà nước, rồi phân tích về bản chất của kiểu nhà nước đó. 3.Nhà nước và hệ thống chính trị nước ta có mối quan hệ như thế nào? Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước. Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT —&– 2.1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA PHÁP LUẬT 2.1.1. Nguồn gốc của pháp luật 2.1.1.1. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật, nhưng lại tồn tại những quy tắc xử sự chung thống nhất Đó là những quy tắc xã hội gồm tập quán và các tín điều tôn giáo. Các quy tắc tập quán có đặc điểm: - Các quy tắc này hình thành một cách tự phát qua quá trình con người sống chung, lao động chung. Dần dần các quy tắc này được xã hội chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung. - Các quy tắc tập quán thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội, do đó được mọi người tự giác tuân theo. Nếu có ai không tuân theo thì bị cả xã hội lên án, dư luận xã hội buộc họ phải tuân theo. Chính vì thế tuy chưa có pháp luật, nhưng trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trật tự xã hội vẫn được duy trì. 2.1.1.2. Quy tắc tập quán không còn phù hợp, pháp luật ra đời Bằng Nhà nước, hệ thống các quy tắc pháp luật được từng bước ban hành phù hợp với lợi ích kinh tế xã hội của giai cấp cầm quyền trong từng thời kỳ. Cùng với việc ban hành các quy tắc pháp luật mới, Nhà nước đã tìm kiếm những quy tắc tập quán nào còn phù hợp với lợi ích của giai cấp mình và thừa nhận nó thành quy tắc pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, không tách rời Nhà nước và đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. 2.1.2. Các thuộc tính của pháp luật Pháp luật khác với các quy tắc khác trong xã hội bởi các thuộc tính sau đây: 2.1.2.1. Tính quy phạm phổ biến Nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm phổ biến. Tức là nói đến tính khuôn mẫu, mực thước, mô hình xử sự có tính phổ biến chung. Trong xã hội không chỉ pháp luật có thuộc tính quy phạm. Đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng (như điều lệ của tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) đều có tính quy phạm. Cũng như pháp luật, tất cả các quy phạm trên đều là khuôn mẫu, quy tắc xử sự của con người. Nhưng khác với đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo và điều lệ, tính quy phạm của pháp luật mang tính phổ biến. Đây chính là dấu hiệu để phân biệt pháp luật và các loại quy phạm nói trên. Thuộc tính quy phạm phổ biến của pháp luật thể hiện ở chỗ: + Là khuôn mẫu chung cho nhiều người. + Được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian rộng lớn. 2.1.2.2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức Thuộc tính này của pháp luật thể hiện ở chỗ: + Nội dung của các quy tắc, khuôn mẫu pháp luật được quy định rõ ràng, chính xác và chặt chẽ trong các điều khoản. + Nội dung của các quy tắc, khuôn mẫu pháp luật lại được thể hiện trong các hình thức xác định. Các hình thức xác định đó là các văn bản pháp luật có tên gọi được quy định chặt chẽ. Tên gọi của các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật, Đạo luật, Pháp lệnh, Nghị định,... 2.1.2.3. Tính bắt buộc chung Sở dĩ pháp luật có tính bắt buộc chung vì pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện thống nhất. Tính bắt buộc chung thể hiện ở chỗ: + Việc tuân theo các quy tắc pháp luật không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của mỗi người. Bất kỳ ai dù có địa vị, tài sản, chính kiến, chức vụ như thế nào cũng phải tuân theo các quy tắc pháp luật. + Nếu ai đó không tuân theo các quy tắc pháp luật thì tùy theo mức độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác động phù hợp để đảm bảo thực hiện đúng các quy tắc đó. + Tính quyền lực Nhà nước là yếu tố không thể thiếu, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện. 2.1.3. Bản chất giai cấp của pháp luật Tính giai cấp của pháp luật được biểu hiện ở các điểm sau đây: - Pháp luật là những quy tắc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp nào nắm quyền lực Nhà nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó được phản ánh trong pháp luật. - Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là sự phản ánh một cách tùy tiện. Nội dung của ý chí này phù hợp với quan hệ kinh tế - xã hội của Nhà nước đó. - Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích của nó. Mục đích của pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước. Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặc ra (hoặc thừa nhận) có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bặt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. 2.1.4. Vai trò của pháp luật 2.1.4.1. Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội Để tiến hành quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có phương tiện pháp luật. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đó là việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tổ chức, điều hòa, phối hợp hành vi của những người tham gia các quan hệ theo các mục đích do Nhà nước định ra phù hợp với lợi ích của cá nhân mỗi người và của Nhà nước nói chung. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đóng vai trò chủ yếu trong các phương tiện quản lý mà Nhà nước sử dụng. Để tiến hành quản lý Nhà nước bằng pháp luật, trước hết Nhà nước phải đặt ra hoặc thừa nhận các quy tắc pháp luật có tính bắt buộc chung. Sau khi ban hành pháp luật, Nhà nước tiến hành tổ chức thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, quản lý Nhà nước bằng pháp luật đó là quá trình tiến hành đồng thời các hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. 2.1.4.2. Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công dân Sở dĩ Nhà nước quy định các quyền và nghĩa vụ cho công dân trong pháp luật, bởi vì, một mặt để Nhà nước bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, mặt khác để mỗi công dân không thể lợi dụng gây thiệt hại cho lợi ích của người khác, cho tập thể và cho Nhà nước nói chung. Trong mối quan hệ với Nhà nước nói chung, cơ quan Nhà nước nói riêng, công dân có các quyền thì Nhà nước có các nghĩa vụ tương ứng và ngựơc lại. Trong mối quan hệ giữa công dân với nhau, bên này có quyền thì bên kia có nghĩa vụ do pháp luật quy định và ngược lại. Như vậy, bằng việc quy định trong pháp luật các quyền và nghĩa vụ của công dân mà pháp luật trở thành phương tiện để: - Công dân thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của người khác, kể cả từ phía Nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước. Bằng cách đó, mà loại bỏ các yếu tố bạo lực, cưỡng chế không đúng pháp luật đối với mỗi người, tạo lập sự yên ổn trong các quan hệ xã hội. - Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ các quyền của công dân, ngăn ngừa những biểu hiện lộng quyền, thiếu trách nhiệm đối với công dân. Đồng thời, đảm bảo cho mỗi công dân thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước và các công dân khác. 2.2. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, QUAN HỆ PHÁP LUẬT 2.2.1.Hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật là phạm trù thể hiện cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. Cấu trúc bên trong chính là mối liên hệ bên trong giữa các ngành luật gọi là hệ thống các ngành luật. Hình thức biểu hiện bên ngoài đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. 2.2.1.1. Hệ thống các ngành luật (cấu trúc bên trong của pháp luật) Hệ thống các ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và phối hợp với nhau được phân chia thành các chế định pháp luật và các ngành luật. 2.2.1.1.1. Quy phạm pháp luật Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Cấu trúc của quy phạm pháp luật đòi hỏi phải được trình bày ngắn gọn, chặt chẽ, có sự khái quát giúp người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Chính vì vậy, quy phạm pháp luật thường được trình bày theo một cơ cấu nhất định, gồm 3 bộ phận cấu thành là giả định, quy định và chế tài. - Giả định Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật, tức là trong đó nêu rõ những hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và các cá nhân, tổ chức nào ở vào hoàn canher điều kiện đó phải chịu sự chi phối của quy phạm pháp luật đó. Nội dung bộ phận giả định của quy phạm pháp luật thường đề cập đến chủ thể, phạm vi thời gian, không gian, những trường hợp, hoàn cảnh, điều kiện nhất định của đời sống xã hội...Phần giả định giúp ta trả lời được câu hỏi: Ai (cá nhân, tổ chức nào)? Khi nào? Trong hoàn cảnh, điều kiện nào? Ví dụ: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57 Hiến pháp năm 1992). Trong quy phạm pháp luật này, bộ phận giả định là “công dân”. “Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật này tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh” (Khoản 1 Điều 15 Luật doanh nghiệp năm 2005). Trong quy phạm pháp luật này bộ phận giả định là “người thành lập doanh nghiệp” - Quy định Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật, trong đó nêu lên cách xử sự mà chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã xác định trong bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được phép, không được phép hoặc buộc phải thực hiện. Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật thường trả lời cho câu hỏi như: Được làm gì? Không được làm gì? Phải làm gì? Làm như thế nào? Ví dụ: Khoản 1 Điều 15 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì trong quy phạm này bộ phận quy định là: “nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật này tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh”. Hoặc trong Điều 57 Hiến pháp năm 1992 thì bộ phận quy định là: “có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. - Chế tài Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể đã không thực hiện đúng bộ phânh quy định của quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Bộ phận chế tài trả lời cho câu hỏi: Hậu quả như thế nào nếu không thực hiện đúng bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Ví dụ: “Người nào quảng cáo gian dối về hàng hoá, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chínhvề hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Trong quy phạm pháp luật này, bộ phận chế tài là: “thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra cơ chế đảm bảo để cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể không chấp hành đúng yêu cầu của bộ phận quy định, phần lớn các biện pháp tác động này mang tính cưỡng chế và gây ra hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các biện pháp tác động và các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp đó mà ta có thể phân chia chế tài quy phạm pháp luật thành các loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài kỷ luật. 2.2.1.1.2. Chế đinh pháp luật Chế định pháp luật là một tập hợp gồm hai hay một số quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính chất chung và liên hệ mật thiết với nhau. 1.1.3. Ngành luật Ngành luật là tổng hợp các chế định pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất. Một số nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất hợp thành đối tượng điều chỉnh của một ngành luật. 2.2.1.2. Hệ thống các ngành luật của nước ta hiện nay Hệ thống các ngành luật là tổng hợp các ngành luật có quan hệ thống nhất nội tại và phối hợp với nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ trong các lĩnh vực khác nhau. Ở nước ta hiện nay có các ngành luật cụ thể sau: - Luật Nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,... - Luật hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là các quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình quản lý nhà nước. - Luật tài chính gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. - Luật đất đai gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất. - Luật dân sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình thức hàng hóa - tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản như quyền sáng chế, phát minh khoa học công nghệ và sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật. - Luật lao động gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân hoặc tổ chức) trong các quan hệ trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội. - Luật hôn nhân và gia đình gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hôn nhân và gia đình (quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ). - Luật tố tụng dân sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ giữa cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người tham gia khác trong quá trình điều tra và xét xử những vụ án dân sự. - Luật hình sự gồm những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm và phải chịu hình phạt như thế nào. - Luật tố tụng hình sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự. - Luật thương mại là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, lãnh đạo họat động kinh doanh của Nhà nước và trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các thương nhân. Ngoài ra, bên cạnh hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn tồn tại hệ thống pháp luật quốc tế. Những quy phạm của luật quốc tế được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia và thể hiện ý chí chung của quốc gia đó. Luật quốc tế bao gồm: - Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng nên trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện và bình đẳng. - Tư pháp quốc tế bao gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân - gia đình, lao động và tố tụng dân sự nảy sinh giữa các công dân, các tổ chức thuộc các nước khác nhau. 2.2.1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là hình thức biểu hiện mối liên hệ bên ngoài của pháp luật bằng các loại văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao thấp khác nhau do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nhưng đều tồn tại trong thể thống nhất. Các văn bản quy phạm pháp luật tạo nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm: - Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. - Các văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau (luật, pháp lệnh, nghị định,...) do Hiến pháp quy định. Giá trị pháp lý của chúng cao thấp khác nhau do vị trí của cơ quan Nhà nước trong bộ máy nhà nước quy định. - Các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong không gian (hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ), hiệu lực theo thời gian (bắt đầu có hiệu lực hay hết hiệu lực) và hiệu lực theo nhóm người (có hiệu lực đối với nhóm người này mà không có hiệu lực đối với nhóm người khác. Hiến pháp năm 1992, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 quy định hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật gồm các văn bản có giá trị pháp lý như sau: - Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. - Các Đạo luật (Bộ luật), luật là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Đạo luật và Bộ luật đều là những văn bản có giá trị pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp. - Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ thể. - Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. - Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước: theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh; ban hành quyết định để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình như quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, quyết định đại xá,... - Nghị định của Chính phủ, Quyết địnhcủa Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. - Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. - Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước. - Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. - Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. - Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, gồm: + Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung ương, với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và Ủy ban nhân dân cấp trên. + Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND các cấp. Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp nào thì có giá trị pháp lý trong địa hạt của cấp đó. 2.2.2.Quan hệ pháp luật 2.2.2.1. Định nghĩa quan hệ pháp luật Khi giữa các bên tham gia quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh sẽ xuất hiện mối liên hệ đặc biệt - đó là quan hệ pháp luật. Như vậy một quan hệ xã hội có sự tác động của quy phạm pháp luật gọi là quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, không phải quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật tương ứng quy định quyền, nghĩa vụ đều trở thành quan hệ pháp luật mà còn đòi hỏi có sự kiện pháp lý xảy ra. Sự kiện pháp lý trong đại bộ phận các trường hợp là những xử sự có ý chí của con người. Như vậy, để cho một quan hệ xã hội trở thành một quan hệ pháp luật cần phải có quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ; đồng thời có sự kiện pháp lý xảy ra phù hợp với yêu cầu về quyền và nghĩa vụ đã quy định trong quy phạm pháp luật. Vì thế, có thể nói quan hệ xã hội là nội dung của quan hệ pháp luật và quan hệ pháp luật là “cái vỏ” pháp lý của quan hệ đó. Tóm lại, quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội xuất hiện dưới tác động điều chỉnh của quy phạm và sự kiện pháp lý. 2.2.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật - Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí. Sở dĩ quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí, bởi vì: + Quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở có quy phạm pháp luật điều chỉnh mà nội dung của quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước. + Quan hệ pháp luật lại nảy sinh, thay đổi và chấm dứt do ý chí của các bên tham gia quan hệ (tức là có sự kiện pháp lý với tư cách là hành vi có ý chí của con người). - Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật. Đặc điểm này chỉ rõ không có quy phạm pháp luật thì sẽ không có quan hệ pháp luật. Mặt khác, quan hệ pháp luật là phương tiện để thực hiện các quy phạm pháp luật. Không thông qua các quan hệ pháp luật. các quy phạm pháp luật không thể thực hiện được trong đời sống. - Quan hệ pháp luật là quan hệ mà các bên tham gia (chủ thể) quan hệ đó mang quyền và nghĩa vụ pháp lý. - Việc thực hiện quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng cưỡng chế của Nhà nước. 2.2.2. 3. Cấu trúc của quan hệ pháp luật Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các yếu tố sau đây: - Chủ thể của quan hệ pháp luật - Nội dung của quan hệ pháp luật - Khách thể của quan hệ pháp luật 2.2.2.3.1. Thế nào là chủ thể của quan hệ pháp luật? Chủ thể của quan hệ pháp luật là người hay tổ chức có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật. 2.2.2.3.2. Thế nào là nội dung của quan hệ pháp luật? Nội dung của quan hệ pháp luật là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật. - Quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ được quy phạm pháp luật quy định và được bảo vệ bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Quyền của chủ thể có một số đặc điểm sau: + Quyền của chủ thể là khả năng được hành động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác đinh trước. + Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia quan hệ pháp luật) thực hiện nghĩa vụ của họ. + Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền của mình bị chủ thể bên kia vi phạm. - Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên chủ thể bắt buộc phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể bên kia. Nghĩa vụ pháp lý không phải là khả năng xử sự mà là sự cần thiết phải xử sự. Nghĩa vụ pháp lý có một số đặc điểm sau: + Nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật quy định. + Sự bắt buộc phải có xử sự bắt buộc nhằm thực hiện quyền của chủ thể bên kia. + Trong trường hợp chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp lý, Nhà nước đảm bảo bằng sự cưỡng chế. 2.2.2.3.3. Thế nào là khách thể của quan hệ pháp luật? Khách thể quan hệ pháp luật là cái mà các chủ thể của quan hệ đó hướng tới để tác động. Đối tượng mà hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thường hướng tới để tác động có thể là lợi ích vật chất (tài sản), giá trị tinh thần (danh dự, nhân phẩm, tự do) hoặc lợi ích chính trị (như bầu cử, ứng cử,...). do vậy, các đối tượng cụ thể như: Tài sản, danh dự, tự do, nhân phẩm của công dân hay các quyền chính trị,... là khách thể của hành vi các chủ thể trong quan hệ pháp luật. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Nguồn gốc ra đời của pháp luật? Qua đó chứng minh được rằng: Có nhà nước thì có pháp luật luật, không có nhà nước thì không có pháp luật? 2. Quy phạm pháp luật là gì? Quan hệ pháp luật là gì? Điều kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật? BÀI TẬP THẢO LUẬN CHƯƠNG 2 Tình huống 1 : Anh A và chị có quan hệ yêu nhau từ năm 2007. Năm 2008, hai anh chị quyết định dọn về ở cùng nhau trong một căn hộ thuê. Quá trình sống chung, hai người đã xảy ra mâu thuẩn. Đến năm 2011, anh A quyết định không sống chung với chị B nữa nên đã thu dọn đồ đạc chuyển sang ở một căn hộ thuê khác. Chị B đã nhiều lần đề nghị A quay trở lại nhưng bất thành. Quá tức giận A, đầu năm 2012, chị B nộp đơn khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc sống chung của chị và anh A. Theo Anh (chị) đây có phải là quan hệ pháp luật không ? Vì sao ? Tòa án sẽ giải quyết như thế nào khi chị B nộp đơn? Tình huống 2 : Chị Huỳnh Thị Phương Ng. là con một trong một gia đình rất giàu có trong vùng. Khi 18 tuổi, Ng. đem lòng yêu một người con trai, sau hơn một năm yêu nhau thì Ng. có thai. Biết được tin này, người yêu của Ng. đã bỏ rơi Ng. để chạy theo một phụ nữ khác. Sợ xấu hổ với dân làng, Ng. đã đồng ý để cha mẹ thỏa thuận với một thanh niên làng bên cạnh cưới Ng. và nhận đứa con của Ng. là con của mình. Sau 3 năm thì ly hôn. Bù lại, gia đình Ng. trả cho người thanh niên này 150 triệu đồng. Mọi việc diễn ra như đúng thỏa thuận. Tuy nhiên, từ khi cưới Ng. người thanh niên đã nhiều lần đòi thêm tiền nhà vợ với nhiều lý do cần tiền khác nhau. Do sợ mọi việc vỡ lỡ nên gia đình Ng. đã đáp ứng yêu cầu. Khoảng 2 năm sau, người thanh niên đòi gia đình vợ 500 triệu đồng để làm vốn kinh doanh. Quá bức xúc, gia đình Ng. đã không đáp ứng yêu cầu này. Vì vậy, người thanh niên đã làm đơn khởi kiện gia đình Ng. ra Tòa án có thẩm quyền. Theo Anh (chị), tình huống trên có phải là quan hệ pháp luật không ? Trong trường hợp này, Tòa án sẽ giải quyết như thế nào ? Tình huống 3 A 17 tuổi trong tình trang say rượu đã rủ B 16 tuổi cùng đua xe mô tô, trong khi đua xe do không làm chủ tốc độ nên A đã đâm phải chị C, làm chị C bị thương tích 5% và bị hỏng một chiếc xe đạp trị giá 200.000 đồng và chi phí điều trị vết thương hết 900.000 đồng. a. Có bao nhiêu quan hệ pháp luật đã xảy ra? b. Hãy xác định trách nhiệm pháp lý của A và B? Chương 3 THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ —&– 3.1.THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 3.1.1.Khái niệm: Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định những cách thức ứng xử của các chủ thể pháp luật. Khi đặc ra những quy phạm pháp luật, nhà nước mong muốn sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ có ý nghĩa khi nó được thực hiện. Vì vậy xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động gắn bó chặt chẽ với nhau, là hai giai đoạn của một quá trình. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật được hiểu là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định của pháp luật; có lợi cho xã hội, cho nhà nước và cho các cá nhân. 3.1.2.Các hình thức thực hiện pháp luật 3.1.2.1.Tuân thủ pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Ở hình thức này, đòi hỏi chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình không làm những việc mà pháp luật không cho phép. Trong khi tuân thủ pháp luật, chủ thể pháp luật thực hiện yêu cầu của pháp luật một cách thụ động, tức là không hành động. 3.1.2.2.Thi hành pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực. Khác với hình thức tuân thủ pháp luật, hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi chủ thể pháp luật thực hiện yêu cầu của pháp luật một cách chủ động, tích cực và bằng những hành vi cụ thể. 3.1.2.3.Sử dụng pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép) và chủ thể có thể hưởng hoặc không hưởng quyền mà pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị ép buộc phải thực hiện. 3.1.2.4. Áp dụng pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật. Trong trường hợp này các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Áp dụng pháp luật là một hình thức quan trọng trong các hình thức thực hiện pháp luật. Nó không chỉ là hình thức thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước mà còn là một trong những hoạt động của cơ quan nhà nước. 3.2. VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 3.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật Hành vi của con người trong khuôn khổ do pháp luật quy định thường được phân thành hai loại: hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Hành vi hợp pháp còn gọi là hành vi đúng pháp luật tức là những hành vi tuân thủ, thực hiện đúng những quy định của pháp luật (làm những điều mà luật cho phép, luật đòi hỏi hoặc bắt buộc phải làm, không làm những điều luật cấm, không cho phép). Hành vi bất hợp pháp gọi là hành vi vi phạm pháp luật (hành vi trái pháp luật) là những hành vi không phù hợp với những quy định của pháp luật. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật có đủ 4 dấu hiệu cơ bản sau: - Vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động) xác định của con người được biểu hiện ra bên ngoài, không phải là những suy nghĩ hay những đặc tính cá nhân của con người. - Hành vi đó phải là trái với những quy định (yêu cầu) của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. - Hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi (cố ý hoặc vô ý) của chủ thể hành vi đó. - Chủ thể hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách nhiệm pháp lý, tức là người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình (trí óc bình thường và đến độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý). Có thể nói, tất cả mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng trái lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật (nếu không có đủ 4 dấu hiện cơ bản trên). Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng. Thông thường được chia thành 4 loại cơ bản sau: - Vi phạm hình sự (tội phạm) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự của Nhà nước, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. - Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự theo quy định của pháp luật phải bi xử phạt hành chính. - Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm phạm tới những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản,... - Vi phạm kỷ luật là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học,... không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ được quy định trong nội quy, quy chế của cơ quan, xí nghiệp, trường học,... 3.2.2. Trách nhiệm pháp lý Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng theo hai nghĩa: Nghĩa vụ và nghĩa thứ hai là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt). Trách nhiệm được hiểu theo nghĩa vụ là nói đến những điều pháp luật yêu cầu các chủ thể phải làm nghĩa vụ pháp lý trong một chức vụ, một hoạt động nhất định. Trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là nguy cơ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật. Đó là thái độ xử lý của Nhà nước đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Trách nhiệm pháp lý chỉ do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cơ quan quản lý Nhà nước, tòa án) áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lý tức là áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước đã quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng có một số biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng không liên quan tới trách nhiệm pháp lý (nó được áp dụng cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật). Tóm lại, trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật , trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế Nhà nước được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý, ngoài tác dụng trừng phạt còn có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo, giáo dục những người vi phạm pháp luật, đồng thời răn đe tất cả những người khác khiến họ phải kiềm chế giữ mình không vi phạm pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm minh, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, dần dần từng bước loại trừ những hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm pháp lý mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa áp dụng có nhiều loại. Thông thường chúng được chia thành 4 loại trách nhiệm pháp lý. - Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự. - Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành chính. - Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự. - Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp,... áp dụng đối với cán bộ, công nhân viên của cơ quan, xí nghiệp mình khi họ vi phạm nội quy, quy chế nội bộ cơ quan. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Các hình thức thực hiện pháp luật? theo em trong các hình thức đó thì hình thức nào quan trọng nhất? Vì sao? 2. Phân tích các dấu hiệu vi phạm pháp luật? BÀI TẬP THẢO LUẬN Tình huống 1: Nguyễn Văn A có giấy phép lái xe ô tô tải theo đúng quy định của pháp luật. Vào ngày 15/01/2007, khi đang điều khiển xe ô tô tải biển số 92K- 4343 lưu hành trên QL1A, đoạn qua thì trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam thì va quẹt với một xe mô tô cùng chiều. Xe mô tô bị ngã xuống đường. Thấy thế, A liền dừng xe và xuống kiểm tra thì thấy 2 vợ chồng trên xe mô tô không bi thương tích gì. A liền lên xe điều khiển xe đi tiếp. A đã không biết rằng lúc này dưới gầm xe có 1 cháu bé con của 2 vợ chồng đi xe mô tô khi bị ngã văng nằm trong đó. Vì thế A đã điều khiển xe cán chết cháu bé. Theo các em, hành vi của A có vi phạm pháp luật hay không? Giải thích vì sao? Tình huống 2: A và B ngồi nhậu với nhau thì xảy ra xô xát, cãi vã. A cầm cây đuổi B để đánh. Trên đường chạy, B thấy 1 chiếc xe đạp dựng chắn lối đi liền nhấc xe đạp lên và ném về phía A. Hậu quả, A bị thương tích 5%. Theo em, hành vi của A gây thương tích cho B có vi phạm hành chính không? Vì sao? Nếu em, là người có thẩm quyền xử phạt, em hãy xác định các hành vi bị xử phạt trong trường hợp này? Tình huống 3: A có giấy phép lái xe ô tô theo quy định. Ngày 18/3/2010 A điều khiển xe ô tô con trên đường thì gặp một đống rơm do người dân sống gần đó để, làm lấn chiếm lối đi. Thấy vậy, A liền cho xe băng qua đống rơm. Không may lúc này trong đống rơm có một em bé 4 tuổi đang chơi trốn tìm nấp trong đó. Hậu quả, em bé bị thương nặng và tử vong sau đó. Theo em, hành vi nào trong tình huống trên là vi phạm pháp luật? Vì sao? Đề xuất hướng xử lý trong trường hợp này? Tình huống 4: Có bốn sinh viên Trường đại học ngồi uống café ở quán trước cổng trường. Như thường lệ, cả bốn thành viên đánh bài tính điểm, ai thua thì trả tiền café. Vụ việc bị Công an phường phát hiện và lập biên bản xử lý. Hành vi của 4 sinh viên trên có vi phạm pháp luật không? Nếu có hãy phân tích các yếu tố cấu thành? Tình huống 5: Một người bán quán lẩu dùng bếp ga để bàn cho khách sử dụng, do để tiết kiệm chi phí nên chủ quán đã sử dụng bình ga cũ không an toàn. Hậu quả, bình ga phát nổ gây bỏng nặng cho thực khách. Hành vi của người chủ quán có vi phạm pháp luật không? Nếu có hãy phân tích các yếu tố cấu thành? Tình huống 6: A là học sinh Trường trung cấp C, vì không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy đến trường A đã bị cảnh sát giao thông phạt tiền và thông báo về trường. Nhận được thông báo của Công an, Hiệu trưởng Trường C ra quyết định kỷ luật A với hình thức cảnh cáo. A không đồng ý và không chấp hành Quyết định kỷ luật vì cho rằng mình không vi phạm kỷ luật. Vậy, Hiệu trưởng Trường C kỷ luật A trong trường hợp này có đúng pháp luật không? Chương 4 Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ Xà HỘI CHỦ NGHĨA 4.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT 4.1.1. Khái niệm Ý thức pháp luật là các tư tưởng, quan niệm về pháp luật - Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa – ý thức pháp luật kiểu mới mà chúng ta đang xây dựng, tiếp tục phát triển và nâng cao là tổng thể những học thuyết, quan điểm, tình cảm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắng của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức. - Ý thức pháp luật Xã hội chủ nghĩa mang tính chính trị sâu sắc. 4.1.2. Cơ cấu của ý thức pháp luật Ý thức pháp luật cấu thành bởi hai yếu tố sau: - Yếu tố tư tưởng: đó là sự giác ngộ tư tưởng, tình cảm đối với đối tượng mà pháp luật bảo vệ. Yếu tố này phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội mà pháp luật bảo vệ và sự thống nhất quyền lợi của giai cấp cầm quyền với quyền lợi của đại đa số nhân dân là như thế nào? - Yếu tố tâm lý: đó là sự nhạy cảm trong cảm nhận pháp luật của công dân. Nó thể hiện thành sự phấn khởi, thoải mái, tự giác thực hiện pháp luật hay cảm thấy bị bắt buộc, sợ sệt đến mức căm ghét pháp luật. Yếu tố này trước hết phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội mà pháp luật bảo vệ có liên quan đến sự hình thành tư tưởng đã nói trên. Đồng thời, yếu tố tư tưởng lại là cơ sở hình thành yếu tố tâm lý. Ngoài ra, yếu tố tâm lý còn phụ thuộc vào trình độ dân trí. 4.1.3. Các loại ý thức pháp luật Lấy mức độ cao thấp của ý thức pháp luật làm căn cứ phân loại, người ta chia ý thức pháp luật thành 3 loại sau đây: - Mức độ thông thường: đó là mức độ đạt được có tính chất cảm tính, do thực tế cuộc sống mang lại cho công dân. Ở mức độ này, ý thức pháp luật của công dân đạt được ở mức độ công nhận: Biết đủ và thực hiện đủ. - Mức độ có căn cứ: đó là ý thức pháp luật được xxây dựng trên cơ sở khoa học pháp lý. Các khoa học có liên quan đến lĩnh vực hoạt động xã hội mà pháp luật can thiệp vào. Ở mức độ này, con người không chỉ biết là pháp luật quy định như thế nào. Với mức độ này công dân không chỉ có khả năng thực hiện pháp luật mà còn thực hiện quyền công dân trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật,... phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí. - Mức độ nghề nghiệp: Là ý thức pháp luật có ở những người chuyên làm công tác thực tế hoặc khoa học pháp lý, công tác quản lý Nhà nước... 4.1.4. Nâng cao ý thức pháp luật Để nâng cao hiểu biết về pháp luật thì đòi hỏi rất nhiều yếu tố tuy nhiên, trước hết chúng ta cần phải hiểu được pháp luật từ đâu mà có? Cụ thể nó là cái gì và nó có vai trò quan trọng gì đối với bản thân chúng ta nói riêng và đối với đất nước nói chung? Để trả lời cho các câu hỏi trên thì chúng ta cần phải biết: - Pháp luật chính là cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân thành những quy định mà mọi công dân, cơ quan Nhà nước và mọi tổ chức đều phải tuân theo. - Cần phải thấy rằng việc tăng cường giác ngộ cho mọi người “sống và làm việc theo pháp luật” là việc hết sức cần thiết hiện nay. Để nâng cao ý thức pháp luật cho công dân nói chung và cho học sinh nói riêng bên cạnh phải xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải thường xuyên bồi dưỡng giáo dục pháp luật. Để Xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của công dân thì cần phải: - Mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho công dân. - Hình thành niềm tin đối với pháp luật, tình cảm đối với pháp luật... - Hình thành các hành vi tích cực, hợp pháp, không ngừng mở rộng, khuyến khích và tăng cường hành vi tuân thủ pháp luật. 4.2. PHÁP CHẾ Xà HỘI CHỦ NGHĨA (XHCN) 4.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa - Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng. - Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của công dân. - Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật và pháp chế là hai khái niệm rất gần nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Pháp chế không phải là pháp luật mà là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế, và ngược lại, pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. 4.2.2. Những yêu cầu (nguyên tắc) cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa - Tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật. - Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc. - Các cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả. - Không tách rời công tác pháp chế với văn hóa. 4.2.3. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Trong giai đoạn hiện nay vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế. - Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. - Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống. - Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật? Từ đó nêu các biện pháp để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay? 2. Để tăng cường pháp chế cần có biện pháp nào? Trong đó biện pháp nào đóng vai trò là cơ sở? TIỂU LUẬN Tùy theo chủ đề của từng năm, GV có thể cho SV chọn các đề tài sau đây: An toàn giao thông Phòng chống tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma túy) Vấn đề bạo lực học đường Vấn đề phòng chống tội phạm chưa thành niên, tội phạm trong học đường Tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình (vấn đề tình yêu, sống thử) Chương 5 LUẬT HIẾN PHÁP - HIẾN PHÁP 1992 —&– 5.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT HIẾN PHÁP 5.1.1. Khái niệm. Thuật ngữ “Hiến pháp” có gốc từ tiếng La tinh là “Constitutio”. Trong nhà nước La Mã cổ đại, các Hoàng đế đã dùng thuật ngữ này chỉ các quyết định của mình. Chỉ từ cách mạng tư sản thuật ngữ này mới có nghĩa như ngày nay là hiến pháp. Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, vẫn cần có nhà nước. Và lẽ đương nhiên nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn cần một bản hiến pháp quy định việc tổ chức nhà nước. Nhưng giữa hiến pháp của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có sự khác nhau xa vời về bản chất. Nếu như hiến pháp của chế độ tư bản chỉ là văn bản quy định việc tổ chức nhà nước của giai cấp thống trị (giai cấp tư sản), việc tổ chức này chỉ thể hiện ý chí của một nhóm người không khác mấy với các giai cấp chủ nô, phong kiến trước đây thì hiến pháp của chế độ xã hội chủ nghĩa lại là văn bản quy định việc nhân dân lao động tự tổ chức thành nhà nước, tức là nhà nước này được tổ chức để thể hiện ý chí của đại đa số nhân dân (một nửa nhà nước theo cách gọi của V. I. Lênin). Khác với nhà nước tư bản, nơi mà việc tổ chức nhà nước chỉ được quy định đơn giản trong một bản hiến văn, bao gồm một số điều khoản bất khả thay đổi, hoặc khó khăn trong việc thay đổi, việc tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau, trong đó có đạo luật có hiệu lực cao nhất được gọi là luật hiến pháp (luật cơ bản). Luật Hiến pháp là một ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cơ bản có liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bộ máy nhà nước và các nguyên tắc tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. 5.1.2. Đối tượng điều chỉnh Luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất nhằm củng cố cơ sở, nền tảng của một nhà nước, một xã hội, đó là: - Điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, nền tảng về chế độ chính trị của một nhà nước - Điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực kinh tế, như chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, chiến lược kinh tế, mục tiêu kinh tế - Điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ. - Điều chỉnh các quan hệ nền tảng giữa nhà nước và công dân (quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) - Điều chỉnh nguyên tắc cơ bản, nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước - Điều chỉnh những quan hệ thuộc chủ quyền một nhà nước, một quốc gia: quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh - Điều chỉnh hiệu lực của hiến pháp và việc sửa đổi hiến pháp 5.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP 1992 5.2.1. Chế độ chính trị Chế độ chính trị là tổng thể các quy định về những vấn đề có tính chất nguyên tắc chung làm nền tảng cho các chương sau của hiến pháp. Đó là những quy định nói về bản chất nhà nước, nguồn gốc nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hoạt động của nhà nước và xã hội, những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Về bản chất nhà nước, Hiến pháp 1992 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Mặt trận tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được xác định là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. 5.2.2. Chế độ kinh tế Chế độ kinh tế là một hệ thống quan hệ kinh tế được xây dựng trên một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định thể hiện tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm xã hội và tổ chức nền kinh tế. - Hiến pháp 1992 ghi nhận sự tồn tại và bảo hộ các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. - Trên cơ sở sở hữu cơ bản, nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng. Các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 5.2.3. Chính sách văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ - Chính sách văn hóa: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới. - Chính sách giáo dục: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. - Chính sách khoa học và công nghệ: Hiến pháp 1992 quy định: phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến - Chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân: Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mỗi người dân được chăm sóc sức khỏe. 5.2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp được phân loại như sau: - Các quyền về chính trị - Các quyền về kinh tế, văn hóa, giáo dục - Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân - Các nghĩa vụ của công dân. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Vì sao nói Hiến pháp là đạo luật “gốc”, đạo luật “mẹ”? 2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992? BÀI TẬP THẢO LUẬN So sánh Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (Tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa) Chương 6 LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH —&– 6.1. KHÁI NIỆM LUẬT HÀNH CHÍNH 6.1.1. Khái niệm Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, đất đai, tài nguyên, lao động Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước, hoạt động thường xuyên, liên tục, có vị trí ổn định, và là cầu nối trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống. Cơ quan hành chính nhà nước được phân loại như sau: - Căn cứ vào quy định của pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước được chia thành hai loại: + Những cơ quan được thành lập do hiến pháp quy định, như: Chính phủ, các bộ và ủy ban nhân dân các cấp. + Những cơ quan được quy định trong các văn bản duới luật: các tổng cục, các vụ, viện, sở, ban, - Căn cứ theo địa giới hoạt động, cơ hành chính nhà nước gồm có: + Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương: Chính phủ, các bộ + Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: ủy ban nhân dân các cấp, sở, phòng - Căn cứ theo thẩm quyền, cơ quan hành chính nhà nước gồm có: + Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung: chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp. + Cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn: các bộ, sở, phòng, ban 6.1.2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính Luật hành chính bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Các quan hệ quản lý hành chính bao gồm: - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. - Quan hệ giữa cơ quan quản lý hành chính ngang cấp, ngang quyền, không trực thuộc nhau về mặt tổ chức, nhưng việc quyết định quan này có liên quan hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan kia. - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cấp dưới trực tiếp. - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với những cơ quan, cơ sở trực thuộc trung ương đóng tại địa phương đó. - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với đơn vị kinh tế. - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, các hội, đoàn thể. - Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân Việt Nam, người nước ngoài. - Quan hệ quản lý hành chính do các cơ quan nhà nước khác thực hiện nhằm xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình. - Những quan hệ quản lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý thực hiện trong những trường hợp do pháp luật quy định. - Các quan hệ hành chính khác theo quy định của pháp luật. Do đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính đặc thù “bất bình đẳng” của hoạt động chấp hành – điều hành mà phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh – quyền uy, xuất phát từ quan hệ quyền lực – phục tùng. 6.1.3. Quan hệ pháp luật hành chính Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Quan hệ pháp luật hành chính có những đặc trưng, đó là: - Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính luôn gắn với hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước. - Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do yêu cầu hợp pháp của bất kỳ bên nào, sự thoả thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc. - Trong quan hệ pháp luật hành chính, một chủ thể được sử dụng quyền lực nhà nước. Chủ thể này là chủ thể bắt buộc, nếu thiếu chủ thể này thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính. - Phần lớn tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính và chủ yếu thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước hay cán bộ nhà nước có thẩm quyền trong những cơ quan này. - Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước nhà nước chứ không phải trước bên kia Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là những bên tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, có năng lực chủ thể, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính gồm: Cơ quan nhà nước; cán bộ, công chức nhà nước; tổ chức xã hội; đơn vị kinh tế; công dân Việt Nam; người nước ngoài, người không có quốc tịch. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Trật tự này được nhà nước quy định trong pháp luật và được quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh. Quan hệ pháp luật hành chính phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ hai cơ sở là quy phạm pháp luật hành chính và sự kiện pháp lý hành chính. Quy phạm pháp luật hành chính nêu ra các trường hợp, hoàn cảnh giả định và buộc các đối tượng có liên quan phải thực hiện những hành vi nhất định. Sự kiện pháp lý hành chính là sự kiện thực tế mà khi xảy ra, pháp luật hành chính gắn nó với việc phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của các chủ thể. 6.1.3. Quản lý hành chính nhà nước 6.1.3.1.Phương pháp quản lý - Phương pháp thuyết phục thể hiện trong việc sử dụng những biện pháp khác nhau như: Giải thích, nhắc nhở, tổ chức, giáo dục tuyên truyền...nhằm làm cho đối tượng hiểu rõ nội dung và mục đích hoạt động quản lý hành chính nhà nước và họ tự nguyện, tự giác hướng tới mục tiêu do nhà nước đặt ra từ trước. Phương pháp thuyết phục luôn được sử dụng thường xuyên, chỉ khi nào phương pháp này không đạt được mục đích thì mới sử dụng phương pháp cưỡng chế. - Phương pháp cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cá nhân hoặc tổ chức nhất định về mặt vật chất hoặc tinh thần, nhằm buộc cá nhân hay tổ chức đó thực hiện những hành vi nhất định, do pháp luật quy định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định về tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc phải chịu sự hạn chế về tự cá nhân, tự do thân thể * Có bốn loại cưỡng chế nhà nước: Cưỡng chế dân sự Cưỡng chế kỷ luật Cưỡng chế hình sự Cưỡng chế hành chính Trong 4 hình thức cưỡng chế trên, cưỡng chế hành chính là phương pháp được áp dụng nhiều trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với mọi đối tượng quản lý. Cưỡng chế hành chính có một số đặc điểm sau: + Các chủ thể tiến hành áp dụng các biện pháp cưỡng chế là các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước thuộc hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước. + Cưỡng chế hành chính được áp dụng theo trình tự, thủ tục hành chính. + Cưỡng chế hành chính hướng đến lợi ích công. + Cưỡng chế hành chính bao gồm: Phòng ngừa, ngăn chặn và xử phạt và các biện pháp xử lý hành chính khác. - Phương pháp hành chính Là phương pháp ra mệnh lệnh, phục tùng xuất phát từ đặc điểm của quan hệ quản lý. - Phương pháp kinh tế ( phương pháp đòn bẩy kinh tế ) Nhà nước sử dụng lợi ích vật chất để tác động lên đối tượng quản lý, nhằm kích thích các đối tượng quản lý tự nguyện, tự giác hướng tới mục tiêu quản lý: khen thưởng nâng mức lương trước thời hạn... 6.1.3.2.Cải cách thủ tục hành chính Cải cách thủ tục hành chính là một trong những biện pháp để cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay. Thực trạng của thủ tục hành chính hiện nay cho thấy đã lamg cản trở rất nhiều đến sự phát triển của nền hành chính. Dặc biệt nó đã làm cản tor việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong đó có quiyền và nghĩa vụ của công dân. Bởi lẽ: - Thủ tục hành chính rườm ra, chồng chéo. - Thủ tục hành chính đặt ra không dựa vào quy luật khách quan, nhiều khi dựa vào yếu tố chủ quan. - Các thủ tục hành chính không đồng bộ, không thống nhất do đó dẫn đến việc thực hiện pháp luật không nghiêm. - Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực quy định thiếu chặt chẽ, tạo điều kiện cho các chủ thể dễ dàng vi phạm pháp luật. Đứng trước thực tế như vây, để đáp ứng nhu cầu đổi mới hiện nay, nhà nước ta rất coi trọng công tác cải cách thủ tục hành chính. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính, được tiến hành theo các hướng sau: - Trước hết các bộ, các ngành, các cấp phải rà soát lại toàn bộ các quy định về thủ tục ở các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực liên quan đến việc cấp giấy phép, chứng nhận các quyền sở hữu của công dân... - Đặc biệt thủ tục hành chính ở lĩnh vực nhà đất, xây dựng, đầu tư, xuất nhập cảnh... 6.2. TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH, VI PHẠM HÀNH CHÍNH, XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 6.2.1. Trách nhiệm hành chính 6.2.1.1. Khái niệm Trách nhiệm hành chính là một loại trách nhiệm pháp lý, là hậu quả mà cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoặc các chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật hành chính phải gánh chịu trước nhà nước. 6.2.1.2. Đặc điểm - Trách nhiệm hành chính phát sinh trên cơ sở hành vi vi phạm hành chính. - Trách nhiệm hành chính của cá nhân, pháp nhân không phụ thuộc vào việc đã gây thiệt hại hoặc chưa gây thiệt hại. - Chủ thể chịu Trách nhiệm hành chính có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật. 6.2.2. Vi phạm hành chính 6.2.2.1. Khái niệm Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính. 6.2.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính - Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. - Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. - Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm. - Theo quy định của pháp luật, hành vi vi phạm đó phải bị xử lý hành chính. 6.2.2.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính 6.2.2.3.1. Mặt khách quan của vi phạm hành chính Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện bên ngoài của hành vi vi phạm hành chính, bao gồm những yếu tố sau: - Hành vi vi phạm hành chính - Hậu quả. - Mối quan hệ nhân quả. - Thời gian, địa điểm. - Công cụ, phương tiện. * Hành vi vi phạm hành chính: Là những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác động vào thế giới khách quan dưới những hình thức bên ngoài cụ thể, xâm hại đến trật tự quản lý. Hành vi vi phạm hành chính là yếu tố bắt buộc phải có mặt trong khách quan, nếu không có hành vi thì không có vi phạm xảy ra. * Hậu quả: Hậu quả của vi phạm hành chính là các quy tắc quản lý nhà nước bị hành vi vi phạm pháp luật hành chính tác động và xâm hại. Đây không phải là yếu tố bắt buộc phải có, thông thường hậu quả chỉ có ý nghĩa khi chúng ta xem xét và áp dụng hình phạt. * Mối quan hệ nhân quả: Là mối quan hệ hữu cơ giữa hành vi vi phạm pháp luật hành chính và hậu quả đã xảy ra. Nếu hậu quả không phải do hành vi vi phạm pháp luật hành chính gây ra thì người thực hiện hành vi không phải chịu trách nhiệm về hậu quả đó. Việc xác định mối quan hệ nhân quả dựa trên những căn cứ sau: + Hành vi trái pháp luật xảy ra trước hậu quả. + Hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả. + Hậu quả đó phải là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật. Ngoài ra, còn có một số dấu hiệu khách quan khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm... của vi phạm hành chính. Những dấu hiệu này tuy không phổ biến và có ý nghĩa quyết định nhưng trong một số trường hợp chúng trở thành những dấu hiệu bắt buộc và có ý nghĩa quyết định đối với một số vi phạm hành chính nhất định (thường được pháp luật mô tả cụ thể) 6.2.2.3.2. Khách thể của vi phạm hành chính Khách thể của vi phạm hành chính là các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước có nội dung xã hội là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước được pháp luật quy định và bảo vệ. Khách thể của vi phạm hành chính là yếu tố cơ bản bắt buộc phải có trong mọi cấu thành vi phạm hành chính. Khách thể của vi phạm hành chính bao gồm: + Khách thể chung: Là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước hay nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung. + Khách thể loại: Là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước, đây chính là trật tự quản lý nhà nước chuyên ngành hoặc lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: Quy tắc quản lý nhà nước về lính vực y tế; quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan... + Khách thể trực tiếp: Là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định và bảo vệ. Ví dụ: Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú quy định: “Người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh Việt Nam phải có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp thị thực”. 6.2.2.3.3. Mặt chủ quan của vi phạm hành chính Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là quan hệ tâm lý bên trong, bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích của vi phạm hành chính. * Lỗi: Là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình. Lỗi là yếu tố bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính. Lỗi có hai hình thức: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. + Lỗi cố ý trong vi phạm hành: Là thái độ tâm lý của một người khi thực hiện hành vi trái pháp luật, nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có ý thức xem thường, mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó. + Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính: Là lỗi của một người khi thực hiện hành vi trái pháp luật do vô tình hay thiếu thận trọng mà đã không nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng nghĩa vụ này. * Mục đích: Không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. * Động cơ: Là động lực bên trong thúc đẩy người vi phạm hành chính thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Đông cơ vi phạm hành chính không phải là yếu tố bắt buộc phải có trong cấu thành của tất cả mọi loại vi phạm hành chính. 6.2.2.3.4. Chủ thể của vi phạm hành chính (cá nhân, tổ chức) * Cá nhân - Chủ thể của vi phạm hành chính: Một cá nhân khi có hành vi vi phạm hành chính sẽ trở thành chủ thể của vi phạm hành chính phải có đủ hai điều kiện sau đây: + Đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật hành chính Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là những người bắt đầu có năng lực trách nhiệm hành chính, họ chỉ chịu trách nhiệm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính với lỗi cố ý. + Có năng lực hành vi hành chính Năng lực hành vi hành chính được hiểu là cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình. Điều đó có nghĩa một người thực hiện hành vi vi phạm hành chính nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì người đó không phải chịu trách nhiệm hành chính. * Tổ chức - Chủ thể của vi phạm hành chính Để đảm bảo việc đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính có hiệu quả, trong trường hợp một tổ chức nào đó (cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế... ) có biểu hiện xem thường pháp luật mà có những vi phạm hành chính thì cũng phải chịu trách nhiệm hành chính. Tổ chức trong trường hợp này có thể xem là chủ thể đặc biệt của vi phạm hành hcính. Trong cấu thành vi phạm hành chính của tổ chức, do không thể xác định được lỗi của nó nên chỉ cần tổ chức đó có biểu hiện xâm hại đến khách thể trong lĩnh vực quản lý nhà nước, trái pháp luật hành chính là xem như đủ cơ sở để coi là chủ thể của vi phạm hành chính. 6.2.3.4.Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự: Vi phạm hành chính với tội phạm hình sự có những nét khác cơ bản sau đây: - Về mức độ: Vi phạm hành chính là loại hành vi tuy xâm hại đến các quan hệ xã hội nhưng ở mức độ thấp, còn tội phạm hình sự có tính nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự. Sự khác nhau về mức độ giữa chúng thường được xem xét thông qưua tính chất quan trọng của khách thể bị xâm hại và mức độ gây thiệt hại của khách thể do hành vi vi phạm gây ra) để xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự. - Về sự điều chỉnh của pháp luật: Vi phạm hành chính được mô tả trong các văn bản quy phạm pháp luật có quy định hành vi vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính, còn tội phạm được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự. - Về thẩm quyền quy định hành vi: Thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính thuộc về Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Thẩm quyền quy định tội phạm thuộc về Quốc hội. 6.2.3. Xử lý vi phạm hành chính 6.2.3.1. Chủ thể có thẩm quyền xử lý Vi phạm hành chính - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh - Chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển - Thủ trưởng trực tiếp của nhân viên Hải quan - Nhân viên Kiểm lâm đang thi hành công vụ - Nhân viên thuế vụ đang thi hành công vụ - Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ - Thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ - Giám đốc Cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thủy nội địa, giám đốc cảng vụ hàng không - Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa - Chấp hành viên Thi hành án dân sự đang thi hành công vụ 6.2.3.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính - Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải dược khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. - Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định. - Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. - Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. - Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp. - Không xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. 6.2.3.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả 6.2.3.3.1. Hình thức xử phạt hành chính và hình thức xử phạt bổ sung Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một các các hình thức xử phạt chính sau: - Cảnh cáo - Phạt tiền Hình thức cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình thiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản. Hình thức phạt tiền được áp dụng trong những trường hợp không áp dụng hình thức phạt cảnh cáo. Đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật hành chính có thể bị trục xuất, tức là buộc người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: - Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề - Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính 6.2.2.3.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả Ngoài các hình thức xử phạt hành chính và các hình thức xử phạt bổ sung nêu trên, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: - Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. - Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan, dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra. - Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phuơng tiện. - Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại - Các biện pháp khác do chính phủ quy định 6.2.3.4. Các biện pháp xử lý hành chính khác - Giáo dục taị xã, phường, thị trấn - Đưa vào trường giáo dưỡng - Đưa vào cơ sở giáo dục - Đưa vào cơ sở chữa bệnh 6.3. LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 6.3.1.Khái niệm tố tụng hành chính Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước và tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành chính cũng như trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính. 6.3.2.Khái niệm luật tố tụng hành chính 6.3.2.1.Khái niệm vụ án hành chính Điều 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: “Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình” Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi Toà án hành chính có thẩm quyền thụ lý đơn của các cá nhân, cơ quan nhà nước hay tổ chức. nêu việc giải quyết tranh chấp được tiến hành tại cơ quan hành chính có thẩm quyền thì chưa phát sinh vụ án hành chính. 6.3.2.2.Khái niệm luật tố tụng hành chính Luật tố tụng hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hành chính giữa các chủ thể có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, củng cố và bảo vệ trật tự pháp luật của nhà nước và xã hội. 6.3.3. Đặc điểm của luật tố tụng hành chính Luật tố tụng hành chính Việt Nam có những đặc điểm sau đây: - Luật tố tụng hành chính Việt Nam quy định quá trình tài phán hành chính phải trải qua hai giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với nhau là giai đoạn tiền tố tụng và giai đoạn tố tụng. + Giai đoạn tiền tố tụng là giai đoạn tài phán hành chinhd được các cơ quan nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật hành chính và thủ tục hành chính. + Giai đoạn tố tụng là giai đoạn tài phán do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện theo quy định của phấp luật tố tụng hành chính. - Tố tụng hành chính Việt Nam là tố tụng viết. Chứng cứ mà các bên nêu ra trong tố tụng hành chính được trao đổi công khai, các bên có nghĩa vụ chứng minh bằng văn bản. - Quan hệ giữa các đương sự trong vụ án hành chính là quan hệ bình đẳng thưeo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. 6.3.4. Thẩm quyền của Toà án hành chính Tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2006) thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện như sau: - Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính; - Khiếu kiện quyết định áp dung jcác biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quiản chế hành chính; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân; - Khiếu kiện quyết định hành vi hành chính ,hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước; - Khiếu kiện quyết định hành vi hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư, cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hnạ sử dụng đất; - Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; - Khiếu kiện quyết định buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống; - Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thàng phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư; - Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; - Các khiếu liện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 6.3.4.1.Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân cấp huyện Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án hành chính sau: - Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó; - Những khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan nhà nước, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó; - Những khiếu kiện về danh sách cử trí bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng lãnh thổ với Toà án. 6.3.4.2.Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân cấp tỉnh Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chứcn ăng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó; - Khiếu kiện quyết định buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; - Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cùng lãnh thổ với Toà án giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư; - Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết. 6.3.4.3.Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân Tối cao Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctailieu.doc
Tài liệu liên quan