Tài liệu Bài giảng môn Kế toán - Tài chính và hệ thống tài chính quốc gia: Phần A . Tài chính và hệ thống tài chính quốc gia
l - Khái niệm
Tài chính là tổng. thể các quan hệ kinh tế trong việc hình thành và sử dụng các nguồn tài lực nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hoặc thể nhân) trong các xã hội.
2. Chức năng của tài chính :
a- Chức năng tổ chức vốn :
Là sự thu hút vốn, phân bổ các nguồn lực tài chính của nhà nước và các lực lượng thị trường vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua công cụ tài chính nhà nước : thuế, chi tiêu, tín dụng
b. Chức năng phân phối kết quả hoạt động kinh tế :
Tính xã hội là vừa mang kinh tế, vừa mang tính phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và các hoạt động kinh tế - xã hội. Phân phối và phân phối lại là hai quá trình vừa kế tiếp nhau, vừa đan xen nhân liên tục, không gián đoạn.
Phân phối lần đầu được thực hiện trong khâu sản xuất - kinh doanh, nơi tạo ra của cải vật c...
9 trang |
Chia sẻ: ntt139 | Lượt xem: 999 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng môn Kế toán - Tài chính và hệ thống tài chính quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần A . Tài chính và hệ thống tài chính quốc gia
l - Khái niệm
Tài chính là tổng. thể các quan hệ kinh tế trong việc hình thành và sử dụng các nguồn tài lực nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hoặc thể nhân) trong các xã hội.
2. Chức năng của tài chính :
a- Chức năng tổ chức vốn :
Là sự thu hút vốn, phân bổ các nguồn lực tài chính của nhà nước và các lực lượng thị trường vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua công cụ tài chính nhà nước : thuế, chi tiêu, tín dụng
b. Chức năng phân phối kết quả hoạt động kinh tế :
Tính xã hội là vừa mang kinh tế, vừa mang tính phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và các hoạt động kinh tế - xã hội. Phân phối và phân phối lại là hai quá trình vừa kế tiếp nhau, vừa đan xen nhân liên tục, không gián đoạn.
Phân phối lần đầu được thực hiện trong khâu sản xuất - kinh doanh, nơi tạo ra của cải vật chất. Phân phối lần đầu hình thành trên ba quỹ tiền tệ: một là bù đắp chí phí sản xuất - tính doanh và tích lũy cho tái sản xuất mở rộng; hai là các khoản thu bắt buộc như thuế, lệ phí... hình thành nên ngân sách nhà nước; ba là trả công cho người lao động trực tiếp sản xuất - kinh doanh,hình thành nên thu nhập người lao động. Trên thực tế, phân phối lần đầu chưa đáp ứng mọi nhu cầu xã hội.
Phân phối lại là quá trình thực hiện sau quá trình phân phối lần đầu để giải quyết các nhu cầu chung của xã hội. Quá trình phân phối lại được thực hiện thông qua hệ thống tài chính, trong đó ngân sách nhà nước (là khâu chủ đạo nhằm: duy trì và phát triển bộ máy nhà nước; đầu tư cho tái sản xuất mở:rộng; thực hiện nhiệm vụ phát triển mở rộng, thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội; dự phòng chống rủi ro;
c. Chức năng giám đốc - điều chỉnh
Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua những phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Do đó, chức năng giám đốc có thể chia ra làm hai loại: giám đốc trực tiếp và giám đốc gián tiếp (điều chỉnh).
Mục đích của giám đốc tài chính bằng đồng tiền là kiểm tra và đánh giá các hoạt động đảm bảo đúng mục đích, đúng pháp luật và hiệu quả sử dụng.
Chức năng giám đốc được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua ba khâu:
Giám đốc trước khi hoạt động: kiểm soát các chương trình, kế hoạch, các dự án trước khi phê duyệt; Giám đốc trong quá trình hoạt động: kiểm tra thường xuyên . khi các hoạt động tiến hành gắn hềnh các khoản chi tiêu, - Giám đốc " sau quá trình hoạt động: kiểm tra kết quả của quá trình hoạt động.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhân tố tích cực và tiêu cực đan xen với nhau. Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong thế ổn định, cần thiết phải có sự can thiệp gián tiếp của nhà nước thông qua việc thực hiện các chức năng điều chỉnh theo các nguyên tắc thống nhất điều tiết và kiểm soát tài chính;
- Nguyên tắc hiệu quả của cơ chế vận hành nền kinh tế tài chính;
- Nguyên tắc pháp chế hóa tài chính.
Mục tiêu của điều chỉnh tài chính nhà nước là khắc phục chu kỳ kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong thế ổn định, bền vững, đảm bảo yêu cầu công bằng trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Công cụ điều chỉnh tài chính nhà nước chủ yếu là thuế, chi tiêu và tín dụng nít à nước .
3. Hệ thống tài chính quốc gia
Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ đã phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị gợi là các quan hệ tài chính.
Các quan hệ tài chính cơ bản trong nền kinh tế quốc dân bao gồm quan hệ tài chính giữa nhà nước với các doanh nghiệp; quan hệ tài chính giữa nhà nước với các tổ chức xã hội; quan hệ tài chính giữa nhà nước và dân cư; quan hệ tài chính giữa hệ thống ngân hàng, kho bạc với các đơn vị kinh tế các tổ chức xã hội và dân cư; quan hệ tài chính giữa các đơn vị kinh .tế với các tầng lớp dân cư khác nhau; quan hệ tài chính giữa nhà nước, doanh nghiệp và dân cư và các lò chức tài chính trung gian, quan hệ tài chính quốc tế, quan hệ tài chính trong nội bộ các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế quốc dân, các quan hệ tài chính đan xen nhau, tác động qua lại với nhau hình thành nên một hệ thống thống tài chính. Hệ thống này là tổng thể những bộ phận hợp thành một cơ cấu tài chính, trong đó các quan hệ tài chính hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng tác động 'phối hợp lẫn nhau trong toàn bộ sự vận ' động của nền tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm năm bộ phận hợp thành:
a. Tài chính doanh nghiệp
Trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp đóng vai trò như những tế bào có khả năng thu hút, tái tạo các nguồn vốn xã hội hay còn được coi như "cái gốc của nền tài chính", là khâu tài chính cơ sở, nơi sáng tạo và sử dụng nguồn tài chính lớn nhất quốc gia. Sự phát triển hay suy thoái của sản xuất - kinh doanh gắn liền với việc mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính, tác động trực tiếp vào đời sống kinh tế của đất nước. '
b. Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là bộ phận tài chính tập trung của quốc gia với hạt nhân là quỹ ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước gắn liền với chức năng nhà nước, là yếu tố vật chất để bộ máy nhà nước có thể hoạt động và hoàn thành các chức năng của mình, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận khác, qua đó thể hiện vị trí đặc biệt của ngân sách nhà nước và vai trò quản lý tinh tế xã hội của nhà nước. Các quan hệ thu hút nguồn lực tài chính, phân bổ và sử dụng vốn ngân sách nhà nước chủ yếu dựa trên quyền lực nhà nước và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, không thể coi nhẹ yếu tố lợi ích kinh tế và những công cụ tinh tế để vận hành hệ thống ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán được cơ quan nhà nước có thêm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Theo Luật Ngân sách nhà nước, hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay gồm bốn cấp: Ngân sách trung ương, Ngân sách cấp tỉnh và cấp tương đương; Ngân sách cấp huyện và cấp tương đương; - Ngân sách cấp xã và cấp tương đương.
Nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách mỗi cấp chính quyền được xác định tương đối rõ ràng, đảm bảo cân đối nhiệm vụ được phân công với điều kiện vật chất để thực hiện chiếm vụ ấy; đống thời, nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn và phát huy tính chủ động của mỗi cấp.
Nguồn thu ngân sách nhà nước gồm thuế, phí, lệ phí; thu từ vay nợ, viện trợ và các nguồn thu khác . . .
* Thuê phí và lệ phí :
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo pháp luật của mỗi người dân đối với nhà nước, không được hoàn trả trực tiếp ngang giá. Đây là khoản thu được dùng để trang trải các chi phí vì lợi ích chung của loàn dân như đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện... Hệ thống thuế nước ta bao gồm 10 loại thuế. Ngoài ra, còn có các khoản . phí và lệ phí có tính chất thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước..' Đây là nguồn thu vừa có tính ổn định vừa không ổn định. Thuế là nguồn thu ổn định khi các thành phần kinh tế và mọi đối' tượng phải nộp thuế chấp hành luật pháp, cả ý thức về nghĩa vụ nộp thuế... đồng thời, khi các chính sách thuế, các sắc thuế phù hợp, tạo động lực để phát triển sản xuất. Thuế là nguồn thu không ổn định trong trường hợp kỷ cương, luật pháp lỏng lẻo, thiếu đồng bộ; các chính sách về thuế và các chính . sách khác chưa phù hợp, còn nhiều khe hô, không khuyến . khích. phát triển sản xuất và bảo đảm lợi ích cho các đối tượng nộp thuế khiến họ tìm cách trôn lậu thuế Chính vì vậy, chính sách thuế phải dựa trên các nguyên tắc đánh thuế sau:
+ Nguyên tắc đánh thuê theo lợi ích: theo nguyên tắc này, việc đánh thuế mỗi người phải theo tỷ lệ lợi ích mà họ nhận được từ hoạt động công cộng.
+ Nguyên tắc khả năng đóng góp thuế. số thuế mà người dân phải đóng gắn liền với thu nhập, của cải hoặc khả năng đóng thuế của họ.
Nói cách khác, ngoài yêu cầu phải bao quát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tiêu đùng xã hội và mọi nguồn lài nguyên, thuế cũng phải thể hiện vai trò tích cực trong việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu: Do đó, chính sách thuế phải: Đơn giản, quy định rõ ràng và ổn định; Phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong giai đoạn đổi mới và trong điều kiện Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia vào khối mậu dịch tự do AFTA và các tổ chức thương mại khác
Tổ chức lại hệ thông thu thuê nhằm :
- Khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh' cần thiết, làm ăn có hiệu quả cao;
Thu hẹp và không khuyến khích sản xuất - kinh doanh những ngành nghề, mặt hàng xa xỉ, lãng phí; .
- Góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu;
- Trong thời kỳ mở cửa, thuế còn có vai trò góp phần hướng dẫn và khuyến khích hợp tác đầu tư với nước ngoài, đáy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước
Cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật gồm : Chi thường xuyên; Chi đầu tư phát triển; Chi trả nợ gốc tiền vay; Chi bổ sưng quỹ dự trữ tài chính nhà nước.
Mọi khoản chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp từ Kho bạc nhà nước khi có đủ ba điều kiện:
- Nằm trong dự toán ngân sách được duyệt;
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
- Được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền chuẩn chi.
Việc phân phối và sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước hết sức phức tạp và phải tuân theo "nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước". Theo đó, tổng thu về thuế và phí phải lớn hơn tống chi thường xuyên và dành một phần tích lũy ngày càng cao cho đầu tư phát triển. Trường hợp có bội chi thì sô bội chi ngân sách phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tức là khoản bội chi này cũng chính là khoản tăng chi cho đầu tư phát triển.
Nếu tình trạng bội chi quá lớn và kéo dài thì nhà nước phải nghĩ tới các biện pháp han chế thâm hụt ngan sách như: biện pháp "tăng thu và giảm chi". Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và giảm chi thế nào để ảnh hưởng ít nhất đến lăng trưởng kinh tế.
Khi các biện pháp tăng thu và giảm chi không giải quyết được toàn bộ thâm hụt thì nhà nước phải tài trợ cho .thâm hụt bằng các hình thức:
- Vay trong nước (trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình . ), vay nợ nước ngoài đảm bảo nguyên tắc không sử .dụng cho tiểu dừng, chỉ sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển, sử dụng dự trữ ngoại tệ;
- Vay ngân hàng (in tiền).
Cân đối ngân sách nhà nước là trạng thái mà mọi quốc ca đều mong muốn, tuy nhiên, đối với quốc gia có nền kinh trẻ đang phát triển như Việt Nam thì bội chi ngân sách là khều. không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra là song song với việc bao quát, bồi dưỡng và khai thác hợp lý nguồn thu thì làm thế nào để có thể quản lý nguồn chi ngân. sách, bảo đảm vốn được sử dụng có hiệu quả .
Dự toán ngân sách nhà nước : giảm các đầu mối tự nấc trưng. gian trong quá trình lập dự toán và khắc phục tình trạng quan liêu trong quản lý ngân sách nhà nước bằng cách trao quyền tự chủ 'lập ngân sách nhà nước cho chính quyền '.
địa phương, đảm bảo chi phù ~hơp với mực tiêu phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương. .
Duyệt chi: vốn duyệt chi phải hợp lý, tương ứng với chất lượng, hiệu quả của dự án. Cần tổ chức thanh tra kiểm tra bảo đảm việc sử dụng vốn tuân thủ quy định về tài chúa
c. Tài chính trung gian : Tài chính trung gian bao gồm ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty xổ số, công ty dịch vụ hẻm toán, công ty dịch vụ và môi giới chứng khoán v v. và các chế định tài chính khác. Đây là nơi thực hiện việc phân phối lại nguồn - tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để tạo khâu vốn chó đầu tư phát triển. ở những nước tài chính chính thức còn chưa phát triển như nước ta, các tổ chức tài chính phi chính thức và các quan hệ "ngầm" vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
d. Tài chính hộ gia đình : Tài chính hộ gia đình là ngân sách của hộ gia đình riêng biệt. Khâu tài chính này rất phân tán nhưng cũng rất lớn. Nhà nước cần xem xét để có chính sách phân phối thu nhập thích hợp, bảo đảm công bằng xã hội.
e. Tài chính đối ngoại : Trong nền kinh tế thị trường, hòa nhịp vào hệ thống kinh tế tài chính quốc tế, các quan hệ tài chính quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng. Những kênh vận động tài chính đối ngoại gồm : Nguồn viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài; Vốn liên doanh, hợp.doanh; Chuyển giao công nghệ giữa trong và ngoài nước; thanh toán xuất nhập khẩu; Ký kết và thực .hiện các hợp đồng bảo hiểm. . .
Quan hệ tài chính quốc tế có những nét đặc thù riêng và chịu tác động của những quy luật biến động tài chính quốc tế. Do đó, cần có những biện pháp, chính sách đặc biệt nhằm khai thác tiêm năng của quan hê.tài chính đối ngoại.
Tóm lại, hệ thống tài chính là một hệ thống gồm các khâu tài chính phù hợp với tính chất vận động của các nguồn tiền tệ khác nhau. Do vậy, nhà nước cần có chính sách điều chỉnh thích hợp để các yếu tố này góp phần tích cực vào việc thực hiên chính sách tài chính quốc gia.
Phần B : Chính sách tài chính :
l . Nhận thức về chính sách tài chính
Chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm, giải pháp mà nhà nước sử dụng để tạo nguồn vốn, điều động, phân phối và sử dụng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Về bản chất, chính sách tài chính quốc gia là chính sách huy động các nguồn lực xã hội dưới hình thái giá trị để thực hiện một cách có hiệu quả những nhiệm vụ của đất nước. Chính sách đó phải nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, giữ vững độc lập tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội, kìm chế lạm phát thất nghiệp và hội nhập với thế giới
Một số yêu cầu đối với chính sách tài chính:
Thứ nhất, thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế, quản lý tài chính phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, trọng tâm là: Chuyển hoạt động tài chính vi mô sang chế độ tự chủ tài chính; Chuyển nền tài chính đơn sở hữu sang một nền tài chính đa sở hữu; hoàn thiện hệ thống thuế, thu ngân sách, đầu tư, bảo hiểm, tín dụng.
Thứ hai, tăng khả năng và tốc độ vốn. Để thực hiện nội dung này, cần phải có các chính sách cụ thể, thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư, bảo hộ quyền lợi của chủ đầu tư và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.
Thứ ba, thực hiện các điều chỉnh và cân đối lớn giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tích tụ vốn và tập trung vốn. Thực tiễn nước ta thời gian qua, mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng chưa được giải quyết hợp lý. Tích lũy có và chưa tạo ra được một cơ cấu kinh tế tối ưu. Trong tích lũy, nguồn vốn lớn nhất là xây dựng cơ bản bị sử dụng lãng phí, phân tán và kém hiệu quả. Tiêu dùng mặc dù chưa thỏa mãn nhu cầu trước mắt nhưng đã vượt qua khả năng kinh tế.
Thứ tư nhà nước quản lý nền tài chính một cách thống nhất bằng hệ thống pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về tài chính như luật thuế, luật ngân sách, pháp lệnh kế toán - thống kê v.v.. Pháp luật cần được tuân thủ nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh tế trong một môi trường pháp lý kinh tế lành mạnh và công bằng. Môi trường này, một mặt khuyến khích các tổ chức và các cá nhân tham gia hoạt động kinh tế trong khuôn khổ pháp luật; mặt khác đảm bảo để nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động kinh tế - tài chính trong cả nước.
Các biện pháp kiểm tra, kiểm soát, thanh tra tài chính cần được thực hiện nghiêm khắc, hiệu quả.
2. Nội dung chính sách tài chính
a. Chính sách về vốn
Thực chất của chính sách về vốn là việc sử dụng các công cụ tài chính nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tiềm năng về vốn trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Tiềm năng về vốn được biểu hiện dưới các hình thức :
- Các nguồn vốn, vật tư tài sản trong mọi doanh nghiệp;
- Các nguồn tiền mặt và tài sản khác dự trữ trong dân cư, các nguồn tài nguyên và tài sản quốc gia đã, đang hoặc chưa khai thác;
- Tiềm năng lao động và chất xám : ưu thế về lao động và chất xâm có thể tạo lợi thế so sánh đáng kể khi mở rộng hợp tác quốc tế,
- Khả năng nâng cấp, cải thiện cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài;
- Khả năng thực hiện các dự án nghiên cứu, các công trình khảo sát về tình hình, thực trạng và khối lượng các nguồn lực của đất nước
Nội dung chính sách về vốn phải phù hợp và được sử dụng đa dạng với các hình thức huy động vốn, nhất là hình thức trái phiếu, cổ phiếu ở cấp nhà nước, địa phương và doanh nghiệp; phát triển các tổ chức tài chính trung gian như: hệ thống các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm quỹ đầu tư, quỹ phát triển, quỹ bảo trợ, quỹ bảo hiểm, công trái quốc gia. . . nhằm giải tỏa nguồn vốn ứ đọng hoặc vốn "chết" trong dân cư và các doanh nghiệp.
Đối với doanh. nghiệp nhà nước, việc tăng cường cổ phần hoá, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhằm đưa các nguồn vốn vào quỹ đạo hoạt động theo hướng có lợi cho nền kinh tế . . .
Việc tiến hành đổi mới và hoàn thiện cơ cấu phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi : một là có các chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế để các nguồn vốn tập trung vào những khu vực có lợi thế tự nhiên chưa được "đánh thức", vào các ngành kinh tế mũi nhọn; hai là sử dụng vốn ngân sách để hỗ trợ cho các khu vực, các ngành cần phát triển nhưng không thu hút được các nguồn vốn trong xã hội; ba là thực hiện nguyên tắc tự chủ tài chính trong các doanh nghiệp để tiến hành phân phối vốn theo cơ chế hợp lý nhất, bốn là sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn vốn và các nguồn lực phát triển trong nền kinh tế quốc dân.
b- Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp Sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích hoạt động kinh doanh có hiệu quả của các thành phần kinh tế, tạo điệu kiện đề nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng kiểm soát của nhà nước đối với nền tài chính quốc gia.
c- Chính sách dịch vụ ngân sách nhà nước : Có chính sách động viên hợp lý để đảm bảo ổn đinh và bền vững các nguồn thu của. quỹ ngân sách nhà nước; thu không làm suy yếu đối tượng nộp ngân sách mà ngược lại, tạo điều kiện các ngân sách nhà nước có đủ điêu kiện tài chính để liếp tục phát triền. . Điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách của nhà nước cho các mục đích kinh tế và xã hội trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
d. Chính sách tài chính đối ngoại : Mở rộng các quan hệ tài chính giữa trong và ngoài nước, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện các điều kiện xã hội. . . Đẩy nhanh xuất khẩu hàng hóa đã chế biến, hạn chế xuất kháu sản phẩm thô và nguyên liệu; khuyến khích nhập khẩu các thiết bị, công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao; hoàn thiện các chính sách về đầu tư nước ngoài. đơn giản hóa các thủ tục hành chính; nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo sức hấp dẫn nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường liềm lực tài chính. Định hướng và sử dụng có hiệu quả các khoản vốn vay từ nước ngoài. Tăng cường hoạt động ngoại giao, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại.
e. Chính sách tài chính hộ gia đình
Sử dụng các công cụ tài chính nhằm đảm bảo thu nhấp hợp lý cho người lao động và huy động nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
g. Các chính sách tài chính nới lỏng và thắt chặt Chính sách tài chính trong hoạt động kinh tế có thể phân chia theo các góc độ khác nhau. Căn cứ vào các chức năng trong lĩnh vực điều tiết tổng sản lượng kinh tế quốc dân, có thể phân thành chính sách tài chính nới lỏng và thắt chặt.
Chính sách tài chính nới lỏng : Chính sách này thông qua hoạt động thu chi tài chính để làm tăng kích thích tổng cầu xã hội. Khi tổng cầu nền kinh tế thấp, biện pháp của chính sách tài chính nới lỏng là giảm thuế và tăng chi tài chính nhằm kích thích mở rộng tổng cầu xã hội.
Chính sách tài chính thắt chặt : Đây là chính sách tài chính thông qua hoạt động thu chi tài chính để giảm bớt và hạn chế tổng cầu. Khi tổng cầu trong nền kinh tế quá lớn, việc thực thi chính sách tài chính thắt chặt bằng cách tăng thu thuế và giảm chi tài chính sẽ góp phần giảm cầu, đạt được sự cân đối trong cung cầu, từ đó giảm áp lực lạm phát:
Phần C- Chính sách tiền tệ và chính sách tiền tệ và vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương
1- Chính sách tiền tệ
a. Nội dung chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của nhà nước nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, là một bộ phận hợp thành của chính sách kinh tế. Ở một mức độ nào đó thì chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia và chính sách phát triển kinh tế. Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phải phản ánh khối lượng tiền cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi số).
Chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận chính : chính sách cung ứng và điều phối tiền; chính sách tín dụng và chính sách ngoại hối
Chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền : Chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền được coi là bộ phận quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Do vậy người ta thường coi chính sách tiền tệ là chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền.
Chính sách này nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ trong nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế vừa tránh được lạm phát nặng nề, vừa đảm bảo cung cấp đủ phương tiện cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cung ứng và điều hòa khối tiền được thực hiện theo các nhu cầu đối ứng, tức là đi từ gốc theo ba kênh : tạo tiếtán dụng tăng cho nền kinh tế, tạm ứng cho ngân sách; mua vàng và ngoại tệ.
Chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền được thực hiện tốt nhất trên cơ sở quan sát các tín hiệu của thị trường như : chỉ số giá cả hàng hóa thiết yếu, giá vàng và tỷ giá hối đoái. Những tín hiệu trên biến động tăng hay giảm đều kéo theo sự thay đổi về nhu cầu tiền tệ - tăng giảm tương ứng. Vì vậy, ta có thể dựa vào đó để cung ứng và.điều hòa khối tiền.
- Chính sách tín dụng :
- Chính sách ngoại hối.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ và công cụ để thực thi chính sách tiền tệ
Mục tiêu và phương pháp sử dụng các công cụ để thỏa mãn mục tiêu là nội dung việc soạn thảo chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương là một cấp trong hệ thống ngân hàng hai cấp của Việt Nam. Hệ thống ngân hàng có đặc điểm : phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng trung ương với chức năng tác nghiệp kinh doanh của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác hoạt động với tư cách là những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ nhằm thu lợi nhuận một cách chính đáng, góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất - kinh doanh cùng phát triển.
Hoạt động của ngân hàng trung ương là việc quản lý ở tầm vĩ mô, không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích ổn định tiền lệ, ổn định giá cả thị trường, ngoại hối để thúc đẩy nền tinh tế phát triển. Vì vậy, nó được phép sử dụng những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, phù hợp với luật pháp để thực hiện nhiệm vụ của mình.
* Mục tiêu của chính sách tiền tệ: ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định và thúc đẩy sự tăng trưởng; giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định trật tự xã hội.
Tùy theo đặc điểm kinh tế của mỗi thời kỳ đề xác định mục tiêu chủ yếu, thứ yếu và thậm chí gạt bỏ một vài mục tiêu nào đó. Chẳng hạn, chính sách tiền tệ nhằm tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp rất dễ dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Vấn đề quan trọng là làm thế nào để vừa kiểm soát được lạm phát lại vừa tạo công ăn việc làm.
* Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ:
Dự trữ bắt buộc : Tất cả ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc phải duy trì một mức "dự trữ tối thiểu bắt buộc" tính theo tỷ lệ. phần trăm trên nguồn vốn huy động. Dự trữ bắt buộc lăng làm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại giảm, từ đó lượng cung tiền giảm.
Lãi suất : Về nguyên tắc, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Sử dụng công cụ lãi suất tín dụng để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể: ấn định lãi suất: lãi suất tối đa cho tiền gửi và lãi suất tối thiểu cho tiền vay; hoặc lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và lãi suất tối đa cho tiền vay; Thả nổi lãi suất. . . .Tuy nhiên, ngân hàng trung ương vẫn có thể tác động gián tiếp đến lãi suất tín dụng bằng lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất do ngân hàng trung ương áp dụng cho các ngân hàng thương mại với tư cách là người cung cấp tín dụng qua nghiệp vụ tái chiết khấu, các thương phiếu hoặc các chứng từ có giá trị khác. Lãi suất tái chiết khấu tăng (hoặc giảm) sẽ làm giảm hoặc tăng nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thương mại.
Thị trường mở : Thị trường mở là nơi ngân hàng trung ương phát hành tiền hoặc thu hẹp khối tiền của nền kinh tế thông qua việc mua hoặc bán các trái phiếu ngắn hạn.
Ấn định hạn mức tín dụng Ngân hàng trung ương sẽ phân bố "hạn mức tín dụng" cho mỗi ngân hàng thương mại trên cơ sở dư nợ tín dựng và vốn tự có của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm hạn mức nói trên thì khối lượng tín đựng của nền kinh tế tăng hay giảm theo.
Điều chỉnh tỷ giá hối đoái : Biện pháp này được áp dựng trong trường hợp tỷ giá thực tế trên thị trường biến động với biên độ lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế - xã hội. Các biện pháp điều chỉnh gồm: thay đổi lãi suất, can thiệp ngoại hối, nâng giá hoặc phá giá tiền trong nước . . .
Thanh tra và kiểm soát hoạt động ngân hàng trong nước
2. Các loại hình chính sách tiền tệ
Như đã nói ở trên, chính sách tiền tệ là sự phản ánh khối lượng tiền cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định, bao gốm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ). Tùy theo tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế mà ta có chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
a. Chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng)
Được sử dụng khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng. Trong trường hợp này, việc nội lỏng tiền tệ, tăng lượng tiền cung ứng cho nền tinh tế tăng sẽ tạo' công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh. Chính sách tiền tệ mở rộng đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống suy thoái.
b. Chính sách thắt chặt
Được sử dụng khi nền kinh tế đang trong tình trạng "phát triển quá" nóng", đồng thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách tiền tệ thắt chặt đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống lạm phát.
c. Phương hướng đổi mới chính sách tài chính - tiền tệ
Để góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của nước ta, chính sách tài chính - tiền tệ cần được tiếp tục đổi mới theo các hướng sau:
- Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng, kết hợp chặt chẽ kế hoạch hóa với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến kích nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính, tiềm năng sản xuất của doanh nghiệp, của các tầng lớp dân cư. Đa dạng hóa các công cụ và hình thức tổ chức tài chính - tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển tinh tế.
- Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại nguồn thu nhập trong xã hội. Cải cách hệ 'thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt mọi doanh nghiệp thuộc' các thành phần kinh tế khác nhau. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, tạo tính tự chủ cho ngân sách địa phương bằng cách gắn quyền hạn với trách nhiệm của chính quyền địa phương. Quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước được thực hiện theo ba nguyên lắc: kiểm soát chi tiêu (kỷ luật tài khóa tổng thể thu - chi ngân sách nhà nước); hiệu quả phân bổ; hiệu quả hoạt động vốn ngân sách nhà nước. Phán bổ vốn vào các chương trình ưu tiên dựa theo tính hữu dụng của chứng trong việc đáp ứng các mục tiêu chiến lược quốc gia. Đồng thời, đảm bảo hiệu quả hoạt động của vốn bằng cách chuyển giao quyền chủ động cho các nhà quản lý chương trình dự án, buộc họ phải tận cách sử dựng nguồn vốn tiết kiệm, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu đề ra trong dự thảo ngân sách.Thực hiện chế độ công khai tài chính ở tất cả các cấp ngân sách và các đơn vị dự toán ngân sách; nghiên cứu hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi ngân sách nhà nước, làm cơ sở để xây dựng dự toán và kiểm tra, kiểm soát chi ngân sách một cách có hiệu quả.
- Đổi mới quản lý doanh nghiệp và Luật Phá sản doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội theo hướng:
+ Kiên toàn các ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường; + Xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước;
+ Nâng cao năng lực giám sát của ngân hàng nhà nước và công tác hẻm tra nội bộ của các ngân hàng thương mại.
- Tách tín dụng ưu đãi theo chính sách khỏi tín dụng thương mại.
- Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieu.doc