Bài giảng khuyến nông chuyên sâu

Tài liệu Bài giảng khuyến nông chuyên sâu: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG KHUYẾN NÔNG CHUYÊN SÂU Người biên soạn: Hoàng Gia Hùng Huế, 08/2009 1 Chương 1 CÁC KỸ NĂNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG 1.1. Kỹ năng thúc đẩy 1.1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của thúc đẩy * Khái niệm: Thúc đẩy là hoạt động khuyến khích, động viên, lô i kéo và tăng cường sự giao tiếp từ một đối tượng này sang một đối tượng khác. * Mục đích Mục đích của thúc đẩy là tạo ra động cơ, hướng dẫn cuộc thảo luận đi đúng hướng. * Ý nghĩa của thúc đẩy Thúc đẩy đem lạ i một số tác dụng sau: - Tạo ra sự chia sẻ thông tin trong nhóm. - Thúc đẩy tạo ra sự chủ động trong học tập. - Thúc đẩy tạo ra niềm tin và sự hào hứng trong học tập. - Thúc đẩy làm tăng hiệu quả trong học tập. 1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thúc đẩy Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình thúc đẩy: - Khả năng của người thúc đẩy viên. - Mục tiêu và chủ đề thảo luận. - Kiến thức và kinh nghi...

pdf42 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng khuyến nông chuyên sâu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG KHUYẾN NÔNG CHUYÊN SÂU Người biên soạn: Hoàng Gia Hùng Huế, 08/2009 1 Chương 1 CÁC KỸ NĂNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG 1.1. Kỹ năng thúc đẩy 1.1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của thúc đẩy * Khái niệm: Thúc đẩy là hoạt động khuyến khích, động viên, lô i kéo và tăng cường sự giao tiếp từ một đối tượng này sang một đối tượng khác. * Mục đích Mục đích của thúc đẩy là tạo ra động cơ, hướng dẫn cuộc thảo luận đi đúng hướng. * Ý nghĩa của thúc đẩy Thúc đẩy đem lạ i một số tác dụng sau: - Tạo ra sự chia sẻ thông tin trong nhóm. - Thúc đẩy tạo ra sự chủ động trong học tập. - Thúc đẩy tạo ra niềm tin và sự hào hứng trong học tập. - Thúc đẩy làm tăng hiệu quả trong học tập. 1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thúc đẩy Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình thúc đẩy: - Khả năng của người thúc đẩy viên. - Mục tiêu và chủ đề thảo luận. - Kiến thức và kinh nghiệm của những người tham gia. - Môi trường thảo luận. 1.1.3. Một số kỹ năng thúc đẩy cơ bản 1.1.3.1. Kỹ năng đặt câu hỏi Đặt câu hỏi làm cho người suy nghĩ sắc bén hơn, thúc đẩy học viên đi vào lĩnh vực tư duy mới, xới sâu các ý tưởng hiện tại, kiểm tra khả năng thu nhận kiến thúc của học viên. Khi đặt câu hỏi cần phải: - Xác định mục tiêu hỏi để làm gì? - Liệu câu hỏi đó có phù hợp với khả năng trả lời của học viên không? - Câu hỏ i phải rõ ràng phù hợp với đối tượng được hỏi? - Câu hỏ i phải có câu trả lời rõ ràng. 1.1.3.2. Kỹ năng trực quan hóa thông tin 1.1.3.3. Kỹ năng phân tích thông tin 1.1.3.4. Kỹ năng giao tiếp * Định nghĩa Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Giao tiếp là một tiến trình hai chiều của việc chia sẽ thông tin và ý tưởng, trong đó bao gồm sự tham gia tích cực của người gửi và người nhận thông tin. 2 * Các đặc trưng cơ bản Giao tiếp có những đặc trưng cơ bản sau: - Đó là quan hệ giữa con người với con người dù ở bất kỳ lứa tuổi hay vị trí địa lý nào. Mối quan hệ này là điều kiện tối thiểu để điều hành và hoàn thành các hoạt động. - Giao tiếp là quá trình mà con người ý thức được mục đích, nộ i dung và phương tiện cần đạt được khi tiếp xúc với người khác. - Giao tiếp dù mang mục đích gì thì cũng vẫn diễn ra cả sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, nhu cầu của người tham gia vào quá trình giao tiếp. - Giao tiếp là quan hệ xã hội mang tính xã hội. - Giao tiếp có thể được một cá nhân hay nhóm người thực hiện. - Giao tiếp có thể được thực hiện bằng một thông điệp thông qua: ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, phong cách, tư thế, y phục, nét mặt, điệu bô, cử chỉ, dáng vẻ, dáng đứng... Một cán bộ khuyến nông trong công việc của mình có thể giao tiếp với nông dân, những người bên trong và bên ngoài cơ quan, những người lãnh đạo địa phương, các nhà khoa học...vì thế khả năng giao tiếp của anh ta là rất rộng. Anh ta phải có rất nhiều kỹ năng giao tiếp mới có thể hoàn thành công việc của mình tốt được.Ví dụ: anh ta phải biết nói được hai thứ tiếng riêng biệt ngôn ngữ khoa học của các nhà khoa học và ngôn ngữ hàng ngày của người nông dân. Biết viết một tờ rơi cho những người nông dân đồng thời anh ta cũng phải biết viết một báo cáo khoa học cho các nhà lãnh đạo cấp trên. * Vai trò của giao tiếp trong khuyến nông Trong mọi công tác khuyến nông giao tiếp trở thành thiết yếu. Điều này thể hiện ở một số vai trò sau: - Giao tiếp là cơ sở của quá trình học hỏi và chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm giữa cán bộ khuyến nông với người dân và ngược lạ i. - Giao tiếp là cơ sở của quá trình dạy học trong đào tạo và huấn luyện nông dân. - Giao tiếp là một công cụ quan trọng để hiểu biết được nhu cầu, nguyện vọng và sở thích của người nông dân. - Giao tiếp tốt sẽ tạo ra mối quan hệ hài hoà, không khí làm việc thoải mái với người dân, đồng nghiệp và cán bộ cấp trên. 1.1.3.5. Kỹ năng lắng nghe Lắng nghe cũng là một kỹ năng cần phải có khi làm việc với những người nông dân. Mỗi người nông dân họ quen với một cách ăn nói riêng nên đòi hỏi cán bộ khuyến nông phải biết lắng nghe mới có thể hiểu được những vấn đề mà người dân đang muốn diễn đạt. Kỹ năng lắng nghe thể hiện qua một số nội dung sau: - Chú ý và không làm gián đoạn câu trả lời của người đang nói. 3 - Luôn tạo ra những lời khích lệ. - Thể hiện sự chăm chú và tỏ ra hết sức quan tâm đến câu trả lời đó. - Lắng nghe đòi hỏi bạn phải kiên nhẫn. 1.1.3.6. Kỹ năng truyền đạt thông tin Truyền đạt thông tin là một nhiệm vụ của cán bộ khuyến nông. Do đối tượng truyền đạt phong phú, đa dạng về trình độ văn hoá và phong tục tập quán, nên đòi hỏi người làm công tác khuyến nông phải có nhiều phương pháp truyền đạt khác nhau. Một người truyền đạt thông tin giỏi phải là người có được những yếu tố sau: - Hiểu được người nghe, biết được ý muốn của người nghe. - Hiểu sấu sắc thông tin của mình và biết tryền đạt thông tin đó đến người nghe. - Có phương pháp truyền đạt thông tin hợp lý. - Chuẩn bị thông tin chu đáo sử dụng ngôn ngữ và phương tiện thích hợp. - Chọn vấn đề phù hợp với từng hoàn cảnh. - Thông tin truyền đạt cần ngắn ngọn, dễ hiểu. 4 Chương 2 TRUYỀN THÔNG TRONG KHUYẾN NÔNG 2.1. Khái niệm và vai trò của truyền thông trong khuyến nông 2.1.1. Khái niệm Truyền thông là phương pháp thông qua đó, những quan niệm, những ý nghĩ được truyền từ người này sang người khác. Hay nói cách khác truyền thông là quá trình truyền đạt thông tin từ người này đến người khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. 2.1.2. Vai trò của truyền thông trong hoạt động khuyến nông Phương pháp truyền thông là trọng tâm của mọ i công tác khuyến nông. Trong thực tế nghĩa đen của từ” công tác khuyến nông “được các nhà khởi xướng chọn để truyền ý đồ thông tin vượt qua ranh giới của các trường Đại học đến với nông dân trong những vùng nông thôn lân cận. Vì vậy mọi khuyến nông viên trong những lĩnh vực chuyên môn khác nhau phải là những nhà truyền thông viên tài giỏi, vì họ sống và làm việc tại nơi giao điểm quan trọng của một mạng lưới truyền thông rộng rãi. Mạng lưới đó bao gồm dân cư nông thôn, các trung tâm dịch vụ các trạm thực nghiệm, cơ sở giáo dục và các cơ quan chính phủ trung ương cũng như địa phương. Từ việc nghiên cứu mục tiêu của khuyến nông đã cho chúng ta thấy rằng: khuyến nông bao gồm việc tiếp nhận và giải thích các bức thông điệp đã được truyền đi qua các kênh thông tin khác nhau. Mà việc giải thích ở đây (bao gồm làm sáng tỏ và truyền đi) chính là lĩnh vực của truyền thông. Như vậy trong hoạt động khuyến nông thì truyền thông đóng một vai trò hết sức quan trọng. Sự quan trọng đó thể hiện qua một số điểm sau: - Cung cấp cho dân chúng những thông tin có ích cho họ. - Đáp ứng nguyện vọng của người dân trong những điều kiện không thuận lợi. 2.2. Các hình thức và phương thức truyền thông Trong thực tế có rất nhiều hình thức truyền thông khác nhau. Hình thức đơn giản nhất là truyền thông giữa hai người đang cùng nhau có mặt, đây gọi là truyền thông trực tiếp. Còn phức tạp hơn là truyền thông khi có nhiều người tham gia và gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Những cho dù con đường truyền thông có dài và phức tạp như thế nào đi nữa thì luôn có 4 thành phần cỏ bản chuyển động qua 6 bước hay 6 giai đoạn. Có thể dễ dàng mô tả 4 thành phần cơ bản trong mọi hình thức truyền thông. Thành phần thứ nhất là nguốn thông tin, tức là người có những quan điểm hoặc các ý nghĩ cần truyền cho người khác. Thành phần thứ hai là người nhận truyền thông, tức là người hay những người mà các quan điểm ý nghĩ đang nhằm vào để truyền đạt. Đây chính là đối tượng của truyền thông, tức là người nông dân. Thứ ba là phải có một bức thông điệp có thể được truyền từ nguồn đến người nhận. Đây chính là các thông tin, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ mới 5 trong lĩnh vực nông nghiệp. Thứ tư và là cuối cùng, thông điệp phải được phả i hành trình qua một kênh hoặc một phương tiện trung gian để làm thành lối đi tốt từ nguồn đến người nhận. Người cán bộ khuyến nông có thể cung cấp những thông tin trên cho nông dân thông qua các hoạt động tập huấn, đào tạo, huấn luyện,... 2.3. Các thành tố của một quá trình truyền thông trong khuyến nông Thành phần thứ nhất là nguồn thông tin, tức là người có những quan điểm hoặc các ý nghĩ cần truyền cho người khác. Thành phần thứ hai là người nhận truyền thông, tức là người hay những người mà các quan điểm ý nghĩ đang nhằm vào để truyền đạt. Đây chính là đối tượng của truyền thông, tức là người nông dân. Thứ ba là phải có một bức thông điệp có thể được truyền từ nguồn đến người nhận. Đây chính là các thông tin, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ mới trong lĩnh vực nông nghiệp. Thứ tư và là cuối cùng, thông điệp phải được phả i hành trình qua một kênh hoặc một phương tiên trung gian để làm thành lối đi tốt từ nguồn đến người nhận. Người cán bộ khuyến nông có thể cung cấp những thông tin trên cho nông dân thông qua các hoạt động tập huấn, đào tạo, huấn luyện,... 2.4. Các giai đoạn/bước trong quá trình truyền thông khuyến nông Bốn thành phần trên nó thường chuyển động qua 6 bước chính. + Bước 1: Sáng tạo. Tính sáng tạo là một đặc tính quan trọng nhất thiết phải có đối với truyền thông viên. Sáng tạo ở đây có nghĩa là phải tự mình nhận thức rõ hay làm rõ nội dung muốn truyền đạt. Điều này cần thiết bởi lẻ người nhận (đích), tức là đối tượng khuyến nông phong phú và đa dạng cả về trình độ văn hoá lẫn phong tục tập quán, lối sống v.v... Chính vì vậy người cán bộ khuyến nông ngoài việc làm một nhà nông học tài giỏi anh ta còn phả i là một nhà tâm lý học, có một kiến thức rộng về nông nghiệp đồng thời am hiểu nông thôn nông dân. Nếu như một vấn đề được nhận thức kém cỏi thì chắc chắn đưa lại một sự truyền đạt tồi. Ví dụ: Tôi muốn nói với một người bạn rằng tôi muốn tiếp anh ta như một vị khách mời thì tôi phải bày tỏ bằng một phương pháp nào đó mà người bạn kia sẽ hiểu được là có nên ở lại nhà hay không, có ở lại dùng cơm hay không, có nói chuyện phiếm không... Để làm cho người khách kia hiểu được những nội dung trên tôi phải nắm chắc cách tiếp đón anh ta, tôi có chắc chắn muốn anh ta ở lại chơi vài ngày... + Bước 2: Mã hoá. Chúng ta biết rằng quan điểm và nhận thức là những cấu trúc của trí tuệ. Người khác không thể nhìn, nghe hay cảm thấy được. Vì vậy, để có thể truyền chúng từ đầu óc của người này sang người khác được, chúng phải được dịch ra hay mã hoá ra thành những kí hiệu. Trái với quan điểm, kí hiệu có thể được người khác nhìn thấy, nghe thấy hoặc cảm thấy. Thực tế kí hiệu thay cho quan điểm và nhận thức. Từ ngữ là kí hiệu thay cho nhận thức và động tác, tranh ảnh hay âm nhạc cũng vậy. 6 Các kiến thức và tình huống khác nhau thì yêu cầu những nhận thức khác nhau. Chọn đúng kí hiệu là rất quan trọng và không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đây là một điều hết sức quan trọng trong khuyến nông, bởi vì nội dung hoạt động khuyến nông rất đa dạng cộng với đối tượng khuyến nông cũng không đồng nhất. Có thể có lúc chúng ta không thể tìm ra những kí hiệu thích hợp để diễn tả một ý nghĩ muốn bộc lộ. Có lẽ một động tác hay một cái nhăn mặt có thể diễn tả một nhận thức của chúng ta tốt hơn. Song, chọn được kí hiệu chính xác diễn đạt nhận thức của chúng ta là chưa đủ; kí hiệu đó phải phù hợp với người nhận. Đây là một khía cạnh vô cùng khó khăn đối với người làm công tác khuyến nông. Khó khăn thứ nhất là trong nông nghiệp sản xuất bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau cho nên đòi hỏi phải có các cách nhận thức khác nhau. Thứ hai đối tượng khuyến nông phong phú và đa dạng cả về trình độ và phong tục tập quán nên đòi hỏi phải có các kí hiệu phù hợp với từng đối tượng. Hãy quay lại ví dụ trước chúng ta thấy rằng: Nếu như tôi (nguồn thông tin) muốn đích (người nhận thông tin - người bạn) hiểu rằng anh ta được mời đến để nói chuyện trong chóc lát nhưng không quá lâu, thì tôi phải chọn từ, động tác và nét mặt để anh ta hiểu đúng và chính xác rằng đây là một lời mời có giới hạn. Như vậy đòi hỏi chúng ta phải mã hoá các ý nghĩ nhận thức bằng những kí hiệu sao cho người nhận hiểu rõ và chính xác. + Bước 3: Truyền đạt. Một quan điểm trong nhận thức đã được mã hoá thành các kí hiệu gọi là một thông điệp. Như vậy một thông điệp đơn giản là một nhận thức được mã hoá và luôn luôn mã hoá bằng kí hiệu. Một thông điệp được mã hoá tốt là loại mà kí hiệu đại diện đầy đủ và chính xác quan điểm mà nguồn mong muốn truyền thông. Khi quan điểm đã được mã hoá thành thông điệp, thông điệp đó phải được truyền đạt đến người nhận. Nói cách khác là, những từ ngữ - kí hiệu phải được hoặc là nói ra hoặc là viết ra và trình bày; động tác phải được thực hiện; hình ảnh phải được trình bày; động tác phải được trình diễn và cứ như thế đối với các kí hiệu khác. Có nhiều phương pháp truyền đạt thông điệp. Ví dụ nói là một phương pháp rất thông dụng. Viết là một phương pháp khác. Hiện nay các anh chị đang đọc một bức thông điệp do tôi mã hoá ra thành những từ ngữ được truyền đạt đến các anh chị bằng văn viết. Nếu như tôi ghi chúng trên một cuốn băng và phát ra bằng cassette thí có lẽ có nhiều người cùng nghe. Đó là một cách khác để truyền đạt các bức thông điệp. Việc lựa chọn các kênh phù hợp để truyền đạt các bức thông điệp trước tiên tuỳ phụ thuộc vào tình hình truyền thông. Ai truyền thông chúng? Cự ly từ kênh này đến kênh kia bao xa? Thông điệp có dài không? Nguồn có trong tay phương tiện và kỹ thuật gì? Đó là một vài điều chú ý khi xem xét lựa chọn kênh thích hợp để truyền đạt thông điệp. Điều này đặt ra cho cán bộ khuyến nông là phải có những phương pháp truyền đạt khác nhau phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Nói chung là phải sử dụng nhiều kênh khác nhau để truyền đạt thông tin. 7 + Bước 4: Tiếp nhận. Cho dù bức thông điệp đã được truyền đi qua bất cứ một kênh nào thì việc người nhận có nhận được thông điệp đó không phụ thuộc vào môi trường xung quanh và trạng thái tâm lý của người nhận. Môi trường ở đây có thể là tiếng ồn, điều kiện chiếu sáng, cự ly từ nguồn đến người nhận cả về không gian lẫn thời gian v.v... Còn trạng thái tâm lý người nhận tức là anh ta có thực sự sẵn sàng tiếp nhận thông điệp đó không, điều này phụ thuộc vào khả năng và sự quan tâm của anh ta về thông điệp đó. Ví du: người nhận mệt hoặc bận việc thì thông điệp có thể gửi đến nhưng chưa chắc anh ta đã nhận. Những nếu coi như anh ta đã nhận thông điệp đó thì chúng ta phải còn xem thông điệp đó có tốt và đầy đủ với anh ta không? Đó chính là vấn đề trung thực của thông tin. Như vậy môi trường có liên quan trực tiếp với độ trung thực. Nhưng ngoài các điều kiện đó, độ trung thực còn tuỳ thuộc vào tình trạng hoạt động ra sao của 5 giác quan của người nhận khi tiếp nhận thông điệp. Năm giác quan này nó đảm bảo chúng ta tin vào thông điệp, tuy nhiên đôi khi chúng cũng bị đánh lừa. Vì vậy một người truyền thông viên giỏi và có kinh nghiệm sẽ truyền đạt các bức thông điệp của mình bằng nhiều kênh sao cho người nhận có thể tiếp nhận chúng không chỉ bằng một giác quan. Chúng ta thực hiện việc đó theo bản năng khi nói chuyện với nhau. Kinh nghiệm và cảm giác cho chúng ta thấy đó là phương pháp có hiệu quả đảm bảo việc tiếp nhận có hiệu quả. Như vậy khi đào tạo, huấn luyện nông dân, người cán bộ khuyến nông cần phải chú ý đến các khía cạnh có thể làm ảnh hưởng đến sự tiếp nhận thông tin của người nông dân. + Bước 5: Giải mã. Người nhận sau khi nhận được thông điệp họ phải giải mã để hiểu được chúng. Việc này phụ thuộc trước tiên vào sự nhận biết các kí hiệu của người nhận. Có trường hợp người nhận đã giả i mã được thông điệp tuy nhiên lại hiểu sai ý của nguồn, điều này rất tai hại. Những trở ngạ i trên minh hoạ cho tầm quan trọng của của việc phản hồi trong phương pháp truyền thông. Có nhiều trường hợp truyền thông mà việc phản hồ i ngay tức khắc là không thể thực hiện được ví dụ như viết thư hoặc phát thanh. Vì vậy cần hết sức thận trọng khi mã hoá thông điệp và truyền đạt chúng. + Bước 6: Tiếp thu. Sau khi giả mã thông điệp, thì cho dù thế nào đi nữa cũng sẽ có những quan điểm mới định hình trong đầu người nhận. Để thông điệp đó có ích cho người nhận thì phải có một sự hoà hợp giữa những kinh nghiệm có sẵn trong đầu với những kiến thức vừa mới nhận được. Điều này nói lên người nhận cảm nhận được, hiểu được thông điệp tức là họ giải thích được vấn đề chứ không phải là tiếp nhận để lặp đi lặp lại mà không hiểu tại sao lại như thế. Để đảm bảo gia i đoạn này thành công người khuyến nông viên cần phải chú ý tới liều lượng thông tin, các loại ký hiệu cũng như khả năng nhận thức của người nhận. 8 Chương 3 CHƯƠNG TRÌNH KHUYẾN NÔNG, TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ KHUYẾN NÔNG 3.1. Đặc điểm của các chương trình khuyến nông - Tính thực tế. Chương trình khuyến nông rất thực tế, bởi vì nó được thiết kế để phục vụ cho các công việc hàng ngày của người nông dân. - Tính mềm dẻo. Chương trình khuyến nông khá mềm dẻo để đáp ứng các điều kiện luôn luôn thay đổi. - Tính đơn giản. Chương trình khuyến nông tương đối dễ hiểu để đáp ứng sự đa dạng rộng lớn về các nhu cầu của người dân nông thôn. 3.2. Các nguyến tắc trong lập kế hoạch xây dựng chương trình khuyến nông - Lập kế hoạch chương trình phải phản ánh được sự phân tích tỉ mỉ các tình hình thực tế. Mọi yếu tố hiện có chứa đựng ở đất con người nhà cửa, phong tục chợ búa, cộng đồng và các tổ chức hoạt động trong khu vực phải được xem xét. - Lựa chọn các vấn đề cho hành động phải đáp ứng các nhu cầu của dân chúng. Không phải là mọi vấn đề đều có thể được đáp ứng đồng thời, trong đó những vấn đề cấp bách nhất và có mối quan tâm rộng rãi sẽ được lưu ý trước tiên. - Chương trình sẽ phả i mềm dẻo để có thể duy trì các mục tiêu trung thực trong một thời gian dài, song cũng đáp ứng với những thay đổi ngắn về những cấp bách đặc biệt. - Chương trình khuyến nông phải có chương trình giáo dục và phải hướng vào việc cải thiện năng lực của dân chúng để giải quyết các vấn đề của riêng họ. - Chương trình khuyến nông phải được triển khai một cách dân chủ bằng việc tham gia tích cực của người dân mà chúng ta làm việc với họ. - Các chương trình khuyến nông phải được điều chỉnh theo trình độ kinh tế và giáo dục hiện có của nhân dân nông thôn. 3.3. Các bước lập kế hoạch xây dựng một chương trình khuyến nông * Chọn mục tiêu Có nhiều mục tiêu của chương trình khuyến nông (CTKN) được trình bày một cách mơ hồ. Ví dụ: Mục tiêu là dạy cho nông dân cách tự giúp mình thì có vẻ như không rõ ràng lắm, do đó khi thực hiện rất khó để đạt được. Để xác định mục tiêu cho các CTKN cần phải xuất phát từ những mong muốn của người dân. Tuy nhiên cũng phải chú ý đến mục tiêu của các chương trình phát triển rộng lớn của nhà nước để đưa ra được mục tiêu hợp lý. Nhưng cho dù thế nào đi nữa thì mục tiêu phải rõ ràng và cụ thể. Mục tiêu tổng quát phải được cụ thể hoá bằng các mục tiêu trung gian. 9 Ví dụ: Mục tiêu tổng quát là cải thiện phúc lợi cho cộng đồng dân cư ở một tỉnh A nào đó. Thì chúng ta có các mục tiêu trung gian thứ nhất là nâng cao thu nhập; mục tiêu trung gian thứ hai là nâng cao năng suất; thứ 3 là nâng cao năng suất lúa; thứ 4 là sử dụng giống có năng suất cao, tăng mức độ thâm canh, cải thiên điều kiện canh tác; thứ năm là dạy cho nông dân biết cách trồng các giống lúa năng suất cao,... * Chọn nhóm mục tiêu (đối tượng) Chọn nhóm mục tiêu hay đối tượng của chương trình khuyến nông Mỗi một chương trình khuyến nông nên hướng vào một nhóm đối tượng (nhóm mục tiêu) nhất định. Bởi vì để đạt được mục tiêu của mỗi chương trình này cần phải có sự thoả mãn các điều kiện về nhân vật lực cần thiết, từ đó mà có thể lựa chọn phương pháp thích hợp. Ứng với mỗi mục tiêu khác nhau thì nội dung viết ra cũng khác nhau. Ví dụ: Có một chương trình khuyến nông với mục tiêu là cải thiện chất lượng đàn bò chẳng hạn của một xã B nào đó, thì nhóm mục tiêu cho chương trình này là những người nông dân có chăn nuôi bò, chăn nuôi càng nhiều càng tốt, càng lâu năm càng tốt. * Nội dung khuyến nông Nội dung khuyến nông phụ thuộc vào mục tiêu của chương trình khuyến nông, nhóm mục tiêu và chiến lược khuyến nông. Chính vì vậy khi đưa ra những khuyến cáo đối với người nông dân, chúng ta cần phải căn cứ vào các khía cạnh trên. Nội dung khuyến nông nên phải được tiến hành theo tuần tự bởi vì chuyển đổi quan điểm và thái độ người dân đòi hỏi phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chúng ta có thể bắt đầu với những khuyến cáo như vẫn giữ vững năng suất nhưng chi phí sản xuất giảm thay vì khuyến cáo tăng năng suất ngay từ đầu, hoặc bắt đầu khuyến cáo trên một phạm vi nhỏ sau đó mới mở rộng diện tích ra,... Vì những lý do trên mà khi đặt ra nội dung cho 1 chương trình khuyến nông nên lưu ý các điểm sau: + Nội dung có phù hợp với mục tiêu không? + Nội dung có được miêu tả rõ ràng không? tức là nội dung có dựa trên những kiến thức khoa học mới và kinh nghiệm của những người nông dân tiên tiến không? + Nội dung đó có phù hợp với thời gian cho phép không? + Nội dung có liên quan đến những hiểu biết của người nông dân không? * Chọn phương pháp (công cụ) khuyến nông Để chọn được phương pháp phù hợp cần căn cứ vào các khía cạnh sau: + Mục tiêu; + Quy mô và trình độ học vấn của nhóm mục tiêu; + Mức độ tin cậy lẫn nhau giữa nhóm mục tiêu và người làm khuyến nông; + Kỹ năng của người làm khuyến nông; + Nguồn nhân vật lực sẳn có. Chúng ta thường thấy rằng trong một chương trình khuyến nông có nhiều mục tiêu trung gian, khi đã đạt mục tiêu trung gian thấp nhất thì chúng ta tiếp tục phấn đấu 10 để đạt được các mục tiêu trung gian khác cấp cao hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rằng mục tiêu thường xuyên thay đổi, khi mục tiêu thay đổi thì việc thay đổi phương pháp cho phù hợp cũng phải tiến hành theo. * Tổ chức hoạt động Để có sự hoạt động tốt của chương trình khuyến nông thì phải có một sự phân công rõ ràng giữa các bên có liên quan về sự đóng góp, thời gian thực hiện, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên. Chúng ta cũng cần phải phối hợp với các chương trình khác để có thể hoạt động tốt hơn bởi vì chương trình khuyến nông thường được xây dựng dựa trên một chương trình phát triển rộng lớn của nhà nước. 3.4. Một số kỹ năng trong lập kế hoạch khuyến nông khuyến lâm 3.4.1. Xác định nhu cầu của nông dân Có nhiều cách để xác định nhu cầu của nông dân. Có thể thông qua phương pháp phỏng vấn trực tiếp nông dân, hỏi những người am hiểu sự việc ở địa phương kết hợp với các số liệu điều tra khác để xác định nhu cầu của nông dân. Song cách làm sau đây là dễ làm và có hiệu quả hơn cả trong việc xác định nhu cầu của nông dân. Chúng tôi gọi đó là phương pháp dùng thẻ (phiếu) nêu yêu cầu. Cách làm như sau. Chuẩn bị khoảng 20 - 50 thẻ giấy cũng có kích thước 10 x 20 chỉ (dùng giấy bìa có màu là tốt nhất). Chuẩn bị thêm khoảng 5-6 bút dạ và 2 cuộn băng dính (có thể dùng đinh ghim). Nếu có thể có 1 bảng gỗ là tốt nhất dùng để dán các thẻ trên đó. Nếu không có thì có thể tận đụng bức tường hoặc mặt tủ để thay thế. Sau đó, mời một số nông dân am hiểu và trực tiếp tham gia vào lĩnh vục sản xuất mà ta cần tìm hiểu (nhóm này từ 5 - 10 người). Phát thẻ và bút cho họ và yêu cầu họ viết các nhu cầu (hoặc các khó khăn trở ngại mà họ gặp phải) trong quá trình sản xuất. Yêu cầu họ viết chữ to và ngắn gọn. Sau đó, người tổ chức sẽ tập hợp các thẻ đó lại và dán (hoặc ghim) các thẻ đó lên bảng (hoặc lên lường) theo các nhóm có yêu cầu tương tự. Khi làm yêu cầu các nông dân cùng tham gia phân nhóm sẽ giúp chúng ta sắp xếp chính xác nó vào nhóm nhu cầu nào. Sau khi tạm thời phân được các nhóm nhu cầu trên cơ sở ý kiến của các cá nhân riêng lẻ. Điều cần thiết là phải lấy ý kiến thảo luận của cả nhóm xem sự xác định các nhu cầu đó đã hợp lý và đầy đủ chưa, còn thiếu hoặc cần điều chỉnh nhu cầu nào nữa không. Bằng cách này, chúng ta có thể dễ dàng xác định nhu cầu của người nông dân về bất cứ lĩnh vực nào mà ta cần tìm hiểu. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, rẻ tiền, dễ làm (kết hợp được cả ý kiến cá nhân và tập thể) và dễ cuốn hút người dân tham gia. Điều cần lưu ý là người tổ chức cần phải giải thích rõ ràng và hướng dẫn cụ thể cho các nông dân tham gia. 3.4.2. Xếp thứ tự mức độ quan trọng của các nhu cầu (hoặc các trở ngại) Sau khi đã tìm được các nhu cầu (hoặc các khó khăn trở ngại) theo phương pháp như đã nêu ở trên thì điều quan trọng tiếp theo là phải biết xếp thứ tự ưu tiên theo mức độ tầm quan trọng của chúng để chúng ta tìm những nhu cầu quan trọng, cấp thiết nhất 11 để giả i quyết trước, vì khả năng và điều kiện của chúng ta không cho phép giải quyết đồng thời các nhu cầu cùng một lúc được. Để xếp thứ tự mức độ quan trọng của các nhu cầu vừa tìm được, chúng ta có thể làm theo 2 cách sau đây. Cách 1 - Liệt kê các nhu cầu của nông dân lên bảng hoặc trên tờ giấy khổ lớn, sau đó cho nông dân tháo luận (vẫn dùng nhóm nông dân như ở bước). Sau đó yêu cầu họ xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu bằng cách giơ tay biểu quyết. Nếu 2 hoặc nhiều nhu cầu có số biểu quyết như nhau thì người tổ chức sẽ bàn bạc với những người nông dân tham gia và tiến hành biểu quyết lại cho đến khi đạt được một sự nhất trí của cả nhóm. Ưu điểm của cách làm này là đơn giản, dễ làm, thể hiện sự dân chủ bình đẳng và tham gia tích cực của những người cùng tham gia. Cách 2 - Chuẩn bị một số hạt đậu (hoặc hạt lạc, hạt sỏi...) đủ cho mỗi người tham gia 20 - 50 hạt/người. Sau đó liệt kê các nhu cầu ra tờ giấy khổ to (hoặc dùng phấn, than kẻ trên nền nhà hoặc sàn) yêu cầu mọi người bỏ các hạt đậu (lạc hoặc sỏi) vào ô của các nhu cầu theo nguyên tắc của các nhu cầu nào quan trọng thì bỏ nhiều hạt. Sau đó cộng số hạt của mỗ i ô (mỗi nhu cầu) lại. Những ô có nhiều hạt thì chứng tỏ người nông dân quan tâm và xếp thứ tự ưu tiên cao nhu cầu đó và ngược lại. Chú ý: Đôi khi do nhu cầu nhiều mà người nông dân có thể rối trí, bỏ nhiều hạt vào những ô cho những lần bỏ đầu tiên nên những ô sau lại hết hạt để bỏ. Để khắc phục tình trạng này có thể yêu cầu người nông dân điều chỉnh bằng cách chuyển một số hạt từ ô này sang ô khác nếu họ thấy như vậy là hợp lý và dùng với ý định của họ. Điều này có thể làm với từng cá nhân hay với cả nhóm. 3.4.3. Tìm ra nguyên nhân dẫn đến các những trở ngại Trong một số trường hợp có khi có cả một chuỗ i nguyên nhân gây ra một vấn đề trở ngại hoặc ngược lại.Do vậy, chúng ta cần xem xét trường hợp đầy đủ dữ liệu để xác định nguyên nhân và trở ngạ i thì mới có thể đưa ra các giả i pháp cải tiến.Trường hợp những trở ngại chưa xác định rõ nguyên nhân thì cần có thêm dữ liệu để minh chứng cho xác đáng. Thực tiễn cho thấy có tới 5 loại nguyên nhân gây ra vấn đề trở ngại cần xem xét, đó là: 1. Một vấn đề trở ngại do nhiều nguyên nhân Ví dụ: Triệu chứng thiếu đạm trên cây ngô do nhiều yếu tố gây ra như bón ít phân đạm, bón trên bề mặt nên bị mưa lớn rửa trôi, đất bị xói mòn, hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp do thân lá cây trồng không được lưu lạ i cho đất mà đem sử dụng làm thức ăn gia súc hoặc làm chất đốt. Như vậy, có thể nhận ra 2 nguyên nhân chính dẫn đến cây ngô thiếu đạm là cách thức bón phân (bón không đủ, bón không đúng cách) và đất nghèo chất hữu cơ. 2. Một nguyên nhân đặc biệt gây ra nhiều hậu quả Ví dụ: Canh tác trên đất đồi dốc xói mòn, rửa trôi cây  trồng sinh trưởng kém, năng suất thấp thiếu thức ăn cho chăn nuôi  sản xuất nông nghiệp phát triển 12 kém  đời sống nông dân khó khăn, thu nhập thấp  nông dân phá rừng làm nương rẫy mới  môi trường bị phá hủy... Như vậy, xói mòn trên đất đồi dốc là nguyên nhân chính gây ra khó khăn. Nếu như chúng ta có giải pháp ổn định được độ phì, của đất bằng kỹ thuật canh tác trên đất dốc hợp lý thì các mối liên hệ tiếp theo sẽ từng bước được giải quyết. 3. Hai vấn đề trở ngại có quan hệ qua lại với nhau Ví dụ: sâu bệnh, cỏ dại không những ảnh hưởng đến cây trồng ngoài đồng ruộng mà còn ảnh hưởng sang cả gia i đoạn thu hoạch, bảo quản sau này. 4. Nguyên nhân xảy ra chỉ là một giả định Trong nhiều trường hợp, nhiều nguyên nhân gây ra khó khăn trở ngại có vẻ như không chắc chắn và khó có thể chứng minh tại chỗ. Trong trường hợp này, cần phải liệt kê những nguyên nhân có thể xảy ra, sau đó thông qua các dữ liệu thu nhập được để tìm ra cốt lõi của nguyên nhân gây ra qua phương pháp ngoại suy và loại trừ dần. 5. Nguyên nhân gây ra do không áp dụng kỹ thuật canh tác Ví dụ: Nguyên nhân làm cho cây trồng các triệu chứng thiếu phân là do người dân Không sử dụng phân bón (trồng chay) hoặc nếu có bón thì bón ít và không cân đối, không đúng kỹ thuật, không đúng giai đoạn mà cây cần. 3.4.4. Dùng hình vẽ (sơ đồ) để biểu diễn sự liên hệ giữa những khó khăn trở ngại và nguyên nhân gây ra Đây là phương pháp đơn giản, dễ làm và dễ nhận ra các mố i liên hệ khi nhìn vào. Thông thường những nhu cầu, khó khăn và trở ngại được đặt trong các hình hộp và nguyên nhân gây ra hướng tới hình hộp đó. Sơ đồ 4.1. Cây vấn đề năng suất cây trồng thấp NS Cây trồng thấp Hậu quả gián tiếp Hậu quả trực tiếp Nguyên nhân trực tiếp Nguyên nhân gián tiếp 13 Thông thường người ta hay dùng sơ đồ WEB (hay còn gọi là sơ đồ mạng nhện) để biểu diễn quan hệ nhân quả này. Bằng cách này chúng ta dễ dàng tìm ra nguyên nhân và các giải pháp để loại trừ các nguyên nhân đó. 3.4.5. Liệt kê các giải pháp để giải quyết các những khó khăn trở ngại. Một khi các nguyên nhân gây ra trở ngại chính cho việc phát triển sản xuất đã được nhận diện, chúng ta cần liệt kê các giả i pháp nhằm giả i quyết vấn đề trở ngại đã được nhận diện thông qua kết quả nghiên cứu đã công bố, các tư liệu sẵn có hoặc những thông tin có liên quan. 3.4.6. Chọn lọc các giải pháp kỹ thuật để giải quyết các khó khăn trở ngại Trong hàng loạt các giải pháp mà chúng ta liệt kê để giải quyết các khó khăn trở ngạ i hay nhu cầu, không phải giả i pháp nào cũng có tính khả thi do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì thế nhiệm vụ của chúng ta là cùng với nông dân chọn ra: - Những giả i pháp kỹ thuật thích nghi với điều kiện sinh thái nông nghiệp mới nghiên cứu và tình trạng canh tác của nông dân. - Những giả i pháp kỹ thuật có tính hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường. - Giải pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và điều kiện của hộ nông dân. - Giải pháp giảm hoặc tránh rủi ro cho nông dân. - Giải pháp có tính khả thi với điều kiện ngân sách, khuyến nông, cung ứng dịch vụ ở địa phương. 3.5. Lập kế hoạch hoạt động khuyến nông và khuyến lâm thôn, bản có người dân tham gia 3.5.1. Mục đích, yêu cầu Áp dụng phương thức khuyến nông, khuyến lâm từ người dân, một yêu cầu bức thiết không những đối với nông dân mà còn bức thiết cho sự nghiệp phát triển nông thôn hiện tại và trong tương lai. Phương thức khuyến nông, khuyến lâm từ người dân đã đặt ra hai yêu cầu cơ bản: 1. Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm phải xuất phát từ yêu cầu của người dân. 2. Người dân phải được tham gia vào quá trình hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. - Xây dựng kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn, bản có sự tham gia của nguời dân là nhằm mục đích: - Nêu được các yêu cầu về khuyến nông và khuyến lâm của người dân thôn bản thông qua quá trình đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA). 14 - Xác định và thống nhất được mục tiêu và những hoạt động cụ thể về khuyến nông và khuyến lâm tại thôn, bản. - Xác lập được vai trò và trách nhiệm của người dân, các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm trong việc thực hiện hoạt động và hỗ trợ người dân trong hoạt động khuyến nông, khuyến lâm là người hướng dẫn, hỗ trợ để quá trình xây dựng kế hoạch đạt hiệu qủa có tính thực thi cao. 3.5.2. Các bước tiến hành trong quá trình lập kế hoạch khuyến nông và khuyến lâm thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia. Lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn bản có sự tham gia của người dân là phương pháp lập kế hoạch từ dưới lên để tạo lập một cơ cấu yêu cầu từ người dân về hoạt động khuyến nông, khuyến lâm trên một địa bàn có thể, trên cơ sở kế hoạch được lập các cơ quan khuyến nông cấp trên có cơ sở xây dựng một cơ cấu hỗ trợ hợp lý, đúng đắn và cụ thể để giúp đỡ cộng đồng, hộ gia đình và người dân trong hoạt động. Khuyến nông, khuyến lâm phát triển sản xuất nông lâm nghiệp góp phần nâng cao đời sống và phát triển nông thôn. Lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn bản là một quá trình vận động và điều cốt lõi là có người dân tham gia với trách nhiệm cao. Quá trình này thường phải qua 3 bước, các bước diễn ra tuần tự trước sau từ 1 đến 3, được sử dụng nhằm để khuyến khích người dân tham gia một cách thực sự vào các bước và là phương tiện giao tiếp và tiếp cận chủ yếu giữa cán bộ khuyến nông, khuyến lâm với người dân và giữa người dân với người dân trong quá trình lập kế hoạch 3.5.2.1. Bước 1: Chuẩn bị Tham gia vào bước chuẩn bị thường bao gồm cán bộ khuyến nông xã, huyện (có thể có hỗ trợ của khuyến nông cấp tỉnh). Họ trực tiếp làm việc với các cấp chính quyền cơ sở thôn, xã và gặp gỡ nông dân trong một số cuộc họp học thôn nhất định. Công việc phải làm trong bước này gồm: 1. Chọn điểm để t iến hành lập kế hoạch Điểm chọn được là cấp cộng đồng thôn, bản nơi diễn ra các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Tại sao phải chọn điểm (chọn thôn, bản)? Chọn điểm để thực hiện chiến lược phát triển khuyến nông, khuyến lâm: Xây dựng điểm (thành mô hình) để mở rộng điểm ra diện rộng (mở rộng theo chiều ngang). Nên chọn điểm như thế nào? Điểm được chọn làm kế hoạch và tiến hành hoạt động khuyến nông, khuyến lâm theo kế hoạch có vai trò rất quan trọng. Điểm không những là nơi thử nghiệm phương thức hoạt động khuyến nông, khuyến lâm từ người dân, nó còn là mô hình hoạt động khuyến nông, khuyến lâm để mở rộng diện cho những hoạt động này trên địa bàn rộng (từ thôn đến xã...) . 15 Do vậy cán bộ khuyến nông, khuyến lâm cần lựa chọn một số tiêu chuẩn nhất định để xác định điểm. Một số tiêu chuẩn có thể xác định làm căn cứ chọn thôn điểm sau đây: - Thôn trong xã đã có quy hoạch sử dụng đất. - Thôn đã hoàn thành việc giao đất. - Người dân có nhu cầu phát triển sản xuất nông lâm nghiệp bằng phương thức khuyến nông, khuyến lâm để nâng cao đời sống. - Các tổ chức chính quyền và đoàn thể quần chúng hoạt động tốt, có cán bộ có khả năng và nhiệt tình trong quản lý và hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Để chọn được điểm cần tạo ra mố i quan hệ chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương xã và huyện, căn cứ vào tiêu chuẩn họ sẽ là người tự chọn chủ yếu để đưa ra thống nhất trong một cuộc họp giữa khuyến nông và chính quyền. 2. Chuẩn bị về mặt xã hội và tổ chức cộng đồng * Tổ chức họp thôn (thôn được chọn làm điểm) để trình bày mục đích yêucầu của phát triển khuyến nông, khuyến lâm, vai trò trách nhiệm của thôn điểm. Xác lập vai trò và sự tham gia của mọi người dân trong hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. * Lập kế hoạch và thống nhất tiến độ cho việc tiến hành lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn bản. * Thành lập nhóm công tác PRA (lập kế hoạch) bằng cách chọn các thành viên đại diện cho người dân tham gia vào nhóm công tác PRA (10-15) người được dân tín nhiệm, nhiều thành phần khác nhau, có hiểu biết nhiều về thôn, bản mình, có cả nam, nữ, già, trẻ...) * Thu nhập một số thông tin cơ bản về kinh tế - xã hội của cộng đồng * Xem xét các tổ chức cơ sở của cộng đồng để phát huy vai trò của các tổ chức này trong quá trình tham gia vào lập kế hoạch phát triển thôn bản. Tóm lại trong bước này, cần phải xác định vai trò của sự tham gia; + Tham gia của các cấp chính quyền để đảm bảo nhất trí về quan điểm "chọn điểm" hỗ trợ và chuyển giao những thông tin cần thiết đến tận hộ nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận người dân của nhóm công tác PRA (xây dựng kế hoạch khuyến nông, khuyến lâm). + Tham gia của người dân trong việc bày tỏ thái độ và trách nhiệm đăng ký tham gia vào thực hiện lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, tham gia lựa chọn người thay mặt mình tham gia vào nhóm công tác PRA lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. 3.5.2.2. Bước 2: Thực hiện quá trình lập kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm tại thôn bản. Bước này là bước kế tiếp bước chuẩn bị, sau khi thôn đã được chọn người dân dã nhất trí tham gia, thôn đã chọn được các thành viên đại diện, thôn đã thống nhất kế 16 hoạch và thời gian tiến hành lập kế hoạch cách thức tiến hành bước này tại thôn bản như sau: 1. Các bộ khuyến nông huyện (hoạt tỉnh) xuống thôn tổ chức chuyển giao các kỹ năng thực hiện PRA cho các thành viên đại diện đã được thôn bản lựa chọn. - Thống nhất với họ lần cuối cùng về kế hoạch tiến hành bước 2 - Xác định vai trò, nhiệm vụ của mỗ i thành viên trong nhóm - Huấn luyện và chuyển giao các công cụ PRA cho nhóm 2. Thực hiện quá trình đánh giá thôn bản có sự tham gia của người dân để xác định thực trạng của thôn bản. - Bằng các công cụ và kỹ năng sử dụng công cụ của PRA, nhóm công tác PRA (gồm cán bộ khuyến nông huyện, xã và đại diện thôn, bản) cùng với người dân đánh giá thực trạng về các tiềm năng: đất đai, lao động, vật nuôi, cây trồng và kiến thức của cộng đồng. - Bằng các công cụ và kỹ năng sử dụng công cụ của PRA đánh giá về thực trạng kinh tế - xã hội (phân loại kinh tế hộ, các phương thức hoạt động sản xuất, sử dụng đất đai, thực trạng y tế, giáo dục vv...) - Bằng các công cụ và kỹ năng sử dụng công cụ PRA đánh giá và tập hợp được các yêu cầu của người dân và cộng đồng về phát triển sản xuất, hoạt động khuyến nông, khuyến lâm... Nói chung là những yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động khuyến nông, khuyến lâm địa phương. Thực trạng của thôn bản là bức tranh toàn cảnh mô tả một cách chân thực về tiềm năng, kinh tế, xã hội hiện tại của cộng đồng là cơ sở để xác định điểm yếu, thuận lợi khó khăn đang tồn tại ở cộng đồng và căn cứ để tìm ra nhũng giải pháp cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm trong lập kế hoạch ở bước sau. Thực trạng cũng có thể nói là "chỗ đứng hiện tại" của cộng đồng và từ chỗ đứng hiện tại của mình, cộng đồng có thể lấy đó làm căn cứ để xác định các hoạt động phát triển cộng đồng trong tương lai. 3. Xây dựng mục tiêu dài hạn và ngắn hạn cho quá trình phát triển hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn bản. Thực trạng là chỗ đứng hiện tại, mục tiêu là đích phải đến hoặc phải đạt được trong tương lai (sau 1 năm hoặc 5 năm). - Mục tiêu dài hạn: là mục tiêu xác định cho chỗ thời hạn kỳ kế hoạch (5 năm) hoặc một giai đoạn dự án (3,4 hoặc 5 năm). Mục tiêu dài hạn là sự cụ thể hóa mong muốn của cộng đồng trong tương lai xa, trong hoạt động dự án khuyến nông, khuyến lâm khi đưa vào kế hoạch nên gọi là : kết quả cuối cùng cho thời hạn 5 năm hay giai đoạn dự án. Nó là kết quả cuối cùng của một quá trình thực hiện kế hoạch, do vậy cần được người dân tham gia, xác định hết sức cụ thể để làm căn cứ phấn đấu và cũng làm căn cứ để đánh giá vào cuối kỳ kế hoạch. 17 - Mục tiêu ngắn hạn: Thường xác định cho 1 năm kế hoạch. Mục tiêu gắn hạn cho một năm kế hoạch là cần phải xác định cụ thể vì đó là kết quả cuối cùng của 1 năm, là đích của việc thực hiện kế hoạch của cộng đồng phải đạt tới… Mục tiêu ngắn hạn thường đặt cho từng nội dung cụ thể để dễ phấn đấu và đánh giá vào cuối năm, nó cũng sẽ là căn cứ để xây dựng các hoạt động cho phù hợp nhằm đạt được mục tiêu. Mục tiêu ngắn hạn là xác định kết quả cuối cùng cho sự phấn đấu hàng năm của cộng đồng thường dựa trên: Mục tiêu dài hạn, khả năng và tiềm lực của cộng đồng và phải được người dân tham gia đề xuất, thảo luận và nhất trí. Ví dụ 2: Kết quả cuố i cùng của thôn B trong năm 2001: 1. Giữ và bảo vệ được (không có hiện tượng chặt phá, đốt..) 10 ha rựng tự nhiên hiện có 2. Phủ xanh được 20 ha bằng biện pháp trồng rừng và xây dựng mô hình nông lâm kết hợp. 3. Đưa được 50% diện tích vào trồng Ngô Đồng (Ngô lai có năng suất cao) 20% diện tích vào thử nghiệm giống lúa mới... 4. 50% lượt hộ gia đình được tập huấn kỹ thuật ( lúa mới, ngô mới, thú y, nuôi cá...) 5. ……………………. 4. Xác định các giải pháp để đạt được kết quả cuối cùng cho năm kế hoạch. - Các giải pháp chính là các hoạt động cụ thể của cộng đồng sẽ làm để phấn đấu đạt tới mục tiêu hay kết quả cuối cùng của năm kế hoạch. - Các giải pháp thông thường được nhóm công tác PRA tập hợp sau quá trình đánh giá thực trạng và xác định được mục tiêu bằng phương pháp PRA. Ví dụ 1: Thôn B có 100 ha đồi trọc, mỗi năm phấn đấu trồng được 20 ha Kết quả cuố i cùng sau một kỳ kế hoạch (5 năm) của cộng đồng có thể xác định cụ thể là phủ xanh toàn bộ đồi trọc bằng trồng rừng tất nhiên khi đánh giá căn cứ vào mục tiêu này, không những, xem xét diện tích trồng rừng có đạt không? Mà còn chất lượng, ra sao để phủ xanh được toàn bộ d iện tích đã xác định). 18 - Các giải pháp được xây dựng cho từng nộ i dung hoạt động khuyến nông, khuyến lâm của thôn bản. - Các nội dung hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thường được tiến hành ở địa bàn thôn, bản ở vùng đồi núi là: - Phát triển lâm nghiệp (bảo vệ rừng tự nhiên, phục hồi rừng, trồng rừng...) - Phát triển nông lâm trên đất dốc (trồng kết hợp cây công nghiệp, cây màu, cây lâm nghiệp...) - Phát triển vườn hộ (cây ăn quả, cây màu, cây thuốc...) - Nâng cao năng suất lúa nước, cây ngô, màu vụ 2,3 trên đất lúa. - Phát triển chăn nuôi (lợn, trâu, bò, gia cầm...) - Phát triển nuôi cá, nuôi đặc sản (ba ba, tôm) Các hoạt động khuyến nông khác có thể đưa vào kế hoạch -Tập huấn chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp - Hoạt động thú y, bảo vệ thực vật... - Xây dựng mô hình, thử nghiệm, tham quan học tập... - Xây dựng tổ chức khuyến nông thôn bản Thông qua sự tham gia của người dân (trong quá trình tiến hànhPRA), các nội dung hoạt động cho khuyến nông, khuyến lâm đã được nội dung nêu ra, thảo luận, nhóm công tác sẽ tập hợp và tiến hành làm 2 bước: a. Tập hợp các nội dung hoạt động chính b. Đưa ra để người dân thảo luận, xác định tầm quan trọng và tính cấp thiết của các nội dung (bằng công cụ so sánh cặp đôi) để xếp ưu tiên việc tiến hành các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm của thôn bản. 5. Xác định khối lượng cho từng hoạt động Khối lượng là chỉ tiêu hết sức cụ thể cho từng hoạt động, nhóm công tác lập kế hoạch có thể đưa ra dự kiến của mình sau khi đã thảo luận với cán bộ thôn, bản và người dân. Dự kiến khối lượng cho từng nội dung hoạt động cần được đưa ra thảo luận và được thống nhất cao (trồng bao nhiêu ha rừng cho năm 2005, thử nghiệm bao nhiêu ha giống lúa mới, ngô mới, trên bao nhiêu hộ gia đình?, xây dựng bao nhiêu mô hình, bao nhiêu thử nghiệm khuyến nông, khuyến lâm...) 6. Xác định thời gian cho các hoạt động 19 Thời gian tiến hành các hoạt động cũng cần phải xác định rõ và phù hợp với yêu cầu của người dân và quan trọng là phủ hợp với lịch mùa vụ của địa phương. Xác định được thời gian cho các hoạt động cụ thể sẽ giúp, nhóm khuyến nông viên thôn bản lên được kế hoạch tiến độ. Các tổ chức khuyến nông các cấp cơ sở phối hợp cho việc theo dõi và hỗ trợ cho cộng đồng thực hiện kế hoạch (hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, vật tư, cây con, vốn vay theo dõi, giám sát, đánh giá... cho kịp thời vụ và đúng với yêu cầu của người dân). Thời gian cần cho một hoạt động nên xác định: - Khi nào bắt đầu? - Khi nào kết thúc? - Khi nào tiến hành tổng kết, đánh giá? 7. Xác định nguồn lực và trách nhỉệm cho từng hoạt động Nguồn lực và trách nhiệm thực hiện cho từng hoạt động là một nội dung hết sức quan trọng trong việc lập kế hoạch hàng năm cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở thôn, bản. Thông thường các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm trên địa bàn thôn, bản có sự góp phần của 3 nguồn lực: i) Nguồn lực từ người dân/hộ gia đình; ii) nguồn lực vì cộng đồng thôn bản; iii) Nguồn lực từ Nhà nước/Dự án. Cũng trên cơ sở nguồn lực mà xác định trách nhiệm cho các bên trong việc thực hiện từng nội dung hoạt động khuyến nông, khuyến lâm tại thôn, bản. Trong quá trình sử dụng phương pháp PRA để xây dựng kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn bản, vấn đề xác định nguồn lực và xác định trách nhiệm cho 2 bên: người dân và Nhà nước có ý nghĩa rất lớn. a. Đây là một dịp thảo luận với người dân để đi đến thống nhất, người dân thôn bản không những tham gia vào quá trình lập kế hoạch mà còn có trách nhiệm đóng góp nguồn lực và thực hiện kế hoạch để nâng cao hiệu quả của hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, đảm bảo tính bền vững chỉ hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở địa phương. b. Người dân xác định được trách nhiệm của mình trong việc tham gia giải quyết các vấn đề của riêng mình và của cộng đồng sẽ là yếu tố cơ bản để xã hộ i hóa, toàn dân hóa được hoạt động khuyến nông địa phương. Ý nghĩa lớn như vậy cho nên khi xác định nguồn lực và trách nhiệm cần làm cho người dân thôn, bản thấy rõ vai trò của mình: là vai trò làm chủ và sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm về mình, huy động tiềm lực cá nhân, hộ gia đình đóng góp để thực hiện tốt và có kết quả từng nội dung hoạt động, góp phần cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội trong cộng đồng. Phương châm chung của việc xác định nguồn lực trong phát triển nông thôn nói chung và hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nói riêng là : Dân làm Nhà nước hỗ trợ hoặc Nhà nước và nhân dân cùng làm. 20 Trên cơ sở chỉ đạo phương châm này, và trên cơ sở của các chính sách, chủ trương của nhà nước dự án, nhóm công tác sẽ cùng với dân thảo luận cụ thể nguồn lực và trách nhiệm cho từng nội dung hoạt động, làm rõ phần nào là nguồn lực từ dân, phần nào là nguồn lực từ dân là chủ yếu nhà nước hỗ trợ thêm hoặc theo chính sách trợ giá; phần nào nhà nước hỗ trợ là chủ yếu, dân đóng góp thêm... Bảng 4.2. Một số chính sách hỗ trợ Bộ NN& PTNT chương trình phát triển Nông thôn miền núi Nguồn lực/ trách nhiệm Hoạt động/ nguồn lực Dân/ cộng đồng Nhà nước / Dự án * Trồng rừng - Hạt giống, túi bầu, phân bón - Cây con trồng rừng * Trồng cây ăn quả *Giống lúa ngô mới * Huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật - Làm vườn ươm, sản xuất ở hộ gia đình - Mua cây con trả 30% giá 1 cây Mua cây giống trả 30% giá 1 cây - Mua theo giá dịch vụ - Tham gia - Hỗ trợ hạt giống, túi bầu, phân bón - Dự án sản xuất cây con cung cấp và thu lại 30% giá 1 cây - Trợ giá tùy theo mỗi loạ i -Tổ chức lớp học, hướng dẫn và cung cấp tài liệu kỹ thuật 8. Lập kế hoạch sơ bộ về hoạt động khuyến nông, khuyến lâm/năm Sau khi đã cùng với người dân và cán bộ của cộng đồng thảo luận và xác định được 7 vấn đề nêu trên, nhóm công tác lên kế hoạch sơ bộ và trình bày trước một cuộc họp dân toàn cộng đồng. Mục đích trình bày kế hoạch này trước dân để thống nhất lại: a. Toàn bộ các hoạt động cần phải làm trong 1 năm đã được dân nêu ra và đã thảo luận. b. Các giải pháp cụ thể để thực hiện các nộ i dung hoạt động. c. Thời gian thực hiện các giải pháp đã chọn lựa; d. Thống nhất về nguồn lực và trách nhiệm cho từng hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở thôn, bản. Đây là dịp để cho người dân xem xét lại một lần nữa về vai trò, trách nhiệm của mình không những đã tham gia vào quá trình làm kế hoạch mà còn đóng góp ý kiến để chỉnh sửa lại kế hoạch một cách hợp lý với khả năng, nguồn lực của mình, phấn đấu thực hiện nó để đạt được đến kết quả cuối cùng (mục tiêu) mà họ đã thống nhất phấn đấu. 21 Trong lần họp thôn này, nhóm công tác cần hướng dẫn cộng đồng bầu nhóm quản lý để quản lý và điều hành hoạt động khuyến nông, khuyến lâm theo kế hoạch đã lập ra. Nhóm quản lý gồm có 3 thành viên: Nhóm trưởng (thường là trưởng thôn) và 2 khuyến nông viên thôn bản Trách nhiệm của nhóm: - Quản lý và điều hành các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm theo tiến độ kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm đã lập ra. - Làm đầu mối liên hệ với mọi hoạt động hỗ trợ từ các cấp tổ chức khuyến nông nhà nước / Dự án để thực hiện hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở thôn bản. - Tham gia các lớp tập huấn do các cấp tổ chức khuyến nông mở và tổ chức chuyển giao kỹ thuật về khuyến nông, khuyến lâm cho người dân. Tiêu chuẩn lựa chọn: - Có tinh thần tự nguyện phục vụ nông dân/ cộng đồng. - Được dân tín nhiệm - Có trình độ nhất định về văn hóa, kỹ thuật canh tác - Có thời gian tham gia các lớp tập huấn và giao tiếp với người dân . Bảng 4.3. Mẫu kế hoạch hoạt động khuyến nông thôn, bản hàng năm Mục tiêu dài hạn Kết quả mong đợi năm 200... Nguồn lực/ trách nhiệm Nội dung hoạt động/ giải pháp Khối lượng thực hiện (ha, hộ...) Thời gian Hoạt động Người dân Bên ngoài Hiện trạng năm 200.. 2.5.2.3. Bước 3: Thẩm định kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn, bản. Kế hoạch hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn, bản sau khi đã thống nhất lần cuối với toàn bộ cộng đồng được gọi là kế hoạch sơ bộ về hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thôn, bản. Nhóm quản lý thôn, bản sẽ gửi lên trạm khuyến nông huyện để khuyến nông cấp huyện và tỉnh tổ chức thẩm định. 22 Mục đích của bước này là tổ chức khuyến nông cấp huyện và cấp tỉnh xem xét lại tính khả thi của bản kế hoạch của thôn, bản: * Về khối lượng * Về nguồn lực/trách nhiệm của nhà nuớc/dự án * Có thể bổ sung một số hoạt động khuyến nông, khuyến lâm từ nhà nước (như các chương trình khuyến nông từ cấp tỉnh hoặc cấp Trung Ương. Sau khi xem xét, cấp huyện gặp lạ i nhóm quản lý thôn, bản và người dân (cuộc họp dân) trình bày kết quả thẩm định của mình để thảo luận thống nhất với dân lần cuối trước khi kế hoạch trở thành kế hoạch chính thức trình duyệt. Quá trình thẩm định sẽ dược tiến hành như sau: (Theo cách làm của Chương trình Bộ NN&PTNT) Thành viên nhóm thẩm định: Cán bộ dự án khuyến nông huyện, xã, nhóm quản lý thôn bản Nội dung thẩm định: * Căn cứ vào kế hoạch sơ bộ soát lại khả năng nhà nước/dự án thông qua chính sách và quy định về hỗ trợ để điều chỉnh cho phù hợp. Đề xuất thêm các hoạt động, chủ yếu là các hoạt động từ bên ngải để hỗ trợ hoạt động khuyến nông - khuyến lâm thôn, bản. - Xem xét lại các chỉ số, chỉ tiêu tính toán của kế hoạch. - Xem xét lại phân bố thời gian cho các nội dung hoạt động. - Xây dựng kế hoạch đào tạo nhóm quản lý & khuyến nông thôn bản. Sau khi thẩm định họp dân để báo cáo và thống nhất với dân lần cuối cùng 3.6. Đánh giá chương trình khuyến nông 3.6.1. Ý nghĩa của việc đánh giá chương trình khuyến nông Đánh giá còn gọi là "b ình giá - thành quả", ta thường dùng danh từ tổng kết tổng kết là tổng hợp tình hình diễn biến trong quá trình thực hiện một chương trình, cách làm, cách khắc phục những vướng mắc khó khăn, xem xét những gì dẫn đến thành công hoặc thất bại, những kinh nghiệm từ đó rút ra những kết luận có ý nghĩa nguyên lý về thực tiễn: Sẽ làm gì, làm như thế nào, những điều kiện gì cần có để làm nhằm đạt được kết quả tốt hơn trong tương la i. Nghiên cứu thiết lập một lúc hoạch đánh giá hay một kế hoạch tổng kết và tổ chức thực hiện kế hoạch đánh giá - tổng kết, có thể được coi như một phần quan trọng của toàn bộ quá trình khuyến nông. 23 - Theo J.Seepersad và TH.Hendereon, đánh giá là một hoạt động của chúng ta làm hàng ngày, bởi vì chúng ta luôn luôn phát hiện chính giá trị của những vấn đề chúng ta làm, hay kinh nghiệm. Ví dụ chúng ta đánh giá lương thực chúng ta ăn, công việc chúng ta làm, những chương trình phát thanh chúng ta nghe... Đánh giá khuyến nông có thể định nghĩa như một qua trình liên tục và có hệ thống để đánh giá giá trị hoặc giá trị tiềm năng của chương trình khuyến nông. - Theo E.Grober và V.Hoffmann, đánh giá nhằm mục đích đưa ra được những vấn đề chỉ những khả năng cải tiến hoạt động khuyến nông. Nó so sánh tình trạng ban đầu với tình trạng hiện nay trong đó đã có đến mức nào, hoặc không có tác động của hoạt động khuyến nông. Đánh giá có 4 chức năng rõ rệt: a. Giúp đỡ cán bộ khuyến nông (CBKN) cải tiến công tác: Chức năng của cán bộ khuyến nông? CBKN có quan trọng? Đã giúp ích gì cho những thành viên của những "nhóm nông dân mục tiêu" đã cải thiện được đời sống vật chất và tinh thần của nông dân như thế nào? b. Kiểm tra chương trình khuyến nông: Chỉ ra cho cơ quan khuyến nông những khó khăn, vướng mắt việc thực hiện chương trình, phát hiện những nguyên nhân và kiến nghị những biện pháp để cải tiến tình hình. c. Khuyến cáo những người làm kế hoạch khuyến nông; xem xét lại những quan điểm và giả thiết đã làm cơ sở cho việc thiết lập chương trình phát triển khuyến nông, cho phép đưa ra những chủ trương và biện pháp mới thiết thực sát với sự diễn biến của thực tiễn phát triển nông nghiệp và nông thôn. d. Khuyến cáo những người có trách nhiệm lãnh đạo đường lố i chính trị: lý giải những ảnh hưởng về kinh tế - xã hội, những khó khăn vướng mắc của mọi chương trình phát triển nông nghiệp trên bình diện chính trị, khả năng điều chỉnh chương trình khuyến nông tiếp tục đầu tư chương trình tiếp theo hay đình chỉ chương trình. - Theo giáo sư, Ngô khắc Nguyên, tác giả cuốn khuyến nông học (Đài Loan), “ bình giá, thành quả” (đánh giá) có nghĩa là tìm hiểu công tác giáo dục khuyến nông nào đó đã đạt được kết quả nhiều hay ít và dùng cách nào để bình giá kết quả ấy? Nếu ngành giáo dục khuyến nông đã thực sự cải thiện được những hành vi của nông dân, thì đã cải thiện đến mức độ nào? Làm thế nào để trắc độ (đo lường) sự cải thiện đó trong thái độ, kiến thức kỹ thuật mới mẻ của nông dân? Tất cả những công tác ghi trên đều nằm trong phạm vi bình giá - thành quả". Bản báo cáo công tác hàng năm có thể đề cập đến việc nông dân đã thực hiện được bao nhiêu lần các phương pháp mới, nhưng rất khó phán đoán được có thể là do sự chỉ dẫn của nhân viên khuyến nông hay không? Vì thế "bình giá- thành quả là một công tác tối quan trọng, cũng là 1phương pháp xác định giá trị của công tác khuyến nông vậy. 24 Cũng theo giáo sư Ngô Khắc Nguyên, 'bình giá - thành quả" đối với ngành khuyến nông có 10 điểm như sau: a. Chỉ rõ kế hoạch khuyến nông đã tiến hành thuận lợi hay ngưng trệ/ b. Chỉ rõ kế hoạch đã tiến hành đúng đường lối hay không? c. Chỉ rõ hiệu quả của kế hoạch. d. Cải tiến mức kỹ xảo của nông dân (trước đây thái độ và tập quán làm ăn của nông dân như thế nào? Nay được sự hướng dẫn của cán bộ khuyến nông đã sửa đổi cho hay hơn, cho thích hợp hơn ra sao? e. Quyết định trọng tâm công tác. g . Gây tín nhiệm và làm cho nông dân thoả mãn. h . Chứng minh giá trị của công tác khuyến nông. i. Gây ý thức cho các thành phần khác ở địa phương tham gia công tác khuyến nông. k. Phương pháp "b ình giá" có thể giúp ta tuyển chọn đề tài giáo dục khuyến nông theo một tiêu chuẩn khách quan và thích hợp. l. Có thể bảo đảm việc hoàn tất các kế hoạch giáo dục khuyến nông. 3.6.2. Đối tượng và qui trình đánh giá khuyến nông 3.6.2.1. Đối tượng đánh giá khuyến nông Khuyến nông là một ngành giáo dục ngoài học đường, nên có thể áp dụng được những nguyên lý và nguyên tắc của ngành giáo dục chính quy trong học đường. Đối tượng của đánh giá giáo dục học đường không phải chỉ riêng thành tích học tập của học sinh mà còn bao gồm cả các phương tiện khác nữa như khả năng của Giáo sư, trang bị, quy chế và tổ chức giáo dục hành chính học đường. Ngành giáo dục khuyến nông cũng thế, đối tượng của sự đánh giá không chỉ riêng, về sự 'biến đổi nhận thức, hành vi của nông dân, sự biến đổi về năng suất cây trồng, vật nuôi mà thôi, mà còn bao gồm cả các phương tiện tổ chức,'hành chính, kế hoạch, phương pháp ...Phải phân tích những ưu khuyết điểm của những phương diện trên với tinh thần khoa học khách quan, rút ra những kết luận chính xác nhằm làm cho việc xây dựng các chương trình khuyến nông tiếp theo được tốt hơn. 3.6.2.2. Qui trình đánh giá chương trình khuyến nông * Giai đoạn I - Quan sát thực tế, xác nhận hoàn cảnh kinh tế xã hội của cộng đồng nông dân trước khi phổ biến và thực hiện chương trình khuyến nông. Ghi nhận rõ những đặc điểm trong hệ thống sinh thái và hệ thống xã hội, những tập quán, cách làm ăn, những hành vi của nông dân trước đây. Phải xem lạ i các tài liệu điều tra và ghi chép sổ tay ban đầu của cán bộ khuyến nông. * Giai đoạn II - Quan sát sự diễn biến của tình hình trong khi phổ biến và thực hiện chương rình khuyến nông. 25 * Giai đoạn III - Thời kỳ một số hoặc toàn thể hộ nông dân đã đạt những mục tiêu khuyến nông nó đã đề ra. Trong giai đoạn II và gia i đoạn III, cần xác định rõ những điểm chính sau đây : a. Mục tiêu và kế hoạch khuyến nông đã đề ra. - Có phù hợp không? Có căn cứ đúng nhu cầu của nông dân hay không? Mức độ, số liệu - Sự phản ứng của nông dân đối với kế hoạch. khuyến nông ra sao? Chứng cứ, số liệu. Ưu, khuyết điểm, giá trị của kế hoạch, có thể tiếp tục tồn tại được không? b. Những phương pháp khuyến nông đã áp dụng Lớp huấn luyện, các hình thức sinh hoạt khuyến nông (nói chuyện, hội thảo, sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ khuyến nông, tham quan, trình d iễn, triển lãm, chiến dịch, tài liệu, dụng cụ nghe nhìn, công cụ...) những khó khăn trở ngạ i về nhân sự, kinh phí, chính sách, cách khắc phục. c. Nhân viên khuyến nông Những hoạt động cụ thể của các bộ khuyến nông xã, sự phối hợp hoạt động với mạng lưới nông dân tiên tiến. Những lớp tu nghiệp mà cán bộ khuyến nông cấp trên. Kết quả? Sự đãi ngộ, thù lao thi hành chính sách khuyến nông đối với nhân viên khuyến nông? d. Tổ chức hành chính. Tổ chức hành chính có được phục vụ được tốt chương trình kế hoạch khuyến nông đã đề ra không? Có đủ điều kiện thích hợp về tài chính, về phương tiện, về nhân sự, về chính sách đối với vùng hoặc tiểu vùng sinh thái nhân văn, trong đó chương trình vạch kế hoạch khuyến nông được thực thi không? 3.6.3. Phương pháp đánh giá chương trình khuyến nông 3.6.3.1. Những nguyên tắc cơ bản. 1 Chính xác: khi áp dụng những phương pháp đánh giá cần phả i trắc ghiệm chính xác những sự việc của nông dân đã làm, như thế kết quả mới phản ánh được thực trạng của nông dân. 2. Tin cậy: Lựa chọn mẫu cho kỹ và chỉ tin vậy có thể đủ tiêu biểu cho nhóm nông dân - mục tiêu để đánh giá trong trường hợp cùng một sự việc xảy ra nhiều lần kết quả đánh giá bắt buộc phải giống nhau. 3. Khách quan: Cần phả i khách quan khi tiến hành công việc đánh giá và sưu tập tài liệu, không thể vì tư tưởng thành tích, hoặc vì sự giải thích của người phụ trách mà biến đổi kết quả của sự đánh giá. 4. Những thiết kế và phương pháp đánh giá phải thực dụng và cân nhắc kỹ càng về nhân lực, tài lực và giá trị kết quả. 5. Đơn giản: Chỉ nên dùng đồ biểu và kỹ thuật đơn giản để dễ thống kê. 3.6.3.2. Một số phương pháp đánh giá chương trình khuyến nông 26 1. Khảo sát kỹ thuật và kết quả trên thực địa rộng: Điều tra nghiên cứu trên diện rộng kết quả của việc thực hiện chương trình, trình độ áp dụng kỹ thuật mới, phần trăm số hộ thực hiện, vì sao có nhiều hộ chưa thực hiện? Rút ra nhận xét, kinh nghiệm. 2. Khảo sát tỉ mỉ từng trường hợp: một số đơn vị nông hộ? Trại gia đình tiêu biểu, kinh nghiệm làm ăn của đơn vị. 3. Phỏng vấn: Cần xác định các đối tượng cần phỏng vấn và phân loại: nông dân tiến tiến, nông dân chậm tiến, nông dân trung bình, đại diện các tổ chức quần chúng, đại diện các cấp bộ Đảng và chính quyền. Phỏng vấn về thực hiện mục tiêu và các biện pháp của chương trình khuyến nông. 4. Trưng cầu ý kiến: đối với toàn bộ chương trình, đối với từng loại phương pháp khuyến nông. Có thể trung cầu ý kiến tại nhiều buổi họp phạm vi hẹp hoặc rộng, bằng phát biểu nói hoặc phát phiếu. Trong những bản ghi trắc nghiệm, nên dùng những chữ đơn giản như ‘có’, 'không', "không ý kiến", hai tụ do giải đám, để trả lời. Khi dùng phương pháp này cần chú ý: + Nội dung thật đơn giản, nhưng cụ thể và khách quan + Không ám chỉ giải đáp để tránh sai lầm. + Từ ngữ rõ ràng, không hàm nhiều ý nghĩa + Yêu cầu người trả lời, giải đáp đúng sự thật. Cần phối kết hợp nhiều phương pháp. Luôn luôn chú ý việc đánh giá đối chiếu với những mục tiêu và những biện pháp đã đề ra trong kế hoạch khuyến nông. 3.6.3.3. Đánh giá cấu thành và đánh giá tổng họp Đánh giá cấu thành (structure) và đánh giá tổng hợp hay là tổng kết một chương trình (évaluation fmale) được Taylor (l976) định nghĩa như sau (l); đánh giá cấu thành nhằm xác định và sửa chữa thiếu sót trong suốt trạng thái phát triển của một chương trình. "Đánh giá tổng hợp" nhằm xác định giá trị. Của việc thực hiện một chương trình khuyến nông đối chiếu với bản dự thảo cuối cùng của chương trình khuyến nông đã được quyết định. Đánh giá cấu thành được tiến hành trước khi hoàn thành chương trình và trong quá trình hoàn thành chương trình. Những đánh giá cấu thành cung cấp những thông tin phản hồi và những yếu kém của chương trình có thể làm nhẹ hoặc giúp điều chỉnh những giai đoạn còn lạ i của chương trình Thí dụ một chương trình khuyến nông mà kế hoạch thực hiện gồm ba bước: Sau mỗi bước đều có tiến hành đánh giá đối chiếu với mục tiêu và biện pháp đã đề ra. Ta thường nói là sơ kết nhưng phương pháp sơ kết thường làm là quá sơ sài trong mỗi bước, lại đã tiến hành nhiều phương pháp khuyến nông như mở lớp huấn luyện, tổ chức nhiều buổi trình diễn tham quan, triển lãm... Sau mỗi chương trình hoạt động đó 27 đều cần tiến hành đánh giá đối chiếu với mục tiêu đã đề ra (mục tiêu cần đạt được của một lớp học, của một buổi trình diễn, của một buổi đi tham quan, của một cuộc triển lãm...). Những đợt đánh giá đó gọi là đánh giá cấu thành. Kết thúc một chương trình khuyến nông (có thể là 6 tháng, 1 năm, 3 năm) là đánh giá tổng hợp. Như vậy đánh giá cấu thành có thể tiến hành thường xuyên liên tục. Đánh giá tổng hợp tiến hành khi kết thúc chương trình, rút kinh nghiệm cho các chương trình sau được tiến hành có hiệu quả hơn. Trong quá khứ người ta thường quan tâm đến đánh giá tổng kết. Nhưng ngày nay, thực sự người ta rất coi trọng các đánh giá cấu thành để kịp thời khắc phục nhũng khuyết nhược điểm và phát huy những ưu điểm. 3.6.4. Viết báo cáo đánh giá chuơng trình khuyến nông 3.6.4.1. Mục đích ý nghĩa của các báo cáo đánh giá khuyến nông. - Biết rõ những kết quả đã đạt được, những mục tiêu chưa đạt được hoặc mới đạt ở mức thấp, những hoạt động của nhân viên khuyến nông, những kinh nghiệm đã thu thập được nhằm làm cho những đợt làm tiếp theo, những chương trình tiếp theo thu được kết quả tốt hơn. - Trao đổi thông tin kinh nghiệm giũa các chương trình, các đơn vị, các địa phương. - Quảng bá, phổ biến các phương pháp khuyến nông, nêu gương người tốt việc tốt trong hoạt động khuyến nông. Báo cáo đúng lúc, có tài liệu chứng cứ cụ thể, chính xác, có tác dụng động viên nhân viên khuyến nông, nông dân trong địa bàn, tạo nên sự liên lạc mật thiết gắn bó nông dân với nhân viên khuyến nông. 3.6.4.2. Các bước thực hiện + Bước 1: Chuẩn bị tư liệu, mẫu báo cáo Những tài liệu đều tả nghiên cứu thực hành công phu trên thực địa kể cả những tài liệu đánh giá thường xuyên định kỳ và đánh giá tổng hợp cuối cùng, nếu không được xử lý và ghi chép lại đúng đắn trong các văn bản báo cáo, thì sẽ làm giảm rất nhiều hiệu lực và giá trị của các chương trình hoạt động khuyến nông. - Đối với những chương trình khuyến nông quy mô tương đối lớn cả về không gian và thời gian, rất cần có một phát thảo ngay từ đầu mẫu báo cáo định kỳ, mẫu báo cáo đối với từng loại công việc quan trọng (mở lớp huấn luyện, trình diễn, đi tham quan...) với những biểu bảng thống kê số liệu. - Sổ nhật ký công tác, các báo cáo hàng tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm của cán bộ khuyến nông cơ sở, sổ nhật ký công tác và báo cáo kiểm tra thường xuyên và định kỳ của cán bộ khuyến nông điều hành là những chứng cứ cho việc làm các báo cáo sơ kết đánh giá hoặc tổng kết đánh giá của một chương trình khuyến nông. * Xác định nội dung báo cáo - Cần xác định rõ mục tiêu và tác dụng của báo cáo. Nguồn gốc tài liệu phải có căn cứ, tài liệu cần những xắp xếp theo hệ thống. Báo cáo cần ăn khớp với các báo cáo 28 trước, với mục tiêu và phương pháp đã đề ra của chương trình khuyến nông, tránh những báo cáo có thể có trong báo cáo. + Bước 2: Viết báo cáo Nội dung một bản báo cáo đánh giá định kỳ (mỗi quý 3 tháng) có thể như sau: 1. Đặc điểm của hoàn cảnh khi bắt đầu thực hiện chương trình khuyến nông năm, hoặc khi bắt đầu thực hiện chương trình khuyến nông quý. Nhắc lại mục tiêu của chương trình khuyến nông năm và mục tiêu cần đạt được của chương trình khuyến nông từng tháng. 2. Đánh giá chung và các hoạt động khuyến nông đã thực hiện, những kết quả đã đạt được. Tiếp đó đi sâu vào các hoạt động chi tiết: + Số nông hộ, số trang trại đã tham gia thực hiện chương trình số đã bỏ cuộc vì sao? + Số người đã tham gia, so sách phần trăm với số người trong cộng đồng, vào các hoạt động khuyến nông (sinh hoạt "nhóm nông dân - mục tiêu"lớp huấn luyện, buổi trình diễn đi tham quan...) đánh giá sơ bộ về các hoạt động nói trên, tác dụng và phản tác dụng (nếu có). + Những tình huống mới diễn ra trong quá trình thực hiện chương trình. Cách xử lý, rút kinh nghiệm. + Những sự điều chỉnh cần thiết đã thực hiện đối chiếu với chương trình đã đề ra từ ban đầu. Lý do điều chỉnh? + Hoạt động hành chính, tài chính, nhân sự. + Những kiến nghị. 3. Chương trình hoạt động khuyến nông cho thời gian tới (có thể là quí tiếp theo, có thể làm năm tiếp theo) - Mục tiêu cần đạt. - Những công việc chính, những phương pháp và biện pháp khuyến nông chính. - Những điều kiện cần có để thực hiện chương trình. TÓM TẮT Nghiên cứu thiết lập một kế hoạch đánh giá tổng hợp hay một kế hoạch tổng hợp và tổ chức tính thực hiện một kế hoạch đánh giá - tổng kết theo phương pháp khoa học, có thể coi như một phần quan trọng của toàn bộ quá trình khuyến nông. Đối tượng của đánh giá bao gồm kết quả của chương trình khuyến nông đối chiếu với mục tiêu và kế hoạch thực hiện chương trình khuyến nông đã đề ra, các phương pháp khuyến nông đã áp dụng, các hoạt động tổ chức, hành chính, nhân sự. - 5 nguyên tắc cơ bản của phương pháp đánh giá là: Chính xác, tin cậy, khách quan, thực dụng đơn giản. Có nhiều phương pháp đánh giá, trước đây người ta quan tâm nhiều đến phương pháp đánh giá tổng hợp cuối cùng (evaluation finale). Ngày nay người ta rất coi trọng đến phương pháp đánh giá cấu thành (evaluation structurale) để kịp thời khắc phục những mặt yếu kém (thí dụ mở lớp huấn luyện, tổ chức trình diễn.. 29 .Đánh giá cấu thành được tiến hành liên tục và định kỳ trước khi tiến hành đánh giả tổng hợp cuối cùng. - Các báo cáo đánh giá cấu thành" công tác khuyến nông hàng tháng, hành quý và các báo cáo đánh giá cấu thành từng loại hoạt động khuyến nông, là những cứ liệu rất quan trọng để làm báo cáo. Đánh giá tổng hợp cuối cùng có chất lượng, hữu ích cho hoạt động khuyến nông trong tương la i. 3.7. Các điều kiện tổ chức dịch vụ khuyến nông 3.7.1. Truyền thông tốt Một tổ chức khuyến nông giúp đỡ nông dân thông qua công tác truyền thông, điều đó có nghĩa là dịch vụ khuyến nông đòi hỏi sự thông tin nội bộ có hiệu quả. Dịch vụ khuyến nông giúp đỡ người nông dân tự hình thành các ý kiến và tự ra quyết định. Vì thế, các thành viên của tổ chức khuyến nông phải hiểu được quá trình hình thành ý kiến và ra quyết định. 3.7.2. Thông tin Nhiều thông tin cần cho việc giải quyết các vấn đề của người nông dân cùng với việc ra quyết định của họ. Thông tin thường xuất phát từ nghiên cứu khoa học, một phần có thể xuất phát từ những người nông dân khác và những người làm chính sách, ví dụ như những thông tin liên quan đến sự trợ cấp, dự báo giá cả,...Các cán bộ chuyên môn thường đưa thông tin này vào các thông điệp khuyến nông làm cho nó dễ hiểu hơn và có thể áp dụng trong điều kiện của địa phương. Mỗi chuyên ngành nên có một chuyên gia, họ sẽ là một nguồn thông tin quan trọng của tổ chức khuyến nông. 3.7.3. Môi trường hoạt động thích hợp Tổ chức khuyến nông hoạt động trong một môi trường cần có tài chính và nhân lực, điều này tác động đến mục tiêu của nó và những người nông dân mà nó phục vụ. Môi trường này thường xuyên thay đổi. Vì thế, tổ chức khuyến nông phải nhận biết được những thay đổi này một cách kịp thời để tự điều chỉnh, hay khi có thể, tác động đến các thay đổi đó. 3.7.4. Động cơ của cán bộ Chúng ta đã nêu lên tầm quan trọng của thông tin trong một tổ chức khuyến nông để giúp tổ chức đó đạt được mục tiêu. Động cơ của người cán bộ tổ chức cũng rất quan trọng cho mục đích tương tự. Người quản lý công tác ở tổ chức khuyến nông có nhiều khó khăn hơn những người quản lý ở tổ chức khác vì các cán bộ của họ làm việc tại nhiều địa bàn rải rác trên một vùng rộng lớn và thường với nhiều nhiệm vụ khác nhau. Tổ chức chỉ có thể hoạt động một cách có hiệu quả khi mọi cán bộ đều nhận thức được rằng việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của họ là quan trọng. Hơn nữa, họ tin tưởng vào những gì họ làm thì chắc chắn họ sẽ làm tốt hơn là được phân công, hoặc vì tiền lương. 30 Tất cả những người làm khuyến nông, để có động cơ phả i biết rõ nhiệm vụ của họ là gì, và phải coi nhiệm vụ đó là quan trọng đối với người nông dân cũng như đối với bản thân họ. 3.7.5. Tính linh hoạt Thông tin và động cơ là hai nhân tố quan trọng để bảo đảm tính linh hoạt trong một tổ chức khuyến nông. Tổ chức đó phải đạt được nhiều mục tiêu khác nhau và tiếp cận được các nhóm mục tiêu mới, hoạt động theo các cách thức mới để mãi là người hướng dẫn sự phát triển nông nghiệp trong tương lai. Điều đó đòi hỏi một chương trình phát triển tổ chức thường xuyên, cũng như một chính sách nhằm tạo ra các cơ hội cho sự phát triển của bản thân những người làm khuyến nông, và khen thưởng những ai sử dụng một cách có hiệu quả những cơ hội này. Tổ chức khuyến nông nên cố gắng phát triển một phong trào học tập, trong đó tất cả cán bộ đều có đóng góp vào quá trình phát hiện xem tổ chức khuyến nông của mình có thể tự điều chỉnh tới một sự thay đổi với các cơ hội mới không. Do nguồn ngân sách cho khuyến nông có hạn nên các hoạt động ít quan trọng nên được thay thế bằng những hoạt động hữu ích hơn. 3.7.6. Phát hiện các vấn đề quản lý Chúng ta cần nhận ra một hay nhiều vấn đề quản lý dưới đây trong các tổ chức khuyến nông: 1. Tiền tương của cán bộ thấp so với các tổ chức nhà nước khác, trong khi người làm khuyến nông phải sống trong những điều kiện khó khăn, xa trường học và các điều kiện khác. 2. Con đường phát triển công danh đối với cán bộ trực tiếp nói chung là thiếu thốn hoặc bị hạn chế. 3. Người mà khuyến nông thường xuyên bị thuyên chuyển. 4. Đi lại là một vấn đề rất lớn, không có đủ ngân sách cho chi phí đi lạ i. 5. Người làm khuyến nông trực tiếp thiếu sự liên lạc với các cấp lãnh đạo những người làm nghiên cứu, những người cung cấp vật tư và các cơ quan của nhà nước tham gia vào việc phát triển nông thôn. 6. Bức tường ngăn cách các cơ quan nhà nước khác nhau có thể là cao, làm cho sự hợp tác giữa họ rất khó khăn. 7. Những người làm khuyến nông phải sử dụng thời gian ngoài giờ để viết các báo cáo và thu thập các số liệu thống kê, ít được sử dụng cho việc cải tiến sự phát triển nông nghiệp. 8. Chương trình khuyến nông khó bắt kịp với các điều kiện luôn thay đổi ở địa phương, hoặc không có các kỹ thuật phù hợp cho việc giải quyết vấn đề của nông dân. 9. Người phụ nữ ít có cơ hội tiếp xúc với người làm khuyến nông. 10. Nhưng người làm khuyến nông không phải lúc nào cũng được giao nhiệm vụ rõ ràng và không được giữ trách nhiệm hoàn thành các nhiệm vụ đó. 31 11. Các dự án giúp đỡ kỹ thuật đôi khi lập ra tổ chức khuyến nông của riêng mình theo cách làm mà nó không thể kết hợp được với mạng lưới khuyến nông quốc gia. 3.8. Công tác lãnh đạo trong các tổ chức khuyến nông Người lãnh đạo một tổ chức khuyến nông phải làm cho cán bộ của mình đóng góp được nhiều nhất vào việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Họ có thể làm được điều đó bằng việc nêu rõ mỗi người làm khuyến nông nên và không nên làm gì. Họ cũng có thể cho phép người làm khuyến nông được hoàn toàn tự do quyết định nên làm gì để giúp đỡ nông dân. Một phương thức làm việc như vậy sẽ có hiệu quả nếu các quyết định này được thảo luận ở các cuộc họp, trong đó cán bộ khuyến nông nêu rõ cho người quản lý biết trong các tình hình khác nhau thì các quyết định nào là tốt nhất. Hình thức lãnh đạo này - gọi là hình thức tham gia, rất được các tổ chức khuyến nông ưu dùng. Sự lựa chọn hình thức tham gia phụ thuộc vào một số nhân tố sau: - Môi trường - Kỹ năng chuyên môn - Việc áp dụng hình thức lãnh đạo đúng trong một tình hình cụ thể. - Quyền lực người lãnh đạo - Người thủ trưởng có thời gian dành cho nhiệm vụ lãnh đạo của mình - Các quyền lợi chung. 3.9. Công tác phát triển cán bộ Cán bộ là nguồn quan trọng nhất đối với tổ chức khuyến nông. Trong quá trình chuyển đổi, người ta trông đợi ở họ các tiêu chuẩn khác nhau và thường là cao hơn. Vì thế, các nhà quản lý phải đảm bảo chất lượng của nguồn lực này ngày càng được cải thiện. Họ có thể đóng góp vào việc cải tiến chất lượng này bằng cách lãnh đạo nhằm vào sự phát triển cán bộ thông qua cách họ điều hành cán bộ, việc động viên cán bộ của họ làm việc vì sự phát triển của nông dân, và với một chương trình tập huấn được tổ chức một cách có hệ thống. Công tác phát triển cán bộ là một yếu tố chủ yếu trong quá trình chuyển đổi tổ chức khuyến nông. Hiện nay, người làm khuyến nông hành động gần như những người đưa thư, họ phân phát các thông điệp tiếp thu được từ những buổi tập huấn thường xuyên của các cán bộ chuyên môn, cho những người nông dân mà thông thay đổi bất kỳ nội dung gì trong các thông điệp đó. Với tình hình chuyển đổi nhanh chóng của công tác khuyến nông, họ nên làm việc theo cách có sự tham gia, trong đó người làm khuyến nông trở thành đối tác của người nóng dân, thảo luận những cơ hội khác nhau để làm tăng thu nhập theo cách bền vững cho một tình hình cụ thể nào đó điều đó đòi hỏi người làm khuyến nông cũng thay đổi. Người làm khuyến nông ở thế kỷ 21 cần phải có những kỹ năng sau: 1. Làm việc trong những hoàn cảnh phức tạp và ít có sự giám sát chặt chẽ; 32 2. Lắng nghe và học hỏi người nông dân; 3. Chẩn đoán các vấn đề của nông dân và sẵn sàng làm việc một cách có hiệu quả; 4. Thông tin một cách có hiệu quả cho nông dân và các nhóm nông dân; 5. Trình bày những lựa chọn, dựa vào các nguyên lý khoa học và thực tế sản xuất nông nghiệp, làm cho các lựa chọn đó thực sự có sẵn cho các gia đình nông dân; Vai trò chuyển đổi này của khuyến nông đòi hỏ i không chỉ một chương trình tập huấn rộng lớn cho tất cả các cán bộ khuyến nông, mà còn đòi hỏi một loại tập huấn khác không bị giới hạn ở việc chuyển các bức thông điệp, phả i cố gắng phát triển óc sáng tạo cho họ. Các nhà quản lý phải biết rõ người làm khuyến nông cần học gì, nếu họ muốn sử dụng hình thức này một cách thành công. Họ phải thường xuyên đi thực tế để quan sát những người làm khuyến nông và nói chuyện với nông dân để tìm hiểu xem các cán bộ khuyến nông phải phát triển những kỹ năng nào. Chỉ cho họ biết cách làm việc cũng có thể có hiệu quả. Tuy nhiên, việc này nên làm một cách thận trọng để nông dân không mất lòng tin đối với những người làm khuyến nông. 3.9.1 Khen thưởng Khen thưởng kịp thời những người làm việc tốt là một công tác quan trọng đối với sự phát triển của họ. Không phả i chỉ khen thưởng vật chất với là quan trọng. Người ta có thể cảm thấy như được khen thưởng nếu như họ nhận ra rằng họ đã đóng góp hữu ích vào một mục tiêu quan trọng, hay đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ mà người khác đã từng bị thất bại. 3.9.2. Đào tạo Tất cả các chương trình khuyến nông đều đòi hỏi có chương trình đào tạo tại chức một cách có hệ thống thu hút được những người làm khuyến nông mà trình độ năng lực còn hạn chế. Nên có hai loại đào tạo - tập huấn. 1 Tập huấn thường xuyên để đảm bảo cho họ có thể luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn. 2. Một loạt các lớp học ngắn hạn để tăng cường khả năng chuyên môn cho người làm khuyến nông trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. Các lớp học có thể tập trung vào một khía cạnh của kỹ thuật sản xuất, hay một phương pháp khuyến nông. Những người làm khuyến nông không chỉ học ở các lớp tập huấn, mà họ phả i cố gắng học hỏi theo nhiều cách khác nhau làm sao có thể hoàn thành công việc được tốt hơn. Ví dụ, nếu họ làm việc trong một vùng trồng rau thì họ sẽ phải học hỏi nhiều về việc trồng rau, thậm chí điều đó không có trong các chương trình đào tạo của tổ chức mình. Trong các tình huống như vậy, họ phải học hỏi các bạn đồng nghiệp, các tài liệu, những nông dân làm ăn giỏi, các nhà nghiên cứu hay các nhà lãnh đạo của mình để tìm ra cách đối phó với cách thức thách mới này. Hình thức tự học thường là quan trọng đổi với sự thành công của dịch vụ khuyến nông hơn là các lớp học, và người làm 33 khuyến nông được khuyến khích tự học hơn là dự các lớp học mà họ bắt buộc phải tham gia. Vì thế, công tác quản lý khuyến nông nên khuyến khích và động viên việc tự học, bằng cách giúp cho những người làm khuyến nông tiếp cận được với những nguồn thông tin thích hợp và động viên họ học hỏi lẫn nhau. Các khoá học phải được thực hiện theo cách thực hành. Việc giảng dạy ở các trường Đại học có xu hướng nghiêng về mặt lý thuyết, còn những người làm khuyến nông phải có khả năng trình diễn, cũng như nói chuyện về một vấn đề thực tế mà họ sẽ phải khuyên người nông dân. Vì thế, hầu hết việc tập huấn nên được thực hiện trên thực tế hơn là trong lớp học. 3.9.3. Động cơ và sự hoàn thành công việc Động cơ của những người làm trực tiếp và các cán bộ chuyên môn là một vấn đề quan trọng, nhưng cũng gây ra nhiều tranh cãi trong lý thuyết quản lý hiện đại. Chính sách của tổ chức, sự giám sát, tiền lương và các điều kiện làm việc có thể là nguyên nhân dẫn đến việc thành công hay không các công việc được giao. 3.10. Cán bộ chuyên môn và cán bộ tổng hợp Người nông dân gặp các vấn đề khác nhau thường cần sự giúp đỡ của khuyến nông và nó có thể cung cấp bằng một hay vài dịch vụ chuyên môn. Một người làm khuyến nông đơn lẻ không thể làm chủ được tất cả các kiến thức cần thiết trong một dịch vụ có liên quan tới hàng loạt vấn đề rộng lớn. 3.10.1. Nhiệm vụ của cán bộ chuyên môn trong dịch vụ khuyến nông 1. Làm cho cán bộ tổng hợp biết được sự phát triển trong lĩnh vực chuyên ngành của mình bằng các bài giảng, các ấn phẩm... cũng như bằng các lớp tập huấn tại chức một cách có hệ thống. 2. Trợ giúp cho các cán bộ tổng hợp khi giả i quyết các vấn đề khó khăn, điều đó có thể được thực hiện theo một hình thức tập huấn các cán bộ tổng hợp, hoặc như là một dịch vụ đối với các cán bộ tổng hợp, trong trưởng hợp các vấn đề khó và ít gặp, bằng việc giải quyết các vần đề đó cho họ. 3. Làm cho các nhả nghiên cứu biết được các vấn đề trong nông trại thuộc về chuyên ngành của họ mà đối với chúng thì chưa có giả i pháp nào có sẵn cả, các phản ứng và sự cải tiến của nông dân đối với các giải pháp đã được phát triển trước đây; 4. Tổng hợp kiến thức của các nhà nghiên cứu khác nhau, các tài liệu khoa học và các kinh nghiệm của nông dân vào sự khuyến cáo thực tiễn; 5. Giúp những người lập kế hoạch khuyến nông biết các vấn đề của nông dân có thể được giải quyết bằng chuyên ngành của cán bộ chuyên môn; 6. Hợp tác để tập huấn cho nông dân, truyền đạt thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, trình diễn, nói chuyện, chuẩn bị các phương tiện khuyế nông... 7. Phân tích chiều hướng thích hợp của sự phát triển chuyên ngành. 3.10.2. Nhiệm vụ của người tổng hợp trong dịch vụ khuyến nông 34 1. Tổng hợp các kiến thức của các cán bộ chuyên môn khác nhau thành các khuyến cáo thực tế; 2. Bố trí sử dụng các cán bộ khuyến nông khi giả i quyết một vấn đề thực tế; 3. Lưu ý các cán bộ chuyên môn không quá thổi phồng chuyên ngành mình lên; 4. Làm cho cán bộ chuyên môn biết các vấn đề thực tế đang đòi hỏ i có giải pháp. Có thể có các tổ chức khuyến nông chuyên môn hoá cho các chuyên ngành khác nhau trong nông nghiệp. Có thể có các tổ chức khuyến nông về cây trồng, chăn nuôi, lâm nghiệp, xã hội... Điều này khó thực hiện khi cần phát triển một chương trình khuyến nông trong đó các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin cá nhân đã được tổng hợp tốt. Các chương trình đó lấy nhu cầu của nông dân làm xuất phát điểm. Nông dân có thể bị lẫn lộn nếu họ tiếp cận với quá nhiều tổ chức khuyến nông khác nhau và thường có các lời khuyên mâu thuẫn với nhau. Tương tự, một người nông dân cũng cám thấy khó có thể tìm được người cán bộ khuyến nông thích hợp để xin giúp đỡ. Vì vậy, đối với các cơ quan khác nhau thì nên phân công nhiệm vụ khuyến nông của họ cho một tổ chức khuyến nông có thể lên kế hoạch cho toàn bộ sự phát triển của nông trại. 3.11. Các chuyên gia thông tin Các tổ chức khuyến nông không chỉ có các cán bộ chuyên môn dành cho các khía cạnh kỹ thuật của ngành nông nghiệp, mà còn chuẩn bị các tư liệu thông tin và các chương tr ình tập huấn. Một chương trình khuyến nông có hiệu quả cần có sự giúp đỡ của các tờ bướm, các chương trình phát thanh, và phương tiện nghe nhìn, vi tính (GIS). Việc chuẩn bị các tư liệu này đòi hỏi một kiến thức mà hầu hết những người làm khuyến nông không có. Nó cũng đòi hỏi các thiết bị khá đắt tiền trong một đơn vị thông tin nông nghiệp chuyên môn hoá. Tổ chức khuyến nông có thể đạt hiệu quả hơn nếu có thêm các chuyên gia thông tin trong tổ chức của mình. Các đơn vị thông tin nông nghiệp cung cấp các tư liệu thông tin cho chương trình khuyến nông. Họ không nên phát triển các chương trình khuyến nông riêng của mình. Do đó, họ phải được thông báo trước về chủ đề nào khuyến nông sẽ tập trung vào, vì chuẩn bị các tư liệu khuyến nông phải mất một thời gian. Nội dung các tư liệu này thường do các cán bộ chuyên môn quyết định. Các chuyên gia thông tin có trách nhiệm làm cho nó trở nên dễ đọc và hấp dẫn người nông dân hơn. Thường thường, họ phải cùng vớ cán bộ chuyên môn kiểm tra lại để hạn chế rủi ro do in ấn và phát hành. 3.12. Nữ cán bộ khuyến nông Trong những năm gần đây, người ta rất chú ý đến một thực tế là ở nhiều địa phương 35 người phụ nữ đảm đang phần lớn các công việc nông nghiệp, trong khi chỉ có một phần nhỏ làm công tác khuyến nông. Sự mất cân đối này có thể gây khó khăn cho việc tiếp cận một nhóm mục tiêu quan trọng. Các tổ chức khuyến nông muốn nâng cao vai trò phụ nữ nên phân tích những loại hoạt động nào trong nông nghiệp ở vùng hoạt động được nam và nữ giới thực hiện, hai nhóm này tiếp cận với các nguồn lực khác nhau như thế nào, ai được lợi trong sản xuất và quản lý thu nhập, nhu cầu thông tin của các phụ nữ nông thôn là gì và những thông tin này được cung cấp qua các kênh thông tin nào. 3.12.1. Vai trò của người phụ nữ ở nông thôn 1. Chịu sự phân công lao động: Một số nhiệm vụ nào đó được người đàn ông làm và những việc khác do người phụ nữ đảm nhận. Người đàn ông thường chịu trách nhiệm làm đất, còn phụ nữ thì cho vật nuôi ăn kết hợp với việc chọn giống và bảo quản sản phẩm. Cũng có thể người phụ nữ chịu trách nhiệm về một số cây trồng hay con gia súc nào đó, còn đàn ông thì làm các việc khác. Thậm chí nếu người phụ nữ thực hiện hầu hết các công việc, thì người đàn ông có thể chỉ có trách nhiệm trong việc tạo ra quyết định, một phần vì họ thường giữ tiền vốn trong nhà. 2. Người đàn ông và người phụ nữ có các hoạt động khác nhau, ví dụ, người phụ nữ chịu trách nhiệm về tất cả các quyết định liên quan đến các vật nuôi nhỏ (gà, dê,...) còn đàn ông thì chịu hoàn toàn các cây trồng hàng hoá. Thường thì nghiên cứu và khuyến nông lại chú ý đến các hoạt động do đàn ông làm hơn là do phụ nữ làm. 3. Người phụ nữ hoàn toàn có trách nhiệm với đồng ruộng của họ mặc dù họ có thể được người thân là nam trái giúp đỡ trong việc làm đất. Có thể xảy ra như vậy vì họ là những người chưa xây dựng gia đình, goá bụa hay đã ly dị, nhưng ngày càng có nhiều trường hợp như vậy vì những người đàn ông ra thành phố tìm các công việc có tiền cao hơn - một quá trình làm cho công việc khuyến nông đổi với phụ nữ nông dân trở nên quan trọng hơn nhiều so với trước đây. 3.12.2. Tiếp xúc còn phụ nữ với vai trò người làm khuyến nông Phụ nữ nông dân, so với nam giới, thường ít tiếp cận được với các nguồn đầu tư tín dụng và các nguồn lực khác. Điều đó có nghĩa là các thông điệp khuyến nông rất hữu dụng cho nam giới có thể là ít có tác dụng đối với phụ nữ nông dân. Chúng thậm chí có thể là gánh nặng, ví dụ, các thông điệp về cơ giới hoá làm đất có thể làm tăng quy mô của các thửa ruộng mà người phụ nữ phải làm cỏ, như thế sẽ tăng công việc cho họ mà chúng đã quá nặng nhọc trong thời điểm này rồi. Những nông dân là nam giới, thông thường, được tiếp xúc nhiều với những người làm khuyến nông hơn so với phụ nữ. Điếu đó có thể là vì các hạn chế về tục lệ văn hoá không cho phép nam khuyến nông viên tiếp xúc với phụ nữ nông dân, vì nam nông dân chịu trách nhiệm đối với các cây trồng hàng hoá và các dịch vụ khuyến nông thường chú ý hơn là các cây lương thực, hoặc là vì nữ nông dân có trình độ học vấn thấp hơn. Ở một số nền văn hoá, phụ nữ không được phép nói trước các cuộc hội họp 36 nếu không được đề nghị. Những hạn chế như vậy dẫn đến rất nhiều phụ nữ nông dân ít khi xuất hiện với thế giới bên ngoài hơn so với nam giới. Vì vậy họ không biết, cũng như các nông dân nam giới, có thể đề nghị người làm khuyến nông giúp đỡ vấn đề gì. 3.12.3. Phân công các cán bộ nữ khuyến nông Một giải pháp tương đối tốt cho một số nơi là phân công nhiều cán bộ khuyến nông là nó để giả i quyết những vấn đề nêu trên. Có những khó khăn khác nữa, ở rất nhiều địa phương thường rất khó tìm đủ phụ nữ có trình độ học vấn cần thiết cho việc làm khuyến nông. Nhiều phụ nữ được học hành chương trình khuyến nông lại không muốn làm việc ở những vùng nông thôn vì chồng họ làm việc ở thành phố. Cũng có thể khó chấp nhận được khía cạnh về tập quán văn hoá khi một phụ nữ khuyến nông sử dụng được hầu hết các loại phương tiện giao thông như xe đạp hay xe gắn máy, hoặc ở lại đêm để gặp gỡ nông dân vào thời điểm thuận lợi nhất trong ngày. Có thể khuyến khích những cán bộ khuyến nông là nam giới lưu ý làm việc với nữ nông dân. Làm việc với các nhóm phụ nữ thường có hiệu quả. Tuy nhiên, tuyển mộ các cán bộ làm việc riêng cho nam và nữ nông dân thì khá tốn kém. 3.12.4. Các vấn đề cần giải quyết Làm việc với phụ nữ có thể đòi hỏi những phương pháp khuyến nông khác với các phương pháp sử dụng khi làm việc với nam giới, có thể dễ dàng tiếp cận được với phụ nữ bằng tiếng địa phương hơn là bằng ngôn ngữ phổ thông vì trình độ học vấn của họ thấp. Dịch vụ khuyến nông phải có những thông tin hữu ích đối với họ nếu như muốn làm việc một cách thành công với phụ nữ nông thôn. Các chương trình nghiên cứu nông nghiệp có thể phải định hướng lại theo cách chú ý nhiều hơn đến các cây trồng của người phụ nữ, dinh dưỡng gia súc, công nghệ sau thu hoạch,... Các quyết định liên quan đến vai trò của các nữ cán bộ khuyến nông nên dựa vào sự hiểu biết rõ về tập quán văn hoá của đất nước và thường là về tập quán của một vùng đặc biệt, hay một bộ tộc. 3.13. Kế t hợp giáo dục khuyến nông với các nhiệm vụ khác Chúng ta biết rằng giáo dục khuyến nông chỉ là một trong nhiều nhiệm vụ dược phòng người làm công tác phát triển nông thôn thực hiện. Họ cũng có thể có trách nhiệm phân phối vật tư và giám sát tín dụng. Có lên làm như vậy không? 3.13.1. Ưu điểm 1. Nó làm cho việc điều phối các hoạt động phát triển khác nhau trở lên dễ dàng hơn. Không nên dạy nông dân sử dụng phân bón nếu nguồn phân bón đó không có sẵn, hoặc trồng một loại sản phẩm mà không có thị trường cho nó. Trong giai đoạn đầu phát triển nông thôn, người làm khuyến nông có thể chỉ là một người đi phân phát giống mới, phân bón và thuốc trừ sâu. Hơn nữa, thông tin về sự thay đổi, sự khuyến cáo 37 thuốc trừ sâu do dịch vụ khuyến nông cung cấp làm quan trọng hoá những người phân phối thuốc trừ sâu. 2. Một số nông dân thường không thừa nhận sự cần thiết của dịch vụ khuyến nông, trong khi đó họ lại thừa nhận sự cần thiết của vật tư và tín dụng. Vì thế, nếu kết hợp các nhiệm vụ thì dễ tiếp cận được các nông dân này hơn. Hơn nữa, khi đi thăm một nông dân để phân phối vật tư, người làm khuyến nông có thể phát hiện ra một loại bệnh dịch hay các vấn đề khác mà người nông dân không thể phát hiện ra. 3. Có thể giảm chi phí đi lại. Điều này rất quan trọng ở những nơi chi phí đó cao do mật độ dân cư thấp, hoặc có các khó khăn về giao thông. 3.13.2. Nhược điểm Tuy nhiên, có những nhược điểm khi kết hợp khuyến nông với các nhiệm vụ khác do cùng một người hay cùng một tổ chức thực hiện. 1. Người làm khuyến nông hầu như không lấy được lòng tin của nông dân và làm việc có hiệu quả chỉ ở những nơi họ cũng còn có vai trò như một nhân viên "cảnh sát" ngăn chặn dịch bệnh. 2. Nếu những người làm khuyến nông phải đi thúc nợ tín dụng thì họ không chắc đã thúc ép mạnh người nông dân khi họ đã bị mất lòng tin của nông dân. 3. Các nhiệm vụ khác chiếm mất thời gian của công tác khuyến nông. Nông dân có thể tin hay chỉ thấy một hình ảnh không tốt đẹp của người làm khuyến nông. Thường thì dễ làm chậm các hoạt động khuyến nông hơn là các nhiệm vụ khác, như đi thu thập các số liệu thống kê hay việc báo cáo về vật tư đã phân phối. Kết quả là công việc khuyến nông ít được triển khai khi nó được kết hợp với các nhiệm vụ khác. 4. Có thể có mâu thuẫn về quyền lợi giữa tổ chức thị trường và tín dụng với nông dân. 5. Các cơ quan của nhà nước thường không có hiệu lực lắm trong việc phân phối vật tư, hay thị trường hoá các sản phẩm nông nghiệp. Nếu người làm khuyến nông có trách nhiệm về việc phân phối này, họ sẽ bị mất lòng tin của nông dân và như thế sẽ mất hiệu quả của công việc. 3.14. Sắp xếp tổ chức và tư nhân hoá các dịch vụ khuyến nông Ở hầu hết các nước, dịch vụ khuyến nông là một trong những nhiệm vụ của Bộ nông nghiệp. Bộ này sử dụng dịch vụ đó như là một trong những công cụ thực hiện những chính sách phát triển nông nghiệp. Nếu khuyến nông và nghiên cứu khoa học được tổ chức trong cùng một cơ quan, mối liên hệ giữa nghiên cứu và khuyến nông khá dễ dàng. Ví dụ, cán bộ chuyên môn của khuyến nông có thể được phân phố i một phần làm việc trong một viện nghiên cứu theo chuyên môn của anh ta điều đó khuyến khích sự tiếp xúc chính thức và không chính thức với các nhà nghiên cứu. Mố i quan hệ tốt này cũng có thể xảy ra giữa các cơ quán riêng rẽ, nếu tất cả mọ i 38 người đều chấp nhận rằng họ cùng có trách nhiệm đổi với việc phát triển nông nghiệp. Các trường chuyên nghiệp có thể có vai trò hữu ích trong công việc tổ chức các khoá học ngắn cho các sinh viên cũ hay đang công tác trong ngành nông nghiệp. Những gì mà họ đã học được trên ghế nhà trường sẽ dần dần bị lỗi thời. Đôi khi các khoá học như thế được tổ chức kết hợp với dịch vụ khuyến nông. Ở một số vùng có thuỷ lợi và định cư, một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về sự phát triển tổng thể của cả vùng, bao gồm cả các công việc xây lắp cung cấp tín dụng tiền trợ cấp, thị trường hoá các sản phẩm và khuyến nông. Công tác khuyến nông và thông tin có thể sẽ được thực hiện bởi: * Các công ty thương mạ i bán vật tư và mua sán phẩm của nông dân; * Ngân hàng; * Các tư vấn cá nhân làm việc với một khoản tiền thù lao; * Các nhân viên kế toán, những người trước đây thường giữ số sách trong công tác thuế, nhưng nay sử dụng các số liệu này để cho lời khuyên về quản lý nông trại; * Các nhà xuất bản, tạp chí nông nghiệp và các ấn phẩm khác; * Các dịch vụ thông tin máy tính và các ngân hàng dữ liệu. Trong những năm gần đây, có một khuynh hướng tư nhân hoá dịch vụ khuyến nông nhà nước. Những người nông dân chia sẻ trách nhiệm cho dịch vụ này và trả tiền một phần hay toàn bộ chi phí. Lý do của sự thay đổi này là : 1. Sự thiếu hụt ngân sách làm cho nhà nước khó có khả năng chi trả cho một dịch vụ như thế. 2. Người ta hy vọng bằng. việc làm cho các cán bộ khuyến nông có trách nhiệm đối với nông dân sẽ làm cho dịch vụ khuyến nông có kết quả hơn. Ở một số nước người làm khuyến nông thuộc bộ nông nghiệp rất khó lấy được lòng tin của nông dân 3. Nông dân là những người hưởng lợi chính của các hoạt động dịch vụ khuyến nông vì thế họ trả chi phí cũng là công bằng. Lý lẽ cuối cùng này có thể không chính xác. Một dịch vụ khuyến nông tốt cải thiện tính hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và mang lại giá thành thấp cho các sản phẩm nông nghiệp thông qua cạnh tranh, trừ khi giá cả chủ yếu lại được quyết định ở sản phẩm nông nghiệp ở nước khác hoặc bằng các chính sách giá cả của nhà nước. Vì thế, dịch vụ khuyến nông thường có tác động đến việc làm chi phí cho người tiêu dùng hơn là việc tăng thu nhập từ thị trường. Nông dân có thể đóng góp như thế nào. Có những cách khác nhau mà nông dân có thể đóng góp vào chi phí của một dịch vụ khuyến nông đã được tư nhân hoá: 1. Họ có thể trả chi phí cho một người làm khuyến nông mỗi lần đến thăm nông trại của họ, hoặc dịch vụ mà người làm khuyến nông cung cấp. 39 2. Tiền thuế có thể được tính cho các sản phẩm nông nghiệp mà từ đó nghiên cứu nông nghiệp và khuyến nông được cấp kinh phí 3. Các chi phí có thể được thanh toán bởi kinh phí của các thành viên đóng góp vào hiệp hội của nông dân.. 4. Dịch vụ khuyến nông có thể như được một phần đặc biệt nào đó từ thu nhập thêm mà một nông dân thu được do có lời khuyên của khuyến nông, ví dụ, từ năng suất cao hơn năng suất bình quân của vùng. Ưu điểm: Khuyến cáo từ hệ thống tư nhân có thể có nhiều hiệu quả hơn vì nông dân có thể chọn một tư vấn có nhiều khả năng giúp đỡ cho họ nhất. Người nông dân chắc chắn sẽ chuẩn bị các câu hỏi một cách kỹ lưỡng hơn để sử dụng tốt nhất thời gian của người tư vấn mà họ phả i trả tiền. Hơn nữa, điều đó làm cho họ thiên về việc sử dụng lời khuyên mà họ đã trả tiền lần trước. Nhược điểm: Sự tư nhân hoá các dịch vụ khuyến nông có bất lợi là nó kiềm hãm tự do thông tin. Các cán bộ khuyến nông nhà nước có thể đóng góp vào tạp chí hay các chương trình phát thanh nông nghiệp mà không đòi hỏ i trả tiền. Hay một chút vinh dự nào đó. Đối với dịch vụ tư nhân, họ có thể thiên về việc thanh toán cho các dịch vụ của họ nhằm thu được tiền mà tổ chức của hội cần cho sự sống còn của mình. Những người nông dân có thể không nói với các đồng nghiệp của mình là họ đã học được gì từ người làm khuyến nông vì họ không thích kiểu “cưỡi ngựa miễn phí”. Những người làm khuyến nông trong tổ chức tư nhân hoá có xu hướng tập trung vào các nông dân giàu có đủ tiền trả lệ phí cho họ. Nhưng nông dân tự cấp tự túc ít khi có khả năng chi trả lệ phí này. Mặc dù được cấp ngân sách từ nguồn vốn công cộng, các dịch vụ khuyến nông nói chung có xu hướng chú ý những nông dân giàu hơn là những người nghèo. Trong dịch vụ khuyến nông tư nhân thì xu hướng này càng mạnh mẽ hơn. Dịch vụ khuyến nông tư nhân cũng chỉ tập trung vào các chủ dân nào mà nông dân tự nguyện trả lệ phí. Ví dụ, người nông dân, có xu thế trả các thông tin về loại thuốc bảo vệ thực vật, hơn là trả tiền cho sự giáo huấn về cách làm thế nào để ngăn chặn sự thoái hoá của mồi trường, mặc dù chủ đề sau có thể quan trọng hơn đối với họ về lâu đài Những người làm khuyến nông cũng sẽ chọn những phương pháp có thể thu hồi được chi phí cho họ. Trả tiền cho một cuộc viếng thăm nông trại dễ dàng hơn là cho việc tham dự một cuộc trình diễn các kết quả, mặc dù trình diễn thì tốn kém hơn nhiều. Cùng chịu chí phí: ở một số nước, các hiệp hội nông dân và nhà nước cùng chia sẻ chi phí của dịch vụ khuyến nông. Các hiệp hội tuyển mộ những người làm khuyến nông vì họ cho đó là một cách có hiệu quả để tăng thu nhập cho các thành viên của mình. Ở một vài nước thì nhà trước trợ cấp cho hoạt động khuyến nông của các hiệp hội nông dân, trong khi đó ở một vài nước khác thì những người làm khuyến nông 40 được tuyển mộ thông qua một tổ chức do nhà nước và các hiệp hội nông dân đứng ra thành lập. Nhà nước ở đây có thể là Bộ nông nghiệp hay chính quyền địa phương. Những người làm khuyến nông được quản lý trực tiếp hơn nếu các chi phí do chính quyền nhà nước ở địa phương trả chứ không phải do chính quyền trung ương cấp. Một điều rõ ràng là việc tư nhân hoá dịch vụ khuyến nông có những mặt lợi và cũng có những điều bất lợi. Tình hình cụ thể ở địa phương sẽ quyết định liệu các lợi ích đó có lớn hơn ác điều bất lợi hay không. Rõ ràng là không có những quy chế trong nào được nêu ra để có một cách tốt nhất triển khai tư nhân hoá. 3.15. Yêu cầu công tác nghiên cứu khuyến nông Công tác nghiên cứu về cấu trúc hay chức năng của các tổ chức đang tăng lên một cách nhanh chóng. Một số câu hỏi cần được trả lời là: 1. Cấu trúc tối ưu của tổ chức phụ thuộc vào nhiệm vụ của dịch vụ khuyến nông theo cách nào? 2. Cách tốt nhất để tổ chức thông tin nộ i bộ trong tổ chức là gì? Cách tốt nhất để sắp xếp một hệ thống thông tin quản lý nhanh chóng cụng cấp các thông tin xác thực về cách làm việc của người làm khuyến nông? 3. Nhiệm vụ nào có thể kết hợp trong tổ chức khuyến nông và nhiệm vụ nào thì không thể? 4. Cần có một sự chuyên môn hoá ở trình độ nào? Làm thế nào để sự đóng góp của chuyên gia về các kiến thức chuyên môn có thể được kết hợp với sự phối hợp tối ưu của công việc? 5. Các nhiệm vụ quản lý được hoàn thành ở trình độ nào, theo cách gì và do ai thực hiện? 6. Làm thế nào để các tổ chức khác nhau đang cùng phục vụ cho một nhóm mục tiêu có thể hợp tác được với nhau trong một hệ thống tổ chức? PHẦN THỰC HÀNH Bài 1: Sử dụng một số công cụ PRA để phân tích thông tin (Veen, SWOT,…). Bài 2: Hãy quảng cáo về ngành trồng trọt (sử dụng truyền thông) 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp khuyến nông, Nguyễn Thị Lan, 2004. 2. Khuyến nông hoc, Trần Văn Hà, 1999. 3. Nguyên lý khuyến nông (sách dịch), Đại học kinh tế quốc dân, 2000. 4. Sổ tay khuyến nông, C. Floress, Philip ine, 1999. 5. Agricultural extension, V. Hawpkin, 1998. 6. Báo cáo Hội thảo Quốc Gia về phương pháp KN có sự tham gia của người dân do bộ NN và PTNT tổ chức 2002. 7. Kỹ năng huấn luyện có sự tham gia - Cục Khuyến Nông 8. Kỹ năng giao tiếp và phương pháp chuyển giao TBKH trong công tác khuyến nông - Cục Khuyến Nông 9. Phương pháp đào tạo cho người lớn tuổi - Bộ KHĐTư 10. Phương pháp khuyến nông có sự tham gia của người dân và việc áp dụng thử nghiệm tại vùng Tây Bắc Việt Nam - Tạp chí KN VN , số 6 năm 2004 11. Phương pháp khoa học học và làm của kỹ sư Nông Lâm nghiệp , NXBHN 1995 12. Tập huấn để biến đổi (3 tập) - Phòng nghiên cứu công công tác xã hội biên dich - 2001 13. Tài liệu đào tạo kỹ năng thuyết trình và điều hành hội thảo - Trung tâm hỗ trợ DN vừa và nhỏ (SMEDEC). 14. Tài liệu tập huấn Lớp học hiện trường của nông dân (FFS)-Nguyễn Thị Hồng Lý 15. Thông tin và những kỹ năng làm việc theo nhóm Dự án PTLNXH Sông Đà . 16. Alternative Strategies for education - G. Bishop 17

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKHUYEN_NONG_CHUYEN_SAU.pdf
Tài liệu liên quan