Bài giảng chương 2: Mở rộng thị trường toàn cầu

Tài liệu Bài giảng chương 2: Mở rộng thị trường toàn cầu: Chapter 2: Mở rộng thị trường toàn cầu Tóm tắt chương: Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là một trong những hình thức mở rộng thị trường chính yếu của các công ty hay tập đoàn đa quốc gia. Cho dù rằng sẽ có rất nhiều phương thức thực hiện bởi các các công ty hay tập đoàn lớn nhỏ khác nhau, nhưng chung quy lại chúng đều mang tính toàn cầu và quốc tế hoá. Các yếu tố thường thấy ảnh hưởng trực tiếp đến FDI như các yếu tố cơ bản của thị trường, các rào cản thương mại, yếu tố chi phí, môi trường đầu tư… Thêm nữa, các hình thức sỡ hữu cũng khác nhau tương ứng với quy mô hay chiến lược của công ty hay tập đoàn, chẳng hạn như từ hình thức thành lập công ty con cho đến công ty liên doanh. Với hình thức công ty liên doanh chẳng hạn, các bên tham gia sẽ có sự bù trừ cho nhau nhằm tăng cường sức mạnh tổng lực, tối ưu hoá các nguồn lực sử dụng và mang lại lợi ích thiết thực cho các bên. Rõ ràng rằng hình thức liên doanh sẽ mang lại lợi ích tốt nhất trong những điều kiện thiếu thông tin v...

doc10 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng chương 2: Mở rộng thị trường toàn cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chapter 2: Mở rộng thị trường toàn cầu Tóm tắt chương: Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là một trong những hình thức mở rộng thị trường chính yếu của các công ty hay tập đoàn đa quốc gia. Cho dù rằng sẽ có rất nhiều phương thức thực hiện bởi các các công ty hay tập đoàn lớn nhỏ khác nhau, nhưng chung quy lại chúng đều mang tính toàn cầu và quốc tế hoá. Các yếu tố thường thấy ảnh hưởng trực tiếp đến FDI như các yếu tố cơ bản của thị trường, các rào cản thương mại, yếu tố chi phí, môi trường đầu tư… Thêm nữa, các hình thức sỡ hữu cũng khác nhau tương ứng với quy mô hay chiến lược của công ty hay tập đoàn, chẳng hạn như từ hình thức thành lập công ty con cho đến công ty liên doanh. Với hình thức công ty liên doanh chẳng hạn, các bên tham gia sẽ có sự bù trừ cho nhau nhằm tăng cường sức mạnh tổng lực, tối ưu hoá các nguồn lực sử dụng và mang lại lợi ích thiết thực cho các bên. Rõ ràng rằng hình thức liên doanh sẽ mang lại lợi ích tốt nhất trong những điều kiện thiếu thông tin về thị trường, hay dễ chấp nhận hơn khi quyết định mở rộng thị trường nước ngoài, hạn chế thấp nhất rủi ro nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề tiềm ẩn mới như sự xung đột về văn hoá các bên khác nhau, hay định hướng kinh doanh, chính sách thị trường, tầm nhìn chiến lược v.v… Với hình thức liên minh chiến lược, là hình thức liên kết hoạt động đặc biệt giữa các đối tác ở những ngành công nghiệp khác nhau, hay hình thức, quy mô khác nhau, tiềm lực khác nhau nhưng có chung một chí hướng nhằm tối ưu hoá lợi thế về công nghệ hay lợi thế cạnh tranh đặc biệt của mỗi bên. Ích lợi của hình thức này là nó mang đến một phức hợp cũng như lợi ích tối ưu về chi phí, thông qua sức mạnh đặc biệt của mỗi bên có khi là một thuận lợi trong một công việc cụ thể nào đó, chẳng hạn như quan hệ tốt với chính quyền là một lợi thế. Đối với các quốc gia phát triển chủ yếu bằng nền công nghiệp dịch vụ, thì tại nơi đó các hình thức của hợp tác, hợp nhất trên sự thoả thuận, dàn xếp thì phát triển rất phổ biến. Những kiểu hợp đồng loại này tạo điều kiện hoạt động thuận lợi hơn cho các chuyên gia hay Giám đốc Marketing của các công ty hay tập đoàn đa quốc gia một khi họ thiếu tiềm lực hay họ không mấy khát khao bành trướng. Ngoài ra, nó cũng giúp ích cho một bên nào đó có thể học tập được các kỹ năng quản lý điều hành, vận dụng hệ thống mà cũng không thể mất đi quyền tự chủ của mình trong dự án. Bởi vì sự phát triển về phương thức quản trị, các dịch vụ đi kèm cũng như vấn đề hoạch định chiến lược mang ý nghĩa quan trọng, vì vậy mà đòi hỏi người làm marketing quốc tế cần phải biết linh hoạt ứng dụng nhằm biến các lợi thế thành hiệu quả tốt nhất, cho dù đó chỉ là một phân khúc thị trường nhỏ bé. Giới thiệu: Cho dù loại hình công ty hay tập đoàn hay quy mô lớn hay nhỏ, khi tính đến chuyện mở rộng ra thị trường quốc tế thông qua hình thức đầu tư trực tiếp hay hợp đồng hợp tác thì họ đều thực hiện với cường độ và mức độ quan tâm rất cao. Các yếu tố then chốt dẫn đến việc quyết định đầu tư mở rộng đó là việc cân nhắc giữa lợi thế so sánh lớn hơn bất lợi hiện có của công ty hay tập đoàn, cũng như xem xét độ rủi ro khi hoạt động ở nơi xa ra sao… Chính vì vậy, việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường đòi hỏi sự vững mạnh về tài chính cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của công ty hay tập đoàn đến đâu, và câu trả lời thường thấy là các tập đoàn đa quốc gia luôn chiếm lợi thế. Trong chương 13 này, nội dung sẽ tập trung chủ yếu vào hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) mà trong đó nhấn mạnh vào sự khác nhau giữa các hình thức chẳng hạn như Tự chủ hoàn toàn (100% vốn), hay Liên doanh và Liên minh chiến lược. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP TỪ NƯỚC NGOÀI (FDI) FDI là một trong những hình thức chuyền vốn đầu tư từ nước ngoài vào một thị trường. Ngoài ra còn có Danh mục đầu tư (portfolio investment) thường thấy qua việc mua lại cổ phần hay trái phiếu trong thị trường của các công ty hay tập đoàn. Danh mục đầu tư thường quan tâm đặc biệt đến thị trường tài chính quốc tế, chính vì vậy mà các chuyên gia hay Giám đốc Marketing toàn cầu thường xem loại hình đầu tư này dễ dàng bành trướng vào thị trường một cách lâu dài và rộng lớn. Từ đó, họ có thể thông qua 1 công ty hay tập đoàn địa phương để kiểm soát thị trường. Dường như rằng tất cả các “đại gia” đều xem hình thức FDI là một lộ trình tất yếu để thực hiện việc thâm nhập và mở rộng thị trường ở nước ngoài. ĐẶC ĐIỂM NHỮNG NHÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP BÊN NGOÀI Một thực tế cần nhìn nhận là, hầu hết các công ty hay tập đoàn trên thế giới thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đều là các công ty hay tập đoàn đa quốc gia. Hơn thế nữa, đa số đều mang quốc tịch Hoa Kỳ. Họ thực hiện từng bước từ việc mở rộng thị trường trong nước, sau đó rộng mở từ từ sang những nước có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của họ. Và, để duy trì sự phát triển lâu bền thì họ cũng đi từng bước trong việc tiềm kiếm lợi nhuận từ những lĩnh vực lợi thế của mình sang những lĩnh vực mới, thậm chí xa lạ hoàn toàn. Chính vì vậy, họ có thể thực hiện đồng thời việc tối ưu hoá lợi thế của mình vừa có thể phát triển sang nhiều lĩnh vực khác, mục đích cuối cùng là giảm chí phí và tăng lợi nhuận. Trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, các công ty hay tập đoàn đa quốc gia thường có khuynh hướng mang các lợi ích kinh tế cũng như công việc tốt nhất đến những thị trường nào mà họ cho là trọng điểm, và có khi họ trả lương cho nhân viên tại các thị trường này cao hơn cả những nhân viên tại quốc gia họ. Những nguyên nhân chính để thực hiện FDI: Những yếu tố thị trường thuận lợi: Hai yếu tố đầu tiên đó là Ý đồ triển khai chiến lược marketing và Tham vọng hợp tác phát triển rộng rãi giúp cho việc hình thành và gia tăng nhu cầu thực hiện FDI. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì khi các công ty hay tập đoàn thực hiện càng bành trướng thì nhiệm vụ càng nặng nề, hao tổn sẽ nhiều hơn nhưng đổi lại họ sẽ gặt hái thành công nếu chú tâm vào đầu tư thậm chí đó cũng chỉ là một thị trường nhỏ nhoi. Sức ép về cạnh tranh của thị trường toàn cầu đòi hỏi các công ty hay tập đoàn cần phải luôn sẵn sàng mở rộng càng nhanh, càng sớm càng tốt để thu lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, các công ty hay tập đoàn thường tiến hành thâu tóm, mua lại các công ty địa phương để thông qua đó đạt được lợi thế kiểm soát hoạt động, có thị phần nhanh, học hỏi các bí quyết lẹ làng và gia tăng sức chi phối trên thị trường. Danh sách 50 công ty hay tập đoàn lớn nhất trên Thế giới (xếp theo lợi nhuận) Rank Company Revenues ($ millions) Profits ($ millions) 1 Exxon Mobil 339,938.0 36,130.0 2 Wal-Mart Stores 315,654.0 11,231.0 3 Royal Dutch Shell 306,731.0 25,311.0 4 BP 267,600.0 22,341.0 5 General Motors 192,604.0 -10,567.0 6 Chevron 189,481.0 14,099.0 7 DaimlerChrysler 186,106.3 3,536.3 8 Toyota Motor 185,805.0 12,119.6 9 Ford Motor 177,210.0 2,024.0 10 ConocoPhillips 166,683.0 13,529.0 11 General Electric 157,153.0 16,353.0 12 Total 152,360.7 15,250.0 13 ING Group 138,235.3 8,958.9 14 Citigroup 131,045.0 24,589.0 15 AXA 129,839.2 5,186.5 16 Allianz 121,406.0 5,442.4 17 Volkswagen 118,376.6 1,391.7 18 Fortis 112,351.4 4,896.3 19 Crédit Agricole 110,764.6 7,434.3 20 American Intl. Group 108,905.0 10,477.0 21 Assicurazioni Generali 101,403.8 2,384.0 22 Siemens 100,098.7 2,854.9 23 Sinopec 98,784.9 2,668.4 24 Nippon Telegraph & Telephone 94,869.3 4,404.6 25 Carrefour 94,454.5 1,784.3 26 HSBC Holdings 93,494.0 15,873.0 27 ENI 92,603.3 10,919.7 28 Aviva 92,579.4 3,211.4 29 Intl. Business Machines 91,134.0 7,934.0 30 McKesson 88,050.0 751.0 31 Honda Motor 87,510.7 5,273.2 32 State Grid 86,984.3 1,073.5 33 Hewlett-Packard 86,696.0 2,398.0 34 BNP Paribas 85,687.2 7,271.5 35 PDVSA 85,618.0 4,661.0 36 UBS 84,707.6 11,257.5 37 Bank of America Corp. 83,980.0 16,465.0 38 Hitachi 83,596.3 329.6 39 China National Petroleum 83,556.5 12,950.0 40 Pemex 83,381.7 -7,001.7 41 Nissan Motor 83,273.8 4,575.6 42 Berkshire Hathaway 81,663.0 8,528.0 43 Home Depot 81,511.0 5,838.0 44 Valero Energy 81,362.0 3,590.0 45 J.P. Morgan Chase & Co. 79,902.0 8,483.0 46 Samsung Electronics 78,716.6 7,458.8 47 Matsushita Electric Industrial 78,557.7 1,363.8 48 Deutsche Bank 76,227.6 4,385.0 49 HBOS 75,798.8 5,870.4 50 Verizon Communications 75,111.9 7,397.0 NGUỒN: Global 500, từ trang phát hành ngày 24.07.2006. Bảng thống kê những yếu tố then chốt để thực hiện FDI: STT CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ĐẶC ĐIỂM 1 Các yếu tố về thị trường Độ lớn thị trường. Sức phát triển của thị trường Kỳ vọng duy trì thị phần Kỳ vọng gia tăng xuất khẩu từ công ty mẹ. Nhu cầu tiếp cận khách hàng chặt chẽ hơn. Sự không thoả mãn về tình trạng hiện có. Tạo nền tảng vững chắc cho việc xuất khẩu dài hạn. 2 Giới hạn về thương mại Những rào cản thương mại. Sự trung thành của khách hàng địa phương với các sản phẩm địa phương 3 Các yếu tố về chi phí Kỳ vọng về việc khai thác những nhà cung cấp sẵn có. Lực lượng lao động có sẵn. Nguồn nguyên liệu có sẵn. Vốn và công nghệ có sẵn. Chi phí nhân công thấp. Chi phí sản xuất thấp . Chi phí vận chuyển thấp Sự ưu đãi về mặt tài chính của chính quyền địa phương. Những chi phí thuận lợi khác. 4 Môi trường đầu tư Quan điểm, thái độ chung của xã hội đối với FDI. Sự ổn định chính trị. Mức giới hạn về sở hữu. Các quy định về tỷ giá hối đoái hiện hữu. Thị trường hối đoái ổn định. Hệ thống thuế. Sự thân thiện của quốc gia. 5 Tiêu chí chung Kỳ vọng gia tăng lợi nhuận càng cao càng tốt. NGUỒN: Một trong những nhân tố khác nữa khuyến khích thực hiện FDI là những ưu thế về chi phí. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, họ quan tâm và tìm kiếm những ưu thế về chi phí nguồn lực thấp và sự bảo đảm về chuỗi cung ứng hiệu quả. Cuối cùng, một khi đã quyết định thực hiện đầu tư mang tính toàn cầu thì môi trường trường đầu tư sẽ đóng vai trò quan trọng nhất. Các công ty hay tập đoàn sẽ tìm đến những vung địa lý nào trên trái đất này mà họ được bảo vệ (luật pháp) và họ có nhiều cơ hội để hưng thịnh việc kinh doanh của mình. Tất cả những yếu tố quyết định trên sẽ có tác động rất khác nhau đến các quyết định cho hoạt động FDI tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng biệt của công ty cũng như những tập quán, mục tiêu, những điều kiện khách quan mà có ảnh hưởng đến họ. Sẽ có 03 loại công ty hay tập đoàn chính trong các hoạt động FDI: + Những công ty chú tâm về nguồn lực: họ sẽ tìm kiếm những nơi đầu tư mà có lợi thế về tự nhiên hay con người. + Những công ty chú tâm đến thị trường: họ sẽ ưu tiên lựa chọn, tìm kiếm những cơ hội tốt đề xâm nhập và mở rộng thị trường. Đối với những thị trường đóng hay thị trường có nhiều trở ngại, các công ty sẽ tìm kiếm ưu điểm nào vượt trội nhất mà phù hợp với họ để tiến hành. + Những công ty chú trọng về hiệu quả: họ sẽ cố gắng đạt được nguồn lực kinh tế nào mà có lợi nhất cho các hoạt động của mình. Hình thức thường thấy nhất là họ thiết lập nhiều chi nhánh ở các thị trường khác nhau với nhiều kiều hoạt động riêng biệt khác nhau nhằm tối ưu hoá lợi nhuận, san sẻ rủi ro cũng như tối ưu hoá các hoạt động đầu tư. Những liên kết hiệu quả: Một lý do nữa để thúc đẩy các nhà đầu tư thực hiện FDI là sự hình thành của những nhu cầu có sẵn, nghĩa là những nhu cầu này xuất hiện ở bên ngoài thị trường quốc tế nơi mà lượng khách hàng đã có sẵn và phù hợp với sản phẩm, dịch vụ của công ty. Các công ty hay tập đoàn đa quốc gia khá thích thú với việc thiết lập nhiều mối quan hệ thương mại với nhiều công ty hay tập đoàn ở các lĩnh vực khác nhau. Để từ đó, họ có thể tranh thủ và lôi kéo những nhà cung cấp có liên quan đến sản phẩm, dịch vụ của mình ủng hộ việc bành trướng ra thị trường nước ngoài. Chẳng hạn như, những nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản đã thành công khi thuyết phục được những nhà cung ứng của họ thiết lập nhà máy, cơ sở trên đất Mỹ khi họ tiến hành mở những phân xưởng sản xuất xe hơi phục vụ dân chúng Mỹ. Tương tự như vậy, các công ty hay tập đoàn quảng cáo lớn cũng đưa các dịch vụ của mình đến các đại diện nội địa nơi mà họ sẽ phục vụ các khách hàng truyền thống đa quốc gia của mình hoạt động tại đó… Những khuyến khích của chính quyền địa phương: Chính quyền các địa phương luôn phải chịu đựng áp lực của việc tạo công ăn việc làm cho công dân mình. Qua nhiều học hỏi, tham khảo thì giờ đây những người đứng đầu các địa phương đều nhận ra ích lợi của việc nhân FDI từ bên ngoài để tạo công ăn việc làm và thu nhập cho công dân họ. Bằng những hình thức như xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, ban hành luật lệ ưu đãi đầu tư, khuyến khích hợp tác bên trong – bên ngoài, tiếp thị môi trường đầu tư v.v… để thông tin và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào địa phương mình. Có 3 hình thức khuyến khích chính thường được áp dụng: + Ưu đãi về pháp lý: đặc biệt là về hệ thống thuế ưu đãi để thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như cho phép khấu hao đặc biệt, tín dụng về thuế, những hướng dẫn về chi phí, không đánh thuế những ngày nghỉ, giảm thuế chi tiêu bắt buộc đối với nhà đầu tư nước ngoài v.v… + Khuyến khích về tài chính: cung cấp đến các nhà đầu tư những chính sách đặc biệt về đất đai, nhà xưởng, những khoản cho vay, ưu đãi thuế thu nhập… + Những khuyến khích khác: chẳng hạn như sự bảo đảm về bao tiêu sản phẩm của chính quyền địa phương, bảo vệ quyền lợi cạnh tranh hợp pháp thông qua các quy định ưu đãi về thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, công bố công khai những chính sách đầu tư của địa phương, cung ứng những điều kiện về cơ sở vật chất tốt nhất phục vụ đầu tư… SỰ NHÌN NHẬN VỀ CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ngày nay, rất nhiều chính phủ hay các cá nhân địa phương thực hiện khuyến khích nhiều nhà đầu tư nước ngoài mang tài chính, các kinh nghiệm hoạt động kinh doanh, chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý mới vào quốc gia hay lãnh thổ của mình. Từ đó, nó sẽ làm khuấy động nên nhiều trào lưu chuyển giao mới tiếp theo hay có nhiều sự lựa chọn thị trường, sự cạnh tranh mới và năng lực cạnh tranh được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, có một thực tế nhìn nhận tiêu cực khác về sự có mặt của những nhà đầu tư nước ngoài. Đó là, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ chú tâm thiết lập khai thác những lợi ích riêng của họ và cuối cùng sự ra đi của họ cũng sẽ mang hết chúng theo. Và, thường những công ty hay tập đoàn đa quốc gia bị buộc tội là bòn rút những tài nguyên qúy giá từ các quốc gia, chẳng hạn như họ tuyển dụng những tài năng kiệt xuất nhất từ các công ty nội địa sang làm việc cho họ, tình trạng này thường được gọi là “chảy máu chất xám” (Brain drain). Rõ ràng rằng, dù thiện cảm hay không thiện cảm về cách nhìn nhận các nhà đầu tư nước ngoài thì mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với các nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải tồn tại. Nhưng thực tế là, một khi quy mô của công ty lớn lên hay nguồn vốn tiếp tế cho hoạt động đầu tư tăng trưởng thì người hưởng lợi cuối cùng vẫn là nền kinh tế địa phương. Bởi vì các hoạt động của các công ty hay tập đoàn đa quốc gia gia tăng tại địa phương sẽ góp phần tăng thêm những hiểu biết, cách ứng thích ứng, học tập kinh nghiệm từ những công ty này của những chuyên gia địa phương, hay của chính quyền và cả những người lao động. Hơn nữa, sứ mệnh của nhiều công ty hay tập đoàn đa quốc gia hiện nay được xem là chuẩn mực của những phương thức quản lý điều hành, tầm nhìn chiến lược, sự mở rộng hợp tác, tinh thần trách nhiệm, sự suy nghĩ dài hạn, sự trung thực, bằng chứng thành công trên toàn cầu… mà các công ty hay tập đoàn địa phương, chính quyền địa phương nên học hỏi. Chính vì vậy, sự hơn thua giữa các địa phương được đo lường bằng sự tranh thủ khai thác các nhà đầu tư nước ngoài đến đâu mà thôi. Những hình thức sở hữu Sự khác nhau giữa các hình thức sở hữu trong quá trình thực hiện FDI tuỳ thuộc vào sự khác nhau về mục tiêu, tầm nhìn, mức độ hợp tác, về khả năng kiểm soát, khả năng hoạch định và thực hiện cũng như các rủi ro có thể tính toán được ở từng thị trường, địa phương cụ thể. Sở hữu toàn phần: Đối với hầu hết các công ty hay tập đoàn có ý định đầu tư ra nước ngoài thì, trong suy nghĩ và quyết định ban đầu của họ lúc nào cũng là việc sẽ thực hiện sỡ hữu 100% vốn đầu tư. Bởi vì họ cho rằng khó có thể có được đối tác nào có thể hiểu và cùng thực hiện được các ý định cũng như kế hoạch hoạt động của công ty mình. Để có thể quyết định quy mô sở hữu đến đâu, Ban quản trị công ty hay tập đoàn cần phải có sự đánh giá chuẩn xác về quy mô, mục tiêu, mức độ quan trọng cũng như các hoạt động marketing quốc tế cần thiết mà có thể nằm trong tầm kiểm soát. Thông thường thì hình thức sở hữu toàn phần không cần thiết đối cho sự thành công trên trường quốc tế, nó chỉ có thể sử dụng một khi có sự liên kết chặt chẽ giữa nội bộ công ty hay tập đoàn, nói cách khác là khi tiến hành mở chi nhánh hay công ty con. Liên doanh: Liên doanh là một hình thức hợp tác của 2 hay nhiều tổ chức, công ty trong một thời gian có quy ức. Trong hình thức hợp tác này, các bên tham gia sẽ chia sẻ với nhau về vốn, tài sản, rủi ro và lợi nhuận theo quy ước. Sự bình đẳng giữa các bên là không đồng nhất, có những liên doanh mà mỗi đối tác nắm giữ sự sở hữu công ty ngang nhau, nhưng cũng có những liên doanh khác thì sẽ có 1 bên chi phối quyền lực mạnh hơn. Về hình thức đóng góp với nhau cũng rất đa dạng, có bên thì góp vốn hay công nghệ, hay bí quyết hay phương thức quản lý, đội ngũ bán hàng, hay đất đai, nhà xưởng và cũng có thể là những thiết bị, xe cộ v.v… µ Lợi ích của Liên doanh: Quan hệ tốt với chính quyền địa phương: hình thức liên doanh sẽ giúp nhà đầu tư nước ngoài có khả năng vượt qua những trở ngại nhất định của những rào cản, sự hạn chế, các quy định, luật lệ của chính quyền địa phương. Hơn nữa, nhà đầu tư nước ngoài sẽ có cơ hội duy trì và mở rộng khai thác các cơ hội do thị trường đem lại từ các đối tác địa phương, dễ dàng tạo điều kiện xây dựng mối quan hệ tốt với chính quyền. Kết hợp tốt các mục tiêu kinh doanh thông thường, hạn chế việc thống trị hay độc quyền sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Đây là hình thức khá cơ bản và phương tiện hữu hiệu nhất mà các nhà đầu tư quốc tế thực hiện. Làm tăng giá trị hoạt động của các bên tham gia khi cùng nhau đóng góp các nguồn lực hơn là mỗi bên tự ra sức khai thác nguồn lực riêng có của mình. Đặc biệt là các bên có những lợi thế riêng nhưng chúng có sự liên đới với nhau và sẽ hiệu quả hơn khi kết hợp lại với nhau. Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các đối tác địa phương, chính quyền, các cơ quan ban ngành và các tổ chức công đoàn lao động. Mối quan hệ này sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho liên doanh hoạt động hiệu quả. µ Bất lợi của Liên doanh: Dễ xảy ra tình trạng xung đột về quan điểm, lối quản trị, phương thức điều hành, chính sách tài chính, marketing, sản xuất, nhân sự v.v… giữa các bên đối tác tham gia. Từ đó dễ gây rạng nứt trong quan hệ giữa các bên. Có những bất đồng về phân chia lợi nhuận, công khai thông tin giữa các bên, sự kỳ vọng, lòng tin giữa các bên, những cam kết hay đơn giản là việc đề cử người điều hành sẽ như thế nào. Sự thống nhất trong việc thay đổi tỷ lệ góp vốn, số thành viên tham gia, hình thức góp vốn, những thay đổi trong quy định góp vốn, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa các bên… sẽ nảy sinh khá phức tạp trong quá trình vận hành và phát triển của hình thức này. Liên kết chiến lược: Liên minh chiến lược là hình thức có thể là chính thức hay không chính thức của những giao kèo, quy ước của 2 hay nhiều công ty hay tập đoàn với nhau trong một môi trường kinh doanh cụ thể nào đó. Ưu điểm lớn nhất của hình thức này là công việc của các bên vẫn tiến hành liên tục nhưng rất linh động bởi vì nó lệ thuộc vào kiểu hình thành, sự thống nhất điều chỉnh và cũng dễ tan rã một khi có điều kiện. Hình thức này thường thấy nhất là các bên cùng tham gia vào một dự án hay vì một mục tiêu trung và ngắn hạn nào đó. Ví dụ như, hãng Texas Instruments ký kết hợp đồng hợp tác với rất nhiều đối tác nổi tiếng như IBM, Hyundai, Fujitsu, Alcatel, Ericsson với các hợp đồng cụ thể như “Hợp đồng liên kết phát triển”, “Hợp đồng hỗ trợ về kỹ thuật”, “Hợp đồng thiết kế phát triển sản phẩm và trao đổi dữ liệu kỹ thuật” v.v… Một vài liên minh theo kiểu này nhằm mục tiêu hình thành một khối vững chắc hay để kết nạp thêm sức mạnh. Ví dụ như, hãng Caterpillar bắt tay với hãng công nghiệp nặng Mitsubishi ở Nhật Bản để chống chọi với đối thủ truyền kiếp Komatsu ngay tại thị trường nội địa của nước này. Khi tiến hành thực hiện hình thức này thì các bên cần phải đánh giá rất kỹ lưỡng mọi điều kiện, lợi ích, mục tiêu trước khi đi đến ký kết chính thức. Sự thành công của hình thức này là, các bên tham gia đã thực hiện kết hợp sức mạnh bổ sung hoàn hảo nhất cho nhau nhằm thoả mãn được mục tiêu cuối cùng của mình. Có những trường hợp các bên khác nhau hoàn toàn về cơ cấu sản phẩm, vùng địa lý hay sức mạnh chuyên môn nhưng vẫn có thể liên minh với nhau để gặt hái thành công trong những chiến lược mạo hiểm hay để khai phá một thị trường mới. Ví dụ: Tạo ra giá trị gia tăng từ sự kết hợp sức mạnh bổ sung ĐIỂM MẠNH CỦA BÊN THAM GIA ĐIỂM MẠNH CỦA BÊN THAM GIA MỤC TIÊU CỦA SỰ KẾT HỢP PEPSICo: các chiến lược marketing sản phẩm nước giải khát đóng lon + LIPTON: sự nhận thức sâu sắc của người tiêu dùng về nhãn hàng trà = Tung ra thị trường dòng sản phẩm nước trà giải khát đóng lon ướp lạnh PHILIPS: dẫn đầu về các dòng sản phẩm điện tử tiêu dùng có tính đột phá + LEVI STRAUSS: uy tín về thiết kế tạo mẫu thời trang và hệ thống phân phối tốt = Tạo ra sản phẩm thời trang dạo phố kết hợp hài hoà với các thiết bị điện tử thời trang KFC: thương hiệu được khẳng định, các cửa hàng quen thuộc và trình độ quản lý bậc cao + MITSUBISHI: kinh doanh bất động sản và lựa chọn vị trí chiến lược nhất Nhật Bản = Thiết lập chuỗi cửa hàng KFC hiệu quả tại Nhật Bản SIEMENS: tiêu biểu cho ngành kinh doanh sản phẩm truyền thông và công nghệ mạng toàn cầu + CORNING: dẫn đầu về công nghệ chế biến vật liệu bán dẫn và thuỷ tinh = Hình thành ngành kinh doanh dây cáp mạng với chất liệu bán dẫn đặc biệt ERICSSON: sức mạnh vượt trội về công nghệ trong hệ thống mạng truyền thông công cộng + HEWLETT-PACKARD: nổi tiếng về các sản phẩm máy tính, phần mềm và bán quyền sử dụng các kênh điện tử = Hình thành hệ thống quản trị mạng tiên tiến nhất NGUỒN: www.pepsico.com, www.kfc.com, www.corningcablesystems.com, www.ericsson.com, www.hp.com. “Portable technology takes the next step: Electronics you can ware”, The wall Street Journal, August 22, 2000, B1, B4; Joel Bleeke and David Ernst, “Is your strategic alliance really a sale?” Havard Business Review 73 (January – February 1995); 97 – 105; Melanie Wells, “Coca-Cola proclaims Nestea Time for CAA”, “Advertising Age, January 30, 1995. Tập đoàn chính phủ: Hình thức này thường thấy ở chỗ nhiều chính phủ muốn sử dụng tối ưu hoá các nguồn vốn của mình vào các hoạt động kinh doanh, sản xuất, hay có thể chính phủ đó muốn tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá trong một lĩnh vực cụ thể. Ví dụ, để làm giảm thiểu chi phí sản xuất thuốc quá cao và cũng để ngăn ngừa nhiều rủi ro trong việc nghiên cứu và phát hiện nhiều công thức mới, chính phủ các quốc gia như Mỹ, Nhật và một số nước trong cộng đồng châu Âu đã thiếp lập Tập đoàn nghiên cứu (hay Trung tâm nghiên cứu) do chính phủ đầu tư hoàn toàn. Kết quả là, nó đem lại lợi ích không chỉ cho chính phủ đó mà còn giúp khai thác rất hiệu quả các nguồn lực, tham gia điều tiết thị trường và dần hình thành nên những tập đoàn vươn rộng ra thế giới. NHỮNG DÀN XẾP THEO THOẢ ƯỚC Các công ty hay tập đoàn thường sử dụng hình thức này trong trường hợp hình thức này là tối ưu trong tất cả các lựa chọn, hay để làm phần bổ sung cho những hình thức đã thực hiện trước đó, hay do chính quyề địa phương quá khắt khe với các hình thức đầu tư sở hữu khác. Một thực thể khác của hình thức này là dạng Hợp đồng thuê làm bên ngoài (outsourcing), mà giúp cho chính công ty hay tập đoàn vừa có thể đồng thời tập trung phát triển thế mạnh riêng có của mình lại vừa có thể đạt được những mục tiêu về bán hàng, chiến lược marketing, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D)... Ví dụ như hãng General Motors (Mỹ) đặt mua khung xe và các linh kiện khác từ hãng Daewoo (Hàn Quốc). Hợp đồng quản lý. Thực hiện khi người chủ hợp đồng cung cấp cho khách hàng của mình những điều kiện về các dịch vụ hỗn hợp, trong đó họ sẽ không gánh trách nhiệm về rủi ro cũng như không can thiệp vào việc chia lợi nhuận có được.Tuỳ thuộc vào những ràng buộc đến đâu của hợp đồng mà dạng hợp đồng này sẽ hoạt động trong những điều kiện cho phép. Ví dụ, quy trình sản xuất của 1 công ty hay tập đoàn có thể phải ngừng hoạt động, trong khi đó hệ thống phân phối đang cần hàng của công ty vì vậy, Hợp đồng quản lý sẽ phục vụ việc duy trì sự hoạt động của công ty bằng cách cam kết chắc chắn rằng hệ thống phân phối phải gắn kết chặt chẽ với công ty và có sự kiểm soát từ công ty. Trong nhiều trường hợp, Hợp đồng quản lý là công cụ hữu hiệu cho công ty hay tập đoàn vượt qua những trở ngại trong quá trình thực hiện các hoạt động marketing toàn cầu, đặc biệt là trong những hoạt động như phân phối, chuyển giao công nghệ, bí quyết marketing, quan hệ khách hàng, liên kết đối tác toàn cầu… Hợp đồng chìa khoá trao tay. Đây là dạng thoả ước mà trong đó cho phép khách hàng quản lý hoàn toàn bộ máy vận hành cùng với việc cho phép hợp pháp sử dụng những kỹ thuật, kỹ năng đã được đầu tư. Từ đó, khách hàng có thể toàn quyền sử dụng và tự vận hành hệ thống sau khi hoàn thành hợp đồng. Hợp đồng này sẽ trao toàn bộ quyền hành về một phía, dễ dàng kiểm soát, đàm phán và tự giải trình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchapter 2.doc