Bài dự thi Tìm hiểu 75 năm ngày thành lập QĐNDVN và 30 năm ngày hội quốc phòng toàn dân - Nguyễn Thanh Lâm

Tài liệu Bài dự thi Tìm hiểu 75 năm ngày thành lập QĐNDVN và 30 năm ngày hội quốc phòng toàn dân - Nguyễn Thanh Lâm: MỤC LỤC Câu 1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào, ở đâu? do ai làm Đội trưởng và Chính trị viên đầu tiên? Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là gì? 4 Câu 2. Khái quát quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những chiến công nổi bật của Quânđội nhân dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay? 11 Câu 3. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta được biểu hiện như thế nào? 30 Câu 4: Ngày Hội Quốc phòng toàn dân được Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định vào ngày, tháng, năm nào? ý nghĩa của ngày Hội Quốc phòng toàn dân? 33 Câu 5: Đồng chí (anh, chị) hãy làm rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng? 36 Câu 6. Hãy nêu những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân được qui định trong Luật Quốc phòng năm 2018? 39 Câu 7. Nêu quyền và nghĩa vụ của công dân...

docx58 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 848 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài dự thi Tìm hiểu 75 năm ngày thành lập QĐNDVN và 30 năm ngày hội quốc phòng toàn dân - Nguyễn Thanh Lâm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Câu 1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào, ở đâu? do ai làm Đội trưởng và Chính trị viên đầu tiên? Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là gì? 4 Câu 2. Khái quát quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những chiến công nổi bật của Quânđội nhân dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay? 11 Câu 3. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta được biểu hiện như thế nào? 30 Câu 4: Ngày Hội Quốc phòng toàn dân được Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định vào ngày, tháng, năm nào? ý nghĩa của ngày Hội Quốc phòng toàn dân? 33 Câu 5: Đồng chí (anh, chị) hãy làm rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng? 36 Câu 6. Hãy nêu những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân được qui định trong Luật Quốc phòng năm 2018? 39 Câu 7. Nêu quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng; các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng, được quy định trong Luật Quốc phòng năm 2018? 42 Câu 8: Đồng chí (anh, chị) hãy trình bày hiểu biết về giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường theo Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013? 44 Câu 9: Đồng chí (anh, chị) hãy khái quát những điểm mới nổi bật trong Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015? 46 Câu 10. Đồng chí (anh, chị) trình bày về một trong những sáng kiến, mô hình tiêu biểu hoặc viết về gương nguời tốt, việc tốt ở cơ quan, đơn vị mình trong thực hiện ngày Hội Quốc phòng toàn dân (không quá 2000 từ)? 51 Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất được hình thành theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng; được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và rèn luyện để trưởng thành, mang bản chất giai cấp công nhân, là công cụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, cũng như Là Quân đội của dân, do dân và vì dân. Sự hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam đã trải qua các giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất để bảo vệ Tổ quốc giải phóng dân tộc và đạt được nhiều thành tựu khoa học trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Nhân ngày kỷ niệm “30 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam” toàn thể cán bộ, chiến sĩ đơn vị nhiệt liệt hưởng ứng cuộc thi viết tìm hiểu về Ngày Quốc phòng toàn dân và Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam theo kế hoạch của Cục chính trị Quân khu phát động. Qua đó cuộc thi đã đem lại nhiều điều bổ ích cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn Sư đoàn nhận thức trách nhiệm cao hơn vì bản thân được vinh dự là người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau đây tôi xin trả lời nội dung câu hỏi bài viết thi tìm hiểu “30 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam” như sau: Câu 1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào, ở đâu? do ai làm Đội trưởng và Chính trị viên đầu tiên? Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là gì? Chỉ thị thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân (Ảnh tư liệu) Để tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa, tháng 12 năm 1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được thành lập vào ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm lãnh đạo. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người, biên chế thành 3 tiểu đội, đồng chí Hoàng Sâm được giao làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được nhấn mạnh trong Chỉ thị là: “1. Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền..., nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực... 2. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung... Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”. Thực hiện Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”. Ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh thắng giòn giã liền hai trận: Phai Khắt (ngày 25/12) và Nà Ngần (26/12), mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta. Phai Khắt – Nà Ngần: Trận đầu đánh thắng QĐND Online - Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị, Đội xây dựng kế hoạch tổ chức một trận đánh để “cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của cả một dân tộc đang bị nô lệ, đang sục sôi ý chí vùng lên”, đồng thời “khắc phục tình hình thiếu vũ khí trang bị”[1]. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội thảo luận kỹ lưỡng để làm rõ vấn đề: Đánh vào đâu và đánh như thế nào, để chỉ với một lực lượng nhỏ nhưng có thể giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân sự, đồng thời hạn chế tổn thất về người và vũ khí của ta. Sau khi bàn bạc các phương án, Ban chỉ huy Đội quyết định “phải tập kích vào đồn trại của địch để chiếm lấy đạn dược”[2], mục tiêu là đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Do địa thế đồn Nà Ngần hiểm trở, nên Đội quyết định cải trang làm một toán lính dõng, lính khố đỏ áp giải ba Cộng sản Mán đến giao nộp cho quan đồn. Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh đồn Phai Khắt. Khoảng 7 giờ sáng ngày 26-12, đồng chí Thu Sơn cùng tổ xung phong dẫn ba cộng sản bị trói vào đồn cùng với lá cờ tam tài (Đội lấy được ở đồn Phai Khắt). Bọn lính tưởng thật vội bố trí 6 lính và tên cai ra xếp hàng đón theo nghi thức nhà binh. Sau khi cả Đội tiến vào đồn, theo kế hoạch đã phân công, bốn chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường để đánh lạc hướng. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, thu 27 súng và nhiều đạn. Trong trận này, đồng chí Nông Văn Bê bị thương nhẹ. Sau khi hạ đồn xong, Đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân, hai nữ đồng chí Cầm và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh Pháp, Nhật, cứu nước của Việt Minh, kêu gọi họ quay súng vào Pháp-Nhật để giành độc lập cho dân tộc. Sau khi được nghe chính sách của Việt Minh, một số tù binh xin đi theo cách mạng còn đa phần xin được trở về quê. Trong hai trận đánh đầu tiên, Đội sử dụng chiến thuật “tiến công bằng lối hoá trang kỳ tập (tập kích) đã mở đầu một cách xuất sắc trang sử chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam”[6]. Hoá trang kỳ tập là lối đánh tốn ít súng đạn, thương vong thấp song hiệu quả chiến đấu cao. Hai trận đánh đầu tiên, ngoài việc tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn, Đội còn thu được nhiều vũ khí, quân trang. Quan trọng nhất là Đội giành thắng lợi theo đúng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Trận đầu nhất định phải thắng lợi”[7]. Hình ảnh về trận Phai Khắc và trận Nà Ngần Ngoài việc vận dụng chiến thuật phù hợp, thắng lợi của hai trận đầu ra quân thể hiện một số nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là chọn mục tiêu và thời điểm tiến công phù hợp. Lực lượng ta tham gia trực tiếp đánh đồn chỉ có hơn 20 người, vũ khí thô sơ, cán bộ chưa được thử thách qua chiến đấu. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Đội đã chọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần là phù hợp. Ngoài ra, hai đồn nằm cách xa nhau và xa trung tâm chỉ huy của địch (châu lỵ Nguyên Bình), nên không thể chi viện kịp thời cho nhau. Trong khi đó, ta có điều kiện cả về thời gian và không gian giải quyết trọn vẹn trận đánh. Về thời cơ tiến công, ta chọn vào những lúc bất ngờ nhất đối với địch: Đánh đồn Phai Khắt chọn lúc chiều muộn (17 giờ) địch đang hoặc vừa ăn cơm chiều xong; đánh đồn Nà Ngần ta chọn lúc sáng sớm (7 giờ sáng) khi địch vừa ngủ dậy - đây là hai thời điểm  quân địch sơ hở, mất cảnh giác nhất. Cả hai đồn, ta đánh đúng lúc tên chỉ huy đi vắng nên đã triệt tiêu được yếu tố sắc sảo và tinh nhanh của địch. Ta đã giữ được yếu tố bí mật từ đầu đến cuối, từ lên kế hoạch tác chiến, tổ chức hành quân, triển khai lực lượng đến thực hành tiêu diệt mục tiêu, làm cho địch không kịp phản ứng. Ngoài ra, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân còn có sự chuẩn bị chu đáo cho trận đánh về huấn luyện và hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng tự vệ địa phương. Để nắm địch, Đội đã biết tận dụng tai mắt quần chúng cung cấp đầy đủ những thông tin mới nhất về địch. Bởi vậy, khi thực hành tiến công đồn, ta diễn làm cho quân địch không một chút nghi ngờ. Hai trận Phai Khắt và Nà Ngần “chính là hai ngôi sao sáng soi tỏ lối đi cho đội quân du kích trên con đường chiến đấu đầy gian lao, nguy hiểm”. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, đánh dấu sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam - một tổ chức quân sự mới của dân tộc Việt Nam. Kể từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, quân đội ta phát triển nhanh chóng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm nòng cốt trong đấu tranh vũ trang của toàn dân, hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị của quần chúng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Chú thích: [1] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử chiến thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), tập I, Nxb QĐND, H. 2003, tr. 43, 44. [2] Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H.1994, tr.129.  [3]Đồn Phai Khắt thuộc địa bàn xã Tam Lọng (nay là xã Tam Kim - Nguyên Bình - Cao Bằng), quân số của đồn có 21 tên lính dõng chủ yếu là người Nùng và Mán, do tên cai người Pháp - Simônô chỉ huy.  [4]Nhân lúc tên đồn trưởng đi vắng, 4 tên lính đã trốn về thăm nhà.  [5]Nay là xã Hoa Thám (Nguyên Bình). Đồn Nà Ngần có 22 lính khổ đỏ, do 2 sĩ quan Pháp chỉ huy.  [6]Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử chiến thuật quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), tập I, Sđd,  tr.52. [7]Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb QĐND, H. 1994, tr.125. Câu 2. Khái quát quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những chiếu công nổi bật của Quânđội nhân dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay? Để đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang trên cả nước (hợp nhất đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác), thành lập Việt Nam giải phóng quân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (năm 1946), đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22 tháng 12 năm 1944 được lấy làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Thời cơ đến nhân dân Việt Nam vùng dậy giành tự do, độc lập đã đến. Sau khi phân tích tình hình, Trung ương Đảng quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Quân đội ta làm nòng cốt cùng toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Trong năm đầu xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân, quân đội ta vừa xây dựng, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, cùng toàn dân thực hiện tốt nhiệm vụ chống giặc ngoài, thù trong, góp phần bảo vệ vững chắc chính quyền nhân dân, xứng đáng là công cụ bạo lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia toàn quốc kháng chiến, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp (1946-1947); đánh bại âm mưu “bình định” và “phản công” của địch (1948-1952); giành thắng lợi trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1953-1975), Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” (1954- 1960); chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965- 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1972) của đế quôc Mỹ; tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay), Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng sang một giai đoạn mới; cùng toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia. Được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, quân đội ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, thật sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, có những đóng góp xứng đáng vào thành tựu chung của đất nước trong hơn 30 năm đổi mới. Quân đội đã thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng; xử lý kịp thời có hiệu quả các tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên địa bàn cả nước. Chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quôc trong tinh hình mới. Chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, xây dựng lòng tin chiến lược, thúc đẩy xu thế hòa bình hợp tác trong khu vực và trên thế giới. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong lình tình hình mới. 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta đã cùng với toàn dân vượt qua những chặng đường đầy gian lao thử thách, giành thắng lợi vẻ vang, không ngừng lớn mạnh trưởng thành, cùng toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả với những chiến công nổi bật đó là: Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã cải trang dùng mưu tập kích diệt đồn Phai Khắt. Tiếp đó, ngày 26 tháng 12 năm 1944 Đội đánh tiêu diệt đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15km về phía đông bắc). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1912-1946) với linh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, các chiến sĩ vệ quốc quân, tự vệ và nhân dân Thủ đô chiến đấu đánh địch rất dũng cảm. Nhiều trận đánh quyết liệt đã diễn ra ở Bắc Bộ Phủ, nhà ga, cầu Long Biên, chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch; làm phá sản chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ cơ quan lãnh đạo và căn cứ địa kháng chiến. Chiến thắng Việt Bắc năm 1947 (từ 7-10 đến 20-12-1947): Bộ đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947 Chiến thắng Biên Giới năm 1950 (từ 16-9 đến 14-10-1950): Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đ/c Uỷ viên BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp bàn về tình hình chiến sự của chiến dịch Biên Giới năm 1950. (Từ trái qua phải: Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp). Quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10 tiểu đoàn địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh; giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), mở thông giao lưu quốc tế. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 (từ 13-3 đến 7-5-1954): Ngày 7-5-1954, toàn bộ Tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt đầy hy sinh, gian khổ kéo dài suốt 9 năm. Ảnh tư liệu. Quân và dân ta tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương. Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ ở miền Bắc (7/2/1965 - 1/11/1968): Quân và dân miền Bắc bắn rơi 3.243 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt kích... buộc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc (ngày 01 tháng 11 năm 1968). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã giành thắng lợi vô cùng to lớn như: Chiến thắng Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965) theo QĐND Online - Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới để đánh bại Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã không chỉ đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân chủ lực miền Nam mà còn góp phần phát triển nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trực thăng và bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh tư liệu. Đầu năm 1964, trên chiến trường miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị cùng với hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang địa phương đã làm thất bại một bước quan trọng quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc; kế hoạch Xtalây-Taylo phá sản hoàn toàn. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, từ tháng 3-1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch mới, Kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1964- 1965 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chiến dịch. Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ đêm 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965, được chia thành 2 đợt: đợt 1: từ ngày 2 đến 17 tháng 12 năm 1964; đợt 2, từ 27 tháng 12 năm 1964 đến 3 tháng 1 năm 1965. Một lính Mỹ bò qua ruộng lúa để thoát khỏi tầm bắn của quân Giải phóng. Ảnh tư liệu. Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về chiến thuật, đặc biệt là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi” để điều viện binh địch. Việc chọn điểm “khơi ngòi” vào “ấp chiến lược” Bình Giã là một quyết định sáng suốt của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, bởi vì “ấp chiến lược” Bình Giã là một vị trí có giá trị cả về quân sự và chính trị; là một mắt xích trong hệ thống phòng thủ phía đông Sài Gòn. “Ấp chiến lược” Bình Giã được chính quyền Sài Gòn coi là ấp “kiểu mẫu”, vì ở đây tập trung phần lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa cùng phần đông giáo dân bị địch lợi dụng chống phá ta. Vì vậy, khi ta đánh ấp Bình Giã, địch sẽ phản ứng ngay bằng cả đường bộ và đường không. Mặt khác, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn “ấp chiến lược” Bình Giã phù hợp với trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực lúc đó. Nếu như chọn chi khu Xuyên Mộc làm điểm khơi ngòi của chiến dịch thì ta hoàn toàn bất lợi, bởi vì ở đó địch xây dựng công sự vững chắc, mà trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn hạn chế, nên khó chiếm được chi khu để kéo địch ra tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến của chiến dịch đúng như nhận định và kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Khi “ấp chiến lược” Bình Giã bị tấn công, địch đã vội vã điều quân đến ứng cứu trong thế bị động, lúng túng. Ngược lại, lực lượng ta chủ động chặn đầu, khóa đuôi, bao vây, chia cắt, đánh cả phía trước, phía sau, bên sườn, đánh địch cả trên không, mặt đất tiến tới tiêu diệt gọn từng bộ phận. Ngoài việc tập trung lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu thì Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã phát động nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ, giải phóng đất đai. Chiến dịch Bình Giã tuy nhỏ, với quy mô liên trung đoàn, nhưng có ý nghĩa lớn về chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, có nghệ thuật đặc trưng, đó là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”, một cách đánh độc đáo và sáng tạo của quân chủ lực miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã để lại những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho chiến dịch sau này trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Chiến thắng Núi Thành (26/5/1965) Đồng chí Nguyễn Chí Thanh (thứ hai từ trái qua) trực tiếp chỉ đạo trận Núi Thành (Quảng Nam), tháng 5/1965 - Ảnh Tư liệu BTLSQSVN. Ngày 7/5/1965, Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Mỹ đổ bộ vào Chu Lai. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã đưa vào đây 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo 105 ly, một đại đội pháo 155 ly, 2 đại đội xe bọc thép M113 và M118, một đại đội pháo tự hành, 5 phi đoàn máy bay trực thăng, 1 phi đoàn máy bay phản lực tiêm kích. Chúng tiến hành khủng bố, đuổi dân 2 xã Kỳ Liên, Kỳ Hà (nay là 2 xã Tam Quang và Tam Nghĩa – Núi Thành) đi nơi khác, lấy đất xây dựng căn cứ Chu Lai, đồng thời triển khai lực lượng chiến đấu, mở nhiều cuộc càn quét nhằm tạo vành đai bảo vệ căn cứ này. Ngày 17/5/1965, một đại đội Mỹ lên đóng ở Núi Thành – một cụm đồi có chiều dài 1.200m, rộng 600m, cao 50m, cách bờ biển khoảng 6km, cách sân bay Chu Lai 4km. Núi Thành gồm 2 ngọn đồi 49 và 50 được nối ở giữa một khu yên ngựa dài 200m. Chúng thiết lập hệ thống hầm ngầm, công sự kiên cố, bên ngoài bao bọc những hàng rào thép gai bùng nhùng. Từ căn cứ này có thể quan sát toàn bộ sân bay Chu Lai ra đến biển, vào tận Dốc Sỏi (ranh giới Nam - Ngãi). Để mở đầu cho việc phát động phong trào đánh Mỹ trong toàn khu, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định chọn Núi Thành làm điểm đột phá đầu tiên, và giao cho Tỉnh đội Quảng Nam nhiệm vụ vinh quang này. Cựu chiến binh Đại đội 2 bên lá cờ “Núi Thành oanh liệt, quyết chiến lập công” sau chiến thắng Núi Thành (tháng 5/1965) được trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh Quân khu 5 - Ảnh Hồng Vân. Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 70 Tỉnh đội Quảng Nam được giao nghiên cứu tổ chức trận đánh. Ngày 25/5/1965, phương án tác chiến được trình lên cấp trên và được chấp thuận. Sau khi điều tra, trinh sát đã hoàn tất, 18 giờ, ngày 25/5/1965, Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 70 và 12 chiến sĩ đặc công thuộc Đại đội đặc công 16 xuất kích. Dựa vào địa hình che khuất, các tổ ba người bí mật luồn sâu, áp sát, đảm bảo mũi tiến công của quân ta đều tiếp cận các mục tiêu an toàn. Đúng 0 giờ 30 phút ngày 26/5/1965, các hướng đồng loạt khai hỏa, dùng lựu pháo, thủ pháo đánh chiếm công sự vòng ngoài rồi phát triển vào trong, tấn công phủ đầu quân Mỹ. Sau ít phút bị bất ngờ, hoảng loạn, địch tổ chức chống trả quyết liệt. Quân ta tăng cường lực lượng dự bị vào diệt thêm một số rồi kết thúc trận đánh lúc 0 giờ 50 phút. Chỉ trong gần 30 phút giao tranh, quân ta đã chiếm lĩnh cả hai ngọn đồi 49 và 50, tiêu diệt gần hết đại đội địch. Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng quân Mỹ xâm lược” được cắm lên trên đỉnh đồi báo tin vui toàn thắng. Toàn bộ đại đội Mỹ bị diệt gọn. Trận Núi Thành quy mô không lớn, nhưng có ý nghĩa là trận phát động tinh thần dám đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược trên toàn miền Nam. Sau trận Núi Thành xuất hiện khẩu hiệu hành động “Tìm Mỹ mà diệt, gặp Mỹ là đánh”. Với chiến công vang dội này, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua miền Nam năm 1968 do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh quân giải phóng Miền tổ chức, quân và dân Quảng Nam- Đà Nẵng được tặng lá cờ thêu 8 chữ vàng “Trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”, mở đầu thời kỳ mới của cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam. Chiến thắng Vạn Tường (18 - 19/8/1965) Lực lượng trinh sát của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng quân ở vùng căn cứ Chu Lai, phát hiện có đơn vị quân giải phóng đóng tại thôn Vạn Tường, (xã Bình Hải, huyện Bình Sơn), cách căn cứ Chu Lai khoảng 17km về phía Đông Nam. Mỹ coi đây là thời cơ lý tưởng cho cuộc xuất quân “tìm diệt” có quy mô lớn đầu tiên với sự phối hợp hải, lục, không quân và phát huy tối đa ưu thế binh hoả lực và phương tiện chiến tranh tối tân của quân đội MỹVì thế Bộ Tư lệnh lính thuỷ đánh bộ Mỹ quyết định mở cuộc hành quân mang tên “Ánh sáng sao” với sự tham gia của 8.000 quân Mỹ, 70 máy bay chiến đấu, 150 máy bay lên thẳng, 6 tàu đổ bộ, 5 pháo hạm và gần 50 khẩu pháo các loại cùng hàng trăm xe tăng, xe bọc thép hòng bao vây tiêu diệt bộ đội chủ lực ta ở Vạn Tường. Sơ đồ trận Vạn Tường hè năm 1965 (ảnh Báo Quảng Ngãi). Đêm 17/8/1965, hơn chục tàu chiến Mỹ từ ngoài khơi liên tục bắn đại bác vào thôn Vạn Tường và các cao điểm xung quanh. Sáng 18/8/1965, sau các đợt pháo kích và ném bom dữ dội, lực lượng lớn quân Mỹ gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 6 tàu đổ bộ và pháo hạm cùng hàng trăm máy bay chiến đấu ồ ạt từ 4 hướng tiến quân vào Vạn Tường với âm mưu tiêu diệt toàn bộ lực lượng của ta trong thời gian ngắn nhất. Nhưng ảo tưởng ấy của quân địch bị phá sản hoàn toàn bởi Trung đoàn 1 cùng với quân dân Vạn Tường đã bày sẵn kế hoạch và phương án sẵn sàng chiến đấu.Trước tình hình đó, toàn đơn vị thuộc Trung đoàn 1 đã bình tĩnh phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích đánh trả quân địch. Kế hoạch tác chiến của Trung đoàn là cản chậm bước tiến của các cánh quân Mỹ hướng Bắc và Đông Nam, tập trung lực lượng ở hướng Tây Nam dựa vào các hầm sâu và các vị trí chiến đấu ngụy trang kín đáo để diệt cánh quân đổ bộ bằng đường không. Từ chỗ bị bất ngờ, ta đã giành được thế chủ động tiến công. Các mũi tiến công của quân địch đều vấp phải hệ thống bãi mìn, hố chông, vật cản khiến đội hình địch bị dồn ứ và bị bộ đội ta vận động tới đánh hoặc dùng hỏa lực tiêu diệt.Trận đánh kéo dài đến chiều tốì ngày 18, địch bị đánh thiệt hại 4 đại đội. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ chẳng những không hợp điểm được tại thôn Vạn Tường theo ý định ban đầu, mà còn có nguy cơ bị sa lầy, bị diệt lớn. Hải quân Mỹ pháo kích dữ dội hòng làm giảm áp lực của ta và dùng máy bay lên thẳng chở lực lượng dự bị từ hạm đội đang đậu ngoài khơi đổ xuống Vạn Tường. Ta tiếp tục tiến công cho đến khi màn đêm buông xuống thì trận đánh kết thúc. Suốt một ngày đêm chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, quân và dân Quảng Ngãi đã phối hợp nhịp nhàng với Trung đoàn 1, Đại đội 31 địa phương và lực lượng dân quân du kích các xã Bình Phú, Bình Trị, Bình Hoà, Bình Hải đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân lớn mang tên “Ánh sáng sao” của Mỹ. Quân ta tiêu diệt 919 lính Mỹ; bắn cháy 22 xe tăng, xe bọc thép; bắn rơi 13 máy bay và phá hủy hoàn toàn nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Đây là đòn đánh phủ đầu giáng đòn chí tử vào lính thuỷ đánh bộ Mỹ, một binh chủng được xem là thiện chiến, tối tân của quân đội Mỹ lúc bấy giờ. Chiến thắng Vạn Tường có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là mốc son chói lọi phản ánh khí thế cách mạng tiến công, sự mưu trí, kiên cường, dũng cảm, tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân Quảng Ngãi với bộ đội chủ lực Quân khu 5. Nếu như chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho cao trào diệt ngụy, thì chiến thắng Vạn Tường lịch sử mở đầu cho cao trào diệt Mỹ. Chiến thắng Vạn Tường khẳng định quân và dân ta có khả năng đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lăng, dù chúng có thể đông quân, hùng hậu về vũ khí trang bị và khả năng cơ động nhanh. Chiến thắng Plây Me (19/10 - 26/11/1965) QĐND - Nhằm phối hợp với các chiến trường trên toàn miền Nam tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ để củng cố, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng niềm tin đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ, đầu tháng 10-1965, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) quyết định mở Chiến dịch Plei-me. Chiến dịch được chuẩn bị chu đáo, diễn ra từ ngày 19-10 đến 26-11-1965, thể hiện cuộc đấu trí, đấu lực hết sức quyết liệt, căng thẳng giữa ta và địch. Nét đặc sắc đánh dấu bước phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch, nổi bật là lập thế trận ta, phá thế địch, tạo ưu thế trong các trận then chốt chiến dịch. Thực tiễn của Chiến dịch Plei-me về lập thế trận trước hết là việc bố trí, triển khai lực lượng phù hợp với từng trận đánh. Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh giá địch bố phòng trên địa bàn chiến dịch (từ Bầu Cạn - Plei-me đến Đức Cơ - Ia Đrăng thuộc tỉnh Gia Lai), Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng, bố trí lực lượng gồm: Trung đoàn 33 (thiếu 1 tiểu đoàn) được tăng cường 1 đại đội súng máy phòng không 12,7mm làm nhiệm vụ bao vây đồn Plei-me; Trung đoàn 320 tập trung đánh phục kích địch trên Đường 21; Trung đoàn 66 được tăng cường 1 tiểu đoàn (thuộc Trung đoàn 33) bố trí đánh địch phản kích ở khu vực Chư Pông; Tiểu đoàn Pháo binh 200 đánh nghi binh ở Đức Cơ, Tiểu đoàn Đặc công 952 và 1 đại đội bộ đội địa phương huyện 5 đánh nghi binh ở Tân Lạc; lực lượng vũ trang các tỉnh Gia Lai, Kon Tum phối hợp hoạt động đánh phá giao thông các đường 19, 14. Với cách bố trí lực lượng như vậy, ta đã tạo được thế trận chiến dịch phù hợp trong từng trận đánh, khiến cho địch bị bất ngờ. Chúng không biết ta có những lực lượng nào, triển khai ở đâu, chuẩn bị tiến công vào hướng, mũi nào để chuẩn bị đối phó. Quân Mỹ đổ bộ xuống thung lũng Ia Đrăng trong Chiến dịch Plei-me năm 1965. Ảnh tư liệu. Phát huy thắng lợi, ngày 17-11-1965, hai trung đoàn 66 và 33 được lệnh tiến đánh Lữ đoàn 3 (Sư đoàn Kỵ binh bay 1 Mỹ) ở thung lũng Ia Đrăng (nay thuộc huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai). Sau 4 ngày chiến đấu (từ ngày 14 đến 17-11-1965), bằng 4 trận đánh liên tiếp, ta tiêu diệt Tiểu đoàn 2 và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 quân Mỹ. Thắng lợi của trận Ia Đrăng cũng là trận then chốt quyết định thể hiện mưu hay của ta là lừa địch, kế giỏi của ta là dụ quân Mỹ vào đúng khu vực quyết chiến điểm mà ta chuẩn bị. Với lối đánh bất ngờ, thọc sâu, chia cắt, đánh gần theo tinh thần “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”, ta đã làm cho quân Mỹ không phát huy được ưu thế về không quân, pháo binh và sức cơ động, khiến Mỹ ở vào thế bị động, bất lợi. Trong khi đó, bộ đội ta được chuẩn bị chu đáo về thế trận nên giữ được quyền chủ động tiến công tiêu diệt địch, giành thắng lợi to lớn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 QĐND Online - Cách đây vừa tròn nửa thế kỷ, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hưởng ứng lời hiệu triệu của Bộ Thống soái tối cao, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, đặc biệt là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, các thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay và căn cứ hậu cần của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Với ý nghĩa to lớn đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử quan trọng và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại. Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2-9-1945) cho đến trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với tinh thần anh dũng, kiên cường, lập nhiều chiến công xuất sắc, từng bước đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đặc biệt, trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964), bằng đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, nhân dân Việt Nam từng bước đẩy đế quốc Mỹ vào thế bị động, không còn giữ được ưu thế trên chiến trường miền Nam. Máy bay vận tải C.119 của Mỹ ở Sân bay Tân Sơn Nhất bị quân Giải phóng phá hủy (tháng 2-1968). Ảnh: Tư liệu TTXVN. Thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ - một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch là rất quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương mới tạo được chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật thuộc về nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là lần đầu tiên trong lịch sử Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, quân Mỹ bị đánh bại bởi một dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đồng thời đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị - tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Không còn sự lựa chọn nào khác, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Chiến thắng chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (30/1 - 23/3/1971) Biểu tượng của tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam – Lào QĐND Online - Đầu năm 1971, sau hai năm triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn gặp phải nhiều khó khăn to lớn. Với âm mưu tạo ra bước ngoặt mới cho cuộc chiến tranh, địch huy động lực lượng mở ba cuộc hành quân lớn đánh vào tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn của ta, trong đó, cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh vào khu vực Đường 9 Nam Lào có quy mô lớn nhất nhằm mục đích cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của đối phương và thử nghiệm hiệu lực của công thức: Quân đội Việt Nam cộng hòa cộng cố vấn Mỹ cộng hỏa lực và hậu cần Mỹ. Thực hiện âm mưu trên, địch đã huy động lực lượng lên tới 42.000 quân, lúc cao nhất đạt mức 55.000 quân (có 15.000 quân Mỹ), bao gồm 3 sư đoàn với tổng số 47 tiểu đoàn bộ binh, 460 xe tăng, xe bọc thép, 280 khẩu pháo, 600 máy bay. Ngoài ra, còn có 9 tiểu đoàn thuộc hai binh đoàn cơ động (GM 30 và GM 33) quân phái hữu Lào ở phía tây đánh sang. Cuộc hành quân được sự hỗ trợ tối đa của pháo binh và không quân Mỹ. Trên cơ sở lường định và đánh giá chính xác âm mưu của đối phương, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch ở Đường số 9 - Nam Lào với quyết tâm phải đánh thắng trận này, dù có phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào. Lực lượng Việt-Lào tham gia chiến dịch gồm có: 5 sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, 2); 4 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp (177, 197, 241, 491); 4 trung đoàn pháo binh (368, 38, 45, 84); 4 trung đoàn phòng không (230, 237, 241, 491); 3 trung đoàn công binh (7, 83, 219), một số tiểu đoàn đặc công của Bộ; một số lực lượng chiến đấu tại chỗ của Đoàn 559; Mặt trận B4, B5; một số tiểu đoàn, đại đội độc lập chủ lực Bộ và địa phương Quân giải phóng nhân dân Lào. Địa bàn chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào có chiều dài khoảng 90km (từ Đông Hà, Quảng Trị đến Sê-pôn, Xa-va-na-khẹt), rộng khoảng 60km (từ Mường Trương đến Mường Noòng), chủ yếu là rừng, đồi, núi trống trải. Sinh sống ở đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc miền Tây Bắc tỉnh Quảng Trị và nhân dân các bộ tộc Lào ở phía Tây Đường 9, vốn có truyền thống yêu nước, đoàn kết chiến đấu chống Mỹ xâm lược, một lòng hướng theo cách mạng. Thực hiện quyết tâm của trên, đồng bào các dân tộc Việt-Lào không quản mưa rừng, thác lũ, ngày đêm sát cánh cùng với các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong bạt núi, mở đường, truy bắt lực lượng thám báo địch bảo vệ sự an toàn và bí mật ý định chiến lược của ta; tích cực tham gia xây dựng các trận địa bắn máy bay và vận chuyển các loại vũ khí, đạn dược, hàng hóa khác vào các vị trí tập kết chiến dịch đúng kế hoạch. Từ ngày 30-1 đến 7-2-1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã điều động một bộ phận lớn binh lực ra vùng I chiến thuật; tổ chức hành quân chiếm lĩnh các địa bàn làm căn cứ xuất phát tiến công (Đông Hà, Ái Tử, Khe Sanh...); thực hiện nhiều hoạt động nghi binh chiến lược. Ngày 8-2-1971, một số đơn vị đối phương tổ chức vượt biên giới, tiến về phía khu vực Đường 9 - Nam Lào. Hàng chục trận địa pháo với hàng trăm khẩu bố trí dọc biên giới Việt Nam và Lào đồng loạt đánh phá dữ dội các mục tiêu, hỗ trợ cho các cánh quân bộ binh tiến công. Dựa vào thế trận đã bố trí sẵn sàng, liên quân Việt Nam - Lào kiên cường giáng trả quyết liệt các mũi tiến công của địch; đẩy lui và làm chậm bước tiến quân của chúng; tập trung lực lượng và hỏa lực tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch ở các điểm cao 316, 456, 500, 543. Từ ngày 12-2 đến 3-3-1971, đồng bào các dân tộc Việt-Lào trên địa bàn chiến dịch đã tích cực tham gia phục vụ chiến đấu và chiến đấu, dẫn đường cho các đơn vị chủ lực, đặc công Việt Nam đánh vào sở chỉ huy địch, diệt gọn các cụm cứ điểm then chốt trên điểm cao 500 và 543, đập tan cuộc phản kích lớn của lữ đoàn dù số 3 và trung đoàn thiết giáp số 17 của quân đội Việt Nam cộng hòa, bẻ gãy cánh quân ở phía bắc Đường 9, chặn đứng các mũi tiến công của đối phương. Ngày 13-3-1971, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch được lệnh gấp rút chuyển từ phản công sang tiến công trên toàn tuyến, đánh vào đội hình hành quân của địch. Đến ngày 23-3-1971, trải qua hơn 50 ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt, được sự ủng hộ, phối hợp chiến đấu hiệu quả của quân dân các bộ tộc Lào, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào đã kết thúc thắng lợi với 21.102 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, bắn rơi và phá hủy 556 máy bay, phá hủy và bắn chìm 43 tàu và xà lan, phá hủy 1.138 xe cơ giới, 112 khẩu pháo và súng cối hạng nặng. Những thắng lợi to lớn này đã tác động mạnh mẽ đến cục diện chung chiến trường ba nước Đông Dương, đánh bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và “mở ra những triển vọng vô cùng tốt đẹp đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến toàn thắng”; đồng thời, tô thắm thêm tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam và Lào, như đồng chí Đồng Sĩ Nguyên - nguyên Tư lệnh Đoàn 559 đã nói: “Trong cuộc chiến này, khi mà đối phương huy động tối đa sức mạnh tổng lực hòng xóa con đường Trường Sơn; khi mà biết bao đồng chí, đồng bào ngã xuống, nằm lại vĩnh viễn với những đồi lau xơ xác, những bìa rừng khuất nẻo... vì sự sống của con đường, vì sự toàn thắng của chiến dịch, nếu như ai đó thi vị hóa hết thảy sẽ là tội lỗi. Nhưng nếu không tìm thấy cội nguồn chiến thắng từ những bước chân nhún nhảy của những chàng trai, cô gái Pa Cô trên đường tải đạn, trong âm vang réo rắt tiếng đàn ta lư, hay điệu lăm vông của những nam nữ chiến sĩ Quân giải phóng Lào sau từng trận đánh...thì cũng khó lý giải hết tầm thế của chiến công này...và vì sao ta chiến thắng!”. Thời gian có thể xóa mờ dấu chân các đoàn quân tham gia chiến dịch năm xưa nhưng nơi đại ngàn sâu thẳm ấy mãi còn lưu giữ những ký ức đẹp đẽ về tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân dân hai nước Việt Nam - Lào. Lịch sử bước sang trang, quân dân Việt - Lào vẫn tiếp tục đóng góp công sức vào việc tìm kiếm, bảo quản hài cốt những cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống vì nền hòa bình của hai dân tộc. Đâu phải chỉ trong bom đạn ác liệt của chiến tranh, tình đoàn kết quân dân thắm thiết của hai dân tộc Việt – Lào mới được bộc lộ. Quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (6/4/1972 - 15/1/1973); Một lần nữa, quân và dân miền Bắc anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của địch, làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam vào ngày 27 tháng 01 năm 1973. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 (từ 26 đến 30-4-1975): 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc Lập, đánh dấu thời điểm lịch sử thiêng liêng: Sài Gòn được giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Từ khi nước nhà thống nhất, quân và dân ta đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những thành tích, chiến công, sự trưởng thành lớn mạnh của quân đội ta trong hơn 70 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo tài tình của Đảng và công ơn giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Câu 3. Mục tiêu, lý tưỏng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta được biểu hiện như thế nào? Là công cụ bạo lực của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp công nhân và lợi ích của dân tộc, của nhân dân: Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngoài mục tiêu, lý tưởng đó. quân đội ta không có mục tiêu, lý tưởng nào khác. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh sâu sắc, tập trung nhất bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội ta; khác về bản chất so với mục tiêu chiến đấu của quân đội tư sản là nhằm thực hiện đường lối đối nội, đối ngoại phản động của giai câp bóc lột, chống lại nhân dân lao động trong nước và xâm lược, nô dịch các dân tộc khác. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội được cụ thể hóa thành nhiệm vụ chính trị của Quân đội trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; là định hướng chính trị cho nhận thức và hành động, đồng thời là động lực thúc đẩy mọi cán bộ, chiến sĩ phấn đấu, rèn luyện, xây dựng ý chí, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau: Kiên quyết, kiên trì thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến dấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tích cực, chủ động đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch phủ nhận mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Quân đội ta có ba chức năng cơ bản: Một là, chức năng đội quân chiến đấu - là chức năng cơ bản, chủ yếu, phản ánh bản chất cách mạng, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta, đồng thời là chức năng nổi trội phản ánh tính chất hoạt động quân sự. Hai là, chức năng đội quân công tác - là chức năng cơ bản, quan trọng thuộc về bản chất, truyền thống của Quân đội ta. Ba là, chức năng đội quân lao động sản xuất - là chức năng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, thuộc về bàn chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, vừa chiến đấu vừa sản xuất góp phần nâng cao đời sống bộ đội. Hiện nay, quân đội ta có 5 nhiệm vụ cơ bản: Một là, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Hai là huấn luyện, xây dựng Quân đội, đơn vị vững mạnh toàn diện. Ba là, tích cực tham gia lao động sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống bộ đội. Bốn là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Năm là, củng cố, xây dựng và phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị với nhân dân và quân đội các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Thực hành bắn đạn thật trong diễn tập DBĐV ở đơn vị, tăng gia sản xuất ở đơn vị Câu 4: Ngày Hội Quốc phòng toàn dân được Ban Bí thư Trung Đảng quyết định vào ngày, tháng, năm nào? ý nghĩa của ngày Hội Quốc phòng toàn dân? Ngày 17 tháng 10 năm 1989, Ban Bí thư Trung trong Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy ngày 22 tháng 12 - ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam là ngày Hội Quốc phòng toàn dân. Ý nghĩa của ngày Hội Quốc phòng toàn dân: Là ngày Hội của truyền thống bảo vệ Tổ quốc, ngày Hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Ngày hội Quốc phòng toàn dân cũng là dịp để phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, đất nước đã phải chống chọi với nhiều kẻ thù xâm lược. Vì thế, dựng nước được cha ông ta gắn kết chặt chẽ với giữ nước và coi giữ nước mới là khó, là quan trọng. Cũng xuất phát từ thực tiễn sự nghiệp giữ nước, cha ông ta đúc kết: Mọi của cải, mọi lực lượng dùng vào việc giữ nước đều ở trong dân, đều từ nơi dân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng lòng chung sức vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh để đánh thắng hai đế quốc to, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, chúng ta càng khẳng định chủ trương, đường lối QPTD của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, cần phải tiếp tục được củng cố, phát huy trong mọi thời đại. Sự hiện hữu về sức mạnh của một nền QPTD chính là nhân lực, vật lực huy động được từ trong nhân dân để phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là tinh thần dám xả thân, hy sinh tính mạng, của cải vật chất của mỗi người dân; khả năng tập trung nguồn lực, sức mạnh của cả quốc gia để ứng phó khi có chiến tranh xảy ra. Do đó, tiềm lực quốc phòng, sức mạnh của nền QPTD không thể xây dựng trong ngày một ngày hai, mà nó phải được tiến hành bền bỉ, tích cực, chủ động qua nhiều năm tháng. Trong đó, điều cốt lõi nhất là xây dựng và duy trì tiềm lực chính trị, tinh thần cho nền QPTD, bởi đây chính là cơ sở để tạo ra lực lượng phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng. Giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP) của Đảng. Phải làm cho mỗi người dân Việt Nam luôn nhận thức rõ việc giữ nước, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy Quân đội nhân dân làm nòng cốt, từ đó xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mình trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Ảnh minh họa/baochinhphu.vn Câu 5: Đồng chí (anh, chị) hãy làm rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng? Mục tiêu trọng yếu về quốc phòng, an ninh trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng ta theo hướng toàn diện, sâu sắc hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải quán triệt sâu sắc và cụ thể hoá, triển khai thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 147) xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc vừa là đòi hỏi khách quan của chính sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới, vừa là kết quả tổng kết về lý luận và thực tiển bảo vệ Tổ quốc dưới lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn, mà trước hết là trong 30 năm đổi mới. Tư duy mới của Đảng về mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc hiện nay được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, Đảng ta xác định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc cần phải “Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên tri đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Thứ hai, mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đã được khái quát hoá cao và theo đó nội hàm bảo vệ Tổ quốc được mở rộng đầy đủ toàn diện và thể hiện rõ mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất hơn. Thứ ba, Đảng ta xác định, trong mục tiêu trọng yếu của quốc phòng an ninh bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì “giữ vững môi trường hoà binh, ổn định chính tri an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” là lợi ích cao nhất của Tổ quốc Để thực hiện thắng lợi mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nêu cao trách nhiệm quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đã được Đại hội XII của Đảng xác định. Trong đó, cần tập trung mọi nổ lực để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Câu 6. Hãy nêu nhũng nội dung cơ bản xây dụng nền quốc phòng toàn dân được qui định trong Luật Quốc phòng năm 2018? Điều 7, Luật Quốc phòng năm 2018 qui định: “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”. Đồng thời, qui định nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm: 1. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kế hoạch phòng thù đất nước; nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và hệ thống chính trị vững mạnh; 2. Xây dựng thực lực, tiềm lực quốc phòng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao, làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc; 3. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, khoa học, công nghệ quân sự; huy dộng tiềm lực khoa học, công nghệ của Nhà nước và Nhân dân phục vụ quốc phòng; ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ quân sự phù hợp để xây dựng đất nước; 4. Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm nhu cầu dự trữ quốc gia cho quốc phòng; chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm dộng viên quốc phòng; 5. Xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ vững chắc toàn diện, hợp thành phòng thủ đất nước; củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng vùng chiến lược, trọng điểm, biển, đảo, khu vực biên giới, địa bàn xung yếu; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong phạm vi cả nước; 6. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng; 7. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, biện pháp phòng thủ dân sự trong phạm vi cả nước; 8. Đối ngoại quốc phòng; 9. Kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại; 10 . Xây dựng và bảo đảm chế độ, chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân, thân nhân của người phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân; 11. Tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quốc phòng; thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh. Câu 7. Nêu quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng; các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng, được quy định trong Luât Quốc phòng năm 2018? Điều 5, Luật Quốc phòng 2018 qui định về quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng như sau: 1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2. Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; có nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; chấp hành biện pháp của Nhà nước và người có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. 3. Công dân được tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về quốc phòng; giáo dục quốc phòng và an ninh; trang bị kiến thức, kỷ năng về phòng thủ dân sự theo quy định của pháp luật. 4. Công dân phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân hoặc được huy động làm nhiệm vụ quốc phòng thì bản thân và thân nhân được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. 5. Công dân bình đẳng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều 6, Luật Quốc phòng năm 2018 qui định các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng như sau: 6. Chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 7. Thành lập, tham gia, tài trợ tổ chức vũ trang trái pháp luật. 8. Điều động, sử dụng người, vũ khi, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện để tiến hành hoạt động vũ trang khi chưa có lệnh hoặc quyết định của cấp có thẩm quyền hoặc không có trong kế hoạch huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu đã được phê duyệt. 9. Chống lại hoặc cản trở cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. 10. Lợi dụng, lạm dụng việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 11. Phân biệt đối xử về giới trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Câu 8: Đồng chí (anh, chị) hãy trình bày hiểu biết về giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường theo Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013? Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh qui định về giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường như sau: Đối với Trường tiểu học, trung học cơ sở: Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường tiểu học, trung học cơ sở được thực hiện lồng ghép thông qua nội dung các môn học trong chương trình, kết hợp với hoạt động ngoại khóa phù hợp với lứa tuổi. Bảo đảm cho học sinh hình thành những cơ sở hiểu biết ban đầu về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, lực lượng vũ trang nhân dân; ý thức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Đối với trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề: Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề là môn học chính khóa. Bảo đảm cho học sinh có hiểu biết ban đầu về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc, lực lượng vũ trang nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam; có kiến thức cơ bản, cần thiết về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự; sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc. Đối với Trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học: Giáo dục quốc phòng và an ninh trong các nhà trường cao đẳng nghề, cơ sờ giáo dục đại học là môn học chính khóa. Bảo đảm cho người học có kiến thức cơ bản về quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về quốc phòng và an ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lựợng vũ trang nhân dân; bổ sung kiến thức về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự; sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức dạy và học tập trung tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh hoặc trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học. Trong chương trình đào tạo, căn cứ vào điều kiện cụ thể phối hợp với cơ quan, Tổ chức, đơn vị liên quan tổ chức cho người học nghiên cứu, học tập ngoại khóa với nội dung và hình thức thích hợp. Câu 9 : Đồng chí (anh, chị) hãy khái quát những điếm mới nổi bật trong Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015? Căn cứ pháp lý: Luật nghĩa vụ quân sự 2015; Nghị định 120/2013/NĐ-CP; Bộ luật hình sự 1999. Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 (số 78/2015/QH13), có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, có những điểm mới nổi bật đó là: Các hành vi bị nghiêm cấm: Trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự; Đã phạt tiền về việc trốn tránh NVQS mà còn tái phạm: sẽ xử lý hình sự. Không có mặt đúng thời gian, địa điểm kiểm tra khám sức khỏe ghi trong giấy gọi kiểm tra, khám sức khỏe NVQS mà không có lý do chính đáng bị phạt tiền từ 800.000 - 1.200.000 đồng. Nguời khám sức khỏe làm sai lệch kết quả phân loại nhằm trốn tránh NVQS, hối lộ tiền hay lợi ích vật chất khác để làm sai lệch kết quả phân loại sức khỏe NVQS, cán bộ, nhân viên y tế làm sai lệch yếu tố về sức khỏe bị phạt tiền từ 2 - 4 triệu đồng. Không có mặt đúng thời gian, địa điểm tập trung ghi trong lệnh gọi nhập ngũ mà không có lý do chính đáng bị phạt tiền từ 1.5 - 2.5 triệu đồng. Đã bị phạt tiền mà còn tái phạm, đối với công dân vi phạm sẽ bị phạt tù 3 tháng đến 5 năm tùy theo mức độ vi phạm. Đối với cán bộ nếu đã bị phạt tiền mà còn tái phạm thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm tùy theo mức độ vi phạm. Chống đối, cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự; Gian dối trong khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái qui định về nghĩa vụ quân sự; sử dụng hạ sĩ quan, binh sĩ trái qui định của pháp luật; Xâm phạm thân thể, sức khỏe; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của hạ sĩ quan, binh sĩ. Công dân thuộc một trong các trường hợp sau đây không được đăng ký nghĩa vụ quân sự: Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, quản chế hoặc đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích; đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã hoặc đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bẳt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối tượng miễn dăng ký nghĩa vụ quân sự: Người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh tâm thần hoặc bệnh nhân mãn tính theo qui định của pháp luật. Thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ là 24 tháng. Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ được tính từ ngày giao, nhận quân; trong trường hợp không giao nhận quân tập trung thì tính từ ngày đơn vị Quân đội nhân dân tiếp nhận đến khi được cấp có thẩm quyền quyết định xuất ngũ. Thời gian đào ngũ, thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam không được tính vào thời gian phục vụ tại ngũ. Công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi. Hàng năm, gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân một lần vào tháng hai hoặc tháng ba. Trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh thì được gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân lần thứ hai. Ngoài ra Tham gia nghĩa vụ công an được xem là tham gia NVQS. Công dân được công nhận hoàn thành NVQS tại ngũ trong thời bình khi thuộc một trong các trường hợp: Dân quân tự vệ (DQTV) nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV, trong đó có ít nhất 12 tháng làm nhiệm vụ DQTV thường trực. Hoàn thành nhiệm vụ tham gia Công an xã liên tục từ đủ 36 tháng trở lên. Cán bộ, công chức, viên chức, sinh viên tốt nghiệp Đại học trở lên, đã được đào tạo và phong quân hàm sĩ quan dự bị. Thanh niên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp tình nguyện phục vụ tại đoàn kinh tế - quốc phòng từ đủ 24 tháng trở lên theo Đề án do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Công dân phục vụ trên tàu kiểm ngư từ đủ 24 tháng trở lên. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây: Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe; là lao dộng duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đinh bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%; có anh, chị hoặc em một là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân; người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước do ủy ban nhân dân cấp tinh trờ lên quyết định cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều dộng đến công tác làm việc ờ vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khỏ khăn theo qui định của Pháp luật; đang học tại cơ sờ giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính qui thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính qui thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo. Miễn gọi nhập ngũ với những công dân sau đây: Con liệt sĩ, con của thương binh hạng một; một anh hoặc một em trai của liệt sĩ; một con của thương binh hạng hai; một con của thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; một con của người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người làm công tác cơ yếu không phải là quân nhân, Công an nhân dân; cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo qui định của pháp luật từ 24 tháng trở lên. Công dân đang làm việc tại cơ quan, tổ chức trong thời gian thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, khám, kiểm tra sức khỏe nghĩa vụ quân sự thì được trả nguyên lương, tiền tàu xe và các khoản phụ cấp hiện hưởng; công dân đến đăng ký nghĩa vụ quân sự, khám, kiểm tra sức khỏe được bảo đảm chế độ ăn, ờ trong thời gian thực hiện đăng ký, khám, kiểm tra sức khỏe, tiền tàu xe đi, về. Câu 10 : Đồng chí (anh, chị) trình bày về một trong những sáng kiến, mô hình tiêu biểu hoặc viết về gương nguời tốt, việc tốt ở cơ quan, đơn vị mình trong thực hiện ngày Hội Quốc phòng toàn dân (không quá 2000 từ)? Tại mảnh đất được phong danh hiệu “Trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”, anh sinh ra và lớn lên ở Núi Thành, đồng chí Ngô Tấn Nghĩa, công tác tại Ban Tham mưu, chức vụ Trợ lý tác huấn Trung đoàn 142; đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ nhiều năm liền được Đảng ủy Sư đoàn, Trung đoàn phong tặng nhiều bằng khen, giấy khen trong đó có nhiều năm đạt “Chiến sĩ thi đua” cấp cơ sở. Các đợt thi đua trong đó có Chỉ thị số 788-CT/QUTW ngày 26/12/2013 của Quân ủy Trung ương về việc phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”; hưởng ứng phát động của Hội đồng thi đua khen thưởng các cấp, trong 3 năm qua (Từ năm 2014 đến năm 2016). Đồng chí đã nổ lực cố gắng để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, phát huy bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Từ năm 2014 đến nay, đồng chí lần lượt được giữ các chức vụ Đại đội trưởng/Tiểu đoàn BB4, Trợ lý Tác huấn Trung đoàn 142. Điều kiện đơn vị cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ, đơn vị thay đổi vị trí đóng quân mới nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả và chất lượng công việc. Tuy nhiên, bản thân đồng chí luôn cố gắng khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Kết quả đạt được cụ thể như sau: Trên cương vị Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn BB4, bên cạnh nhiệm vụ phúc tra, đăng ký, quản lý QNDB; đồng chí được Đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn giao lâm thời công tác trên nhiều cương vị khác nhau như: Trợ lý Tham mưu, Đại đội trưởng khung Tiểu đoàn huấn luyện CSM; Trung đội trưởng, Phó Đại đội trưởng huấn luyện các phân đội QNDB thuộc Trung đoàn và một số nhiệm vụ đột xuất khác. Nhận thức rõ nhiệm vụ đăng ký, phúc tra quản lý, huấn luyện sẵn sàng động viên QNDB là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị; huấn luyện chiến sĩ mới là nhiệm vụ thường xuyên mà chỉ huy các cấp tin tưởng giao phó. Được sự giúp đỡ của chỉ huy, tập thể cán bộ, chiến sỹ đơn vị, các thế hệ đàn anh đi trước; với sự nhiệt tình, tâm huyết xây dựng Quân đội, xây dựng đơn vị, đồng chí đã không ngừng học tập vươn lên; luôn chủ động, tích cực trong công tác, nhiệt tình, trách nhiệm trong mọi hoạt động của đơn vị. Phát huy tinh thần học hỏi, tự lực khắc phục khó khăn; xây dựng tác phong sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, huấn luyện các đối tượng; từng bước nâng cao kiến thức trong công tác huấn luyện, quản lý, chỉ huy đơn vị. Vì vậy, qua thời gian tham gia huấn luyện các đối tượng, đơn vị đều hoàn thành tốt nội dung chương trình, chấp hành nghiêm kỷ luật, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Cuối tháng tháng 7 năm 2015, đồng chí được điều động đảm nhiệm chức vụ Trợ lý Tác huấn Trung đoàn. Cương vị chức trách mới, yêu cầu nhiệm vụ cao hơn; đồng chí đã phải càng nổ lực, không ngừng nghiên cứu tài liệu, học hỏi kinh nghiệm thực tế để vận dụng thực hiện tốt chức trách được giao. Thực hiện chức trách tham mưu cho người chỉ huy ban hành các mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, duy trì đơn vị thực hiện nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật. Đồng chí luôn tuân thủ tuyệt đối nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, chủ động liên hệ với các ngành, làm tốt công tác tham mưu đề xuất với người chỉ huy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác SSCĐ, huấn luyện, xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật; phát huy tốt vai trò trong công tác tổng hợp, báo cáo. Trong năm 2015, 2016 đồng chí đã kịp thời tham mưu cho cơ quan và người chỉ huy xây dựng hoàn chỉnh hệ thống văn kiện tác chiến đúng quy định. Năm 2016, ngoài nhiệm vụ thường xuyên, Trung đoàn BB142 được Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu, Sư đoàn giao tiếp nhận, quản lý đào tạo 392 học viên Tiểu đội trưởng BB; làm công tác chuẩn bị phục vụ Bộ Quốc phòng tham quan theo Kế hoạch Tổng kết thực hiện Chỉ thị 48/CT-BQP về “Tăng cường củng cố tổ chức, xây dựng đơn vị khung thường trực VMTD”. Nội dung công việc khá nhiều, tuy vậy đồng chí đã xác định đây vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm của đơn vị khi được cấp trên tin tưởng giao cho mình. Đồng chí đã tham mưu cho người chỉ huy ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ huấn luyện và làm công tác chuẩn bị bảo đảm phục vụ tham quan, đơn vị được chỉ huy các cấp đánh giá có nhiều nổ lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài ra, đồng chí được giao nhiệm vụ trực tiếp bảo đảm MHHC, vật chất huấn luyện cho các đơn vị thuộc Trung đoàn, cơ sở vật chất của đơn vị có mặt hạn chế, đơn vị phải bảo đảm vật chất phục vụ huấn luyện cho nhiều đối tượng khác nhau, quân số biến động, lực lượng công tác mỏng. Để thực hiện tốt công tác bảo đảm MHHC, vật chất cho các đơn vị huấn luyện, đồng chí đã luôn tích cực chủ động trong công việc, sắp xếp công việc một cách khoa học; vì vậy, từ năm 2015 đến nay, MHHC, vật chất huấn luyện bảo đảm cho các đơn vị đều kịp thời, đáp ứng đầy đủ nhu cầu. Trong năm 2016, qua kiểm tra công tác chuẩn bị huấn luyện đối với Trung đoàn của Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu, Trung đoàn được Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu đánh giá cao và biểu dương về công tác tham mưu ngành tác chiến. Trên các cương vị công tác, đồng chí không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao tính tiền phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ và chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, xây dựng mối đoàn kết thương yêu giúp đỡ đồng chí, đồng đội. Thực hiện tốt công tác vận động quần chúng nhân dân thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước. Với kết quả đã đạt được đồng chí được Trung đoàn tặng nhiều giấy khen, được Sư đoàn tặng thưởng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” 02 năm liền (năm 2015, 2016). Đồng chí luôn quán triệt mọi nhiệm vụ cho mình một cách chặt chẽ, phục vụ đơn vị chu đáo và luôn tìm tòi nghiên cứu học tập cấp trên đó là: 1. Là người cán bộ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trước hết phải xây dựng lập trường tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lành mạnh. Lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo đánh giá năng lực, thực tiễn công tác của bản thân. 2. Phải nêu cao tính tự học, tự rèn; luôn chủ động làm tốt công tác chuẩn bị, nghiên cứu tìm tòi học hỏi kinh nghiệm, nắm chắc nội dung. 3. Phải có ý chí niềm tin, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, không chùng bước trước những khó khăn thử thách. 4. Phải tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của quần chúng, của tập thể, hết lòng nhiệt tình trách nhiệm trong công việc. Đoàn kết thương yêu đồng chí, đồng đội. 5. Bản thân phải có lối sống trong sạch lành mạnh, gương mẫu trong lời nói và việc làm, sống giản dị, hòa đồng với mọi người, không tự cao, tự đại. Đặc biệt phải khiêm tốn trong cuộc sống, trong công việc; lắng nghe ý kiến chỉ bảo của cấp trên và ý kiến đóng góp của cấp dưới, đồng chí, đồng đội. Đồng chí xứng đáng là một tấm gương sáng mà cán bộ các cơ quan, đơn vị trong toàn Sư đoàn và Trung đoàn noi theo và cần nhân lên những gương sáng như vậy để mỗi chúng ta ngày càng xứng danh là bộ đội của dân, được nhân dân tin yêu gọi với cái tên triều mến là “anh bộ đội cụ Hồ”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx2152625-927-bai_thi_tim_hieu_22_12_6076_2152823.docx
Tài liệu liên quan