Tài liệu Áp dụng phương pháp vntr – miru nh kiểu gene các chủng mycobacterium tuberculosis phân lập tại Việt Nam: ~ 1 ~
………………………………………………………………………………………………….
LỜI MỞ ĐẦU
Y văn nhân loại đã ghi nhận sự tồn tại của bệnh lao từ thời cổ đại, lịch sử
bệnh lao là lịch sử ghi lại những thách thức trong khoa học và y khoa. Bệnh lao
vẫn đang là vấn đề nhức nhối cho sức khoẻ từng cá nhân và cộng đồng. Theo
thống kê của WHO, hằng năm trên thế giới trung bình 8 triệu người bệnh lao
mới được phát hiện, trong số đó 2 đến 3 triệu người chết vì lao. Năm 1993, WHO
tuyên bố lao là vấn đề cấp bách trên toàn cầu. Cùng với HIV và sốt rét, lao là một
trong những nguồn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất. Lao thật sự là gánh nặng y
tế ở những nước đang phát triển, nhất là trong tình hình các chủng mycobacteria
kháng thuốc trị lao ngày càng nhiều. Nhiều bệnh nhân lao mắc thêm HIV và
nhiều bệnh nhân HIV nhiễm thêm bệnh cơ hội như lao; khi số lượng tế bào
CD4 giảm từ 500 đến 250/mm3, nguy cơ nhiễm lao tăng từ 10 đến 30 lần (23).
Chính tình hình cấp bách này đòi hỏi cộng đồng thế giới tìm ra chiến l...
3 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng phương pháp vntr – miru nh kiểu gene các chủng mycobacterium tuberculosis phân lập tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
~ 1 ~
………………………………………………………………………………………………….
LỜI MỞ ĐẦU
Y văn nhân loại đã ghi nhận sự tồn tại của bệnh lao từ thời cổ đại, lịch sử
bệnh lao là lịch sử ghi lại những thách thức trong khoa học và y khoa. Bệnh lao
vẫn đang là vấn đề nhức nhối cho sức khoẻ từng cá nhân và cộng đồng. Theo
thống kê của WHO, hằng năm trên thế giới trung bình 8 triệu người bệnh lao
mới được phát hiện, trong số đó 2 đến 3 triệu người chết vì lao. Năm 1993, WHO
tuyên bố lao là vấn đề cấp bách trên toàn cầu. Cùng với HIV và sốt rét, lao là một
trong những nguồn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất. Lao thật sự là gánh nặng y
tế ở những nước đang phát triển, nhất là trong tình hình các chủng mycobacteria
kháng thuốc trị lao ngày càng nhiều. Nhiều bệnh nhân lao mắc thêm HIV và
nhiều bệnh nhân HIV nhiễm thêm bệnh cơ hội như lao; khi số lượng tế bào
CD4 giảm từ 500 đến 250/mm3, nguy cơ nhiễm lao tăng từ 10 đến 30 lần (23).
Chính tình hình cấp bách này đòi hỏi cộng đồng thế giới tìm ra chiến lược phòng
chống lao đồng bộ và hiệu quả hơn.
Bệnh lao là do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra. Từ sự phổ biến
của một chủng lao ở Bắc Kinh (Trung Quốc), chủng lao ở New York có liên hệ
mật thiết với kháng đa thuốc, vi khuẩn lao kiểu gene Beijing đã thu hút sự chú ý
trong giới nghiên cứu khoa học cận lâm sàng.
Số liệu thống kê cho thấy kiểu gene Beijing (chiếm 37% trong tổng số mẫu vi
khuẩn phân lập tại Việt Nam) có thể có liên hệ với tính kháng thuốc (14), có thể là
nhân tố góp phần vào tỉ lệ kháng thuốc cao trong thời gian dài, mặc dù Chương trình
chống lao Quốc gia của Việt Nam đã được thiết lập và đưa vào hoạt động tốt từ vài
thập kỉ qua. Kiểu gene Việt Nam, một kiểu gene trong nhóm Indo-Oceanic, chiếm
khoảng 20% tổng số mẫu, không thể được phân biệt rạch ròi bằng các kỹ thuật định
kiểu gene đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
Kĩ thuật IS6110 – RFLP được sử dụng như kĩ thuật chuẩn định kiểu gene
M.tuberculosis, nhưng không thể phân biệt các kiểu gene trong dòng Indo-Oceanic
do bản chất những M.tb kiểu gene này có ít các bản sao IS6110. Spoligotyping là kĩ
thuật định kiểu gene nhanh, đơn giản nhưng không thể phân biệt các chủng trong họ
~ 2 ~
………………………………………………………………………………………………….
Beijing. Như vậy cần có sự tìm tòi, áp dụng và phát triển một kĩ thuật có khả năng
phân giải tốt để phân biệt các chủng vi khuẩn lao có nguồn gốc châu Á này.
Kĩ thuật VNTR áp dụng trên 31 loci cho thấy một số dấu ấn sinh học có mức
độ đa hình cao trên quần thể Nhật Bản (tổng số mẫu trong quần thể là 235 chủng,
trong đó có 185 chủng là kiểu gene Beijing) (17), cho thấy khả năng áp dụng như kĩ
thuật để phân tách kiểu gene trong tập hợp chủ yếu gồm họ Beijing và kiểu gene địa
phương Việt Nam.
Chiến lược lâu dài cho sự áp dụng và phát triển các kĩ thuật định kiểu gene
phân tách chủng vi khuẩn lao có nguồn gốc châu Á: Trên 450 mẫu lâm sàng đã thu
nhận được tại Tp Hồ Chí Minh, kĩ thuật VNTR – MIRU trên 31 loci được tối ưu hoá
các điều kiện thí nghiệm như nhiệt độ bắt cặp, nồng độ mồi… Từ những thông tin đó,
nhận diện những loci mang tính đa hình cao và áp dụng lên tập hợp mẫu lớn thu thập
từ Chương trình chống lao Quốc gia được thu nhận theo chiến lược phân tầng rồi bốc
ngẫu nhiên, rút ra 100 mẫu tiêu biểu đại diện toàn bộ tập hợp mẫu cho dự án giải toàn
bộ bộ gene.
Mục tiêu đề tài
Một phần trong chiến lược lâu dài đó, phạm vi luận văn để giải quyết việc áp
dụng kĩ thuật VNTR - MIRU với 31 loci trên 95 mẫu đại diện đầu tiên trong tập hợp
mẫu thu nhận được tại Tp HCM để hoàn thiện phương pháp trong điều kiện áp dụng
phòng thí nghiệm tại địa phương, loại bỏ những loci không có tính đa dạng, tìm kiếm
những loci cho thông tin ổn định mà vẫn mang tính phân biệt giữa các chủng trong
họ Beijing và Việt Nam:
- Tiến hành tối ưu hoá 31 PCR với các bộ mồi gắn màu
- Điều chỉnh các điều kiện điện di mao quản trên hệ thống máy DNA
analyzer Applied Biosystems Inc. 3130xl
- Thiết lập qui trình xử lí thông tin bằng phần mềm GeneMapper v3.0
- Phân tích độ tương đồng kiểu gene giữa các chủng bằng phần mềm
BioNumerics v4.0 (Applied Maths, Belgium)
~ 3 ~
………………………………………………………………………………………………….
- Đánh giá độ đa dạng allele trên từng vị trí loci theo chỉ tiêu PIC, khả năng
phân biệt các chủng theo chỉ tiêu HGI bằng các cách phối hợp loci khác
nhau.
- Kết luận những loci, những cách kết hợp loci nào đủ khả năng để phát triển
nghiên cứu trên một diện mẫu lớn hơn, có tính đại diện và đa dạng cao hơn
Tính cấp thiết, ý nghĩa lí luận, và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu này đóng góp vào quá trình tìm hiểu sinh bệnh học phân
tử và cơ chế gây độc do vi khuẩn lao M.tuberculosis. Trước đây vài thập kỉ người ta
cho rằng vi khuẩn lao rất đồng nhất về mặt di truyền học, những kết quả phân tích
kiểu gene bằng phương pháp VNTR – MIRU cho thấy việc phân biệt kiểu gene M.tb
là vấn đề hoàn toàn khả thi. Nghiên cứu tại phòng thí nghiệm sinh học phân tử bệnh
viện lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch cho thấy mối liên hệ giữa tính kháng thuốc
và sự nhiễm phổ biến ở các thanh niên 15-24 tuổi(8). Việc áp dụng phương pháp định
kiểu gene sẽ giúp phân tách các nhóm nhỏ có thể có mối liên hệ nhân quả với những
độc tính này, tạo thuận lợi cho các nghiên cứu cơ bản xa hơn. Các chủng vi khuẩn lao
thường được nhắc đến như BCG (chủng được sử dụng làm ra vaccine), H37Rv
(chủng vi khuẩn lao thường được dùng như chủng chứng trong phòng thí nghiệm)
đều có kiểu gene nguồn gốc châu Âu. Trong khi đó, các M.tb kiểu gene Beijing gần
đây cho thấy có mối liên hệ với độc tính cao lại có kiểu gene nguồn gốc châu Á. Việc
phân giải tốt M.tb kiểu gene Beijing là nền tảng cho việc hiểu rõ đáp ứng vaccine với
việc ngăn ngừa nhiễm các loại kiểu gene gây bệnh khác nhau. Bên cạnh đó, các
nghiên cứu sự tương tác giữa kiểu gene vật chủ và kiểu gene tác nhân gây bệnh đòi
hỏi độ phân giải chi tiết kiểu gene M.tb nhờ phương pháp VNTR - MIRU.