Tài liệu Áp dụng phương pháp dạy học theo dự án trong giảng dạy tiếng pháp tại Đại học Đà Nẵng: 34 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
LÊ THỊ TRÂM ANH*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng, lttanh@ufl.udn.vn
Ngày nhận bài: 27/6/2019; ngày sửa chữa: 12/8/2019; ngày duyệt đăng: 20/8/2019
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng
trong đề tài có mã số B2017-ĐN05-06
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp dạy học theo dự án (DHDA) là
một trong những phương pháp dạy học tích cực
được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh lợi ích của
phương pháp này, đặc biệt là ở các nước có nền
giáo dục phát triển. Trong những năm cuối thế kỷ
XX và đầu thế kỷ XXI, có thể kể đến các công
trình của Boutinet (1990), Bordallo & Ginestet
(1993), Boaler (1997), Diehl, Grobe, Lopez &
Cabral (1999), Perrenoud (2002), Proulx (2004),
Huber (2005),.... Ở Việt Nam, tuy được triển
khai áp dụng chưa lâu và mức độ ảnh hưởng của
phương pháp này trong các trường học nhìn chung
chưa đ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng phương pháp dạy học theo dự án trong giảng dạy tiếng pháp tại Đại học Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
LÊ THỊ TRÂM ANH*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng, lttanh@ufl.udn.vn
Ngày nhận bài: 27/6/2019; ngày sửa chữa: 12/8/2019; ngày duyệt đăng: 20/8/2019
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng
trong đề tài có mã số B2017-ĐN05-06
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp dạy học theo dự án (DHDA) là
một trong những phương pháp dạy học tích cực
được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh lợi ích của
phương pháp này, đặc biệt là ở các nước có nền
giáo dục phát triển. Trong những năm cuối thế kỷ
XX và đầu thế kỷ XXI, có thể kể đến các công
trình của Boutinet (1990), Bordallo & Ginestet
(1993), Boaler (1997), Diehl, Grobe, Lopez &
Cabral (1999), Perrenoud (2002), Proulx (2004),
Huber (2005),.... Ở Việt Nam, tuy được triển
khai áp dụng chưa lâu và mức độ ảnh hưởng của
phương pháp này trong các trường học nhìn chung
chưa đáng kể, nhưng DHDA đã mang lại những
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THEO DỰ ÁN TRONG GIẢNG DẠY
TIẾNG PHÁP TẠI ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TÓM TẮT
Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm. Đây là một
hình thức làm việc vừa có tính hợp tác, vừa có tính thực tiễn cao, cho phép người học phát huy
được tính năng động, khả năng sáng tạo cũng như sự tự chủ trong học tập. Bài viết này trình bày
một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về phương pháp dạy học theo dự án: khái niệm, ưu điểm,
cách tiến hành. Bài báo cũng giới thiệu một số hoạt động dạy học tiếng Pháp đã thực nghiệm theo
phương pháp này tại Đại học Đà Nẵng.
Từ khóa: cách tiến hành, dạy học theo dự án, ưu điểm, lớp tiếng Pháp, người học
hiệu quả vô cùng thiết thực và được người dạy và
người học tiếp cận một cách hứng thú. Quả vậy,
phương pháp DHDA là một hình thức dạy-học rất
tích cực, lấy người học làm trung tâm. Phương
pháp này giúp cho người học phát triển kiến thức
và kỹ năng của mình thông qua quá trình giải quyết
một bài tập tình huống gắn với thực tiễn, hiện thực
hóa những kiến thức đã học trong quá trình tạo ra
sản phẩm của chính mình. Có thể nói, DHDA là
một phương pháp góp phần gắn lý thuyết với thực
hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội,
đóng góp tích cực vào việc phát triển năng lực và
phẩm chất người học.
Chúng tôi thiết nghĩ việc vận dụng một cách
hợp lý phương pháp này trong giảng dạy sẽ góp
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng dạy và
học, phát huy tính tự chủ của sinh viên, giúp họ rèn
luyện các kỹ năng cần thiết khi rời ghế nhà trường
bước vào thị trường lao động. Đó là lý do thôi thúc
chúng tôi thực hiện một nghiên cứu ứng dụng
phương pháp DHDA cho dạy và học ngoại ngữ
nói chung và cho sinh viên tiếng Pháp nói riêng.
2. CƠ SỞ KHOA HỌC
2.1. Khái niệm về phương pháp dạy học
theo dự án
Phương pháp DHDA đã được phát triển từ
lâu, đặc biệt là với công trình của John Dewey
ở Mỹ ngay từ cuối thế kỷ XIX. Ông là nhà triết
học, nhà tâm lý học, nhưng trước hết là nhà sư
phạm. Dewey là người khởi xướng phương pháp
DHDA, ông tập trung giảng dạy theo nguyên tắc
“học thông qua làm” (learning by doing) và chủ
trương thực hiện các dự án hợp tác để giảng dạy. Ở
châu Âu, Celestin Freinet là người tiên phong và
có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với DHDA. Theo ông,
lớp học trước hết là nơi phải áp dụng các cách làm
việc để nghiên cứu các thông tin, trao đổi các ý
kiến hoặc trả lời thư nhận được từ các lớp học sinh
khác, chuẩn bị điều tra, phân tích dữ liệu, trình
bày các bài báo,. Trong một lớp học như thế, sự
hợp tác ở bên trong nhóm rất phong phú. Vào cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, phương pháp DHDA
cũng được nhiều nhà nghiên cứu trình bày trong lý
luận dạy học. Theo Thomas (2000), “dạy học theo
dự án vượt xa hơn việc tạo nên sự hứng thú trong
học sinh. Những dự án được thiết kế tốt sẽ khuyến
khích việc tìm hiểu tích cực và tư duy bậc cao”.
“Đối với giảng viên, những ích lợi mang lại là việc
nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác”.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau về DHDA. Theo Huber (2005), dự án
là một hành động được cụ thể hóa bằng việc “tạo
ra một sản phẩm có giá trị về mặt xã hội” và trong
quá trình này, “người thực hiện có thể có được các
kỹ năng mới thông qua việc giải quyết các vấn đề
gặp phải”.
Perrenoud (2002, tr. 7) định nghĩa “dạy học
dự án là một hoạt động được quản lý bởi nhóm-
lớp. Giảng viên định hướng tổ chức, nhưng không
quyết định tất cả mọi thứ. Hoạt động này hướng
đến mục đích là tạo ra một sản phẩm cụ thể (theo
nghĩa rộng: văn bản, báo, tiết mục biểu diễn, triển
lãm, mô hình, bản đồ, thí nghiệm khoa học, điệu
vũ, bài hát); tạo ra một loạt các nhiệm vụ trong đó
người học có thể tham gia và đóng một vai trò tích
cực, có thể thay đổi tùy theo điều kiện và sở thích
của họ; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
học của một hoặc nhiều môn học trong chương
trình giảng dạy (tiếng Pháp, âm nhạc, giáo dục thể
chất, địa lý, )”.
Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier (2010, tr.
30) đã viết: “Dạy học theo dự án là một hình thức
dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm
vụ phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm
vụ này được người học thực hiện với tính tự lực
cao trong toàn bộ quá trình học tập. Làm việc
nhóm là hình thức làm việc cơ bản của DHDA”.
Cho dù có các định nghĩa khác nhau về DHDA,
nhìn chung phương pháp này gắn liền với việc tạo
ra một sản phẩm cụ thể. Trong đó, người học là
trung tâm của dự án và phải tham gia một cách tích
cực và tự lực vào quá trình tạo ra sản phẩm. Vai trò
của người dạy là tư vấn, hỗ trợ người học thực hiện
nhiệm vụ học tập của mình.
2.2. Lợi ích của phương pháp dạy học theo
dự án
Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh những
tác động tích cực mà DHDA mang lại cho người
học. Sau đây là những ưu điểm nổi trội của phương
pháp này:
- Gắn lý thuyết và thực hành, tư duy và hành động,
nhà trường và xã hội (Bordallo & Ginestet, 1993);
- Kích thích động cơ và hứng thú học tập
(Proulx, 2004);
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
- Phát huy tính tự lực và tính trách nhiệm, sự tự
tin (Proulx, 2004);
- Kích thích óc sáng tạo (Bordallo & Ginestet,
1993);
- Phát triển tư duy phê phán và rèn luyện khả
năng giải quyết vấn đề (Boaler, 1997);
- Rèn luyện kỹ năng hợp tác, phát huy “trí tuệ
tập thể” (Perrenoud, 2002).
Đối với giảng viên, theo Thomas (2000), lợi
ích mà DHDA mang lại là nâng cao tính chuyên
nghiệp và hợp tác với đồng nghiệp, hợp tác với
học sinh. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương
pháp này sẽ có nhiều thuận lợi trong việc dạy các
đối tượng học sinh khác nhau. Một số nghiên cứu
cũng đã cho thấy rằng, DHDA là một mô hình dạy
học hiệu quả để thích ứng với các phong cách học
tập khác nhau hơn là các cách dạy truyền thống
(Diehl, Grobe, Lopez & Cabral, 1999).
2.3. Các bước tiến hành trong dạy học theo
dự án
Có nhiều đề xuất khác nhau liên quan đến các
bước tiến hành trong DHDA, Nguyễn Văn Cường
và Bernd Meier (2010) đã chỉ ra 5 bước của tiến
trình DHDA:
Bước 1. Các nhóm xác định chủ đề, mục đích
dự án: đề xuất ý tưởng dự án, thảo luận ý tưởng dự
án, quyết định chủ đề, mục tiêu dự án.
Bước 2. Các nhóm xây dựng kế hoạch thực
hiện dự án: kế hoạch làm việc, kế hoạch thời gian,
phân công công việc.
Bước 3. Thực hiện dự án: thực hiện công việc
theo kế hoạch đề ra, tạo ra sản phẩm dự án.
Bước 4. Trình bày sản phẩm của dự án.
Bước 5. Đánh giá dự án: đánh giá quá trình
thực hiện, đánh giá sản phẩm, rút kinh nghiệm cho
dự án sau.
Tuy nhiên, việc phân chia các giai đoạn chỉ
mang tính tương đối. Thực tế, các giai đoạn xen kẽ
và phối hợp với nhau. Vì vậy, việc kiểm tra, điều
chỉnh cần đuợc tiến hành trong suốt quá trình thực
hiện dự án. Với mỗi dự án cụ thể cần xây dựng cấu
trúc riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án.
2.4. Thực trạng áp dụng phương pháp dạy
học theo dự án ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hiện nay, các hình thức bài tập
lớn, tiểu luận, khoá luận, các đồ án môn học, đồ án
tốt nghiệp thực hiện trong các trường đại học nói
chung và trong đào tạo giảng viên rất gần gũi với
phương pháp DHDA. Từ một số năm gần đây, với
sự tăng cường hợp tác quốc tế, DHDA được giới
thiệu và vận dụng rộng rãi hơn ở Việt Nam. DHDA
được đưa vào chương trình lý luận dạy học đại
học dành cho các khoá cao học ở ĐHSP Hà Nội,
ĐHSP Huế, trong chương trình hợp tác quốc tế của
dự án phát triển giảng viên THCS cũng như được
đưa vào chương trình hội thảo tập huấn của dự án
phát triển THPT (chương trình Intel Teach to the
Future, ICT in Education do Unesco tổ chức).
Thêm vào đó, từ đầu những năm 2000, rất nhiều
giảng viên các bậc học, nghiên cứu sinh, sinh viên
của các trường đại học, cao đẳng trên cả nước quan
tâm nghiên cứu và vận dụng DHDA vào giảng dạy,
chủ yếu là dành cho các môn thuộc lĩnh vực khoa
học tự nhiên như Vật lý, Địa lý, Sinh học.
Trong giảng dạy ngoại ngữ, việc sử dụng
phương pháp DHDA còn chưa phổ biến và các
nghiên cứu về phương pháp này là chưa nhiều. Có
thể kể ra đây nghiên cứu của Ngô Hữu Hoàng và
Đỗ Thị Thúy Vân (2016) về việc ứng dụng DHDA
vào việc giảng dạy học phần Giao tiếp liên văn
hóa trong tiếng Anh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nghiên cứu cho thấy, DHDA giúp người học lĩnh
hội các kỹ năng về giao tiếp liên văn hóa, nâng cao
kỹ năng ngôn ngữ, phát triển năng lực cộng tác,
năng lực xã hội và kỹ năng nghiên cứu. Nguyễn
Văn Lợi (2017) nghiên cứu về ảnh hưởng của
DHDA trong việc dạy các kỹ năng tiếng Anh đối
với năng lực tự chủ trong học tập của sinh viên tại
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu cho thấy, DHDA
giúp sinh viên nâng cao năng lực tự chủ trong học
tập, đặc biệt là năng lực tự quyết định về việc học
tập của sinh viên. Liên quan đến việc ứng dụng
phương pháp DHDA trong giảng dạy tiếng Pháp,
chúng tôi xin nêu ra đây hai dự án đã được thực
hiện thí điểm trước đây. Vào năm 2009, dự án
“Nâng cao kỹ năng giao tiếp và chuyên môn cho
sinh viên qua hoạt động tham quan các điểm du
lịch” đã được tiến hành thực nghiệm tại Khoa tiếng
Pháp - Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Đà Nẵng qua
hoạt động “Tham quan Bảo tàng Chăm” và đã
được tích cực hưởng ứng. Năm 2015, dự án “Đà
Nẵng - điểm hẹn Pháp ngữ” do nhóm giảng viên
tiếng Pháp trường THPT Hoàng Hoa Thám tại Đà
Nẵng tổ chức đã thu hút học sinh bởi cách dạy học
gắn với thực tiễn sinh động.
Những kết quả lạc quan như vậy cho thấy, cần
phải phát triển và vận dụng nhiều hơn DHDA trong
dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Pháp nói
riêng ở Việt Nam.
3. MỘT SỐ DỰ ÁN ĐÃ THỰC NGHIỆM
THEO PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ
ÁN TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG PHÁP TẠI
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
3.1. Các dự án đã thực nghiệm
Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm giảng dạy
tiếng Pháp theo phương pháp DHDA trong một số
giờ tiếng Pháp tại trường Đại học Ngoại ngữ và
trường Đại học Bách Khoa thuộc Đại học Đà Nẵng
trong năm 2018 và 2019. Trong khuôn khổ bài báo
này, chúng tôi không có tham vọng đề cập tất cả
những dự án dạy học tiếng Pháp đã thực hiện trong
nghiên cứu. Chúng tôi sẽ trình bày ba hoạt động
dạy-học được thử nghiệm theo quy trình DHDA
dựa theo nội dung môn học của các lớp tham gia
vào nghiên cứu này.
Trong giờ học tiếng Pháp do chúng tôi phụ
trách, sinh viên các lớp được phân vào các nhóm
cố định từ đầu học kỳ để thực hiện các hoạt động
theo nhóm tại lớp nói chung và các bài tập dự án
bằng tiếng Pháp nói riêng. Việc phân nhóm này
dựa trên sự lựa chọn của chính sinh viên và có sự
can thiệp của giảng viên khi cần thiết. Các nhóm
gồm 4 hoặc 5 sinh viên, trong đó có một nhóm
trưởng. Về cơ bản, tiến trình thực hiện các dự án
tuân theo 5 bước như đã trình bày trong mục 2.3 và
tùy theo thực tế của từng dự án mà các giai đoạn có
thể “xen kẽ và phối hợp với nhau vì mỗi dự án cụ
thể cần xây dựng cấu trúc riêng phù hợp với nhiệm
vụ dự án” (Nguyễn Văn Cường & Bernd Meier,
2010, tr. 37).
Đối với mỗi dự án, giảng viên xây dựng chủ đề
dựa trên nội dung của môn học, đồng thời bám sát
các tiêu chí “gần với cuộc sống thực tế”, “có tính
khả thi”, “phù hợp với tâm lý lứa tuổi” hoặc “mang
tính thời sự” nhằm tạo hứng thú cho sinh viên.
Giảng viên có thể giới thiệu một số hướng đề tài
để sinh viên cụ thể hóa hoặc chính sinh viên có thể
đưa ra quyết định trong khuôn khổ chương trình.
Để thực hiện sản phẩm của mình, các nhóm
trưởng lên kế hoạch thực hiện thông qua thảo
luận với các thành viên trong nhóm. Việc trao đổi
ý kiến, đóng góp ý tưởng trong nhóm được thực
hiện bằng nhiều cách: gián tiếp qua Zalo, Viber,
Messenger hoặc trực tiếp trong giờ giải lao hay
ngoài giờ học tùy thời gian của mỗi nhóm. Mọi
trao đổi cũng như việc phân công nhiệm vụ cho
từng thành viên trong nhóm đều được tổng hợp
trong phiếu theo dõi dự án do nhóm trưởng phụ
trách. Trong quá trình thực hiện các sản phẩm của
các nhóm, giảng viên theo dõi tình hình cũng như
tiến độ làm việc của các nhóm thông qua nhóm
trưởng và đưa ra trợ giúp hoặc góp ý nếu cần thiết
như sửa dàn ý, cách diễn đạt. Các trao đổi, góp
ý này cũng được thực hiện thông qua Zalo, email
hay trong các giờ học trên lớp.
Bước trình bày hoặc trình chiếu các sản phẩm
thường được thực hiện vào cuối các buổi học. Đặc
biệt ở bước “Đánh giá dự án”, sinh viên được yêu
cầu viết ra ý kiến phản hồi, nói lên những gì họ
nghĩ về dự án vừa thực hiện ở cuối phiếu đánh giá
hoặc đưa ra kiến nghị để cả giảng viên và sinh viên
rút kinh nghiệm cho những lần thực hiện tiếp theo.
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Đồng thời, giảng viên cũng thực hiện một số cuộc
“thăm dò” thông qua trao đổi với một số sinh viên
với mục đích điều chỉnh việc dạy cho phù hợp hơn.
3.1.1. Dự án “Recycler de vieux objets” (Tái
sử dụng đồ cũ)
Dự án này được triển khai với sinh viên năm
thứ nhất của Khoa tiếng Pháp, trường Đại học
Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng ở học kỳ II, năm
học 2017-2018. Chủ điểm của dự án được lấy từ
chủ đề chính “Faire du neuf avec du vieux” của bài
học 7 (unité 7) trong giáo trình tiếng Pháp Saison
2 đang được sử dụng cho đối tượng sinh viên này.
Đây là một chủ đề mang tính thời sự cao, có ý
nghĩa giáo dục về môi trường. Thời gian thực hiện
dự án là 3 tuần.
Các nhóm đã tự thảo luận ngoài giờ học để
thống nhất về sản phẩm sẽ thực hiện của nhóm và
phân công nhiệm vụ cho từng thành viên. Đối với
dự án này, ba hình thức trình bày ý tưởng hoặc sản
phẩm đã được sinh viên lựa chọn:
- Thực hiện một cuộc thăm dò về tình hình tái
sử dụng đồ cũ trong sinh viên;
Nhóm thực hiện dự án này đã thực hiện các
cuộc phỏng vấn một số sinh viên trong trường và
sau đó tổng hợp thông tin, trình bày kết quả với
công cụ Power Point.
- Thực hiện một vở kịch nhỏ (có đầu tư hóa
trang và đạo cụ) về tái sử dụng đồ cũ;
Tiểu phẩm này được “khán giả” cỗ vũ rất nhiệt
tình vì sự hài hước của các “diễn viên”.
- Làm slide giới thiệu bằng tiếng Pháp cách
làm một sản phẩm từ đồ cũ với công cụ trình chiếu
Power Point: hướng dẫn làm kệ sách mi-ni từ
can nhựa cũ “Créer un porte-livres à partir des
bouteilles de détergent”, hướng dẫn làm “nhà”
cho mèo “Maisonnette pour chat”, cách làm lọ cắm
hoa từ chai nước và đĩa CD đã sử dụng “ Vases à
fleurs” (Hình 1 và 2).
Hình 1 & 2. “Tái sử dụng đồ cũ”
3.1.2. Dự án “Étudier à l’étranger” (Du học)
Dự án “Étudier à l’étranger” được triển khai
cho sinh viên năm thứ 3, học phần Tiếng Pháp 5,
của Chương trình Đào tạo Kỹ sư chất lượng cao
Việt – Pháp. Đây cũng là chủ đề của bài học 20,
giáo trình Le Nouveau Taxi 2 của học phần này.
Sau khi nhận thông tin về bài tập - dự án của
giảng viên phụ trách môn học, các nhóm đã hội ý
và thống nhất chọn tiểu chủ đề cho dự án của nhóm
mình. Các chủ đề cụ thể đã được lựa chọn là:
- Étudiants vietnamiens à l’étranger et leurs
loisirs (Du học sinh Việt Nam và hoạt động giải
trí) (Hình 3);
- Étudier en Allemagne (Du học tại Đức) (Hình 4);
- Étudiants vietnamiens à l’étranger et leurs
petits jobs (Du học sinh Việt Nam và việc làm thêm);
- Études à l’étranger et chocs culturels (Du học
và sốc văn hóa ).
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Sau 3 tuần thực hiện, các nhóm đã hoàn thành
sản phẩm của mình: bài thuyết trình bằng tiếng
Pháp thông qua công cụ Power Point hoặc Prezi
về đề tài đã chọn. Đó là các bài thuyết trình thú
vị, mang tính thực tế cao nhờ vào việc kết hợp
các số liệu thực tham khảo trên các trang mạng tin
cậy, các hình ảnh, các đoạn phỏng vấn người trong
cuộc (qua Zalo) với chính bạn bè đang du học ở
nước ngoài. Đó là những dạng bài tập dự án mà
thông qua đó sinh viên đã thể hiện tính sáng tạo,
chủ động cao qua các hoạt động nhóm để thiết kế
cũng như trình bày sản phẩm của nhóm mình.
3.1.3. Dự án “Notre stage militaitre” (Kỳ học
quân sự)
Dự án này đã được thực hiện với một lớp năm
thứ nhất, Khoa tiếng Pháp, trường Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Đà Nẵng. Dự án này nhằm mục đích
giúp sinh viên ôn luyện tiếng Pháp ngay trong 4
tuần học quân sự từ một tình huống thật, trong
một môi trường mới với nhiều trải nghiệm mà sinh
viên dễ có hứng thú để tạo ra những sản phẩm có
ý nghĩa thực tế.
Với chủ đề này, các nhóm đã chọn ba hình thức
ghi lại những trải nghiệm cuộc sống quân ngũ:
- Viết tập nhật ký bằng tay và kèm hình ảnh về
các hoạt động trong 4 tuần học tập kiến thức quốc
phòng và an ninh (Hình 5);
- Làm slide trình chiếu kèm hình ảnh và đặc
biệt là các đoạn video rất thú vị, rất sinh viên về
khoảng thời gian làm “chiến sĩ” của mình (Hình 6);
- Làm phóng sự ngắn về “sinh hoạt trong
quân ngũ”.
Hình 3. “Du học sinh Việt Nam và hoạt động
giải trí”
Hình 4. “Du học tại Đức”
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
3.2. Phản hồi của sinh viên về các dự án đã
thực hiện
Sau khi thu thập các ý kiến phản hồi và đóng
góp của sinh viên ở các phiếu đánh giá dự án, và
qua trao đổi trực tiếp với một số sinh viên sau mỗi
dự án, nhìn chung chúng tôi nhận thấy đại đa số
có những nhận xét tích cực về các dự án đã tham
gia. Những ưu điểm nổi trội mà họ nhận thấy ở
DHDA là:
- Cho phép củng cố kiến thức bài học, rèn luyện
kỹ năng đọc hiểu (thông qua việc tìm kiếm thông
tin trên Internet), cải thiện kỹ năng viết và diễn đạt
nói trong những hoạt động thực tế khi cùng nhóm
của mình thực hiện và giới thiệu sản phẩm dự án;
- Tạo sự hứng thú trong học tập vì sinh viên
được trực tiếp tham gia chọn đề tài, cho phép
người học tự chủ nhiều hơn trong công việc, từ
xây dựng kế hoạch đến việc thực hiện dự án, tạo
ra các sản phẩm;
- Chủ điểm của dự án “rất đời thường”, sát với
nội dung của bài học, phù hợp với khả năng của
cá nhân;
- Các hoạt động dự án làm cho nội dung học
tập có ý nghĩa thực tiễn, làm “quên đi cảm giác
đang làm một bài tập để nộp cho giảng viên”, kích
thích sự tưởng tượng, óc sáng tạo khi thực hiện
“một sản phẩm thật cho chính mình”;
- Có cơ hội thể hiện sự hiểu biết của mình thông
qua báo cáo và trình bày sản phẩm bằng nhiều hình
thức khác nhau;
- Học hỏi được nhiều điều từ các thành viên
trong nhóm và cả nhóm bạn (cách biên tập các
đoạn video đã quay: nối video, thêm nhạc và hiệu
ứng âm thanh, lồng tiếng, làm phụ đề ) trong
quá trình thực hiện dự án;
- Rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm và tinh
thần hợp tác trong công việc, phát huy được “sở
trường”, “tài lẻ’ của mỗi cá nhân: thành viên nào
có khả năng thuyết trình tốt sẽ là báo cáo viên của
nhóm, ai mạnh về công nghệ thông tin sẽ phụ trách
chủ yếu phần kỹ thuật
Tuy nhiên, bên cạnh những ý kiến tích cực,
chúng tôi cũng đã nhận được những phản hồi chưa
được “thỏa mãn” về các dự án đã tổ chức. Đây là
những ý kiến đóng góp rất hữu ích để cải thiện
những dự án tiếp theo:
- Vấn đề về thời gian thực hiện các dự án: một
số nhóm sinh viên phải “chật vật” với quỹ thời
gian để thực hiện dự án của nhóm vì có những bài
tập nhóm phải thực hiện ở môn học khác gần như
cùng thời điểm;
- Mất khá nhiều thời gian vì ý kiến mâu thuẫn
khi tìm ý tưởng đề tài;
- Khó khăn về tài chính: một số dự án đòi hỏi
phải có một lượng kinh phí nhất định để mua sắm
nguyên liệu hoặc dụng cụ;
- Việc tự đánh giá chưa được khách quan hoặc
khó có thể đánh giá một cách chính xác và khách
quan tuyệt đối;
- Có thành viên không thật sự tham gia tích cực
vì theo học cùng lúc hai chương trình đào tạo đại
học. Vì vậy, dự án diễn ra không đúng kế hoạch,
nhóm trưởng phải phân công lại công việc cho
thành viên khác để đảm bảo tiến độ;
- Mạng Internet tại trường đôi khi không ổn
định, gây bất tiện khi sử dụng trực tuyến công cụ
Prezi để thuyết trình.
4. KẾT LUẬN
Mặc dù gặp một số hạn chế nhất định trong
quá trình thực hiện các dự án, các thực nghiệm đã
mang lại nhiều lợi ích thiết thực và trải nghiệm bổ
ích, thú vị cho cả người học và người dạy. Cụ thể
là sinh viên đã có nhiều phản hồi tích cực (mục
3.2) về các dự án đã tham gia. Ngay cả những điều
chưa được tốt mà sinh viên phản ánh trong phiếu
đánh giá cũng mang tính xây dựng cho giảng viên
phụ trách dự án. Chúng tôi đã dần tích lũy được
kinh nghiệm trong tổ chức dạy-học theo phương
pháp DHDA khi làm việc với các nhóm dự án này.
Quả vậy, qua thực nghiệm các dự án, và dựa trên
41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
cơ sở lý thuyết về DHDA đã tham khảo, chúng tôi
nhận thấy cần phải thật chú trọng những điều sau
khi tổ chức DHDA để đạt hiệu quả cao:
- Lựa chọn các chủ đề dự án gắn với kiến thức
của môn học;
- Lựa chọn các dự án cần ít chi phí, gắn liền
với thực tiễn của người học để bảo đảm tính khả
thi của dự án;
- Cần phối hợp, bàn bạc với các giảng viên
trong Khoa hoặc Khoa bạn để tránh cho sinh viên
cùng một thời điểm phải làm nhiều bài tập lớn, bài
tập nhóm, tránh áp lực thời gian cho sinh viên;
- Giảng viên phải theo dõi sát sao hoạt động
của các nhóm dự án để có thể hướng dẫn họ có
những điều chỉnh cần thiết và kịp thời trong tất cả
giai đoạn của dự án nhưng tránh can thiệp quá sâu
vào quá trình tìm kiếm ý tưởng và thực hiện dự án
để phát huy tối đa tính tự chủ của người học;
- Khâu đánh giá sau mỗi dự án cần được thực
hiện một cách nghiêm túc và kiên nhẫn từ phía sinh
viên và giảng viên, thông qua các mẫu phiếu đánh
giá và các trao đổi trực tiếp với sinh viên tham gia
dự án về những gì “được” và “chưa được” để sinh
viên có thể làm việc tốt hơn và giảng viên tổ chức
tốt hơn cho các dự án tiếp theo.
Việc đưa DHDA vào chương trình giảng dạy
không phải là ý tưởng mới lạ. Với mong muốn
học hỏi chuyên môn và nâng cao chất lượng giảng
dạy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm
phương pháp dạy học tích cực này, nhằm xây dựng
một nội dung và quy trình DHDA phù hợp cho
sinh viên học tiếng Pháp tại Đại học Đà Nẵng.
Qua những dự án đã thực nghiệm, chúng tôi khẳng
định tính ưu việt của phương pháp DHDA. Chúng
tôi nhận thấy cần tận dụng DHDA trong dạy và
học ngoại ngữ nói chung và tiếng Pháp nói riêng
ở bậc đại học, nhằm gây hứng thú cho sinh viên,
kết hợp học và hành, đồng thời phát triển những kỹ
năng mềm cần thiết cho họ khi làm việc trong môi
trường hiện đại./.
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Văn Cường & Bernd Meier. (2010). Một số vấn
đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường
trung học phổ thông. Hà Nội: Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Dự án phát triển THPT.
Ngô Hữu Hoàng & Đỗ Thị Thúy Vân. (2016). Áp dụng
phương pháp “Học qua dự án” trong giảng dạy môn
“Giao tiếp liên văn hóa” bằng tiếng Anh như ngôn
ngữ trung gian. Tạp chí Ngôn Ngữ và Đời sống, 1
(243), 40-45.
Boaler J. (1997). Experiencing School Mathematics;
Teaching styles, sex, and settings. Buckingham,
UK: Open University Press.
Bordallo I. & Ginestet J. P. (1993). Pour une pédagogie
du projet. Paris: Hachette.
Boutinet J. P. (1990). Anthropologie du projet. Paris:
Presses Universitaires de France.
Diehl W., Grobe T., Lopez H. & Cabral C. (1999).
Project-based learning: A strategy for teaching and
learning. Boston, MA: Center for Youth.
Nguyễn Văn Lợi. (2017). Promoting learner autonomy:
Lesson from using project work as a supplement in
English skills courses. Can Tho University Journal
of Science, 7, 118-125.
Huber M. (2005). Apprendre en projets: la pédagogie
du projet-élèves (2e éd.). Lyon: Chronique Sociale.
Perrenoud Ph. (2002). Apprendre à l’école àtravers des
projets: pourquoi?. Educateur, 14, 6-11.
Proulx J. (2004). L’apprentissage par projet. Sainte-
Foy: PUQ.
Thomas J. W. (2000). A review of research on project-
based learning. San Rafael, CA: Autodesk
Foundation.
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 21 (9/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
APPLYING PROJECT-BASED LEARNING INTO TEACHING FRENCH
AT THE UNIVERSITY OF DANANG
LE THI TRAM ANH
Abstract: Project-based learning is a student-centred instructional approach with highly both
collaborative and practical characteristics. It enhances students’ activeness, creativity as well as their
autonomy in study. This article introduces, in a systematic way, the project-based learning method
together with its characteristics, benefits and steps for its implementation in teaching and learning
a foreign language. The paper also presents some applications of project-based learning in French
classes at the University of Danang.
Keywords: steps, project-based learning, benefits, French classes, learner
Received: 27/6/2019; Revised: 12/8/2019; Accepted: 20/8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_phuong_phap_day_hoc_theo_du_an_trong_giang_day_tieng_phap_tai_dai_hoc_da_n_ng_3375_2171673.pdf