Tài liệu Áp dụng mô hình đa trí tuệ của howard gardner trong giảng dạy ngoại ngữ - Lý Ngọc Toàn: 23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
1.1 Mô hình đa trí tuệ của Howard Gardner
Howard Gardner (1993), nhà tâm lý học người Mỹ, đã
xây dựng nên một thuyết về đa trí tuệ vào những năm
1980. Ông cho rằng, trí tuệ không phải là một hiện
tượng đơn lập mà nó là sự tổng hợp nhiều khả năng
khác nhau của con người. Dựa trên các nguyên lý về
nhân chủng học, tâm lý học, khoa học tri nhận, v.v.
Ông đã kết luận rằng, có ít nhất chín loại trí tuệ khác
nhau tồn tại trong não bộ của con người. Mỗi cá nhân
có thể có nhiều hơn một loại trí tuệ. Những trí tuệ này
bao gồm: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ logic toán học, trí
tuệ vận động, trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc, trí
tuệ hướng nội, trí tuệ hướng ngoại liên nhân, trí tuệ
ThS. LÝ NGỌC TOÀN1, TRẦN TẤN THÀNH2
1 Đại học Cảnh sát Nhân dân ✉ lytoandhcs75@gmail.com
2 Đại học Cảnh sát Nhân dân ✉ tanthanhdhcs@yahoo.com
Ngày nhận: 14/11/2016; Ngày hoàn thiện: 26/11/2016; Ngày duyệt ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng mô hình đa trí tuệ của howard gardner trong giảng dạy ngoại ngữ - Lý Ngọc Toàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
1.1 Mô hình đa trí tuệ của Howard Gardner
Howard Gardner (1993), nhà tâm lý học người Mỹ, đã
xây dựng nên một thuyết về đa trí tuệ vào những năm
1980. Ông cho rằng, trí tuệ không phải là một hiện
tượng đơn lập mà nó là sự tổng hợp nhiều khả năng
khác nhau của con người. Dựa trên các nguyên lý về
nhân chủng học, tâm lý học, khoa học tri nhận, v.v.
Ông đã kết luận rằng, có ít nhất chín loại trí tuệ khác
nhau tồn tại trong não bộ của con người. Mỗi cá nhân
có thể có nhiều hơn một loại trí tuệ. Những trí tuệ này
bao gồm: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ logic toán học, trí
tuệ vận động, trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc, trí
tuệ hướng nội, trí tuệ hướng ngoại liên nhân, trí tuệ
ThS. LÝ NGỌC TOÀN1, TRẦN TẤN THÀNH2
1 Đại học Cảnh sát Nhân dân ✉ lytoandhcs75@gmail.com
2 Đại học Cảnh sát Nhân dân ✉ tanthanhdhcs@yahoo.com
Ngày nhận: 14/11/2016; Ngày hoàn thiện: 26/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016
Phản biện khoa học: ThS. BÙI THẠCH CẨN
ÁP DỤNG MÔ HÌNH
ĐA TRÍ TUỆ CỦA HOWARD GARDNER
TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ
TÓM TẮT
Khi bàn về phong cách học tập của sinh viên, Willing (1988) dựa trên sở thích cũng như năng lực nổi
trội của sinh viên, đã phân định phong cách học tập ra thành bốn loại như sau: phong cách giao
tiếp, phong cách phân tích, phong cách định hướng và phong cách trực quan. Thực tế cho thấy, mỗi
sinh viên đều có những phương pháp, thủ thuật, hình thức học khác nhau và những đặc trưng riêng
biệt, điều này đã tạo nên sự đa dạng về phong cách học tập trong một lớp học. Chính sự đa dạng về
phong cách này, có thể gây ra khó khăn đáng kể cho giảng viên trong giảng dạy. Vì lý do đó, chúng
tôi đã chọn chủ đề: “Áp dụng mô hình đa trí tuệ của Howard Gardner trong giảng dạy ngoại ngữ”
nhằm đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn trong quá trình giảng dạy tiếng Anh
cho đối tượng sinh viên không chuyên.
Từ khóa: đa trí tuệ, mô hình, phong cách học tập.
thiên nhiên và trí tuệ hiện sinh. Cũng theo Gardner,
người học có trí tuệ ngôn ngữ thường thích biểu đạt
bằng lời nói, chữ viết, lối chơi chữ, chuyện đùa hay
nghe kể chuyện. Người học có trí tuệ logic toán học
thường thể hiện thái độ đối với con số, suy lý và giải
quyết các vấn đề liên quan đến logic. Trong khi đó,
người học có trí tuệ không gian, thường có khuynh
hướng chú ý đến tranh ảnh, thích miêu tả, biểu đồ,
biểu bảng hay bản đồ. Người học có trí tuệ vận động,
thường thường có trải nghiệm cách học tốt nhất
thông qua nhiều loại khác nhau về vận động như: bắt
chước, khiêu vũ, đóng kịch. Người học có trí tuệ âm
nhạc, thích ứng với những bản nhạc và thường học
tốt nhất thông qua các bài hát, giai điệu, hay các hình
thức âm nhạc khác. Người học có trí tuệ nội tâm có
đặc tính biểu cảm, phân tích, hay trực quan về họ là
24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ai, làm sao và những gì mà họ biết. Người học có trí
tuệ hướng ngoại liên nhân thích tương tác với người
khác và học tập tốt nhất thông qua hoạt động nhóm
và cặp. Người học có trí tuệ thiên nhiên, thường thích
các hoạt động ngoài trời, phân chia các hoạt động.
Người học có trí tuệ hiện sinh thích đặt ra và giải
quyết các câu hỏi về bản thể và ý nghĩa của sự vật
hiện tượng. Còn theo Armstrong (2009), thì người học
chủ yếu sử dụng tám loại trí tuệ đặc trưng (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc tính của tám loại trí tuệ
Trí tuệ ngôn ngữ Năng khiếu về ngôn từ
Trí tuệ logic toán học Năng khiếu về tư duy
Trí tuệ không gian Năng khiếu về hội họa
Trí tuệ vận động Năng khiếu về hoạt động
cơ thể
Trí tuệ âm nhạc Năng khiếu về âm nhạc
Trí tuệ hướng nội Năng khiếu về hiểu biết
cái tôi
Trí tuệ hướng ngoại liên
nhân
Năng khiếu về tương tác
liên nhân
Trí tuệ thiên nhiên Năng khiếu tự nhiên
1.2. Nguyên lý về trí tuệ của Armstrong
Mặc dù vẫn dựa trên mô hình đa trí tuệ của Howard
Gardner, nhưng Armstrong không tiếp tục phân tích
những đặc tính riêng của từng loại trí tuệ, mà ông tìm
hiểu và phân tích những yếu tố hình thành và phát
triển các loại trí tuệ. Theo Armstrong (2009, tr.27), trí
tuệ của con người có thể được hình thành và phát
triển dựa trên những yếu tố sau: (1) yếu tố bẩm sinh,
(2) yếu ngoại cảnh, (3) yếu tố giáo dục.
– Yếu tố bẩm sinh là những yếu tố về di truyền hay gen.
– Yếu tố ngoại cảnh là những yếu tố đến từ bên ngoài
như: cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè, v.v. có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình hình thành trí tuệ.
– Yếu tố giáo dục là những yếu tố về môi trường xung
quanh như: nơi sinh sống, nơi học tập.
Dựa trên quá trình hình thành và phát triển tâm lý con
người, Armstrong cho rằng, có hai loại tác động ảnh
hưởng đến quá trình phát triển của trí tuệ. Thứ nhất,
tác động có tính kích thích, khả năng tìm tòi sáng tạo
của con người, đó là các hoạt động tâm lý tích cực
như: khen ngợi, khơi gợi vấn đề, gây sự chú ý, sự tò
mò, v.v. . Tác động này đặc biệt có hiệu quả đối với trẻ
em từ bốn tuổi đến mười hai tuổi. Thứ hai, tác động
có tính chất kìm hãm sự phát triển của trí tuệ, đó là
những tác động tâm lý có tính tiêu cực như là: chửi
mắng, trỉ trích, hay trừng phạt, v.v.. Armstrong đặc
biệt đưa ra những nhân tố ngoại cảnh có ảnh hưởng
trực tiếp đến trí tuệ của con người.
– Nguồn tiếp cận: Quá trình phát triển trí tuệ của con
người phụ thuộc vào nguồn tiếp cận. Ví dụ, ai đó có
điều kiện tiếp xúc với ngoại ngữ sớm, thì thường có trí
tuệ tốt về ngoại ngữ.
– Nhân tố địa lý: Nơi mà con người sinh ra, sinh sống,
hay học tập có tác động lớn đến quá trình hình thành
và phát triển trí tuệ.
– Nhân tố gia đình: Cha mẹ đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành trí tuệ của con người, bởi
vì cha mẹ luôn là người định hướng cho con.
2. MÔ HÌNH ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC DẠY NGOẠI NGỮ
2.1. Xác định trí tuệ của sinh viên
Việc xác định trí tuệ của người học là hoạt động đầu
tiên khi áp dụng mô hình đa trí tuệ vào trong quá
trình dạy ngoại ngữ. Hoạt động này thường được
thực hiện ngay đầu khóa học, giúp cho người dạy có
cái nhìn tổng quan về năng lực của người học. Do mỗi
sinh viên có thể có nhiều hơn một khả năng, nên việc
xác định trí tuệ của sinh viên đóng vai trò quan trọng
trong việc giúp giảng viên tổ chức, lựa chọn các hoạt
động và phương pháp giảng dạy một cách phù hợp,
sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của cả lớp, lại vừa
phù hợp với đặc tính trí tuệ nổi trội riêng của từng
người học.
Armstrong (2009, tr. 32), đã đưa ra bản mô tả tóm lược
về các khả năng mà sinh viên thường bộc lộ và nhu
cầu cần được đáp ứng trong quá trình học tập (Bảng 2)
Có nhiều phương pháp để xác định trí tuệ của sinh
viên như: giảng viên có thể xác định được trí tuệ của
sinh viên thông qua việc quan sát các hoạt động của
sinh viên trong quá trình giảng dạy hay thông qua
việc ghi chép nhật ký về các hoạt động của sinh viên.
Tuy nhiên một phương pháp khá phổ biến và hiệu
quả để xác định trí tuệ của sinh viên là sử dụng danh
mục kiểm tra trí tuệ theo mô hình Thomas Armstrong
(2009, tr. 35) đề xuất. Danh mục kiểm tra này được
thiết kế dưới dạng câu hỏi “có” hay “không”. Mỗi loại trí
tuệ được đánh giá qua nhiều hoạt động có liên quan
đến trí tuệ đó. Dựa trên câu trả lời của sinh viên cho
25KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
mỗi loại trí tuệ, giảng viên có thể xác định chính xác
tỷ lệ của các loại trí tuệ trong lớp học.
2.2. Xây dựng chương trình giảng dạy theo mô hình
đa trí tuệ
Lý thuyết về mô hình đa trí tuệ có nhiều đóng góp
cho công tác giáo dục nói chung và việc dạy, học
ngoại ngữ nói riêng. Việc áp dụng mô hình này vào
quá trình dạy ngoại ngữ đòi hỏi giảng viên phải sử
dụng đồng thời nhiều kỹ thuật, công cụ, và các thủ
thuật khác nhau. Nhìn chung, có sự khác biệt rõ
rệt giữa giảng viên áp dụng phương pháp dạy học
truyền thống với giảng viên áp dụng mô hình đa trí
tuệ này. Đối với giảng viên áp dụng phương pháp
dạy truyền thống, thường chỉ áp dụng một phương
pháp giảng dạy nhất định cho cả bài học với mọi sinh
viên và các đối tượng khác nhau. Còn đối với giảng
viên áp dụng mô hình đa trí tuệ, thường thay đổi các
phương pháp giảng dạy khác nhau theo đặc tính của
mỗi loại trí tuệ, và sẽ kết hợp một cách sáng tạo các
phương pháp khác nhau đối với từng loại trí tuệ. Như
vậy, việc xây dựng nội dung chương trình dạy học
đa dạng là đặc trưng của dạy học theo mô hình đa
trí tuệ. Nó giúp cho giảng viên xác định các phương
pháp, kỹ thuật, thủ thuật, tài liệu học tập khác nhau
phù hợp với mỗi loại trí tuê. Dựa vào thông tin tỷ lệ
trí tuệ chiếm ưu thế trong lớp học, giảng viên có thể
thiết lập nhiều hoạt động phù hợp với số đông người
học có loại trí tuệ này trong lớp.
3. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐIỂN HÌNH THEO
MÔ HÌNH ĐA TRÍ TUỆ
Có thể nói rằng, chính sự đa dạng về trí tuệ của sinh
viên trong lớp học đòi hỏi giảng viên phải thiết lập và
áp dụng nhiều hoạt động dạy học khác nhau. Do vậy,
lý thuyết về mô hình đa trí tuệ đã tạo điều kiện cho
giảng viên có cơ hội đổi mới các hoạt động dạy học
với phù hợp với nhu cầu dạy và học ngoại ngữ trong
thời đại ngày nay. Tuy nhiên, không có hoạt động dạy
học nào có thể phù hợp với tất cả các đối tượng sinh
viên, bởi vì mỗi hoạt động dạy học có thể phù hợp
với đối tượng sinh viên này nhưng lại không phù hợp
với đối tượng sinh viên khác. Cho nên, việc áp dụng
đa dạng và thường xuyên thay đổi các hoạt động dạy
học là rất cần thiết, góp phần đáp ứng được tất cả các
đặc tính khác nhau về trí tuệ của sinh viên.
Bảng 2. Năng lực nổi bật của sinh viên đối với từng loại trí tuệ
Sinh viên có
khả năng về
Tư duy Thích Cần
Ngôn ngữ Bằng ngôn từ Đọc, viết, kể truyện, trò chơi
về ngôn ngữ
Sách, băng đĩa, giấy, nhật ký, các cuộc đối
thoại, thảo luận, tranh cãi, tự truyện
Logic toán học Bằng lập luận Thí nghiệm, tra hỏi, tính toán,
tìm ra câu đố có tính logic
Chất liệu để thí nghiệm, chất liệu khoa học,
các thao tác, đến các viện bảo tàng khoa học
Không gian Bằng hình ảnh Thiết kế, vẽ, quan sát, phác
họa
Biểu tượng, băng đĩa, phim ảnh, trình chiếu,
trò chơi tưởng tượng, câu đố, tranh hình
Vận động Thông qua các
giác quan
Khiêu vũ, nhảy, chạy, làm
điệu bộ, đụng chạm
Vai diễn, kịch bản, thể thao, trò chơi vận
động, thực hành, trải nghiệm xúc giác
Âm nhạc Qua nhịp điệu và
giai điệu
Hát, huýt sáo, vỗ tay, dậm
chân, nghe
Hát, đi nghe nhạc, chơi nhạc cụ
Hướng nội Trong mối tương
quan về nhu cầu,
cảm xúc và mục
tiêu
Thiết lập mục tiêu, dàn xếp,
mơ, lên kế hoạch, phản hồi
Nơi bí ẩn, thời gian tĩnh nặng, lựa chọn
Hướng ngoại
liên nhân
Nắm bắt ý tưởng
từ người khác
Lãnh đạo, tổ chức, liên kết,
vận dụng, dàn xếp,
Bạn bè, câu lạc bộ, sự kiện cộng đồng, nhóm
bạn bè, học việc
Thiên nhiên Thông qua thiên
nhiên và hình
thức thuộc về
thiên nhiên
Chơi với vật cưng, làm vườn,
khám phá thiên nhiên, nuôi
động vật
Tiếp cận với thiên nhiên, tương tác với động
vật, dụng cụ khám phá thiên nhiên
26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
3.1. Các hoạt động dạy học đối với sinh viên có trí
tuệ ngôn ngữ
Armstrong chỉ ra rằng, trong số các loại trí tuệ, thì sinh
viên có trí tuệ về ngôn ngữ là đối tượng dễ thiết kế
các hoạt động dạy học nhất. Armstrong (2009, tr.73)
đã xác định các loại hoạt động giảng dạy ngoại ngữ
được cho là phù hợp nhất với sinh viên có trí tuệ về
ngôn ngữ:
– Hoạt động kể chuyện (Storytelling)
– Hoạt động tìm ý ban đầu (Brainstorming)
– Hoạt động viết báo (Journal writing)
– Hoạt động xuất bản (Publishing)
3.2. Các hoạt động dạy học đối với sinh viên có trí
tuệ lôgic toán học.
Trí tuệ về lôgic toán học thường gắn liền với toán học
cũng như khoa học tự nhiên. Các nhà khoa học về
tư duy phê phán (critical thinking) đã đưa ra một giả
thuyết rằng, trí tuệ logic toán học có ảnh hưởng và
có tính quyết định cả khoa học xã hội cũng như nhân
cách con người. Hơn nữa, trí tuệ về logic toán học
còn được cho là rất quan trọng trong việc học ngôn
ngữ nói chung và ngoại ngữ nói riêng. Trong việc học
ngoại ngữ, các hoạt động dạy học có tính logic hay
lý luận thường phù hợp với sinh viên có thiên hướng
với trí tuệ này, đặc biệt khi dạy kỹ năng nói và kỹ năng
viết. Một số hoạt động đó có thể là:
– Hoạt động phân loại và phạm trù hóa (Classification
and categorization).
– Hoạt động đánh giá kinh nghiệm (Heuristics).
– Hoạt động tư duy khoa học (Science thinking).
3.3. Các hoạt động dạy học đối với sinh viên có trí
tuệ không gian
Trí tuệ không gian thường liên quan đến hình ảnh,
bao gồm cả hình ảnh tư duy (image schema) và hình
ảnh trong thế giới thực, như tranh ảnh, hình ảnh,
phim ảnh, biểu tượng hay ký tự, v.v.. Như vậy, đối với
sinh viên có trí tuệ về không gian, hoạt động dạy học
dùng tranh ảnh sẽ mang lại hiệu quả cao. Các hoạt
động này thường được áp dụng đối với sinh viên có
trình độ sơ cấp hay người mới học ngoại ngữ. Các
hoạt động giảng dạy liên quan đến trí tuệ không gian
bao gồm:
– Hoạt động hình ảnh hóa (Visualization)
– Hoạt động phác thảo sơ đồ ý (idea sketching)
– Hoạt động sử dụng bảng biểu, sơ đồ (Graphic
symbols)
3.4. Các hoạt động giảng dạy đối với sinh viên có trí
tuệ liên nhân
Trong các hoạt động dạy học, hoạt động tương tác
giữa sinh viên với sinh viên hay giữa giáo viên với sinh
viên đóng vai trò rất quan trọng. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh rằng, làm việc theo nhóm thì năng suất
và hiệu quả của mỗi cá nhân sẽ cao hơn hẳn khi làm
việc riêng lẻ. Vì trong nhóm, khi làm việc chung các
kỹ năng và kinh nghiệm của các thành viên có thể bổ
trợ cho nhau. Nhóm có thể tạo ra môi trường làm việc
mà các kiến thức và kinh nghiệm của các cá nhân bổ
khuyết cho nhau, giúp cho các quyết định đưa ra toàn
diện và tối ưu. Các thành viên tự rút ra những vấn đề
hay câu hỏi để trao đổi lẫn nhau, cải thiện thái độ và
ứng xử của mình.
Các hoạt động giảng dạy điển hình thường được áp
dụng đối với sinh viên có trí tuệ liên nhân gồm:
– Hoạt động đóng vai điêu khắc (People sculpture).
– Hoạt động hợp tác nhóm (Cooperative groups).
– Hoạt động trò chơi tại bàn (Board games).
3.5. Các hoạt động giảng dạy đối với sinh viên có trí
tuệ hướng nội
Sinh viên có trí tuệ hướng nội thường có khuynh
hướng sống nội tâm, và không muốn giao tiếp với
mọi người xung quanh. Vì thế, ở những môi trường
nhộn nhịp hay đông người thường làm cho sinh viên
có trí tuệ hướng nội này trở nên sợ hãi và rụt rè. Cho
nên, giảng viên cần hiểu rõ những đặc tính của sinh
viên để thường xuyên tạo điều kiện cho sinh viên có
cơ hội tham gia vào các hoạt động có tính cá nhân
cao, cũng như xây dựng các hoạt động giảng dạy phù
hợp với những sinh viên này.
Các hoạt động giảng dạy thường là:
– Liên kết cá nhân (Personal connections)
– Chọn thời gian (Choice time)
– Thiết lập mục tiêu (Goal-setting session)
27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
3.6. Các hoạt động giảng dạy đối với sinh viên có trí
tuệ thiên nhiên
Hầu như các hoạt động dạy học đều được thực hiện
trong lớp học, điều này có thể xem như điều kiện bất
lợi đối với sinh viên có trí tuệ thiên nhiên. Cho nên,
trong quá trình giảng dạy, giảng viên nên thường
xuyên xây dựng môi trường lớp học giống như ở bên
ngoài tự nhiên. Để cho môi trường lớp học giống như
môi trường tự nhiên, giảng viên có thể: trang trí lớp
học bằng những tranh ảnh về thiên nhiên như cây
cối, động vật, sông, núi. Hơn nữa, các hoạt động
giảng dạy thường gắn liền với các hoạt động thường
xảy ra ở bên ngoài tự nhiên như: đi dạo, đi bơi, trèo
cây, săn thú.
Các hoạt động này thường được thực hiện thông qua
trò chơi như:
– Hoạt động nuôi thú cưng (Pet-in-the-classroom)
– Hoạt động dạo bộ trong rừng (Nature Walks)
– Hoạt động trồng cây (Plant Growing)
4. KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO MÔ HÌNH ĐA TRÍ TUỆ
Dựa trên những đặc tính khác nhau của các loại trí tuệ,
các nhà giáo dục học cho rằng, để đánh giá chính xác
và hiệu quả năng lực ngôn ngữ của người học có khả
năng trí tuệ khác nhau, chúng ta nên đánh giá theo
mô hình Đánh giá xác thực (Authentic assessment)
của Jon Mueler. Theo Mueler, thì loại đánh giá này
có tính toàn diện hơn các phương pháp đánh giá
truyền thống (Armstrong, 2009, tr. 131). Đặc biệt hơn,
phương pháp kiểm tra đánh giá này cho phép người
học có thể chỉ ra những kiến thức mà họ đã học trong
hoàn cảnh cụ thể mà nó gắn liền với cuộc sống thực
tiễn của họ.
4.1 Hình thức đánh giá xác thực là gì?
Hình thức đánh giá xác thực là một hình thức kiểm tra
đánh giá mà ở đó người học được yêu cầu thể hiện
các hoạt động trong hoàn cảnh thực tiễn để chứng
minh được tính hiệu quả về kiến thức cũng như các
kỹ năng đã được học (Jon Mueler).
Hình thức đánh giá xác thực có những đặc tính sau:
– Đáp ứng được mục tiêu dạy học là phát huy tính
sáng tạo của người học.
– Để trở thành những người học có tính sáng tạo, mỗi
người học phải có khả năng thể hiện các hoạt động
trong những trường hợp thực tiễn. Ví dụ như: người
học có thể sử dụng tiếng Anh trong môi trường khác
nhau như du lịch, kinh tế, y tế, giáo dục.
– Như vậy, nhà trường phải giúp cho người học trở
nên thành thục các hoạt động ngôn ngữ mà họ sẽ
phải tiếp xúc với cuộc sống thực tiễn.
Chúng ta có thể so sánh phương pháp đánh giá
truyền thống (traditional assessment) với phương
pháp kiểm tra đánh giá xác thực (authentic assement)
như sau:
Bảng 3. Sự khác biệt giữa kiểm tra đánh giá
truyền thống và theo mô hình xác thực
Phương pháp kiểm tra
đánh giá truyền thống
Phương pháp kiểm tra
đánh giá xác thực
Chọn câu trả lời Thể hiện một hoạt động
Có tính sắp đặt Có tính thực tiễn
Khơi gợi/nhận dạng Xây dựng/áp dụng
Lấy người dạy làm trọng
tâm
Lấy người học làm trọng
tâm
Dữ liệu gián tiếp Dữ liệu trực tiếp
Đối với người dạy, thì phương pháp đánh giá này có
những đặc tính nổi trội sau:
– Cung cấp cho người dạy những thông tin bổ ích về
quá trình học.
– Xem việc đánh giá và việc dạy học là hai mặt của
một vấn đề.
– Cung cấp cho người dạy thông tin duy nhất về trải
nghiệm của người học.
– Thiết lập môi trường mà ở đó người học có cơ thành
công.
– Cho phép người dạy xây dựng được một chương
trình dạy học hiệu quả và đánh giá trong phạm vi
trương trình ấy.
– Đánh giá trên nền tảng thực tiễn có thể chính xác
hơn về thành tích của người học.
– Chú trọng vào điểm mạnh của người học để giúp
người dạy biết được những gì người học có thể làm
và sẽ làm.
28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
4.2. Các khuynh hướng kiểm tra đánh giá
Có thể nói rằng, phương pháp kiểm tra đánh giá
xác thực bao gồm nhiều hình thức và phương pháp
khác nhau, tuy nhiên, điều kiện quan trọng nhất đối
với phương pháp kiếm tra đánh giá xác thực là quan
sát (observation). Howard Gardner (1993) cho rằng,
chúng ta có năng lực ngôn ngữ thông qua việc quan
sát người học thể hiện các hoạt động liên quan đến
mỗi loại trí tuệ. Ví dụ, chúng ta có thể quan sát được
người học chơi trò chơi như thế nào, tương tác với các
loại máy móc ra sao, khiêu vũ như thế nào, v.v.. Việc
quan sát người học giải quyết các vấn đề trong hoàn
cảnh cụ thể cho ta bức tranh toàn diện về năng lực
ngôn ngữ của người học.
Khuynh hướng tiếp theo đó là thiết lập hồ sơ về thành
tích và cách giải quyết vấn đề của người học. Chúng
ta có thể thiết lập hồ sơ về năng lực của người học
bằng nhiều cách như sau:
– Ghi chép giai thoại: Chúng ta có thể ghi thành tích
học tập, sự tương tác, các hoạt động nhóm của mỗi
người học.
– Hoạt động mẫu: Chúng ta có thể lập hồ sơ về các
hoạt động điển hình về người học. Các hoạt động
điển hình là hoạt động liên quan đến các phạm trù
ngôn ngữ như: nghe, nói, đọc, viết, ngữ pháp, từ vựng.
– Phỏng vấn người học: Định kỳ người dạy gặp người
học để thảo luận về các vấn đề có liên quan đến việc
học, ví dụ như: chương trình học, phương pháp giảng
dạy.
5. KẾT LUẬN
Dựa trên khả năng đặc thù của cá nhân người học,
Howard Gardner đã phân chia ra tám loại trí tuệ. Mỗi
loại trí tuệ đều có những đặc tính riêng biệt, và những
phong cách khác nhau trong học tập. Dựa trên những
nghiên cứu này, Armstrong đã tiếp tục nghiên cứu để
tìm ra các hoạt động phù hợp với những nét riêng
biệt của mỗi loại trí tuệ. Có thể nói đóng góp của
Armstrong có vai trò quan trọng trong công tác giáo
dục nói chung, dạy và học ngoại ngữ nói riêng. Thông
qua nghiên cứu của Gardner và Armstong, tôi đã
nghiên cứu và ứng dụng những đặc tính của những
loại trí tuệ này trong công tác xây dựng chương trình
học, tổ chức hoạt động dạy học, cũng như tổ chức và
các hoạt động kiểm tra đánh giá phù hợp./.
Tài liệu tham khảo:
1. Armstrong, T., (1999), 7 Kinds of Smart. Discovering
and Identifying Your Much Intelligence, New York:
Plume.
2. Armstrong, T., (2003), The Multiple Intelliegences of
Reading and Writing, ASCD. Alexandria Virginia USA.
3. Armstrong, T., (2009), Multiple Intelligence in The
Classroom, ASCD. Alexandria Virginia USA.
4. Gardner, H., (1993), Frames of Minds, Basic Books.
5. Palmberg, R., (2011), Multiple Intelliegnces Revisited,
Filand.
6. Wong, L. C., & Nunan, D., (2011), The learning styles
and strategies of effective language learners, System:
An International Journal of Educational Technology
and Applied Linguistics.
7. Willing, K., (1988), Learning styles in adult migrant
education, Adelaide, Australia: National Curriculum
Resource Centre.
8.
APPLYING HOWARD GARDNER’S FRAME
OF MULTIPLE INTELLIGENCES IN TEACHING
AND LEARNING FOREIGN LANGUAGES
LY NGOC TOAN, TRAN TAN THANH
Abstract: On delving into the student’s learning
styles, Willing (1994) basing on learner’s
outstanding capacities as well as learning styles
subdivided learning styles into four categories,
namely communicative styles, analytical styles,
orientational styles and visual styles. In reality,
learners have different learning methods,
strategies and styles. This has raised a variety of
learning styles in the classroom. It is the diversity
of learning styles that can cause considerable
difficulties for teachers in the organization
of teaching activities. For that reason, I have
chosen the topic: “Applying Howard Gardner’s
frame of multiple intelligences in teaching
and learning foreign languayes.” aiming at
to provide solutions for these challenges
in order to improve the quality of teaching
and learning English in the current period.
Keywords: multiple intelligence, frame, learning
style.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 38_8837_2137223.pdf