Tài liệu Áp dụng kỹ thuật “Lỗ khuy áo” trong điều trị dị tật chuyển vị dương vật bìu ở trẻ em: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 205
ÁP DỤNG KỸ THUẬT “LỖ KHUY ÁO”
TRONG ĐIỀU TRỊ DỊ TẬT CHUYỂN VỊ DƯƠNG VẬT BÌU Ở TRẺ EM
Nguyễn Bình An*, Lê Tấn Sơn*, Lê Thanh Hùng*, Nguyễn Thị Trúc Linh*, Lê Nguyễn Yên*,
Huỳnh Công Chấn*, Trần Đại Phú*, Nguyễn Thị Anh Đào*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dị tật chuyển vị dương vật bìu là một dị tật bẩm sinh không thường gặp của cơ quan sinh dục
ngoài. Đa số các phương pháp phẫu thuật đã được đề xuất trước đây là sử dụng các vạt da xoay mở rộng để đưa
bìu về vị trí đúng. Chúng tôi báo cáo một kỹ thuật hoàn toàn khác để sửa tật chuyển vị dương vật bìu bằng cách
di chuyển dương vật chứ không phải bìu đó là kỹ thuật “Lỗ khuy áo”.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị dị tật chuyển vị dương vật bìu ở trẻ em bằng kỹ thuật “Lỗ
khuy áo”.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt trường hợp. Kỹ thuật “Lỗ khuy áo” được
thực hiện trên 26 bệnh nhi tại Bện...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng kỹ thuật “Lỗ khuy áo” trong điều trị dị tật chuyển vị dương vật bìu ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 205
ÁP DỤNG KỸ THUẬT “LỖ KHUY ÁO”
TRONG ĐIỀU TRỊ DỊ TẬT CHUYỂN VỊ DƯƠNG VẬT BÌU Ở TRẺ EM
Nguyễn Bình An*, Lê Tấn Sơn*, Lê Thanh Hùng*, Nguyễn Thị Trúc Linh*, Lê Nguyễn Yên*,
Huỳnh Công Chấn*, Trần Đại Phú*, Nguyễn Thị Anh Đào*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dị tật chuyển vị dương vật bìu là một dị tật bẩm sinh không thường gặp của cơ quan sinh dục
ngoài. Đa số các phương pháp phẫu thuật đã được đề xuất trước đây là sử dụng các vạt da xoay mở rộng để đưa
bìu về vị trí đúng. Chúng tôi báo cáo một kỹ thuật hoàn toàn khác để sửa tật chuyển vị dương vật bìu bằng cách
di chuyển dương vật chứ không phải bìu đó là kỹ thuật “Lỗ khuy áo”.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị dị tật chuyển vị dương vật bìu ở trẻ em bằng kỹ thuật “Lỗ
khuy áo”.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt trường hợp. Kỹ thuật “Lỗ khuy áo” được
thực hiện trên 26 bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 01/2013 đến tháng 07/2018.
Kết quả: Có 72,7% trường hợp có kết quả tốt hoàn toàn với thẩm mỹ đẹp. Không có biến chứng cần phẫu
thuật lại.
Kết luận: Kỹ thuật này nên được áp dụng được cho tất cả các trường hợp chuyển vị dương vật bìu không
hoàn toàn.
Từ khóa: chuyển vị dương vật bìu, kỹ thuật lỗ khuy áo
ABSTRACT
APPLYING “BUTTON HOLE” TECHNIQUE
FOR TREATMENT PENOSCROTAL TRANSPOSITION IN CHILDREN
Nguyen Binh An, Le Tan Son, Le Thanh Hung, Nguyen Thi Truc Linh, Le Nguyen Yen,
Huynh Cong Chan, Tran Đai Phu, Nguyen Thi Anh Dao
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 205 - 210
Backgrounds: Is a rare anomaly of the external genitalia. Time-honored surgical methods which have been
proposed rely on the creation of rotational flaps to mobilize the scrotum to its normal anatomical location. We
describe a different approach to this anomaly by transposing the penis and not the scrotum called “Button hole”
technique.
Objective: To evaluate surgical outcomes of correcting penoscrotal transposition in pediatric patients
operated by “Buttonhole” technique.
Methods: This technique has been used in 26 children diagnosed with incomplete penoscrotal transposition
in the Children Hospital No.1 between 01/2013 and 07/2018.
Results: There were 72.7% of the cases had excellent cosmetic result and completely successful outcome.
There have been no cases of redo operation.
Conclusion: According to the results, this approach technique is an efficient option and should be used in all
cases of incomplete penoscrotal transposition.
Keywords: penoscrotal transposition, button hole technique
*Khoa Ngoại Thận – Tiết Niệu, Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: ThS.BS Nguyễn Bình An ĐT: 0356160348 Email: nguyenbinhan2610@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 206
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuyển vị dương vật bìu (CVDVB) là dị tật
bẩm sinh không thường gặp của cơ quan sinh
dục ngoài được báo cáo lần đầu tiên bởi
Appleby vào năm 1923. Hiện vẫn chưa có con
số chính xác về tần suất mắc bệnh trong dân
số(5). Dị tật này đặc trưng bởi sự bất thường
trong tương quan vị trí giữa dương vật (DV)
và bìu, thường liên quan đến lỗ tiểu thấp
(LTT) thể nặng(6,17).
Có nhiều phương pháp khác nhau đã được
đề xuất để điều trị dị tật CVDVB, đặc biệt là đối
với dạng chuyển vị không hoàn toàn. Hầu hết
các phương pháp đã được báo cáo bởi các tác giả
như Glenn và Anderson, Dresner(3), Ehrlich và
Scardino(4), Levy(10) đều sử dụng các vạt da xoay
mở rộng, điều chỉnh bìu đến đúng vị trí.
Năm 2000, Kolligian và Reda đã báo cáo tại
hội nghị Niệu khoa Hoa Kỳ một kỹ thuật hoàn
toàn khác trong điều trị dị tật CVDVB đó là
chuyển DV sau khi đã làm thẳng qua một lỗ như
lỗ khuy áo (Button hole) được tạo sẵn ở vùng
mu. Phương pháp này không di động bìu,
không sử dụng vạt da xoay, không có các đường
khâu chạy ngang vùng bìu. Từ đó mang lại kết
quả thẩm mỹ tốt hơn các kỹ thuật đã được báo
cáo trước đây(8).
Tại Bệnh viện Nhi Đồng 1, kỹ thuật “Lỗ
khuy áo” sửa tật CVDVB đã được thực hiện từ
năm 1999. Đây là kỹ thuật tương đối đơn giản,
mang lại kết quả thẩm mỹ cao nhưng hiện nay
vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này nhằm mô tả đặc
điểm lâm sàng của các bệnh nhi bị dị tật
CVDVB và quan trọng là đánh giá kết quả
phẫu thuật của kỹ thuật “Lỗ khuy áo” được áp
dụng ở các bệnh nhi này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm các bệnh nhi được chẩn đoán
CVDVB có hoặc không kèm dị tật LTT, được
phẫu thuật điều trị dị tật CVDVB lần đầu bằng
kỹ thuật “Lỗ khuy áo” và theo dõi tại khoa
Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng
01/2013 đến tháng 07/2018.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả loạt trường hợp.
Thông tin bệnh nhân được thu thập dựa trên
hồ sơ bệnh án hoặc thăm khám trực tiếp trong
thời gian nghiên cứu.
Kết quả phẫu thuật ghi nhận qua tái khám
trực tiếp trong thời gian tối thiểu là 1 tháng hoặc
gọi điện thoại hỏi cha mẹ bệnh nhi.
Kỹ thuật “Lỗ khuy áo” áp dụng tại Bệnh
viện Nhi Đồng 1 được thực hiện cuối cùng sau
khi đã chỉnh tật cong và tạo hình niệu đạo.
Các bước tiến hành phẫu thuật (Hình 1)
1. Đo chiều dài dương vật trước mổ;
2. Xác định vị trí rạch da;
3. Rạch da, bóc tách gốc dương vật;
4. Di chuyển dương vật;
5. Đo chiều dài dương vật sau mổ;
6. Khâu da.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả là tốt hoàn toàn
khi tương quan vị trí DV - bìu bình thường,
chiều dài DV không ngắn đi so với trước mổ,
không biến chứng và thẩm mỹ đẹp. Kết quả
chưa tốt hoàn toàn khi tương quan vị trí DV -
bìu bình thường và không có biến chứng phải
phẫu thuật lại nhưng có sẹo xấu hoặc người nhà
bệnh nhi chưa hài lòng. Kết quả không tốt khi
còn CVDVB các mức độ khác nhau và có biến
chứng cần phẫu thuật lại.
KẾT QUẢ
Trong 26 trường hợp CVDVB được chỉnh
sửa bằng kỹ thuật “Lỗ khuy áo”, chúng tôi ghi
nhận cả 26 trường hợp đều là chuyển vị không
hoàn toàn. Tuổi lúc phẫu thuật nhỏ nhất là 2,7
tuổi, lớn nhất là 13,6 tuổi, trung bình là 7,8 tuổi.
Có 22 trường hợp (84,6%) có dị tật LTT đi kèm,
đa số là LTT thể sau với 21 trường hợp (80,8%), 1
trường hợp (3,8%) LTT thể giữa, không có LTT
thể trước. Ngoài dị tật LTT, có 8 trường hợp
(30,8%) có một hoặc nhiều bất thường ở các cơ
quan khác đi kèm (Bảng 1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 207
Hình 1. Các bước tiến hành phẫu thuật
Bảng 1. Dị tật đi kèm ngoài LTT
Tên dị tật Số trường hợp (%)
Cong dương vật không kèm LTT 3 (11,5%)
Tinh hoàn ẩn 2 (7,7%)
Thoát vị bẹn 4 (15,4%)
Bất sản hậu môn trực tràng 1 (3,8%)
Teo thực quản 1 (3,8%)
Dị tật tim 2 (7,7%)
Nang tiền liệt tuyến 1 (3,8%)
Thời gian phẫu thuật
Trung bình là 57,3 phút. Trong 10 trường
hợp ghi nhận được chiều dài DV trước mổ và
sau mổ, có 2 trường hợp chiều dài DV không
thay đổi. Các trường hợp còn lại đều có chiều
dài DV tăng sau mổ. Không ghi nhận trường
hợp nào có chiều dài DV bị giảm sau mổ.
Thời gian nằm viện
Trung bình là 4,7 ngày. Có 7 trường hợp
(26,9%) có biến chứng sớm trong thời gian nằm
viện bao gồm: chảy máu (2 trường hợp, 7,7%),
phù nề thường gặp nhất (3 trường hợp, 11,5%),
nhiễm trùng vết mổ và bí tiểu sau rút thông tiểu
gặp ở cùng 1 trường hợp (3,8%), bung chỉ (1
trường hợp 3,8%).
Kết quả phẫu thuật
Trong số 26 trường hợp được đưa vào
nghiên cứu, chúng tôi chỉ liên lạc và tái khám
được 22 trường hợp, ghi nhận tất cả đều có
tương quan vị trí DV bìu bình thường, không
có trường hợp nào có biến chứng cần phẫu
thuật lại.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 208
Tuy nhiên có 6 trường hợp (27,3%) vết mổ
lành nhưng để lại sẹo xấu. Có 14 trường hợp
(63,6%) ba mẹ rất hài lòng, 7 trường hợp (31,8%)
ba mẹ chỉ đạt mức hài lòng, 1 trường hợp duy
nhất (4,5%) ba mẹ cảm thấy không hài lòng. Dựa
vào kết quả tái khám và sự hài lòng của ba mẹ
bệnh nhi ghi nhận 16 trường hợp đạt kết quả tốt
hoàn toàn chiếm 72,7% (Hình 2, 3).
Hình 2: Sẹo lồi vùng mu sau mổ 2 năm
Hình 3: Kết quả phẫu thuật tốt sau mổ 1 năm
BÀN LUẬN
Tất cả các trường hợp CVDVB trong nghiên
cứu của chúng tôi đều là chuyển vị không hoàn
toàn tương tự như báo cáo của nhiều tác giả
khác như Mori và Ikoma (1986)(13), Kolligian
(2000)(8), Pinke và cộng sự (2001)(15), Mokhless
(2011)(12). Chuyển vị dương vật bìu bản thân đã
là một dị tật không thường gặp. Các trường hợp
chuyển vị hoàn toàn còn hiếm gặp hơn. Hầu hết
các trường hợp này đều được báo cáo rời rạc.
Hiện tại chưa có tài liệu nào khẳng định thời
điểm tốt nhất để phẫu thuật sửa tật CVDVB ở trẻ
em. Thời điểm phẫu thuật tương ứng với thời
gian phẫu thuật các bất thường khác của bộ
phận sinh dục (trước 18 tháng tuổi)(2). Theo
Méndez - Gallart R (2010) việc phẫu thuật chỉnh
chuyển vị nên được thực hiện lúc 12 – 18 tháng
tuổi(11). Những tài liệu hướng dẫn được đưa ra
đều dựa vào ý kiến của những chuyên gia trong
lĩnh vực mổ LTT. Các trường hợp trong nghiên
cứu của chúng tôi có tuổi lúc phẫu thuật còn khá
cao. Sự chậm trễ thời điểm phẫu thuật do nhiều
nguyên nhân bao gồm thời điểm người nhà đưa
bé đến khám trễ, trễ lịch hẹn phẫu thuật và biến
chứng sau tạo hình niệu đạo phải mổ lại nhiều
lần. Việc hoàn thành phẫu thuật trước lứa tuổi
đến trường là cần thiết để cải thiện kết quả phẫu
thuật cũng như tâm lý của trẻ.
Các tác giả Kolligian (2000)(8), Saleh (2010)(16),
Mokhless (2011)(12) ghi nhận 100% các trường
hợp CVDVB được đưa vào nghiên cứu đều đi
kèm dị tật LTT thể sau. Tỉ lệ LTT đi kèm trong
báo cáo của Pinke (2001)(15) là 79% với 21 trường
hợp (80,8%) LTT thể sau và 1 trường hợp LTT
thể giữa (3,8%) tương đương tác giả Mori và
Ikoma (1986)(13) với 16/20 trường hợp LTT thể
sau chiếm 80% và 3/20 trường hợp LTT thể giữa
chiếm 15%. Mặc dù tỉ lệ CVDVB đi kèm dị tật
LTT rất cao từ 80-100% nhưng CVDVB vẫn có
thể là dị tật riêng biệt không đi kèm LTT. Trong
đó chủ yếu là dị tật LTT thể sau, ít gặp LTT thể
giữa và không gặp LTT thể trước.
Các bất thường liên quan đến dị tật CVDVB
rất đa dạng, thuộc nhiều hệ cơ quan khác nhau.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 209
Nghiên cứu của các tác giả Parida(14), Pinke(15),
Fahmy(7) và chúng tôi cho thấy tỉ lệ các bất
thường đi kèm với dị tật CVDVB rất thay đổi. Sự
khác biệt này có thể do dị tật CVDVB là một dị
tật không thường gặp, tiêu chuẩn chọn mẫu và
số lượng bệnh nhân không giống nhau giữa các
nghiên cứu. Chúng tôi không thường xuyên
sàng lọc dị tật đi kèm ở bệnh nhi trừ khi các bất
thường của hệ cơ quan có biểu hiện lâm sàng rõ
ràng. Tuy nhiên các dị tật được đề cập tới gợi ý
đến hội chứng VACTERL. Mặc dù hội chứng
này chỉ nhắc tới bất thường ở thận mà ít đề cập
đến dị tật cơ quan sinh dục ngoài nhưng chúng
tôi cho rằng cần chú ý thăm khám cẩn thận và
đầy đủ để tránh bỏ sót các dị tật khác kết hợp
với dị tật CVDVB.
Kỹ thuật “Lỗ khuy áo” được áp dụng cho
các trường hợp CVDVB không hoàn toàn không
làm ngắn chiều dài DV sau mổ. Điều này có thể
giải thích nhờ thao tác bóc tách cắt bỏ mô xơ
bám dính phần gốc DV trước khi di chuyển DV
về vị trí mới không chỉ giúp bảo toàn chiều dài
DV và còn giúp tăng chiều dài DV ở đa số
trường hợp. Hơn nữa với kỹ thuật mổ đơn giản,
không cần lưu thông tiểu lâu để bảo vệ niệu đạo
như trong trường hợp mổ LTT nên đa số các
bệnh nhi được xuất viện sớm.
Trong 26 trường hợp được phẫu thuật sửa
tật CVDVB của nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận 7
trường hợp (26,9%) có biến chứng trong thời
gian nằm viện. Các biến chứng này chủ yếu của
vết mổ, không ghi nhận biến chứng nào liên
quan đến niệu đạo. Các tác giả sử dụng cùng
một kỹ thuật tương tự để tạo hình niệu đạo và
chỉnh chuyển vị trong 1 thì mổ như Arena và
cs(1), Koyanagi và cs(9) có tỉ lệ biến chứng chung
lần lượt là 38% và 48%. Theo nghiên cứu của
Pinke và cs (2001)(15), có 13/50 (26%) bệnh nhân
có biến chứng thứ phát sau sửa chuyển vị bao
gồm dính DV, cong DV tái phát và tinh hoàn ẩn
thứ phát. Kỹ thuật Glenn-Anderson có tỷ lệ biến
chứng thấp hơn đáng kể, với 5/37 (14%), so với
tạo hình kiểu V-Y là 2/6 (33%) và vạt xoay
Singapore là 6/7 (86%). Biến chứng liên quan
niệu đạo sau phẫu thuật bao gồm hẹp niệu đạo,
túi thừa niệu đạo và rò niệu đạo không có sự
khác biệt đáng kể nhưng tỷ lệ hẹp miệng niệu
đạo ở những bệnh nhân sử dụng kỹ thuật
Glenn-Anderson thấp hơn có ý nghĩa. Như vậy
chúng tôi nhận thấy tỉ lệ biến chứng sau mổ
CVDVB có kèm LTT và cong DV thay đổi tùy
vào việc chọn lựa số thì mổ, chọn thứ tự thì mổ
và chọn kỹ thuật mổ. Việc phẫu thuật sửa chữa
nhiều thì cho tỉ lệ biến chứng thấp hơn sửa chữa
một thì và kỹ thuật “Lỗ khuy áo” cũng cho tỉ lệ
biến chứng thấp hơn các kỹ thuật khác.
Mức độ hài lòng của người nhà bệnh nhi
được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố bao gồm số
lần phẫu thuật, kết quả sau mổ cả về chức năng
và thẩm mỹ, biến chứng sau mổ, thái độ tiếp
xúc, chăm sóc của nhân viên y tế trong thời gian
bệnh nhi nằm viện và quay lại tái khám. Trong
đó yếu tố về kết quả của phẫu thuật nhằm đảm
bảo chức năng đi tiểu và vẻ ngoài cơ quan sinh
dục giúp trẻ giống như các trẻ bình thường khác
đóng vai trò chủ yếu.
Dựa vào kết quả tái khám bao gồm tương
quan vị trí DV và bìu, chiều dài DV không ngắn
đi so với trước mổ, không có biến chứng của mổ
chuyển vị, thẩm mỹ đẹp kết hợp với đánh giá
mức độ hài lòng của ba mẹ bệnh nhi, nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận 72,7% trường hợp có kết quả
tốt hoàn toàn sau mổ. Như vậy kỹ thuật “Lỗ
khuy áo” thực sự là một kỹ thuật tốt giúp chỉnh
sửa dị tật CVDVB không hoàn toàn, không có
trường hợp nào còn chuyển vị sau mổ, không
gây biến chứng nào cần phẫu thuật lại và đem
lại kết quả thẩm mỹ rất tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arena F, Romeo C, Manganaro A, et al (2005). "Surgical
correction of penoscrotal transposition associated with
hypospadias and bifid scrotum: our experience of two-stage
repair". J Pediatr Urol, 1(4):289-94.
2. Chiang G, Cendron M (2010). "Disorders of The Penis and
Scrotum". Pediatric Urology, Gearhart J, Mouriqand P Editors,
pp.553-554. Saunders.
3. Dresner ML (1982). "Surgical revision of scrotal engulfment".
Urol Clin North Am, 9(2):305-10.
4. Ehrlich RM, Scardino PT (1982). "Surgical correction of scrotal
transposition and perineal hypospadias". J Pediatr Surg,
17(2):175-7.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 210
5. Fahmy AB (2017). "Penoscrotal Positional Anomalies".
Congenital Anomalies of the Penis, pp.95-102. Springer,
Switzerland.
6. Fahmy AB (2015). "Male Genital Anomalies". Rare Congenital
Genitourinary Anomalies-An Illustrated Reference Guide, pp.20-22.
Springer.
7. Fahmy AB, El Shennawy AA, Edress AM (2014). "Spectrum of
penoscrotal positional anomalies in children". Int J Surg,
12(9):983-8.
8. Kolligian ME, Franco I, Reda EF (2000). "Correction of
penoscrotal transposition: a novel approach". J Urol,
164(3Pt2):994-6.
9. Koyanagi T, Nonomura K, Yamashita T, et al (1994). "One-stage
repair of hypospadias: is there no simple method universally
applicable to all types of hypospadias?". J Urol, 152(4):1232-7.
10. Levy JB, Darson MF, Bite U, et al (1997). "Modified pudendal-
thigh flap for correction of penoscrotal transposition". Urol,
50(4):597-600.
11. Mendez-Gallart R, Tellado MG, Somoza I (2010). "Extreme
penoscrotal transposition". World J Pediatr, 6(1):89.
12. Mokhless I, Youssif M, Eltayeb M, et al (2011). "Z-plasty for
sculpturing of the bifid scrotum in severe hypospadias
associated with penoscrotal transposition". J Pediatr Urol,
7(3):305-9.
13. Mori Y, Ikoma F (1986). "Surgical correction of incomplete
penoscrotal transposition associated with hypospadias". J
Pediatr Surg, 21(1):46-8.
14. Parida SK, Hall BD, Barton L, et al (1995). "Penoscrotal
transposition and associated anomalies: report of five new cases
and review of the literature". Am J Med Genet, 59(1):68-75.
15. Pinke LA, Rathbun SR, Husmann DA, et al (2001). "Penoscrotal
transposition: review of 53 patients". J Urol, 166(5):1865-8.
16. Saleh A (2010). "Correction of incomplete penoscrotal
transposition by a modified Glenn-Anderson technique", African
J Pediatr Surg, 7(3):181.
17. Yachia D (2007). "Penoscrotal transposition". Text Atlas of Penile
Surgery, CRC Press, pp.73-74.
Ngày nhận bài báo: 01/04/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_ky_thuat_lo_khuy_ao_trong_dieu_tri_di_tat_chuyen_vi.pdf