Tài liệu Áp dụng công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết sớm ở trẻ sơ sinh có nguy cơ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
311
ÁP DỤNG CÔNG CỤ DỰ ĐOÁN NHIỄM KHUẨN HUYẾT SỚM
Ở TRẺ SƠ SINH CÓ NGUY CƠ
Cam Ngọc Phượng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh tỉ lệ sử dụng kháng sinh thực tế với tỉ lệ nên dùng kháng sinh dựa trên công cụ dự đoán
nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh nghi ngờ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu. Trẻ sơ sinh ≥ 34 tuần tuổi thai trong năm 2016 có điều trị kháng sinh
trong 72 giờ đầu sau sanh vào lô nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết để xếp loại
trẻ sơ sinh.
Kết quả: Tổng cộng có 2245 trẻ sơ sinh, 85 (3,8%) đã được dùng kháng sinh và 82 trẻ sơ sinh vào lô nghiên
cứu. Ở 46 trẻ sơ sinh, công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết hướng dẫn không dùng kháng sinh. Trong nhóm
“Điều trị kháng sinh muộn”, triệu chứng lâm sàng xấu hơn. Thở nhanh và suy hô hấp là triệu chứng thường
gặp.
Kết luận: Sử dụng kháng sinh có thể giảm trên 50%. Trẻ sơ sinh với chỉ số nguy cơ nhiễm khuẩn ba...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết sớm ở trẻ sơ sinh có nguy cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
311
ÁP DỤNG CÔNG CỤ DỰ ĐOÁN NHIỄM KHUẨN HUYẾT SỚM
Ở TRẺ SƠ SINH CÓ NGUY CƠ
Cam Ngọc Phượng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh tỉ lệ sử dụng kháng sinh thực tế với tỉ lệ nên dùng kháng sinh dựa trên công cụ dự đoán
nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh nghi ngờ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu. Trẻ sơ sinh ≥ 34 tuần tuổi thai trong năm 2016 có điều trị kháng sinh
trong 72 giờ đầu sau sanh vào lô nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết để xếp loại
trẻ sơ sinh.
Kết quả: Tổng cộng có 2245 trẻ sơ sinh, 85 (3,8%) đã được dùng kháng sinh và 82 trẻ sơ sinh vào lô nghiên
cứu. Ở 46 trẻ sơ sinh, công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết hướng dẫn không dùng kháng sinh. Trong nhóm
“Điều trị kháng sinh muộn”, triệu chứng lâm sàng xấu hơn. Thở nhanh và suy hô hấp là triệu chứng thường
gặp.
Kết luận: Sử dụng kháng sinh có thể giảm trên 50%. Trẻ sơ sinh với chỉ số nguy cơ nhiễm khuẩn ban đầu
thấp vẫn có thể diễn tiến nặng lên sau 12 giờ. Việc theo dõi lâm sàng liên tục là rất quan trọng. Cần có nghiên
cứu tiền cứu để đánh giá độ an toàn của tiếp cận này.
ABSTRACT
THE SEPSIS CALCULATOR IN NEWBORNS WITH SUSPECTED EARLY ONSET SEPSIS (EOS)
Cam Ngoc Phuong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 4- 2018: 311 – 314
Objective: To compare actual antibiotic use to the stratification based on the sepsis calculator in newborns
with suspected early onset sepsis (EOS).
Methods: Retrospectively Newborns born ≥ 34 weeks gestation in 2016 treated with antibiotics started
within 72h after birth were included. We assigned each newborn to recommended categories using the sepsis
calculator.
Results: There were 2245 newborns, 85 (3.8%) received antibiotics and 82 newborns were included. In 43
newborns, the advice of thesepsis calculator was not to start antibiotic therapy. In the ‘‘late treatment’’ group,
clinical condition deteriorated, including two newborns with culture-proven EOS. Tachypnea and respiratory
distress were significantly more present.
Conclusion: Antibiotic use could be reduced by more than 50%. Newborns with initial low sepsis risk score
clinically deteriorated beyond 12h of life. Continuous good clinical observation remains very important.
Prospective validation is necessary to evaluate the safety of this approach
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm chiếm tỉ lệ từ 0,5
đến 1,2 ca trên 1000 trẻ sanh sống(1). Tuy nhiên,
trên thực tế lâm sàng, số trẻ sơ sinh được điều trị
kháng sinh theo kinh nghiệm và không cần thiết
cao gấp 10 lần. Các thầy thuốc cần một công cụ
giúp tránh sử dụng kháng sinh không cần thiết
và đảm bảo an toàn cho trẻ sơ sinh.
Năm 2015 ban nghiên cứu Kaiser đã xây
dựng một công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết
sơ sinh trực tuyến. Công cụ này giúp dự đoán
nhiễm khuẩn sơ sinh sớm dựa trên năm yếu tố
*Bệnh viện Hạnh Phúc.
Tác giả liên lac: TS. BS. Cam Ngọc Phượng, ĐT: 0908485785, Email: phuong_cn@hanhphuchospital.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
312
nguy cơ từ bà mẹ lúc sanh(3). Nguy cơ nhiễm
khuẩn huyết sơ sinh lúc sanh trên 1000 trẻ sanh
sống được chia thành 3 nhóm: Nguy cơ thấp (0,5
– 0,63), trung bình (0,64 – 1,54) và cao (>1,54).
Công cụ này kết hợp chỉ số nguy cơ trên với
khám lâm sàng trẻ sơ sinh trong 12 giờ đầu sau
sanh, với phân loại lâm sàng là trẻ khỏe, trẻ nghi
ngờ và trẻ bệnh. Sau đó, công cụ sẽ đề nghị
hướng xử trí nên dùng kháng sinh hay không và
theo dõi tiếp theo.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm so
sánh việc sử dụng kháng sinh thực tế với hướng
dẫn của công cụ dự đoán nhiễm khuẩn huyết ở
trẻ sơ sinh ≥ 34 tuần tuổi thai nghi ngờ nhiễm
khuẩn sơ sinh sớm.
Trước hết, chúng tôi đánh giá xem có thể
giảm bớt tỉ lệ dùng kháng sinh mà không bỏ sót
nhiễm khuẩn huyết không. Ngoài ra, chúng tôi
xem xét có trường hợp nào theo công cụ thì
không điều trị kháng sinh, nhưng diễn tiến lâm
sàng sau đó nặng hơn không.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh tỉ lệ sử dụng kháng sinh thực tế với
tỉ lệ nên dùng kháng sinh dựa trên công cụ dự
đoán nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh nghi ngờ
nhiễm khuẩn sơ sinh sớm.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trẻ sơ sinh ≥ 34 tuần tuổi thai trong năm
2016 sanh tại bệnh viện Hạnh Phúc, có điều trị
kháng sinh trong 72 giờ đầu sau sanh vào lô
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Gồm những trẻ sử dụng kháng sinh phòng
ngừa trước phẫu thuật, hoặc số liệu các biến số
trong hồ sơ không đủ.
Thu thập số liệu
Các số liệu của bà mẹ bao gồm 5 biến số
dùng để tính chỉ số nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh
sớm (thấp, trung bình, cao) lúc sanh: Tuổi thai,
nhiệt độ cao nhất của mẹ trong chuyển dạ, thời
gian vở ối sớm, tình trạng nhiễm Streptococcus
nhóm B lúc sanh và điều trị kháng sinh của mẹ
trước sanh.
Nếu không có ghi nhận nhiệt độ bà mẹ
trong lúc sanh thì chọn nhiệt độ lúc nhập viện.
Tình trạng nhiễm Streptococcus nhóm B
dương tính nếu cấy âm đạo và/ hoặc hậu môn
và/hoặc nước tiểu 1 ngày trước lần sanh này
có kết quả dương tính.
Tình trạng nhiễm Streptococcus nhóm B được
xem là không rõ nếu (1) chưa thử xét nghiệm
hoặc (2) cấy cùng lúc ngày sanh nên chưa có kết
quả, hoặc (3) Kết quả cấy nước tiểu âm tính,
nhưng không cấy âm đạo hoặc hậu môn trong
trường hợp mẹ sanh non hoặc vở ối kéo dài.
Chúng tôi chọn tỉ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh
sớm cao nhất theo phần mềm
là 0,6/ 1000
trẻ sanh sống. Các xét nghiệm cận lâm sàng bao
gồm phết máu ngoại biên, CRP, Procalcitonin,
cấy máu.
Chúng tôi phân loại dựa trên các thông tin
lâm sàng từ hồ sơ bệnh án trong 12 giờ đầu sau
sanh. Trẻ sơ sinh sau sanh được chuyển lên nằm
chung phòng với mẹ, và không có triệu chứng gì
bất thường được phân loại là “trẻ khỏe”.
Trẻ có một triệu chứng bất thường kéo dài
≥ 4 giờ hoặc ≥ hai triệu chứng bất thường kéo
dài ≥ 2 giờ, như nhịp tim nhanh ≥ 160/phút,
thở nhanh ≥ 60/phút,nhiệt độ không ổn định
(≥ 38,0 C hoặc < 36,4 C) hoặc suy hô hấp (thở
rên, phập phồng cánh mũi hoặc thở co lõm
ngực) không cần oxygen được phân loại là
‘‘Trẻ nghi ngờ’’. Cuối cùng, trẻ cần thở
NCPAP hoặc thở máy, huyết động không ổn,
cần dùng thuốc vận mạch, bệnh lý não do
thiếu máu thiếu oxy (co giật hoặc Apgar 5
phút < 5 điểm) hoặc cần cung cấp oxygen ≥ 2
giờ để duy trì độ bão hòa oxygen > 90% (ngoài
phòng sanh) được phân loại là “trẻ bệnh”.
Chúng tôi sử dụng các yếu tố nguy cơ từ mẹ
để tính nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm lúc
sanh của trẻ, đồng thời kết hợp triệu chứng lâm
sàng của trẻ, sau đó áp dụng hướng dẫn xử trí
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
313
theo công cụ dự đoánđể phân loại (hồi cứu) trẻ
thuộc nhóm nên điều trị kháng sinh ngay, hay
nên theo dõi tiếp và xét nghiệm máu, hay chỉ cần
theo dõi tiếp.
Chúng tôi so sánh số trẻ thực tế đã được
dùng kháng sinh với số trẻ nên dùng kháng sinh
theo hướng dẫn của công cụ dự đoán.
Ngoài ra, chúng tôi so sánh nhóm trẻ dùng
kháng sinh sớm (trong vòng 12 giờ đầu sau
sanh) và nhóm muộn (sau 12 giờ tuổi).
Bảng 1: Hướng xử trí theo công cụ dự đoán dựa trên
chỉ số nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ và phân loại lâm
sàng trẻ sơ sinh
Phân
loại lâm
sàng
Chỉ số nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ
(trên 1000 trẻ sanh sống) Tổng
cộng
1,54
Trẻ khỏe
Theo dõi
26
Theo dõi và
xét nghiệm
4
Điều trị
kháng sinh
Theo dõi và
xét nghiệm
4
34 +1
Trẻ nghi
ngờ
Theo dõi và xét
nghiệm 12
Điều trị
kháng sinh 3
Điều trị
kháng sinh 5
20
Trẻ bệnh
Điều trị kháng
sinh
4
Điều trị
kháng sinh
10
Điều trị
kháng sinh
13
27
Tổng
cộng
42 17 23 82
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng có
2245 trẻ ≥ 34 tuần tuổi thai, 85 (3,8%) trẻ đã dùng
kháng sinh. Có ba hồ sơ thiếu số liệu, vì vậy, còn
lại 82 trẻ vào lô nghiên cứu. Có 42 (51,2%) trẻ
thuộc nhóm nguy cơ thấp; 17 (20,8%) trẻ thuộc
nhóm nguy cơ trung bình; và 23 (28%) trẻ thuộc
nhóm nguy cơ cao. Có 35 (42,7%) trẻ đã chích
kháng sinh nhưng theo công cụ dự đoán lại
thuộc nhóm “trẻ khỏe”; 20 (24,4%) trẻ thuộc
nhóm ‘‘Trẻ nghi ngờ’’; và 27 (32,9%) trẻ thuộc
nhóm “trẻ bệnh”(Bảng 1).
Tổng cộng có 46 (56,1%) trẻ được khuyên
không dùng kháng sinh theo công cụ dự đoán,
đây là những trẻ thuộc nhóm “trẻ khỏe” kèm
nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ thấp hay trung
bình hay là những trẻ thuộc nhóm “trẻ nghi
ngờ” kèm nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ thấp
(Bảng1).
Công cụ dự đoán khuyên dùng kháng sinh
ngay chỉ ở 36 (43,9%) trẻ,đây là những trẻ thuộc
nhóm “trẻ nghi ngờ” kèm nguy cơ nhiễm khuẩn
của mẹ trung bình hay cao hay là những trẻ
thuộc nhóm “trẻ bệnh” bất kể nguy cơ nhiễm
khuẩn của mẹ; đặc biệt, có một “trẻ khỏe” kèm
nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ cao.
Thời gian bắt đầu sử dụng kháng sinh: Trong
nhóm kháng sinh sử dụng sớm trong vòng 12
giờ đầu sau sanh, 51,5% trẻ thuộc nhóm “trẻ
bệnh”, trong khi ở nhómdùng kháng sinh muộn,
66,7% thuộc nhóm “trẻ khỏe” trong 12 giờ đầu.
Thay đổi triệu chứng lâm sàng sau 12 giờ: Có
35 trẻ sau sanh được phân loại là “trẻ khỏe”,
nhưng sau 12 giờ, có 19 trẻ diễn tiến thành “trẻ
nghi ngờ” và 9 trẻ diễn tiến thành “trẻ bệnh”.
BÀN LUẬN
Chúng tôi nhận thấy rằng bằng cách áp dụng
công cụ dự đoán nhiễm khuẩn, tỷ lệ điều trị
kháng sinh chích cho trẻ sơ sinh ≥ 34 tuần tuổi
thai nghi ngờ nhiễm khuẩn trong 72 giờ đầu sau
sanh có thể giảm hơn 50%.
Tại Mỹ, áp dụng chiến lược trên, tỉ lệ sử
dụng kháng sinh giảm từ 10% xuống còn 4%(2)
Tuy nhiên, cần lưu ý là có một số trẻ sơ sinh
lúc đầu thuộc nhóm “trẻ khỏe” có thể diễn tiến
nặng hơn sau 12 giờ tuổi.
Theo nghiên cứu của tác giả Trijbels-
Smeulders, có 24% các trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh
sớm, triệu chứng đầu tiên xuất hiện sau sanh 12
giờ(5). Trong khi đó, tác giả Escobar báo cáo chỉ có
5% trẻ sơ sinh diễn tiến nặng lên trong quá trình
theo dõi(2)
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
điều quan trọng đối với thầy thuốc là cần nhận
thức rằng trẻ sơ sinh sau sanh có chỉ số nguy cơ
nhiễm khuẩn thấp và có vẻ là “trẻ khỏe” vẫn có
thể diễn tiến nặng lên. Do đó, việc theo dõi lâm
sàng kỹ lưỡng vẫn là điều bắt buộc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có
3,8% trẻ sơ sinh có điều trị kháng sinh, thấp
hơn nghiên cứu của tác giả Escobar và cộng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
314
sự, với tỷ lệ là 6 đến 10%(2)
Ngoài ra, chúng tôi ghi nhận trong 62,2%
“trẻ khỏe” với nguy cơ nhiễm khuẩn thấp, trước
đây chúng tôi điều trị kháng sinh 7 ngày, dựa
vào theo dõi xét nghiệm CRP.
Hiện nay, nếu áp dụng công cụ dự đoán
nhiễm khuẩn, ngày bắt đầu dùng kháng sinh
muộn hơn, có thể giúp thầy thuốc mạnh dạn
rút ngắn thời gian điều trị kháng sinh còn 3
ngày, thay vì 7 ngày.
Nghiên cứu của chúng tôi còn một số điểm
hạn chế. Thứ nhất, đây là nghiên cứu tại bệnh
viện tư, có thể kết quả sẽ khác với các BV công.
Thứ hai, theo công cụ dự đoán nguy cơ
nhiễm khuẩn, tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết sơ sinh
sớm cao nhất là 0,6/1000 trẻ sanh sống(3). Như
vậy đối với dân số có tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết
sơ sinh sớm cao hơn, khi áp dụng công cụ dự
đoán này có thể đánh giá nguy cơ nhiễm
khuẩn thấp giả.
KẾT LUẬN
Công cụ dự đoán nguy cơ nhiễm khuẩn sơ
sinh sớm tương đối đơn giản và dễ áp dụng trên
lâm sàng và có thể giúp giảm bớt tỷ lệ sử dụng
kháng sinh.
Tuy nhiên, kỹ năng theo dỏi lâm sàng kỹ
lưỡng liên tục vẫn hết sức quan trọng. Cần có
thêm nghiên cứu áp dụng công cụ này ở nhiều
trung tâm khác để đánh giá tính an toàn của cách
tiếp cân này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cantey JB, Wozniak PS, Sa´nchez PJ (2015). Prospective
surveillance of antibiotic use in the neonatal intensive care unit:
results from the SCOUT study. Pediatr Infect Dis J; 34:p.267–72.
2. Escobar GJ, Puopolo KM, Wi S (2014). Stratification of risk of
earlyonset sepsis in newborns _34 weeks’ gestation. Pediatrics;
133:p.30–6.
3. Kaiser Permanente Division of Research (2015). Probability of
neonatal early-onset infection based on maternal risk factors
and the infant’s clinical presentation. Available from:
4. Puopolo KM, Draper D, Wi S, (2011). Estimating the
probability ofneonatal early-onset infection on the basis of
maternal risk factors. Pediatrics; 128:e1155–63.
5. Trijbels-Smeulders M, de Jonge GA, et al PCM (2007).
Epidemiology of neonatal group B streptococcal disease in the
Netherlands before and after introduction of guidelines for
prevention. Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed; 92:p.271–6.
Ngày nhận bài báo: 17/04/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/05/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/06/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_cong_cu_du_doan_nhiem_khuan_huyet_som_o_tre_so_sinh.pdf