Tài liệu Ánh xạ ẩn dụ, hoán dụ của phạm trù màu sắc đến phạm trù con người trong tiếng Việt: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
121
Ánh xạ ẩn dụ, hoán dụ của phạm trù màu sắc
đến phạm trù con người trong tiếng Việt
Metonymical and metaphorical mappings of color category to human category in
Vietnamese
Lê Cao Thắng
Trường THCS Lê Lợi
Le Cao Thang
Le Loi High School
Tóm tắt
Màu sắc là phạm trù cơ bản quen thuộc với con người. Đó là phạm trù hình thành sớm do tác động của
thực tiễn. Bởi vậy, với các ý niệm cần có “nguyên liệu” để cấu trúc hóa làm cơ sở tri nhận thì phạm trù
màu sắc là một trong những miền tích cực và hữu dụng nhất. Có thể nói, màu sắc ánh xạ tới hầu hết các
miền ý niệm trong tâm trí con người, tạo thành hàng loạt các ẩn dụ cấu trúc. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi đề cập đến sự ánh xạ từ miền nguồn là phạm trù màu sắc đến miền đích là phạm trù con người.
Từ khóa: phạm trù màu sắc, ánh xạ, miền ý niệm.
Abstract
The color, a basic category that is familiar to people. It is a category formed e...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ánh xạ ẩn dụ, hoán dụ của phạm trù màu sắc đến phạm trù con người trong tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
121
Ánh xạ ẩn dụ, hoán dụ của phạm trù màu sắc
đến phạm trù con người trong tiếng Việt
Metonymical and metaphorical mappings of color category to human category in
Vietnamese
Lê Cao Thắng
Trường THCS Lê Lợi
Le Cao Thang
Le Loi High School
Tóm tắt
Màu sắc là phạm trù cơ bản quen thuộc với con người. Đó là phạm trù hình thành sớm do tác động của
thực tiễn. Bởi vậy, với các ý niệm cần có “nguyên liệu” để cấu trúc hóa làm cơ sở tri nhận thì phạm trù
màu sắc là một trong những miền tích cực và hữu dụng nhất. Có thể nói, màu sắc ánh xạ tới hầu hết các
miền ý niệm trong tâm trí con người, tạo thành hàng loạt các ẩn dụ cấu trúc. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi đề cập đến sự ánh xạ từ miền nguồn là phạm trù màu sắc đến miền đích là phạm trù con người.
Từ khóa: phạm trù màu sắc, ánh xạ, miền ý niệm.
Abstract
The color, a basic category that is familiar to people. It is a category formed early by the impact of
reality. Therefore, for a concept which needs materials to be structured as the basis of cognition, the
color category will be one of the most active and useful. It can be said that colors map to almost
conceptual domains in the human mind, form a series of structural metaphors. In this article, we refer to
the mapping from the source domain - the color category to the target domain - the human category.
Keywords: color category, map, conceptual domain.
1. Khái lược về ẩn dụ ý niệm và
hoán dụ ý niệm
Cùng với sự hình thành và phát triển
của khoa học tri nhận, người ta nhận thấy
ẩn dụ và hoán dụ truyền thống không đơn
thuần là hình thức diễn đạt bóng bẩy của
văn chương. Đó còn là chìa khóa mở ra sự
hiểu biết những cơ sở của tư duy và các
quá trình nhận thức những biểu tượng tinh
thần về thế giới. Ẩn dụ do vậy không chỉ là
một phương thức diễn đạt ý nghĩ bằng
ngôn ngữ mà còn là phương thức để tư duy
về sự vật. Từ đây, đã bắt đầu hình thành
nên quan điểm tri nhận về ẩn dụ và hoán
dụ. Trong ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ và
hoán dụ được định nghĩa là những hiện
tượng về cơ bản là ý niệm. Ẩn dụ là sự ánh
xạ từ miền nguồn sang miền đích giữa hai
miền ý niệm khác nhau, và hoán dụ là sự
ánh xạ từ miền nguồn sang miền đích trong
cùng một miền ý niệm.
1.1. Ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ ý niệm là sự ý niệm hóa một
miền tinh thần qua một miền tinh thần
ÁNH XẠ ẨN DỤ, HOÁN DỤ CỦA PHẠM TRÙ MÀU SẮC ĐẾN PHẠM TRÙ CON NGƯỜI TRONG TIẾNG VI T
122
khác, gọi là sự ánh xạ (mapping) có hệ
thống từ một miền nguồn sang một miền
đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận
giúp lĩnh hội miền đích cụ thể, hiệu quả
hơn. Ẩn dụ ý niệm tiền giả định sự tồn tại
mô hình tri nhận nối kết hai miền
NGUỒN và ĐÍCH. Điều kiện để xác định
ẩn dụ ý niệm là cả hai thành tố (NGUỒN
và ĐÍCH) của nó đều phải là những ý niệm
(vì vậy mà nên gọi ẩn dụ tri nhận bằng
thuật ngữ ẩn dụ ý niệm sẽ đích xác hơn). Ý
niệm phải được cấu trúc hóa theo mô hình
trường: TRUNG TÂM-NGOẠI VI, theo đó
trong vai trò TRUNG TÂM thường là khái
niệm (không phải toàn bộ khái niệm, mà
chỉ một phần nào đó của nó), NGOẠI VI là
những yếu tố ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.
Ẩn dụ ý niệm phải phù hợp với ý thức
ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa dân tộc của
người bản ngữ.
Phân loại ẩn dụ ý niệm:
a) Ẩn dụ bản thể
Những kinh nghiệm của nhân loại về
sự vật đã cung cấp cho tư duy con người cơ
sở để hình thành khái niệm trừu tượng, đó
chính là ẩn dụ bản thể. Con người dựa vào
việc giải thích những kinh nghiệm trừu
tượng và mơ hồ như hoạt động nội tâm,
cảm giác, quan niệm, xem xét chúng một
cách riêng biệt, như những thực thể hữu
hình, từ đó tiến hành suy lí sang các sự vật,
hiện tượng khác. Ẩn dụ bản thể cung cấp
cấu trúc tri nhận ít hơn nhiều so với ẩn dụ
cấu trúc. Nhiệm vụ tri nhận quan trọng của
ẩn dụ bản thể là quy những trải nghiệm vốn
không thể phác họa rõ ràng, hoặc có tính
mơ hồ, trừu tượng của chúng ta về những
trạng thái cơ bản dưới dạng thức sự vật,
chất liệuVậy, ở ẩn dụ này, chúng ta sẽ có
miền nguồn là vật chất, chất liệu, vật chứa
còn miền đích là trạng thái, tâm lí, tư
tưởng
b) Ẩn dụ cấu trúc
Ẩn dụ cấu trúc là thông qua một khái
niệm để tạo nên một khái niệm khác. Nhận
thức về hai khái niệm tất nhiên là không
đồng nhất, nhưng cấu trúc của chúng bảo
đảm không thay đổi, tức là mỗi thành phần
cấu thành tồn tại trong mối quan hệ theo
quy luật đối ứng. Trong loại ẩn dụ này,
miền nguồn cung cấp một cấu trúc tri nhận
tương đối phong phú cho miền ý niệm
đích. Nói cách khác, chức năng tri nhận
của những ẩn dụ này là để cho phép người
nói hiểu được miền đích B nhờ vào cấu
trúc của miền nguồn A. Và sự hiểu biết
này diễn ra thông qua các ánh xạ ý niệm
giữa các yếu tố của miền nguồn A và miền
đích B.
c) Ẩn dụ định hướng
Ẩn dụ định hướng là một dãy khái
niệm về ẩn dụ phỏng theo không gian
phương vị cấu thành. Đó là loại ẩn dụ đối
chiếu trên dưới, trong ngoài, trước sau,
nông sâu, trung tâm, ngoại biêncác loại
không gian phương vị để tự tổ chức thành.
Ẩn dụ định hướng thậm chí còn cung cấp ít
cấu trúc ý niệm cho ý niệm đích hơn cả ẩn
dụ bản thể. Thay vào đó, nhiệm vụ tri nhận
của ẩn dụ định hướng là đưa ra một tập hợp
các ý niệm đích có liên kết với hệ thống ý
niệm của chúng ta. Tên gọi ẩn dụ định
hướng xuất phát từ thực tế rằng hầu hết các
ẩn dụ thực hiện chức năng này có liên quan
đến sự định hướng không gian cơ bản của
con người như lên-xuống, trung tâm-ngoại
biên.Chẳng hạn, ta có:
NIỀM VUI LÀ HƯỚNG LÊN; NỖI
BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG
NHIỀU LÀ HƯỚNG LÊN; ÍT LÀ
HƯỚNG XUỐNG
1.2. Hoán dụ ý niệm
Hoán dụ ý niệm cũng là sự ý niệm hóa
một miền tinh thần qua một miền tinh thần
LÊ CAO THẮNG
123
khác, gọi là sự ánh xạ (mapping) có hệ
thống từ một miền nguồn sang một miền
đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận
giúp lĩnh hội miền đích cụ thể, hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa
ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm là số miền
tham gia ánh xạ: ẩn dụ diễn ra giữa hai
miền, trong khi nguồn và đích của hoán dụ
nằm trong cùng một miền.
Có thể kể đến các hoán dụ ý niệm
quen thuộc như:
a) BỘ PHẬN THAY CHO TOÀN THỂ
b) TOÀN THỂ THAY CHO BỘ
PHẬN: Lấp đầy xe ca.
c) VẬT CHỨA THAY CHO DUNG
TÍCH: Uống hai li cà phê.
d) KHÁCH THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG
THAY NGƯỜI SỬ DỤNG
e) CÁI BỊ ĐIỀU KHIỂN THAY CHO
NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN
g) ĐỊA ĐIỂM THAY CHO CƠ QUAN
2. Khái lược về từ chỉ màu sắc trong
tiếng Việt
Theo trang web Wikipedia, màu sắc là
cảm giác mang đến cho hệ thần kinh của
người từ sự kết hợp tín hiệu của ba loại tế
bào cảm thụ màu ở mắt người. Cảm giác
này cũng bị ảnh hưởng "dài hạn" từ trí nhớ
lưu lại quá trình học hỏi từ khi lớn lên
trong xã hội, và "ngắn hạn" bởi các hiệu
ứng ánh sáng của phông nền. Màu sắc của
một tia ánh sáng là cảm giác màu mà tia
sáng đó gây nên ở mắt người. Màu sắc của
các vật thể là màu sắc của ánh sáng xuất
phát từ chúng.
Áp dụng lí thuyết của Berlin và Kay
trong việc nghiên cứu từ chỉ màu sắc và
bằng một số thực nghiệm, Nguyễn Khánh
Hà [3], [4] trong các nghiên cứu của mình
đã chỉ ra rằng, trong tiếng Việt có một lớp
từ chỉ màu cơ bản bao gồm 9 từ sau: đen,
trắng, đỏ, vàng, xanh, nâu, hồng, xám.
Đây là lớp từ thứ nhất. Các từ này có cùng
chung đặc điểm sau:
Là các từ được phổ biến rộng rãi;
Đơn giản về hình thái học: cả 9 từ
đều là đơn âm tiết;
Về mặt ý nghĩa: 9 từ này đều có
phạm vi biểu vật rộng lớn, được sử dụng
cho một số lượng đa dạng các sự vật, hiện
tượng;
Đặc điểm quan trọng nhất: 9 từ này
có khả năng tạo ra hàng loạt từ chỉ màu
phái sinh với phạm vi biểu vật hẹp hơn (mà
Belin - Kay coi là các từ thứ cấp).
Lớp từ thứ hai trong hệ thống từ chỉ
màu tiếng Việt là những từ phái sinh từ lớp
từ chỉ màu cơ bản. Lớp từ này có số lượng
rất lớn và chúng mang những đặc điểm
sau:
Về mặt cấu trúc: chúng là những từ
đa âm tiết. Các yếu tố trong từ kết hợp với
nhau theo quan hệ chính - phụ, trong đó
yếu tố chính luôn luôn là từ chỉ màu thuộc
lớp từ cơ bản (từ đơn âm). Yếu tố này có
thể đứng trước hoặc đứng sau trong từ
ghép, nhưng trong phần lớn trường hợp nó
đứng trước. Yếu tố phụ cho nó thường là
một tính từ, có thể rõ nghĩa (về mặt từ
vựng) hoặc chưa rõ nghĩa.
Ví dụ: Vàng/ rực
Đỏ /chon chót
Trắng/ muôn muốt
Về ý nghĩa: phạm vi biểu vật của
các từ này hẹp hơn so với các từ chỉ màu
cơ bản, do đó mà chúng luôn luôn bị bao
gồm - tức là nằm trong phạm vi của các từ
chỉ màu cơ bản.
Ví dụ: đỏ lòm lòm nằm trong phạm vi
của từ đỏ.
Lớp từ thứ ba trong hệ thống từ chỉ
màu tiếng Việt là các từ chỉ màu cụ thể.
Lớp từ này còn được gọi tên là nhóm từ chỉ
màu phụ. Màu phụ trong tiếng Việt hết
ÁNH XẠ ẨN DỤ, HOÁN DỤ CỦA PHẠM TRÙ MÀU SẮC ĐẾN PHẠM TRÙ CON NGƯỜI TRONG TIẾNG VI T
124
sức cụ thể, chúng được mượn trực tiếp từ
tên gọi của đối tượng, sự vật trong thế giới
khách quan, từ các màu phụ có thể quy
chúng thành các nhóm màu, trong đó có
một màu cơ bản đứng đầu nhóm. Ví dụ,
các màu vôi, kem, sữa, thiếc, bạc, ngà,
bạch kim, nguyệt bạch là nhóm màu phụ
của trắng; hoàng yến, mật ong, đồng
thau là màu phụ của vàng v.v
Theo đó, bài viết sẽ tập trung thiết lập
mô hình ánh xạ của 9 từ chỉ màu cơ bản và
các từ ngữ phái sinh của chúng nghĩa là bài
viết chỉ đi sâu lớp từ chỉ màu thứ nhất và
thứ hai .
Ngoài ra, chúng tôi cũng phân biệt từ
chỉ màu cơ bản với các từ đồng âm với nó
nhằm mục đích không xét đến các trường
hợp có vỏ ngữ âm giống với từ chỉ màu
sắc. Qua khảo sát Từ điển tiếng Việt, chúng
tôi nhận thấy có các trường hợp đồng âm
với các từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Việt
như sau:
vàng. 1. Kim loại quý, màu vàng
óng ánh, không gỉ, dễ dát mỏng và kéo sợi
hơn các kim loại khác, thường dùng làm đồ
trang sức. Nhẫn vàng. Quý như vàng. 2
(dùng phụ sau d., trong một số tổ hợp từ).
Cái rất đáng quý, ví như vàng. Tấm lòng
vàng. Ông bạn vàng. 3. Đồ làm bằng giấy
giả hình vàng thoi, vàng lá để đốt cúng cho
người chết theo tập tục dân gian (nói khái
quát). Đốt vàng. Hóa vàng.
xanh. dụng cụ để xào nấu thức ăn,
thường bằng đồng, đáy bằng, thành đứng,
có hai quai.
hồng 1 d. Chim ở nước có bộ lông
tơ rất dày, mịn và nhẹ. Nhẹ như lông hồng.
hồng 2 d. Cây ăn quả cùng họ với
thị, quả khi xanh có vị chát, khi chín thì
ngọt.
hồng 3 d. Cây cảnh cỡ nhỏ, cùng họ
với đào, mận, thân có gai, lá kép có răng,
hoa gồm nhiều cánh màu trắng, hồng hoặc
đỏ, ..., có hương thơm.
3. Ánh xạ từ miền nguồn “màu sắc”
tới miền ý niệm “con người”
Như chúng ta đã biết, sự ánh xạ trên
góc nhìn tri nhận là một hoạt động của quá
trình nhận thức qua các thao tác đồng nhất,
đối lập, loại biệt, chuyển hóa làm tái tạo lại
một bức tranh thế giới và ý niệm hóa thế
giới hiện thực, tạo ra một nhịp cầu nối kết
giữa cái cụ thể và cái trừu tượng. Với tính
chất là các tín hiệu, từ trong ngôn ngữ vừa
có chức năng chỉ dẫn các sự vật trong hiện
thực vừa có chức năng khêu gợi những
kích thích biểu tượng về các đồ vật mang
tên gọi. Chính vì vậy, tên gọi có một tiềm
năng chuyển di các phạm trù đối tượng
nhận thức và con người trong khi sử dụng
các yếu tố ngôn ngữ đã chịu sự chi phối
nước đôi giữa hai chức năng này. Con
người nhận thức thế giới thông qua những
biểu tượng về thế giới và nhờ có tư duy
con người có thể phân biệt các biểu tượng
ấy. Mối liên hệ giữa cái hiện thực và cái
tưởng tượng có tính chất phức hợp vì
chúng vừa giống nhau vừa khác nhau, vừa
đồng nhất vừa đối lập.
Trong tâm thức của người Việt nói
riêng và khá nhiều dân tộc thì vũ trụ được
hiện ra trước mắt con người là một vũ trụ
hồn linh theo đó vạn vật đều có linh hồn
đúng như Kant nhận định. Con người trong
quá trình tri nhận về thế giới luôn theo hai
con đường, một con đường chủ quan hóa
và một con đường khách quan hóa. Một
mặt con người lấy cái tôi làm trung tâm
cho nên vũ trụ hiện hữu trong nhận thức
của tôi. Đồng thời cũng có sự soi chiếu từ
vũ trụ vĩ mô (khách quan) vào vũ trụ vi mô
(của xã hội và con người...). Và chính vì lẽ
đó sự chuyển di phạm trù màu sắc sang
LÊ CAO THẮNG
125
phạm trù con người đã trở thành một hiện
tượng đáng xem xét.
4. Hiểu một cách tổng quát, con người
là động vật bậc cao, tiến hóa nhất về thể
chất, có ngôn ngữ, biết sáng tạo và biết sử
dụng công cụ lao động xã hội. Con người
vừa là chủ thể vừa là đối tượng phản ánh
chính của ngôn ngữ theo quan điểm truyền
thống. Hệ thống ý niệm cơ bản nhất về con
người bao gồm: đặc điểm ngoại hình, hoạt
động của con người, những vận động về
mặt tinh thần, tính cách và phẩm chất, thế
giới nội tâm, các quan hệ và hoạt động xã
hội, tương tác giữa con người và môi
trường xung quanh, Trong những ý niệm
vừa nêu, ngoại hình và cấu tạo cơ thể là hai
đối tượng có bản chất thực thể, trực quan,
dễ nhận thức. Còn lại, các ý niệm khác đều
khái quát, trừu tượng hoặc tương đối mơ
hồ. Các ý niệm thuộc nhóm sau sẽ cần các
công cụ tri nhận như ẩn dụ để cấu trúc lại,
tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các ý niệm
thuộc về con người đều có thể được ẩn dụ
hóa và đều rất phổ biến. Giải thích cho
điều này cần thấy được hai vấn đề chính:
thứ nhất, nhu cầu lí giải, tìm hiểu bản thể
của con người là vô cùng, ngày càng chi
tiết, tỉ mỉ, cụ thể, sinh động hơn; thứ hai,
các miền ý niệm cơ bản như “con người”
luôn luôn được ưu tiên để trở thành các
miền đích cho những trải nghiệm mới, tri
thức mới. Điều này đòi hỏi những ý niệm
về con người cần sâu sắc hơn, có giá trị tri
nhận cao hơn.
Tình cảm
Phẩm chất
Cảm xúc
Tư duy
Tương tác tự nhiên, xã hội
H.1. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “màu sắc” đến miền đích con người
Từ sơ đồ ánh xạ trên, bài viết xác lập
sự chuyển di ý niệm từ phạm trù màu sắc
sang phạm trù con người thông qua ẩn dụ
ý niệm sau: CON NGƯỜI LÀ MÀU SẮC.
Hệ thống các ẩn dụ ý niệm của ngôn
ngữ học tri nhận đã ghi nhận ẩn dụ về
con người là ẩn dụ phong phú và phổ
biến nhất. Trong xu hướng đó, phạm trù
màu sắc đã giúp con người cấu trúc hóa
các ý niệm liên quan đến con người.
Công thức tư duy tổng quát nhất của ẩn
dụ này đó là CON NGƯỜI LÀ MÀU
SẮC. Đây là ẩn dụ (phép chiếu) trung
tâm để từ đó tạo lập ra các ẩn dụ ý niệm
giáng cấp (bậc dưới), hoán dụ ý niệm
giáng cấp.
Các ẩn dụ bậc dưới là sự ánh xạ của
các điển mẫu và các từ ngữ phái sinh từ
nó đến những đặc điểm, phẩm chất của
con người. Chúng chi phối cách con
người nhìn nhận và ứng xử với bản thân
cũng như với môi trường xung quanh.
Màu sắc
ÁNH XẠ ẨN DỤ, HOÁN DỤ CỦA PHẠM TRÙ MÀU SẮC ĐẾN PHẠM TRÙ CON NGƯỜI TRONG TIẾNG VI T
126
Trong lược đồ ánh xạ trên, ba ẩn dụ
tình cảm, tư duy, cảm xúc đều thuộc vào
trạng thái tinh thần nên sẽ được gộp
chung thành một tiểu loại khi đi vào phân
tích cụ thể.
Như vậy nhìn từ góc độ điển mẫu, ta
có cấu trúc ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ
MÀU SẮC đóng vai trò là trung tâm. Từ
mô hình này, thông qua các phép chiếu
ẩn dụ, hoán dụ, ta được các cấu trúc thứ
cấp như sau:
3.1. Theo mô hình hoán dụ ý niệm
Vạn vật trên thế giới đều có màu sắc,
tri nhận về màu sắc là thành phần quan
trọng của kinh nghiệm con người khi
phạm trù hóa thế giới. Vì vậy, khi con
người xây dựng tri nhận về tình cảm cũng
hay lưu ý đến các phạm trù màu sắc. Với
phạm trù con người, ta thấy ấn tượng về
hình thức luôn là ấn tượng đầu tiên xuất
hiện khi tri giác về bất cứ đối tượng nào
trong thực tại. Nói đến màu sắc là nói đến
thuộc tính bên ngoài của thế giới sự vật
hiện tượng mà mắt người nhìn thấy được.
Đặc trưng này được lựa chọn để miêu tả
cho những đặc điểm ngoại hình con
người, các bộ phận cơ thể người. Bên
cạnh đó, bản thân sự chuyển di từ phạm
trù màu sắc sang phạm trù nhận thức về
ngoại hình con người ở khía cạnh biểu
hiện bên ngoài còn thể hiện tính chất bên
trong. Cụ thể là ở phương diện sức khỏe,
tình cảm, giai cấp/tầng lớp. Điều này là
cơ sở tạo nên những biểu thức hoán dụ ý
niệm giáng cấp trong quá trình tri nhận
của người Việt.
Người Việt chúng ta thuộc gốc Á
đông “máu đỏ da vàng”. Nói như vậy,
nhưng trong sự tri nhận của con người,
màu da của người Việt không chỉ là màu
vàng mà con mang những sắc màu khác,
sắc màu này bị chi phối bởi góc nhìn, tình
cảm, cách đánh giá của con người. Nhìn
màu sắc, chúng ta có thể đoán biết thể
trạng, sức khỏe và phạm trù màu sắc với
9 điển mẫu và hệ thống các từ ngữ phái
sinh với các sắc độ là công cụ hỗ trợ đắc
lực để thực hiện điều đó. Điều này làm
nảy sinh biểu thức hoán dụ thứ cấp:
MÀU SẮC THAY CHO SỨC KHỎE.
Có thể xem đây là sự mở rộng phạm trù
khi miền nguồn là màu sắc tái lập một
hoán dụ ý niệm để tri nhận về phạm trù
con người. Ta dễ dàng đón nhận các biểu
thức ngôn ngữ liên quan đến các từ chỉ
màu dùng để chỉ tình trạng sức khỏe
trong giao tiếp, ví dụ:
trắng hồng: sự cảm nhận về vẻ
mặt tươi tỉnh, thần thái khỏe mạnh.
trắng mét: sự cảm nhận về sắc
mặt nhợt nhạt, yếu đuối, mong manh,
thiếu sức sống.
xanh xao: có nước da xanh nhợt,
vẻ ốm yếu.
vàng vọt: có màu vàng nhợt nhạt,
vẻ yếu ớt.
hồng hào: (nước da) có màu đỏ
hồng, đẹp, biểu thị trạng thái khỏe mạnh.
Không chỉ vậy, màu sắc là một phần
tích hợp trong đời sống con người và có
những ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh
của cuộc sống về phương diện văn hóa và
tâm-sinh lý. Có thể dễ dàng nhận thấy là
tình cảm và các từ ngữ chỉ màu sắc
thường có sự liên hệ với nhau trong tất cả
các ngôn ngữ, do vậy một trong những cơ
sở tri nhận “nghiệm thân” trong cách biểu
đạt tình cảm, cảm xúc của con người cơ
bản liên quan đến màu sắc được tạo ra từ
sự biến đổi các trạng thái tâm-sinh lí của
cơ thể. Khi chúng ta trải nghiệm các miền
tình cảm, cùng với sự thay đổi lên xuống
của nhiệt độ bên trong cơ thể cũng có sự
thay đổi tương ứng trên nét mặt và thể
LÊ CAO THẮNG
127
hiện những tình cảm khác nhau. Chẳng
hạn như, khi chúng ta vui vẻ thì nét mặt
thường tươi tắn, da mặt hồng hào; khi tức
giận, lượng máu dưới da tăng lên, mặt
mũi đỏ ngầu lên; khi tâm trạng buồn đau
thường gây ảnh hưởng đến sự lưu thông
của mạch máu, nên nét mặt tái xanh; và
khi sợ hãi, máu dồn về trái tim, nên nét
mặt thường mất đi vẻ tươi tắn mà trở nên
tái xám. Với những kinh nghiệm như
trên, nên nhiều ngôn ngữ bao gồm tiếng
Việt đều rất chú ý khai thác các ý niệm
màu sắc nhất là màu sắc tỏ ra trên nét mặt
con người để ẩn dụ các miền tình cảm.
Trong tiếng Việt, qua tìm hiểu,
chúng tôi nhận thấy tình cảm tức giận của
con người thì thường có miền nguồn biểu
trưng liên quan đến màu tím, đỏ, như các
thành ngữ bầm gan tím ruột, giận tím
mặt, đỏ mặt tía tai, v.v.; tình cảm sợ sệt,
lo lắng thường có miền nguồn biểu trưng
từ ý niệm màu xanh, xám, chẳng hạn như
các thành ngữ tái xanh tái tử, tái mặt tái
xám, mặt xanh như chàm đỏ, v.v. Những
cách diễn đạt trên đều dựa trên cơ chế
nhìn biểu hiện bên ngoài để nói đến thuộc
tính bên trong hay nói khác đi lấy dấu
hiệu để gọi tên sự vật, hiện tượng. Theo
đó, ta xác lập hoán dụ MÀU SẮC THAY
CHO CẢM XÚC.
Bên cạnh đó, như ta đã biết, xã hội
Việt Nam mang đặc trưng nông nghiệp,
tính cố kết đã ràng buộc các cá nhân
trong chằng chịt các mối quan hệ từ gia
đình tới làng xã. Vị trí của con người
được đánh giá chủ yếu thông qua tương
quan giữa cá nhân và cá nhân với xã hội.
Do đây là một ý niệm trừu tượng nên
thường được thể hiện thông qua các ẩn dụ
ý niệm. Với sự năng động của phạm trù
màu sắc, quan hệ xã hội, địa vị, thân phận
của con người cũng được cấu trúc lại trên
cơ sở miền nguồn này. Con người xã hội
chịu sự phân hoá giai cấp, tầng lớp. Điều
này tương ứng với việc lựa chọn màu sắc
trang phục. Từ xưa, thời phong kiến, việc
lựa chọn màu sắc trang phục đã ngầm
mang tính chất thông báo về vị trí xã hội
của tầng lớp người. Từ đây, chúng ta đã
tri nhận màu sắc như là một tín hiệu để
thông báo về giai tầng xã hội. Có thể xác
lập sự tri nhận này qua mô hình hoán dụ
MÀU SẮC THAY CHO TẦNG LỚP/
GIAI CẤP. Có thể kể đến các biểu thức
ngôn ngữ như: Áo xanh (chỉ người người
công nhân), áo nâu sồng (chỉ người tu
hành), áo trắng học trò (chỉ học sinh),
thiên thần áo trắng (chỉ người hoạt động
trong lĩnh vực y tế),...
Ngoài ra, qua tìm hiểu, ta xác lập
được hoán dụ MÀU SẮC THAY CHO
LỨA TUỔI. Trong “Bình Ngô đại cáo”,
Nguyễn Trãi viết: Nướng dân đen trên
ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới
hầm tai vạ. Và trong thực tế giao tiếp
tiếng Việt, chúng ta vẫn sử dụng cách nói
đỏ đầu, con đỏ để chỉ đối tượng là trẻ
nhỏ. Ta lí giải điều này như sau: Trẻ sơ
sinh, dân thường, không có địa vị dưới
chế độ cũ, được coi là yếu ớt cần phải
được bảo vệ. Đặc trưng biểu trưng này
phụ thuộc vào tri nhận của con người về
thực tế dựa trên cơ sở tính nghiệm thân:
khi mới sinh, đứa trẻ thường đỏ hỏn, theo
thời gian đứa trẻ lớn lên sắc tố đỏ sẽ giảm
dần. Chính vì thế, đỏ trong các trường
hợp trên chỉ trẻ con.
3.2. Theo mô hình ẩn dụ ý niệm
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy
mọi tâm tư, tình cảm, trạng thái tâm lí,
xao động về tâm hồn hay những suy nghĩ,
triết lí, tư tưởng, vốn vô hình, trừu
tượng đã được nhìn nhận như màu sắc, có
thể tri giác, cảm nhận sinh động cụ thể.
ÁNH XẠ ẨN DỤ, HOÁN DỤ CỦA PHẠM TRÙ MÀU SẮC ĐẾN PHẠM TRÙ CON NGƯỜI TRONG TIẾNG VI T
128
Đây là cơ sở hình thành ẩn dũ ý niệm
TINH THẦN LÀ MÀU SẮC. Ẩn dụ
này cấu trúc hóa tất cả các trạng thái của
con người thành màu sắc, kéo theo là các
hoạt động, cảm giác tinh thần. Ẩn dụ này
gồm các ẩn dụ bậc dưới sau:
a) Tình cảm/ cảm xúc là màu sắc
Những cung bậc của tình cảm, hạnh
phúc, đau khổ, hờn ghen hay oán giận lần
lượt được hiện lên qua thế giới màu sắc.
Qua sự nhận thức của con người, các sắc
thái tình cảm tinh vi, tế nhị của con người
đều được hiện thực hóa bằng các từ ngữ
chỉ màu sắc. Những cung bậc vui, buồn,
yêu, thương, thù, hận, chờ đợi, tức giận,
nhung nhớ, đều được màu sắc hóa.
Như đã trình bày ở trên, ta nhận thấy
sự thể hiện tình cảm, cảm xúc của con
người trong một số trường hợp gắn liền
với đặc điểm bên ngoài và được thể hiện
theo cơ chế hoán dụ. Bên cạnh đó, bản
thân các điển mẫu và các từ ngữ phái sinh
của nó còn được sử dụng để gửi gắm tình
cảm mà không cần thông qua phán đoán
từ đặc điểm bên ngoài. Khi ấy, ta được ẩn
dụ ý niệm TÌNH CẢM/CẢM XÚC LÀ
MÀU SẮC.
Nếu em lên biên giới em sẽ gặp bạt
ngàn hoa.
Hoa sim, giữa đồi nắng gió, tím như
ai chờ mong.
Sắc hoa sim yêu thương trong lòng
người lính trẻ,
Chờ ai nên tím ngát bồi hồi giữa
biên cương.
(Lời bài hát “Hoa sim biên giới”,
Minh Quang)
Từ tím, tím ngát vang lên trong lời
bài hát đã cụ thể hóa tâm trạng của người
lính trẻ chốn biên cương. Tím ấy đâu chỉ
là tím hoa sim mà còn là tím nỗi nhớ, tím
tình yêu, tím chờ mong. Nhờ vậy, lời bài
hát trở nên cô đọng, hàm súc, mơ màng
b) Đời sống tâm linh là màu sắc
Trường hợp này có thể kể đến từ chỉ
màu cơ bản vàng (dùng để chỉ thế giới
của người chết). Đây là hình ảnh quen
thuộc hay được dân gian nhắc đến như
cách nói tránh, cách nói văn chương bóng
bẩy về cái chết. Hình ảnh này bắt nguồn
từ việc người Trung Quốc quan niệm
chốn âm phủ có chin dòng suối màu
vàng. Đây là một trong những kết quả
của quá trình tiếp xúc về ngôn ngữ, văn
hóa:
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ngoài ra, ta còn tìm thấy cách nói
khuôn xanh, cao xanh, trời xanh để
chỉ lực lượng tối cao chi phối cuộc sống
con người theo quan điểm thơ ngây thời
xưa. Trong giao tiếp của con người Việt
Nam hiện nay, vẫn không khó để bắt gặp
các cách diễn đạt này. Khi người ta vẫn
“Trời xanh ngó xuống mà coi”, “Nỗi
lòng này trời xanh có thấu” vào tình
huống éo le, tuyệt vọng.
c) Khát vọng/ ước mơ là màu sắc
Khi nói đến ước mơ, khát vọng;
những gam màu tươi tắn được tri nhận
trước tiên. Chúng ta vẫn thường sử dụng
vàng – xanh – hồng – đỏ trong diễn đạt
để thể hiện cái nhìn tích cực, lạc quan ở
tương lai. Ví dụ như:
- Giấc mộng vàng, tuổi hồng
- Khói trầm lan nhẹ ngấm không gian
Giây phút buồn lây đến mộng vàng
Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn cúc ở trong sương
(Hàn Mặc Tử, Mơ hoa)
d) Phẩm chất con người là màu sắc
Phẩm chất hiểu một cách thông
thường là tư cách của con người trong xã
LÊ CAO THẮNG
129
hội thường chịu đánh giá của cộng đồng.
Các yếu tố phẩm chất như đạo đức, lối
sống, tính cách đều khá chung chung.
Việc phân định một vài phẩm chất là tích
cực hay tiêu cực phụ thuộc vào nhiều hoàn
cảnh và c người. Một trong những công cụ
tư duy giúp người Việt tri nhận về phẩm
chất con người là phạm trù màu sắc.
Ta dễ dàng nhận thấy các biểu thức
ngôn ngữ dùng từ chỉ màu để miêu tả đặc
điểm phẩm chất của con người. Ví dụ
như sự ngây thơ, trong trắng, sự thủy
chung, sự xấu xa,
- Kẻ nọ có lòng dạ đen tối, chắc có
âm mưu gì đây.
- Ý nghĩ đen tối, lòng dạ đen tối.
- nhớ về thời áo trắng, tâm hồn
trắng trong
e) Sự may rủi là màu sắc là màu sắc
Ẩn dụ này xảy ra với trường hợp của
đen và đỏ. Các biểu thức ngôn ngữ như
vận đỏ; số đỏ; đỏ tình, đen bạc; được
sử dụng để chỉ quan niệm của con người
về sự may mắn, rủi ro trong cuộc sống.
Nhận xét: Như vậy, khi chuyển di từ
phạm trù màu sắc sang phạm trù con
người, người Việt chúng ta đã tri nhận
những thuộc tính nổi bật về đặc điểm
ngoại hình bên ngoài trước tiên để phán
đoán, nhận biết. Sự chuyển di này được
xác lập dựa trên tương tác ẩn dụ - hoán
dụ qua mô hình ánh xạ sau:
Miền nguồn
MÀU SẮC
ẨN DỤ
Miền đích
CON NGƯỜI
đen, trắng,
đỏ, xanh,
vàng, nâu,
hồng, tím,
xám
TINH THẦN
H.2. Mô hình ánh xạ từ phạm trù màu sắc sang phạm trù con người
Hoán dụ
ĐẶC ĐIỂM
BÊN NGOÀI
Miền nguồn
Sức khỏe
Cảm xúc
Tầng lớp/giai
cấp
Lứa tuổi
Miền đích
ÁNH XẠ ẨN DỤ, HOÁN DỤ CỦA PHẠM TRÙ MÀU SẮC ĐẾN PHẠM TRÙ CON NGƯỜI TRONG TIẾNG VI T
130
4. Kết luận
Vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri
nhận vào việc tìm hiểu sự chuyển ý niệm
từ phạm trù màu sắc sang phạm trù con
người đã cho thấy một nguyên lí quan
trọng, đó là, ánh xạ của phạm trù màu sắc
đến phạm trù con người dựa trên cơ chế
ẩn dụ và hoán dụ. Trong đó, sự ánh xạ
này còn kéo theo sự mở rộng phạm trù ẩn
– hoán. Chính sự chuyển di này đã làm
cho ngôn ngữ luôn sống động, tiềm tàng
những ý nghĩa mới phụ thuộc vào vốn
sống, kinh nghiệm, khả năng biến hóa, sử
dụng ngôn ngữ của mỗi người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận
(Ghi chép và suy nghĩ), NXB Khoa học
Xã hội.
2. Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận - Ẩn dụ tri
nhận, NXB Khoa học xã hội.
3. Nguyễn Khánh Hà (1995), Hệ thống từ chỉ
màu sắc trong tiếng Việt, luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Khánh Hà (2010), Từ ngữ phái sinh
chỉ màu trong tiếng Việt, Ngôn ngữ và Đời
sống, số 9/2010.
5. Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hoàng An
(dịch) (2016), Dẫn luận ngôn ngữ học tri
nhận (David Lee), Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội.
6. Trịnh Thị Minh Hương (2009), Tính biểu
trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng
Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản
thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương),
luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm TPHCM.
7. Hoàng Phê (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng
Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri
nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 2005.
Ngày nhận bài: 17/3/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 88_3334_2215140.pdf