Tài liệu Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến năng suất và phẩm chất xoài Cát Chu: VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
824
ẢNH HƯỞNG CỦA VẬT LIỆU BAO QUẢ ĐẾN NĂNG SUẤT
VÀ PHẨM CHẤT XOÀI CÁT CHU
Đoàn Thị Cẩm Hồng và Nguyễn Trịnh Nhất Hằng
Viện Cây ăn quả miền Nam
TÓM TẮT
Xoài là một trong những loại cây ăn quả quan trọng được trồng phổ biến vùng Đồng bằng sông
Cửu Long. Bao quả xoài là một trong những biện pháp hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiệu
quả trong việc sản xuất xoài theo hướng an toàn. Nghiên cứu ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến
năng suất và phẩm chất xoài Cát Chu được thực hiện tại Cao Lãnh, Đồng Tháp từ năm 2013 đến
2014. Vào giai đoạn 35 ngày sau khi đậu quả, tiến hành bao quả với các vật liệu bao khác nhau như
bao giấy 2 mặt của Thái Lan, bao không thấm nước của Đài Loan, bao Bikoo của Nhật và bao nylon
trắng. Kết quả thí nghiệm ghi nhận các loại bao giấy hai mặt, bao giấy không thấm nước, bao Bikoo
làm hạn chế sự rụng quả do côn trùng gây hại, tăng độ sáng bóng của vỏ quả khi thu hoạch và khi
chín, gia tăng năng su...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến năng suất và phẩm chất xoài Cát Chu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
824
ẢNH HƯỞNG CỦA VẬT LIỆU BAO QUẢ ĐẾN NĂNG SUẤT
VÀ PHẨM CHẤT XOÀI CÁT CHU
Đoàn Thị Cẩm Hồng và Nguyễn Trịnh Nhất Hằng
Viện Cây ăn quả miền Nam
TÓM TẮT
Xoài là một trong những loại cây ăn quả quan trọng được trồng phổ biến vùng Đồng bằng sông
Cửu Long. Bao quả xoài là một trong những biện pháp hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiệu
quả trong việc sản xuất xoài theo hướng an toàn. Nghiên cứu ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến
năng suất và phẩm chất xoài Cát Chu được thực hiện tại Cao Lãnh, Đồng Tháp từ năm 2013 đến
2014. Vào giai đoạn 35 ngày sau khi đậu quả, tiến hành bao quả với các vật liệu bao khác nhau như
bao giấy 2 mặt của Thái Lan, bao không thấm nước của Đài Loan, bao Bikoo của Nhật và bao nylon
trắng. Kết quả thí nghiệm ghi nhận các loại bao giấy hai mặt, bao giấy không thấm nước, bao Bikoo
làm hạn chế sự rụng quả do côn trùng gây hại, tăng độ sáng bóng của vỏ quả khi thu hoạch và khi
chín, gia tăng năng suất quả.
Từ khóa: Mangifera indica L., Đồng Tháp, xoài Cát Chu, vật liệu bao quả xoài.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây xoài (Mangifera indica L.) là một
loại quả cây phổ biến của vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Ở nước ta theo Cục Trồng trọt (2012)
cần cập nhật số liệu năm 2015, tổng diện tích
trồng xoài đạt khoảng 87.500 ha, xếp thứ 10
trên thế giới về diện tích. Vùng Đồng bằng
sông Cửu Long là nơi có diện tích trồng xoài
lớn khoảng 43.000 ha chiếm 49% so với tổng
diện tích xoài của cả nước, kế đến là vùng
Đông Nam bộ 21.500 ha chiếm 25%. Việc lạm
dụng phân hóa học, thuốc BVTV, phân bón lá
vào thời điểm cận thời gian thu hoạch làm tăng
dư lượng hóa chất độc hại trong quả, ảnh
hưởng đến môi trường và sức khỏe người tiêu
dùng. Bao quả là một trong những biện pháp
giúp hạn chế sử dụng thuốc BVTV hiệu quả
trong sản xuất xoài theo hướng an toàn.
Theo Trần Văn Hâu và cộng sự (2011),
cho rằng bao Thái Lan làm cho màu sắc vỏ quả
chuyển sang màu vàng 15 ngày đối với quýt
Đường và 45 ngày đối với cam Sành và cam
Dây, bao Thái Lan còn làm tăng độ sáng màu vỏ
quả ở giai đoạn thu hoạch. Tuy nhiên các loại
bao quả không làm thay đổi đặc tính nông học
và phẩm chất bên trong của quả. Tương tự, Trần
Văn Hâu và ctv., (2011), tiến hành thí nghiệm
trên xoài cát Hòa Lộc 16 năm tuổi và xoài Cát
Chu 9 năm tuổi tại huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp
bằng 3 loại bao: Thái Lan, Đài Loan và Nylon
đen. Kết quả cho thấy bao Thái Lan và bao
Nylon đen có hiệu quả làm vỏ quả chuyển sang
màu vàng sau khi bao. Xoài được bao bằng loại
bao Thái Lan có số điểm cát thấp, quả sáng
bóng trong khi bao Nylon đen làm nám vỏ quả.
Loại bao Thái Lan không làm ảnh hưởng đến độ
chắc của quả và phẩm chất thịt quả như độ Brix,
hàm lượng acid tổng. Một thí nghiệm khác của
Võ Thế Truyền và ctv., (2003) khi sử dụng bao
PP và bao giấy trên giống xoài cát Hòa Lộc giúp
vỏ và thịt quả sáng và đẹp hơn, tăng khối lượng,
giảm sâu bệnh.
Từ thực tế trên Nghiên cứu ảnh hưởng
của vật liệu bao quả đến năng suất và phẩm
chất xoài Cát Chu được thực hiện là cần thiết
nhằm tìm ra loại vật liệu bao quả thích hợp để
nâng cao năng suất và phẩm chất xoài Cát Chu.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
- Thời gian: tháng 06/2013 đến tháng 06/
2014.
- Thí nghiệm được bố trí tại xã Tân
Thuận Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
- Tuổi cây: 10 năm tuổi.
- Giống: xoài Cát Chu trong giai đoạn
sinh trưởng phát triển đồng đều và đang trong
thời kỳ cho quả ổn định.
- Khoảng cách trồng: 7 x 7m.
- Chuyển thông tin mô tả các loại túi bao
quả được tác giả sử dụng trong thí nghiệm lên
phần vật liệu.
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
825
2.2. Phương pháp thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối
hòan tòan ngẩu nhiên với 5 nghiệm thức và 4
lần lặp lại. Mỗi công thức thí nghiệm tiến hành
trên bao nhiêu cây, bao bao nhiêu quả.
Công thức thí nghiệm
STT Nghiệm thức Thời điểm xử lý
1 Túi bao quả Thái Lan (TL) Sau khi hết rụng sinh lý đợt 2 (30-35 ngày sau khi đậu quả).
Tiến hành tỉa quả (để lại 2 quả/chùm). Sau đó phun thuốc
phòng trừ bệnh thán thư và bọ trĩ bằng thuốc như: Amistar top,
Antracol 70WP, Sherpa, Actara
2 Túi bao quả Đài Loan (ĐL)
3 Túi bao quả Bikoo
4 Túi bao quả nylon trong suốt
5 Đối chứng (không bao)
- Sử dụng 4 loại bao quả:
+ Bao quả Thái Lan: màu vàng, đặc điểm
của loại bao này là có hai lớp, lớp ngoài có
màu vàng, bên trong có một lớp màu đen nhằm
ngăn ánh sáng đi qua. Có kích thước 16 x
32 cm.
+ Bao quả Đài Loan: có màu trắng, và
cho ánh sáng có thể đi qua. Có kích thước
16 cm x 32 cm.
+ Bao nylon trong suốt: loại 2,5 kg, được
đục 3 lỗ và cắt 2 góc túi để thoát nước.
+ Bao quả Bikoo được làm từ vật liệu
nhựa trong suốt BOPP. Kích cỡ lỗ rộng 100
micromet giúp thông thoáng, đồng thời lỗ đủ
nhỏ để ngăn chặn xâm nhập của côn trùng,
nấm bệnh, nước mưa từ bên ngoài.
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi:
- Tỷ lệ rụng (%) = số quả thu hoạch/tổng
số quả theo dõi. Tỉ lệ rụng phải bằng số quả
rụng/số quả theo dõi
+ Tỷ lệ quả sâu bệnh hại, (%) = tổng số
quả sâu bệnh hại, /tổng số quả theo dõi.
+ Tỷ lệ quả loại 1, 2 = tổng số quả loại 1,
2/tổng số quả quan sát (Loại 1 ≥ 300 g/quả,
loại 2 < 300 g/quả).
- Năng suất (kg/nghiệm thức): cân toàn
bộ số quả được bao quả/cây.
Sau khi thu hoạch chọn ngẫu nhiên 4
quả/LLL/NT (không viết tắt) đem phân tích các
chỉ tiêu vật lý, hóa học ở các thời điểm (vừa
thu hoạch, quả chín).
+ Độ chắc thịt quả: đo bằng máy đo độ
chắc (kg/cm2).
- Màu sắc vỏ quả và thịt quả: đo bằng
máy Color reader CR-13, Minolta, Nhật Bản.
Đo 5 điểm trên bề mặt vỏ quả và lấy giá trị
trung bình. Màu sắc được thể hiện ở ba chỉ số
L*, a*, b*.
L*: thể hiện độ sáng tối biến thiên 0 đến
100; a*: mức chuyển màu từ màu xanh dương
đến màu đỏ biến thiên từ -60 đến +60; b*: mức
chuyển màu từ màu xanh lá cây đến màu vàng
biến thiên -60 đến +60.
+ Khối lượng quả (TLT) (g): Cân khối
lượng 10-20 quả và tính khối lượng trung bình
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
826
+ Tỷ lệ thịt quả ăn được (%) = (tỷ lệ
phần thịt quả ăn được/trọng lượng quả) x100.
+ Độ Brix (%): được xác định bằng Brix
kế Atago Nhật Bản.
+ Hàm lượng acid hữu cơ (%): Chuẩn độ
bằng dung dịch NaOH 0,1N sử dụng chất chỉ
thị màu phenolphthalein 1%, acid tổng số được
tính trên acid citric theo tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN 5483-1991.
+ Hàm lượng vitamin C (mg/100g thịt
quả hay 100ml dịch quả): chuẩn độ với dung
dịch 2,6 – diclorophenollindophenol theo tiêu
chuẩn Việt Nam TCVN 6427-2:1998.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu theo phần mềm thống kê
MSTATC.
Bổ sung thông tin về phương pháp xử lý
thống kê tỉ lệ %, cần chuyển sang giá trị tương
ứng (Acsin x căn bậc 2 của p).
* Ghi nhận một số kỹ thuật canh tác
nhà vườn
Phân bón: 4 lần/cây/vụ
- Lần 1: Sau khi thu hoạch: 1,5kg ure + 2
kg supper lân + 0,6 kg KCl.
- Lần 2: Trước khi xử lý cho cây ra hoa:
2 kg supper lân + 0,4 kg KCl
- Lần 3: Sau đậu quả 1 tuần: 0,5kg ure +
0,3 kg KCl.
- Lần 4: Trước khi thu hoạch 1 tháng: 0,3
kg KCl
- Nước được tưới thường xuyên sau khi
thu hoạch và khi cây mang quả. Các lọai thuốc
như: Amistar top, Antracol 70WP, dầu khoáng
SK Enspray 99EC, Actara được phun để hạn
chế kịp thời một số loại sâu bệnh gây hại.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến tỷ
lệ rụng, quả thương phẩm và tỷ lệ sâu bệnh
của xoài Cát Chu
Bảng 1: Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến tỷ lệ rụng, phân loại quả và tỷ lệ sâu bệnh
(Viện Cây ăn quả miền Nam, 2013-2014)
Loại bao Tỷ lệ rụng (%)
Tỷ lệ quả loại I
(%)
Tỷ lệ quả loại
II (%)
Tỷ lệ quả bệnh
(%)
Bao Thái Lan 0,64c 96,86a 3,14b 0,00c
Bao Đài Loan 0,64c 96,23a 3,77b 0,00c
Bao Bikoo 1,28c 96,20a 3,80b 0,00c
Bao nylon 23,11a 79,97 b 6,94a 13,09a
Đối chứng 13,54 b 81,95 b 8,52a 9,53 b
Mức ý nghĩa * * * *
CV (%) 18,11 1,71 12,98 11,60
Ghi chú: Trong cùng một cột, các trị số có cùng mẫu tự không khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05 qua phép
thử Duncan; * khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05; số liệu đã được chuyển đổi sang (x+0,5)1/2 trước khi
xử lý thống kê.
Kết quả bảng 1 ghi nhận ở 35 ngày sau
đậu quả, quả được bao với các loại bao quả
khác nhau cho thấy bao Thái Lan và Đài Loan
có tỷ lệ rụng rất thấp (0,64%) và không khác
biệt có ý nghĩa với nghiệm thức bao Bikoo
(1,28%) nhưng khác biệt có ý nghĩa so với sử
dụng bao nylon (23,11%) và đối chứng
(13,54%). Việc sử dụng bao nylon trong để bao
quả đã làm cho nhiệt độ bên trong bao tăng
cao, quả hô hấp mạnh hơn dẫn tới làm quả mất
nước, cây cung cấp bổ sung không kịp thời dẫn
đến quả bị rụng, ngược lại khi sử dụng bao
nylon trong để bao quả mặc dù có đục lỗ nhưng
nước mưa vẫn đọng lại bên trong, ẩm độ trong
bao tăng cao làm cho nấm bệnh phát triển làm
quả rụng nhiều hơn.
Kết quả bảng 1 cho thấy tỷ lệ quả loại 1
ở nghiệm thức sử dụng bao Thái Lan, Đài Loan
và Bikoo khác biệt có ý nghĩa qua thống kê so
với bao nylon trong và đối chứng không bao
quả. Nghiệm thức bao nylon trong có tỷ lệ quả
loại 1 thấp (79,97%) là do tỷ lệ quả loại 2 và tỷ
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
827
lệ quả bị nhiễm bệnh ở nghiệm thức này cao
hơn các nghiệm thức còn lại. Mặt khác, theo
bảng 1 cho thấy 3 nghiệm thức bao Thái Lan,
Đài Loan và Bikoo quả xoài không bị sâu bệnh
gây hại, nghiệm thức bao nylon trong chiếm
13,09% và đối chứng 9,53%. Theo Võ Thế
Truyền và cộng sự (2003) đã tiến hành thí
nghiệm trên xòai cát Hòa Lộc ghi nhận nghiệm
thức không bao tỷ lệ quả bị gây hại rất cao, lên
đến 64,82%.
3.2. Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến
trọng lượng trung bình và năng suất của
xoài Cát Chu
Bảng 2: Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến trọng lượng quả và năng suất quả xoài Cát Chu
(Viện Cây ăn quả miền Nam, 2013-2014)
Loại bao Khối lượng quả (g) Năng suất (kg/cây)
Bao Thái Lan 378,75 16,30ab
Bao Đài Loan 364,17 17,85a
Bao Bikoo 342,92 16,96a
Bao nylon trong 335,00 13,05c
Đối chứng 358,75 15,20b
Mức ý nghĩa ns *
CV (%) 6,31 5,12
Ghi chú: Trong cùng một cột, các trị số có cùng mẫu tự không khác biệt xác suất 99,95% qua phép
thử Duncan; * khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05; ns:khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Theo kết quả bảng 2 cho thấy xoài Cát
Chu được bao quả ở giai đoạn 35 ngày sau khi
đậu quả cho trọng lượng quả từ (335,0 –
378,8g) tuy nhiên không khác biệt ý nghĩa qua
thống kê giữa các nghiệm thức. Năng suất ở
nghiệm thức bao quả Đài Loan và bao Bikoo
khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức không
được bao quả, ở nghiệm thức bao Đài Loan có
năng suất cao nhất (17,85kg/nghiệm thức) khác
biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng
(15,20 kg/nghiệm thức) (Bảng 2). Nghiệm thức
bao nylon trong suốt, năng suất thấp hơn
(13,05 kg/nghiệm thức) so với nghiệm thức đối
chứng (15,20kg/nghiệm thức), khác biệt có ý
nghĩa, điều này được giải thích là do tỷ lệ rụng,
tỷ lệ bệnh ở nghiệm thức này cao.
3.3. Ảnh hưởng vật liệu bao quả đến màu
sắc vỏ quả xoài Cát Chu tại thời điểm thu
hoạch và sau khi chín
Kết quả bảng 3 cho thấy bao quả bằng
bao Thái Lan, Đài Loan và Bikoo có chỉ số L*
(độ sáng) vỏ quả tại thời điểm thu hoạch khác
biệt có ý so với nghiệm thức bao quả nylon
trong và đối chứng. Sau khi quả chín cho thấy
độ sáng của nghiệm thức bao quả Thái Lan
giảm dần và độ sáng bao quả Đài Loan và
Bikoo tăng so với thời điểm thu hoạch và khác
biệt có ý nghĩa so với bao quả bằng nylon trong
và đối chứng. Kết quả này cũng phù hợp với
kết quả của Trần Văn Hâu và ctv., (2011) khi
tiến hành thí nghiệm bao quả trên xoài Cát Chu
(30 ngày SKĐT) và Cát Hòa Lộc (40 ngày
SKĐT) bằng các loại bao: Bao Thái Lan, Đài
Loan và Nilon đen đã cho thấy, tại thời điểm
thu hoạch bao Thái Lan và Đài Loan cho độ
sáng cao nhất. Ở thời điểm thu hoạch và sau
khi chín nghiệm thức bao quả Thái Lan có chỉ
số a* cao nhất và khác biệt có ý nghĩa so với
các nhiệm thức còn lại. Tương tự chỉ số b* ở
thời điểm thu hoạch và sau khi chín nghiệm
thức bao quả Thái Lan nghiên về màu vàng cao
nhất và không khác biệt với nghiệm thức bao
quả Đài Loan và Bikoo nhưng khác biệt có y
nghĩa với nghiệm thức bao quả nylon trong và
đối chứng. Các chỉ số màu ở nghiệm thức bao
Thái Lan cao hơn các nghiệm thức còn lại là do
loại bao này đã ngăn hoàn toàn lượng ánh sáng
đến với quả khi bao, làm cho ngưng sự thành
lập Chlorophyll (Bùi Trang Việt, 2002), kết
quả là chỉ số b* của vỏ quả tăng rất nhanh, quả
chuyển từ màu xanh nhạt đến vàng.
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
828
Bảng 3: Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến màu sắc vỏ quả tại thời điểm thu hoạch và sau khi
chín (Viện Cây ăn quả miền Nam, 2013-2014)
Loại bao Tại thời điểm thu hoạch Sau khi chín L* a* b* L* a* b*
Bao Thái Lan 78,15a -9,320a 39,11a 75,01a 0,98a 45,12a
Bao Đài Loan 69,05a -19,06b 36,86ab 72,16a -9,21b 42,93ab
Bao Bikoo 70,18a -18,31b 36,68ab 72,17a -10,45c 42,51ab
Bao nylon trong 59,73b -17,64b 34,07b 65,49b -11,42d 41,51b
Đối chứng 60,44b -18,04b 34,40b 66,28b -13,14c 40,23b
Mức ý nghĩa * * * * * *
CV (%) 4,09 4,33 4,13 2,91 4,52 3,59
Ghi chú: Trong cùng một cột, các trị số có cùng mẫu tự không khác biệt xác suất 99,95% qua phép
thử Duncan; * khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05; L*: thể hiện độ sáng tối biến thiên 0 đến 100; a*:
mức chuyển màu từ màu xanh dương đến màu đỏ biến thiên từ -60 đến +60; b*: mức chuyển màu từ
màu xanh lá cây đến màu vàng biến thiên -60 đến +60.
3.4. Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến màu sắc thịt quả xoài Cát Chu tại thời điểm thu
hoạch và sau khi chín
Bảng 4: Ảnh hưởng (của một số loại bao quả-cần thống nhất với tiêu đề các bản khác) đến màu
sắc thịt quả tại thời điểm thu hoạch và sau khi chín (Viện Cây ăn quả miền Nam, 2013-2014)
Loại bao Tại thời điểm thu hoạch Sau khi chín L* a* b* L* a* b*
Bao Thái Lan 83,50 -3,23a 39,98 78,45 0,68a 45,13
Bao Đài Loan 84,20 -6,58b 40,14 79,56 -3,56b 44,85
Bao Bikoo 84,66 -6,58b 40,37 79,39 -3,48b 46,85
Bao nylon trong 84,30 -5,71b 40,23 76,85 -4,18c 40,87
Đối chứng 85,25 -5,71b 40,76 78,03 -4,70c 43,75
Mức ý nghĩa ns * ns ns * ns
CV % 1,02 8,82 4,04 3,17 7,55 5,61
Ghi chú: Trong cùng một cột, các trị số có cùng mẫu tự không khác biệt xác suất 99,95% qua phép
thử Duncan; * khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05; L*: thể hiện độ sáng tối biến thiên 0 đến 100; a*:
mức chuyển màu từ màu xanh dương đến màu đỏ biến thiên từ -60 đến +60; b*: mức chuyển màu từ
màu xanh lá cây đến màu vàng biến thiên -60 đến +60.
Theo kết quả xử lý thống kê ở bảng 4
cho thấy tại thời điểm thu hoạch cũng như sau
khi chín độ sáng (chỉ số L*) và chỉ số b* giữa
các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa về
mặt thống kê. Theo Trần Văn Hâu và cộng sự
(2011), khi tiến hành bao quả xoài Cát Chu (30
ngày sau khi đậu quả) và Cát Hòa Lộc (40
ngày sau khi đậu quả) bằng 3 loại bao: Bao
Thái Lan, nylon đen và Đài Loan cũng đã kết
luận rằng, các loại bao không làm ảnh hưởng
đến màu sắc thịt quả xoài. Nghiệm thức bao
Thái Lan có chỉ số a* cao nhất ở cả thời điểm
thu hoạch và sau khi chín (lần lượt là: -3,23 và
0,68) khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức
đối chứng. Nghiệm thức bao Đài Loan, Bikoo
và Nylon trong không có sự khác biệt ý nghĩa
về chỉ số a* tại thời điểm thu hoạch, tuy nhiên
sau khi chín hai nghiệm thức bao Đài Loan và
bao Bikoo có chỉ số a* cao hơn và khác biệt có
ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng và bao
nylon trong suốt.
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
829
3.5. Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến phẩm chất quả xoài Cát Chu khi chín
Bảng 5: Ảnh hưởng của vật liệu bao quả đến phẩm chất quả xoài Cát Chu khi chín
(Viện Cây ăn quả miền Nam, 2013-2014)
Loại bao Vitamin C (mg/100ml)
Brix
(%)
TA
(%)
Độ chắc thịt
quả (kg/cm2)
Tỷ lệ thịt quả
(%)
Bao Thái Lan 26,79 16,66 0,69 1,21 72,39
Bao Đài Loan 26,53 16,63 0,63 1,31 73,59
Bao Bikoo 26,99 16,61 0,63 1,31 70,93
Bao nylon trong 26,33 16,61 0,65 1,26 67,25
Đối chứng 26,53 16,46 0,66 1,39 71,55
Mức ý nghĩa ns ns ns ns ns
CV (%) 5,65 3,74 10,88 7,25 8,00
Ghi chú: ns: khác biệt không có ý nghĩa thống kê
Kết quả bảng 5 cho thấy phẩm chất quả
như: hàm lượng vitamin C, độ Brix, hàm lượng
acid tổng số, độ chắc thịt quả và tỷ lệ thịt quả
không khác biệt có ý nghĩa qua phân tích thống
kê. Điều này cho thấy bao quả không làm ảnh
hưởng đến phẩm chất quả xoài Cát Chu. Theo
Võ Thế Truyền và cộng sự (2002) khi bao quả
bằng các loại bao: Bao vải, bao nhựa PP, bao
giấy dầu, bao giấy báo ở thời điểm quả 42 ngày
tuổi, cũng không làm ảnh hưởng đến phẩm chất
quả của xoài Cát Hòa Lộc. Kết quả nghiên cứu
của Trần Văn Hâu và ctv., 2011, cũng cho kết
luận khi bao xoài Cát Chu và Cát Hòa Lộc
bằng các loại bao Thái Lan, Nilon đen và Đài
Loan không ảnh hưởng phẩm chất của quả khi
bao ở 30 ngày sau đậu quả (xoài Cát Chu) và
40 ngày sau đậu quả (Cát Hòa Lộc).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Bao quả Thái Lan cho xoài Cát Chu ở
giai đoạn quả 35 ngày sau đậu, giúp vỏ quả có
màu vàng sáng đẹp khi thu hoạch.
- Bao quả Thái Lan, Đài Loan và Bikoo
cho xoài Cát Chu ở giai đoạn quả 35 ngày sau
đậu quả, giúp giảm tỷ lệ rụng quả, giảm sâu
bệnh, làm tăng năng suất và cho màu sắc vỏ
quả sáng đẹp hơn.
- Bao quả không làm thay đổi phẩm chất
quả như: hàm lượng vitamin C, độ Brix, hàm
lượng acid tổng số, độ chắc thịt quả và tỷ lệ thịt
quả xoài Cát Chu.
- Bao quả Bikoo giúp xác định chính xác
độ già quả khi thu hoạch hơn bao quả Thái
Lan, Đài Loan.
4.2. Đề nghị
Đề xuất này không cần thiết, nếu tốt rồi thí
cứ áp dụng, thực tiễn sẽ cho biết độ bền của túi.
- Đề nghị bổ sung vào kết quả đạt được
quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài theo
VietGAP cho các tỉnh vùng ĐBSCL.
Một thông tin vô cùng quan trọng làm cơ
sở cho việc lựa chọn túi bao hay không, chọn
loại nào là giá thành của túi. Tác giả cần viết
ngắn gọn các phần đã trình bày và bổ sung
bảng đánh giá hiệu quả kinh tế khi áp dụng bui
quả bằng các loại túi bao khác nhau. Thông tin
bài báo cho thấy túi bao sản xuất từ Nhật tối ưu
nhất, nhưng nếu giá túi quá cao, nông dân chưa
chắc đã lựa chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Hâu, Nguyễn Thị Phúc Nguyên và
Trần Sỹ Hiếu. 2011. Ảnh hưởng của ba loại
bao quả lên màu sắc vỏ và phẩm chất quả
xoài (Mangifera indica L.) tại huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội thảo sản xuất cây
ăn quả theo GAP. Bộ NNPTNT-Trung tâm
Khuyến nông Quốc gia, trang 117–125.
2. Trần Văn Hâu, Trần Sỹ Hiếu và Nguyễn Thị
Phúc Nguyên. 2011. Ảnh hưởng của ba loại
bao quả lên sự thay đổi màu sắc vỏ và phẩm
chất quả cam Sành, quýt Đường và cam Dây
(Citrus sp.) tại tỉnh Đồng Tháp. Hội thảo sản
xuất cây ăn quả theo GAP. Bộ NNPTNT-
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trang 107
– 116.
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
830
3. Lê Thanh Phong, Nguyễn Bảo Vệ và Huỳnh
Kim Định. 2002. Ảnh hưởng của vật liệu bao
quả trên sâu bệnh và phẩm chất quả xoài cát
(Mangifera indica L.). Tuyển tập Công trình
Nghiên cứu Khoa học, trường Đại học Cần
Thơ, trang 140 – 145.
4. Võ Thế Truyền và Nguyễn Thành Hiếu. 2002.
Ảnh hưởng của một số vật liệu bao quả trên
phẩm chất và khả năng phòng tránh vài loại
sâu bệnh hại phổ biến của xoài Cát Hòa Lộc.
Kết quả NCKH công nghệ rau quả 2002-
2003, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền
Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp TP. Hồ Chí
Minh, trang 226-231.
Trần Thế Tục và Ngô Hồng Bình. 2004. Cây xoài
và kỹ thuật trồng xoài. Nhà xuất bản Lao
động – Xã hội.
5. Bùi Trang Việt, 2002. Sinh lý thực vật đại
cương, Phần 1: Dinh dưỡng, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, trang
349.
ABSTRACT
Effect of fruit cover bag materials to fruit yield and quality of Cat Chu mango variety
Doàn Thi Cam Hong and Nguyen Trinh Nhat Hang
Southern Fruits Research Institute
Mango is one of important fruits widely grown in Mekong River Delta, Covering mango fruits
with proper materials takes an important role in the minimization of pesticides used and contribute
significantly to safe production. The study was conducted in Cao Lanh district, Dong Thap province
during 2013 – 2014. After 35 days from fruit setting, “Cat Chu” mango fruits were bagged with 4
different kinds of bags: Two layer bag made in Thailand, glossy paper made in Taiwan, Bikoo bag
made in Japan and nylon bag (PE). The results showed that covering mango fruits of Cat Chu variety
with two layer bag, glossy paper bag and Bikoo bag reduced the rate of fruit drop, increased fruit yield
(13,05 – 17,85kg/tree) and improved brightness of fruit skin compared to the control whereas fruit
quality kept unchanged (Brix, vitamin C, TA).
Keywords: Mangifera indica L., Dong Thap, mango Cat Chu variety, bag materials.
Người phản biện: TS. Bùi Quang Đãng
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
831
Hình: Quả xoài được bao quả
Hình: Quả xoài bị vết do
bao bằng bao nylon trong
Hình: Quả xoài không được bao quả
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
832
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_viet_1_8327_2130088.pdf