Ảnh hưởng của tư tưởng trung hoa đến gia giáo Huế dưới triều Nguyễn qua hệ thống thư tịch

Tài liệu Ảnh hưởng của tư tưởng trung hoa đến gia giáo Huế dưới triều Nguyễn qua hệ thống thư tịch: 3 (43) - 2019: NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 50 ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRUNG HOA ĐẾN GIA GIÁO HUẾ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN QUA HỆ THỐNG THƯ TỊCH Nguyễn Thị Tâm Hạnh* Tóm tắt: Là kinh đô của nhà nước quân chủ cuối cùng của Việt Nam, Huế được biết đến là nơi bảo lưu nhiều yếu tố cung đình vốn mang đậm màu sắc Nho giáo, trên nhiều phương diện: lễ nghi, kiến trúc, âm nhạc, ẩm thực, v.v... và đặc biệt là nếp giáo dục gia đình. Bên cạnh những biểu hiện trong thực hành gia giáo thì hệ thống thư tịch cổ, nhất là các trước tác gia huấn, gia quy và các bản hương ước, chế định của chính quyền là những di sản có giá trị được gìn giữ cho đến ngày này, ở tư gia lẫn các thư viện lớn. Thông qua những tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy rằng sự ảnh hưởng của Trung Hoa, trực tiếp hơn là Nho giáo, đến gia giáo của người Huế dưới triều Nguyễn là điều không thể phủ nhận. Song điều đáng nói là Nho sĩ Việt không đơn thuần mượn y nguyên gia giáo Minh, Thanh mà chủ động lựa chọn và dành nhiều công phu để...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 481 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của tư tưởng trung hoa đến gia giáo Huế dưới triều Nguyễn qua hệ thống thư tịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 (43) - 2019: NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 50 ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRUNG HOA ĐẾN GIA GIÁO HUẾ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN QUA HỆ THỐNG THƯ TỊCH Nguyễn Thị Tâm Hạnh* Tóm tắt: Là kinh đô của nhà nước quân chủ cuối cùng của Việt Nam, Huế được biết đến là nơi bảo lưu nhiều yếu tố cung đình vốn mang đậm màu sắc Nho giáo, trên nhiều phương diện: lễ nghi, kiến trúc, âm nhạc, ẩm thực, v.v... và đặc biệt là nếp giáo dục gia đình. Bên cạnh những biểu hiện trong thực hành gia giáo thì hệ thống thư tịch cổ, nhất là các trước tác gia huấn, gia quy và các bản hương ước, chế định của chính quyền là những di sản có giá trị được gìn giữ cho đến ngày này, ở tư gia lẫn các thư viện lớn. Thông qua những tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy rằng sự ảnh hưởng của Trung Hoa, trực tiếp hơn là Nho giáo, đến gia giáo của người Huế dưới triều Nguyễn là điều không thể phủ nhận. Song điều đáng nói là Nho sĩ Việt không đơn thuần mượn y nguyên gia giáo Minh, Thanh mà chủ động lựa chọn và dành nhiều công phu để diễn Nôm và biên soạn các trước tác cho riêng mình; tạo nên vốn di sản có giá trị, có bản sắc riêng gắn với văn hóa của dân tộc. Từ khóa: Gia giáo, Huế, thư tịch, triều Nguyễn, Trung Hoa. 1. Đặt vấn đề* Xuất phát từ sự tiếp giáp địa lý; giao thương và nhất là quá trình xâm lược về mặt chính trị - quân sự, chính sách đồng hóa văn hóa trong suốt 1000 năm đã dẫn đến sự chi phối tất yếu của Trung Hoa đối với người Việt trên tất cả các phương diện tổ chức đời sống xã hội, bao gồm gia giáo. Sự chi phối này được thể hiện ngay ở bản thân từ “gia giáo” (家教) - một từ Việt gốc Hán. Cùng với những biểu hiện trực tiếp trên mặt ngôn ngữ với lớp từ vựng liên quan đến gia giáo (từ ngữ liên quan đến đạo lý, quan hệ gia đình, các chuẩn mực), sự ảnh hưởng của Trung Hoa đối với gia giáo của người Việt còn được thể hiện qua các sự kiện lịch sử - văn hóa. Bắt đầu từ thế kỷ thứ II tr. CN, như Đại Việt sử ký toàn thư đã viết, nhà Tần đã phái 50 vạn “binh phải tội đồ” xuống Nam Việt, bắt * TS. Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế. đầu cuộc xâm lăng và thôn tính nước ta. An Dương Vương mất nước vào tay Triệu Đà. Vị lệnh quan này đã nhân việc nhà Tần suy vong, tự xưng đế, sau chấp nhận làm “phiên vương” nhưng lại gọi mình là “Man Di đại trưởng lão phu”, đòi đặt ngang bằng nhà Hán. Sự xâm nhập của văn hóa Hán vào Nam Việt lúc bấy giờ, do đó, hầu như không đáng kể, như Triệu Đà đã nói với Lục Giả - sứ giả nhà Hán (139 tr.CN): “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”; "Ở đất Việt này không ai đủ để nói chuyện được” (1); hay Hoài Nam Vương [Lưu] An tâu với Hán Vũ Đế (135 tr.CN) về việc dân “không theo pháp độ”; “không nhận chính sóc” (2). Chỉ sau thời điểm 111 tr.CN, khi nhà Hán thiết lập 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam [nay thuộc Việt Nam] cùng với 6 quận khác (Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Châu Nhai, Đạm Nhĩ - nay thuộc Trung Hoa) ở Nam Việt; “đặt Thứ sử, Thái thú”; “dời những người phạm tội ở Trung Quốc sang ở lẫn vào”; “cho học sách ít nhiều, hơi thông hiểu lễ hóa’; “dựng nhà Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa 51 học, dẫn dắt bằng lễ nghĩa” (3), thì mới tạo nên sự tiếp xúc thực sự giữa văn hóa Việt với Hán. Ở thời kỳ này, Hán Vũ Đế thực hành chính sách “dẹp bỏ bách gia, độc tôn Nho học” (4), Nho giáo theo đó cũng bắt đầu xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta. Sự ảnh hưởng này ngày càng sâu sắc, đặc biệt khi Sĩ Nhiếp được Hán Linh Đế cử làm Thái thú Giao Châu (187 - 226), đã ra sức truyền bá văn hóa phương Bắc, làm cho nước ta “thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến” (5). Cần nói thêm rằng, trong sự phân chia đẳng cấp thời Đông Hán, gia giáo là tiêu chí quan trọng để phân biệt nhà thường dân với sĩ tộc, nên xã hội “coi trọng việc tề gia, coi trọng việc giáo dục văn hóa trong gia tộc và tuyên dương đạo hiếu, phát triển thành gia học đặc biệt và môn phong thanh cao” (6). Ngay từ đầu thời Đông Hán, ngoài các nội dung liên quan đến gia giáo trong Tứ thư và Ngũ kinh (tập trung ở Lễ ký và Luận ngữ), Mã Viện - người đã đến dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (43) và lưu lại đất Giao Chỉ 3 năm - cũng là tác giả của một số sách gia huấn, như: Giới huynh tử nghiêm, đôn thư. Cùng thời, còn có Ban Chiêu (45-116), em gái của Ban Cố (tác giả Hán thư), viết sách Nữ giới... Cuối thời Đông Hán, cùng với “danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người” (7) nhờ Sĩ Vương “trọng kẻ sĩ”, gia giáo của tầng lớp sĩ tộc Trung Nguyên theo đó cũng đã đến Nam Việt và ghi dấu từ khoảng thế kỷ thứ II. Bắt đầu thời Tùy - Đường, khi Tùy Văn Đế (581- 604) bãi bỏ Cữu phẩm quan nhân pháp (chế độ thụ hưởng đặc quyền chính trị của tầng lớp sĩ tộc), thực thi khoa cử chọn hiền tài, sự ảnh của Nho giáo đến vùng Giao Chỉ ngày càng sâu rộng. Hai anh em Khương Công Phụ, Khương Công Phục người Cửu Chân (này là tỉnh Thanh Hóa) đỗ tiến sĩ và làm quan ở kinh đô Tràng An của nhà Đường (thế kỷ VIII) là một minh chứng. Việc Tùy Đường cho phép thường dân có thể xuất sĩ làm quan cũng là cơ hội và động lực để giới bình dân tiếp cận gần hơn với Nho giáo. Ở Trung Hoa, giáo dục văn hóa không còn dành riêng cho tầng lớp sĩ tộc. Ở Giao Chỉ/An Nam, Việt Nam tập lược, quyển nhị, mục nói về Danh hoạn (bản khắc 1887) đã nhắc đến Vương Phúc Trù "làm chức lệnh ở Giao Châu, gây dựng giáo hóa, nhân dân tôn đức, đến nay vẫn còn thờ phụng, gọi là Đền Vương phu tử” (8). Tân Đường thư cũng đề cập đến một nhân vật nổi bật khác là Kiền Châu Thứ sử, dưới Nguyên Hòa, “đến làm Đô hộ ở An Nam, làm quan thanh liêm không nhũng nhiễu, dùng Nho thuật để nắn thói tục, chính sự được tốt đẹp, dân man được yên ổn” (9). Chữ Hán và Nho thuật được phổ biến rộng khắp hơn. Tuy nhiên, sự rộng khắp này chủ yếu là trong tầng lớp thống trị, quan lại, các “kiều nhân” thuộc nhiều thành phần khác nhau từ phương Bắc di cư đến. Mặc dù vậy, quá trình tiếp xúc lâu dài thông qua cộng cư, xen cư và cả hôn nhân giữa người Hán và người Việt đã tạo thành bộ phận người Hán Việt hóa ngày càng đông đảo. Họ cũng chính là tầng lớp tinh hoa góp phần quan trọng trong xây dựng nền văn hóa theo bản sắc riêng của người Việt. Khác với thời kỳ Bắc thuộc trước thế kỷ thứ X, sau chiến thắng của Ngô Quyền (938) trên sông Bạch Đằng, việc tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của các triều đại Đại Việt diễn ra một cách chủ động trên cương vị của một quốc gia có chủ quyền. Ban đầu, hai triều đại Lý - Trần chọn Phật giáo làm nền tảng tư tưởng chính trị như một cách tạo bản sắc riêng của dân tộc, tách biệt với ý thức hệ Tống Nho, nhằm thể hiện vị thế độc lập tự chủ của mình. Tuy nhiên, thể chế chính trị quân chủ - trung ương tập quyền vẫn tuân theo mô hình Trung Hoa. Nho giáo cũng quay lại vị trí độc tôn dưới thời Lê - Nguyễn. Đây cũng là hai triều đại mà ảnh hưởng gia giáo trên nền tảng Nho thuật của Trung Hoa được thể hiện một cách rõ nét nhất. Với vai trò trung tâm của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn và là kinh đô của nhà Nguyễn, những biểu hiện này càng dễ nhận diện trên đất Huế. 3 (43) - 2019: NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 52 2. Biểu hiện sự chi phối của tư tưởng Trung Hoa đến gia giáo Huế dưới triều Nguyễn 2.1. Hệ thống sách học cho trẻ em và các tác phẩm liên quan đến gia giáo 2.1.1. Sách và các tác phẩm có nguồn gốc từ Trung Hoa Trong bối cảnh gia thục và giáo dục học hiệu chưa hoàn toàn tách biệt, sách học/đọc cho thanh thiếu niên, đặc biệt là ấu học/tiểu học, có thể xem là một dạng sách gia giáo. Hệ thống kinh sách dành riêng để giảng dạy cho các vương tôn công tử nhà Nguyễn mà chúng ta có thể tra cứu trong sử liệu hay dưới dạng tàng bản, chính là loại hình thể hiện rõ nét sự tích hợp giữa sách gia giáo với sách giáo khoa và nhất là sự ảnh hưởng, nếu không muốn nói là rập khuôn từ Trung Hoa. Để định chương trình giảng dạy cho các hoàng tử tại nhà học Tập Thiện đường, năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Cần chánh học sĩ Ngô Đình Giới đã đề xuất các sách mà trước đó, Cao Tông nhà Thanh [Càn Long (1711- 1799)] đã học khi còn là hoàng tử, gồm: Tứ truyện, Ngũ kinh, Tính lý, Cương mục, Đại học diễn nghĩa, Cổ văn uyên giám. Ngoài ra, ông cũng đề nghị chọn lọc trong số các sách Khâm định, Ngự định, Ngự toản, Ngự phê do các vua Đại Thanh sai các Nho thần biên soạn để “định làm sách giảng luận, ban cho các vị học tập”, bao gồm: Tứ thư giải nghĩa, Thư kinh giải nghĩa, Lễ ký giải nghĩa, Xuân Thu giải nghĩa, Dịch kinh giải nghĩa, Ngự toản thi nghĩa chiết trung, Ngự định Hiếu kinh, Tập chú Hiếu kinh, Ngự phê lịch đại thông giám tập lãm (10). Năm 1837 (Minh Mạng năm thứ 17), khi Giáo đạo Nguyễn Đăng Tuân xin định lại chương trình giảng dạy ở Tập Thiện đường thì hệ thống kinh sách cũng không nằm ngoài Tứ thư (Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử), Ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu), Chư sử/Bắc sử (Sử ký, Tiền Hán thư, Cựu Đường thư, Tân Đường Thư, Tùy thư). Đặc biệt, trong cải cách lần này, Nguyễn Đăng Tuân chú ý đến các sách tiểu học để dạy cho các hoàng tử “tuổi còn ấu thơ () biết nghi tiết tiến, lui, ứng đối”, như: Tiểu học tập chủ của Lưu Tử Trừng đời Tống, Tiểu học vận ngữ của La Trạch Nam đời Thanh, Khai tâm bửu giám (được cho là soạn thảo dưới đời Tống). Riêng sách Khai tâm bửu giám với tên đầy đủ là Tân toản thiếu tiểu Khai tâm bửu giám - hiện còn được lưu giữ ở viện Hán Nôm (mã số VHv. 719) - cho biết đây là sách do Hàn lâm viên tập và cho khắc in vào năm 1834. Các sách này giảng dạy cho các hoàng tử còn nhỏ những kiến thức chính yếu của Nho giáo, như: Minh thiên (hiểu rõ về trời), Tôn tâm (giữ vẹn lòng tốt), Cẩn ngôn (cẩn thận trong lời nói), Thận hành (thận trọng trong việc làm); các nghi tiết quét tước, đi đứng, thưa gửi, v.v... (11). Không được nhắc đến trong chính sử, nhưng những thư tịch hiện tồn tại các kho lưu trữ Hán Nôm cũng đã cho thấy sách ấu học căn bản của Trung Hoa khá phổ biến ở Việt Nam, kể cả trước lẫn dưới triều Nguyễn. Các sách này được Hoa kiều mang đến hoặc người Việt sao chép, biên soạn lại từ sách của Trung Hoa: Tam tự kinh, được cho là của Vương Ứng Lân (tự Bá Hậu), nho sĩ nhà Tống “viết ra để dạy trường nhà” và “có thể tạm thời xác định thời điểm cuốn sách này truyền nhập vào Việt Nam là năm 1836, hoặc sớm hơn một chút là quãng năm 1820 - 1830, theo các chứng cứ văn hiến học khả khảo hiện còn” (12); Thiên tự văn do Châu Hưng Tự (470- 521) biên soạn dưới thời Nam triều cũng được du nhập vào Việt Nam ít nhất là thời Lê, qua ghi nhận của Bùi Dương Lịch (1744-1814) trong lời tựa của Bùi Gia huấn hài: “Tôi từng ở làng thấy mọi nhà dạy trẻ phần nhiều cho học thuộc lòng quyển Thiên tự văn của Chu Hưng Tự, cuối cùng chẳng có ích lợi gì. Có người lấy sách Hiếu kinh, Tiểu học thay vào, Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa 53 câu ngắn, câu dài, khó khăn cho con trẻ" (13). Ngoài ra, còn có một số sách Hán ngữ khác: Bách gia tính, Ấu học ngũ ngôn thi (hay còn gọi là Trạng nguyên thi), được xác định tương đồng với Thần đồng thi của Uông Thù (tự Đức Ôn) sáng tác dưới thời Bắc Tống. Cũng như sách học cho trẻ em, sách gia huấn và các sách liên quan đến gia giáo có nguồn gốc Trung Hoa được lưu hành ở Việt Nam thời phong kiến nói chung, Huế nói riêng rất phổ biến. Có thể kể đến: Minh Đạo gia huấn, Thái thị gia huấn, Chu công gia huấn, v.v... Một số sách loại thư liên quan đến gia giáo của nhà Thanh cũng đã được nhà Nguyễn cho biên tập, sao khắc, như bộ Ngũ chủng di quy (gồm Dưỡng chính di quy, Học sĩ di quy, Tùng chính di quy, Giáo nữ di quy, Huấn tục di quy) do Trần Hoằng Mưu biên soạn (còn gọi là Trần thị ngũ loại di quy) do Phó sứ Trần Văn Chuẩn (1836-1885) mang về khi đi sứ ở Trung Hoa. Đây là bộ sách “trích dẫn lời tiền nhân, chủ yếu là những trước tác có liên quan từ thời Tống trở đi, chia loại biên soạn, đem các quy giới, quan châm, dung ngôn, gia ước, thế phạm, tông quy, ngôn ngữ tập hợp thành” (14). Trong đó, Giáo nữ di quy (giáo dục người phụ nữ trau dồi công dung ngôn hạnh, vai trò làm mẹ, làm vợ) và Dưỡng chính di quy (dẫn những câu cách ngôn của Chu Tử trong trị gia) là những sách liên quan trực tiếp đến gia giáo, được chính Trần Văn Chuẩn duyệt và in sang, trích sao vào các năm Tự Đức thứ 31, 32 (1878, 1879). Một số loại sách có nội dung liên quan đến việc giáo dục trong gia đình của người Trung Hoa cũng đã được người Việt diễn Nôm. Các tàng bản cho thấy thể loại sách này dưới triều Nguyễn được in khắc khá phổ biến, thường khuyết danh cả tác giả lẫn dịch giả, như: Nữ tử tu tri, Nữ tắc diễn âm, Khuyến phu ca, Bài ca răn cờ bạc, v.v... Bên cạnh đó là các tác phẩm mà chúng ta có thể truy nguyên nguồn gốc xuất xứ, thời điểm ra đời, như: Nhị thập tứ hiếu của danh sĩ nhà Nguyên (Quách Cự Nghiệp, 1280-1346) được quan bộ Lễ Lý Văn Phức (1785-1849), trong lần đi sứ sang nhà Thanh vào năm Minh Mạng thứ 16 (1836), mang về diễn Nôm với tiêu đề Nhị thập tứ hiếu diễn âm; Nữ phạm diễn nghĩa do Nguyễn Phúc Miên Trinh (1820-1947) “vâng dịch” và chú giải (1853) từ tác phẩm Nữ phạm đời Minh, vốn dựa trên “Liệt nữ truyện" của Lưu Hướng đời Hán (15). Ngoài ra, sách song ngữ Hán - Nôm để dạy chữ Hán vỡ lòng, như Nhất thiên tự (khuyết danh), Ngũ thiên tự (khuyết danh); Tam thiên tự (Ngô Thì Nhậm, 1786 -1803) cũng được xếp vào sách gia giáo dạy về tri thức văn hóa cho trẻ đồng ấu. Dưới triều Nguyễn, đáng chú ý là cuốn Tự Đức thánh chế tự học diễn nghĩa ca, một cuốn từ điển Hán Việt được viết theo thể lục bát, dễ học, dễ nhớ và được “bộ Lễ trình lên vua Thành Thái (1889-1907) vào năm 1896 và được khắc in sau đó (từ 1898) theo đúng như di nguyện của Tự Đức” (16); Sơ học vấn tân (khuyết danh), viết về lịch sử Trung Hoa, Việt Nam (từ thời Hồng Bàng đến nhà Nguyễn), v.v... 2.1.2. Tác phẩm gia huấn của Nho sĩ người Việt Người Việt cũng dành nhiều công phu để soạn sách gia huấn qua các thời đại. Các tác phẩm này không nằm ngoài tư tưởng đạo đức Nho gia với các thể loại thường thấy trong văn học cổ Trung Hoa. Ở Huế, các ông hoàng triều Nguyễn cũng đã có nhiều trước tác liên quan đến việc giáo huấn con cháu hoàng tộc, quan lại trong triều và dân chúng trên tinh thần Nho giáo. Ngoài các chỉ, dụ liên quan đến việc của Tôn thất và nội cung của các đời vua, có thể kể đến Hoàng Huấn cửu thiên (1847) - một tập thơ gồm 9 bài tương ứng với 9 thiên của vua Thiệu Trị (Cao minh, Bác hậu, Sủng tuy, Trung lương, Từ ái, Hiếu đễ, Tạo đoan, Hữu vu, Chí tín). Sau khi được Nội các biên tập, tập thơ này được ban cho các giảng đường để 3 (43) - 2019: NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 54 dạy cho Nho sinh (17). Chính thất của ông, Quý phi Nghi Thiên Chương Hoàng hậu (Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ của vua Tự Đức) cũng là người nổi tiếng “thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ huấn lục” (18). Có thể xem Từ huấn lục là một cuốn sách gia huấn được viết theo lối “biên thuật”, gồm 225 bài giáo huấn của mẹ (bà Từ Dụ) răn dạy các hoàng thân và quan lại từ năm Tự Đức 12 (1859) đến năm Tự Đức 31(1878) (19). Gia đình của quan lại người Huế cũng có những bản gia huấn, sau trở thành các tác phẩm được xã hội biết đến rộng rãi. Từ thụ yếu quy (1867) của Đặng Huy Trứ là cuốn sách mà ông cho rằng chỉ “để làm khuôn phép cho bản thân và cho con cháu đời sau, không dám nghĩ để làm khuôn phép cho ai” (20) nhưng ảnh hưởng của nó đã vượt ra giới hạn của gia tộc họ Đặng. Ngoài ra, Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (1868) là tập sách mang tính “gia sử” khác, gồm 47 thiên mà Đặng Huy Trứ ghi lại lời nói và việc làm hay của cha mình (Dịch Trai - Đặng Văn Trọng) với mong muốn: “Con cháu tôi, nếu ngày đọc đêm suy nghĩ sẽ thấy như cha tôi đang dạy bảo ở trước mắt, bản thân nếu cố gắng thực hiện sẽ thấy như cha tôi nhắc nhở bên mình” (21). Tương tự Đặng Dịch Trai ngôn hành lục, Văn Nghị Công niên biểu của người Việt gốc Hoa Minh Xuyên Trần Tiễn Hối (1869-1919) cũng là một tác phẩm viết theo thể ký về cuộc đời và sự nghiệp của cha mình, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành (1813-1883). Bằng việc kể lại các sự kiện lịch sử gắn với những ứng xử của một vị quan đầu triều, đây cũng là một tác phẩm gia giáo dưới hình thức nêu gương về lời nói và việc làm của tiền nhân. Ngoài sách và các văn bản gia huấn được viết trên giấy, gia huấn được khắc trên đá, gỗ dưới dạng ký, minh hoặc thơ cũng khá phổ biến ở Huế nói riêng, Việt Nam nói chung. Đặc biệt, trong những ngôi nhà rường đặc trưng của Huế, hoành phi, câu đối, biển bản ngoài chức năng trang trí, loại hình văn khắc này còn mang nội dung tự thuật về ý chí, sự nghiệp, nếp sống của gia chủ; đồng thời cũng là lời giáo huấn cho con cháu về lòng hiếu kính, uống nước nhớ nguồn, khuyến học, đề cao cuộc sống hoà thuận, sum vầy cũng như những phẩm chất cần có theo chuẩn mực Nho gia. Bài “Tự huấn minh” hiện lưu giữ tại từ dòng họ Cao, làng Thế Chí Đông (huyện Phong Điền) là một tác phẩm gia huấn tiêu biểu ở dạng này. Từ lời di ngôn của Tổng đốc An Hà Cao Hữu Dực (1799-1859), con trai của ông là Quang Lộc Tự Khanh Cao Hữu Sung (tự Lư Khanh) đã cho khắc gỗ vào năm Tự Đức 31 (1878) để nhắc nhở cháu con về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung, thiện lành, cần kiệm, liêm minh, v.v... Tương tự, bài minh về nguồn gốc họ tộc và nội dung một đạo sắc do vua Khải Định (năm thứ 9-1924) ban phong tước Dực bảo Trung hưng Linh phò chi thần cho thỉ tổ Lương Thanh [.] đại lang, được phụng lục trên một tấm biển bằng gỗ, treo ở vị trí trang trọng nhà thờ họ Lương Thanh (làng Phước Tích, huyện Phong Điền) cũng là một hình thức văn bản gia huấn, nhắc nhở con cháu về ý thức nguồn cội. Ngoài ra, chúng ta có thể tìm thấy các dạng gia huấn dưới hình thức văn khắc gỗ (câu đối, thơ) ở bất cứ nhà thờ họ hay nhà rường nào của Huế. 2.2. Các chế định giáo hóa của chính quyền Ngoài các tác phẩm gia huấn, nhà Nguyễn còn tiếp nhận các hình thức giáo hóa của chính quyền của nhà Minh, Thanh. Dưới triều Minh, Chu Nguyên Chương (1328-1398) đã ban bố thánh huấn Lục dụ và được vua Thuận Trị (1636-1661) kế thừa khi lập nhà Thanh. Sau đó, vua Khang Hy (1654-1722) viết bản Thượng dụ thập lục điều; người kế vị, Ung Chính đế (1638-1735), trên cơ sở đó cũng đã biên soạn thành Thánh dụ quảng huấn. Thông qua quan lại địa phương hoặc các trưởng lão có kiến thức và đức hạnh, các bản huấn dụ Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa 55 này được phổ biến đến người dân khắp các địa phương nhằm sửa đạo đức, nề nếp, phong tục. Trong đó, có nhiều nội dung liên quan đến gia giáo và ứng xử trong gia đình, như: “Hiếu thuận với cha mẹ. Cung kính với trưởng bối. Hoà thuận với xóm làng. Dạy bảo cho con em” (Lục dụ); hay “dạy hiếu đễ để trọng nhân luân”, “dạy con em để ngăn việc xấu”, “mở gia thục để dạy con em” (Thượng dụ thập lục điều, Thánh dụ quảng huấn) (22). “Phỏng theo đại ý bản Thánh dụ quảng huấn nước Thanh”, vua Minh Mạng đã dụ cho bộ Lễ “đặt những điều huấn cho rõ ràng” (23), và ban hành Huấn địch thập điều (1834), hạ chiếu cho nhân dân các làng xã học tập. Năm 1870, bản Huấn địch này được vua Tự Đức diễn Nôm dưới dạng lục bát thành Thánh dụ huấn địch thập điều diễn nghĩa ca (1870) (24). Trước đó, vua Lê Thánh Tông cũng từng định Nhị thập tứ huấn điều (1470) và được vua Lê Hiển Tông minh định lại vào năm 1499 với chín điều quan trọng liên quan đến gia giáo: Nhiệm vụ giáo dục của cha mẹ đối với con cái (điều 1), Gia trưởng (điều 2), Lễ nghĩa vợ chồng (điều 3), Quan hệ anh em (điều 4), Quan hệ nàng dâu với gia đình chồng (điều 6), Đàn bà góa (điều 7, 8, 9), Người vợ (điều 10) (25). Vua Lê Huyền Tông cho ban hành Lê triều giáo huấn điều lệ (Cảnh Trị nguyên niên, 1663). Để thuận tiện cho việc phổ biến trong dân gian, chúa Trịnh Doanh đã sai Nhữ Đình Toàn minh định, diễn Nôm và phát hành (1760) dưới thời vua Lê Hiển Tông (Cảnh Hưng năm thứ 21-1760). Mười trong 47 điều của Lê triều giáo huấn nói về bổn phận tương ứng với vai trò trong gia đình mà mỗi thành viên đảm nhận (gia trưởng, con cái, cha mẹ, anh em, vợ chồng, nàng dâu, đàn bà góa). Như vậy, việc ban bố thánh dụ giáo hóa dân chúng phỏng theo điển lệ Minh Thanh dưới triều Nguyễn không phải là chưa có tiền lệ ở nước ta. Điểm khác biệt là nếu nhà Thanh quy định một tháng giảng tập hai ngày do quan lại địa phương phụ trách (26) nhà Lê cử người “cao tuổi, đạo đức học tập khá, phẩm hạnh tốt làm người đứng đầu, cứ những ngày nhàn rỗi, đưa người dân đến đình quán, công sở hội họp (27)” thì nhà Nguyễn quy định “phủ Thừa Thiên và các nha, tỉnh, phủ, huyện, châu, cứ hàng năm, lấy ngày tốt của hai tháng Mạnh mùa xuân mùa thu, các học thần trong ngoài thì lấy ngày một của bốn tháng Trọng, các xã dân, thì lấy ngày mồng một bốn tháng Quý theo lễ hội giảng” (28). Tương tự nhà Lê và các triều đại Trung Hoa, sự ảnh hưởng của chính quyền đối với gia giáo còn thể hiện ở chính sách nêu thưởng người trung hiếu tiết nghĩa. Năm 1822, vua Minh Mạng đã xuống chỉ dụ: “Phàm có trung thần phong cho thờ cúng, liệt nữ, thưởng biển nêu khen, có đủ cả điển lệ. Nhưng hiếu tử (người con có hiếu), nghĩa phu vẫn chưa được biểu dương (). Chuẩn từ nay các thành, doanh, trấn đều nên để tâm tìm tòi (...) tâu lên đợi chuẩn nêu thưởng” (29). Với đường lối “lấy đạo hiếu để sửa trị” (30), dựa vào Hội điển nhà Thanh, các chính sách để khuyến khích lòng hiếu đễ được nhà Nguyễn đặc biệt coi trọng, thể hiện rõ trong Đại Nam Hội điển sử lệ. Có thể kể đến những chế định về việc phong tặng cho ông bà cha mẹ của quan viên văn võ (Phong tặng, quyển 29); Quy định về việc quan lại, học trò về phụng dưỡng, thăm nom chịu tang cha mẹ (Lệ xử phán, quyển 35) (31); Quy định về việc cử người đức hạnh dạy Hiếu kinh cho trẻ em ở làng xã khi lên 8 và những hậu đãi cha mẹ các quan, trinh thưởng các nhà năm đời vẫn ở chung (Phong giáo, quyển 100) (32). Đặc biệt, tiếp thu từ Bộ luật Hồng Đức, bất hiếu cùng với ác nghịch, bất mục, bất nghĩa, nội loạn là 5 tội liên quan đến quan hệ gia đình cũng được Hoàng Việt luật lệ của nhà Nguyễn xếp vào Thập ác (Luật về tội danh và các điều lệ, quyển 179) 3 (43) - 2019: NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 56 (33). Như vậy, cũng như chế độ phong kiến Trung Hoa với nhiều “chính sách và biện pháp thi hành giáo hóa của chính quyền () nhằm tạo ra được tập quán dư luận và phong khí xã hội trật tự có lợi cho vương triều thống trị, lấy đó tác động và chế định các khuynh hướng gia giáo” (34), nhà Nguyễn cũng lấy đạo hiếu dạy dân và khuyến khích gia trưởng dạy con đạo trung. Có thể nói rằng, với trật tự tổ chức xã hội theo quan điểm Nho gia: Nhà là đơn vị cơ sở cho Nước và rộng hơn là Thiên hạ, khuynh hướng gia giáo người Việt nói chung, Huế nói riêng dưới thời quân chủ luôn đặt dưới sự chi phối của chính sách giáo hóa mang tính nhất quán từ triều đình đến làng xã. Hệ thống tài liệu gia huấn, pháp luật, điển chế, không nằm ngoài việc củng cố cho cá nhân tuân thủ các quy tắc ứng xử đúng với vị trí, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình (Chính danh) gắn với từng mối quan hệ và chuẩn mực cụ thể: tam cương (vua - tôi, cha - con, chồng - vợ); ngũ thường (nhân - lễ - nghĩa - trí - tín) đối với nam giới; tam tòng (theo cha, theo chồng, theo con), tứ đức (công - dung - ngôn - hạnh) đối với phụ nữ, nhằm đảm bảo cho gia tộc (nhà) được vận hành theo những tôn ti trật tự định sẵn của xã hội rộng lớn hơn. Đối với bậc cai trị, ngoài yếu tố bình thiên hạ ở người Việt không rõ nét, sự rèn luyện của cá nhân theo tiêu chuẩn của người quân tử phải đi tuần tự các bước từ cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia đến trị quốc. Đó cũng là lí do, các nhà chính trị, tư tưởng cũng là những người coi trọng việc biên soạn các tác phẩm tự huấn, gia huấn, gia phạm như đã đề cập. 3. Thay lời kết Có thể thấy, sự ảnh hưởng của Trung Hoa đến gia giáo của người Huế đi theo những con đường khác nhau: gián tiếp qua gia giáo ở vùng Bắc Bộ; trực tiếp qua người Hoa (Minh Hương) đến định cư ở xứ Đàng Trong và đặc biệt là sự củng cố của Nho giáo dưới triều Nguyễn. Đây cũng là lí do khiến Huế là nơi phát xuất và lưu giữ một hệ thống văn bản gia huấn mang tinh thần Nho giáo hết sức phong phú. Đó không chỉ gia huấn quý tộc cung đình, gia huấn bình dân, gia huấn nhà nước, gia huấn tư gia; dưới dạng truyền khẩu lẫn văn bản chép tay, in ấn, văn khắc (trên bia đá, trên kiên trúc gỗ). Mặt khác, trong bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trước hai thế lực ngoại bang: Trung Hoa và Pháp, triều Nguyễn đã chọn con đường bảo thủ, thân Trung Hoa, bế quan tỏa cảng, đoạn tuyệt với phương Tây và tiếp tục lấy tư tưởng Thanh Nho vốn đã lạc hậu để cai trị đất nước. Đây được xem là nguyên nhân sâu xa khiến đất nước trì trệ và từng bước rơi vào tay thực dân Pháp, mà biến cố Thất thủ Kinh đô 1885 là cột mốc đánh dấu sự mất chủ quyền trên khắp cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam. Song, trên phương diện văn hóa, sự bảo thủ lại là nhân tố quan trọng để bản sắc được bảo tồn. Với giới quý tộc Nguyễn, sau khi quyền cai trị đất nước chỉ còn mang tính hình thức, họ quay trở về lưu tâm đến việc củng cố gia đạo, chú trọng gia giáo trên tinh thần đối kháng “nước mất nhưng nhà không tan” như là một cách để thể hiện tinh thần dân tộc. Không chỉ trong phạm vi hoàng tộc, mà khắp làng xã, các chính sách nhằm củng cố hương phong, bao gồm gia phong, cũng được lưu tâm, thể hiện tập trung nhất ở hệ thống các hương ước và việc duy trì các chính sách ban khen của triều đình đối với hiếu tử, liệt nữ. Tất cả những điều trên đây khiến sự ảnh hưởng của Trung Hoa, trực tiếp hơn là Nho giáo đến gia giáo của người Huế dưới triều Nguyễn không ngừng củng cố, ngay cả khi nhà Nguyễn suy yếu, thậm chí hầu như mất hết vai trò chính trị. Và ngày nay, những biểu hiện của gia giáo truyến thống vẫn tiếp tục lưu dấu đậm nét và hiện diện trong từng nếp nhà xứ Huế, mà hệ thống Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa 57 thư tịch cổ liên quan đến giáo dục gia đình truyền thống, nhất là các trước tác gia huấn là một phần di sản cần được gìn giữ và phát huy./. N.T.T.H ___________________ 1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 142. 2. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), tlđd, tr. 147, 148. 3. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), tlđd, tr. 153, 154, 166. 4. Diêm Ái Dân (2001), Gia giáo Trung Quốc cổ, Cao Tự Thanh (d.), Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27. 5. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), tlđd, tr. 164. 6. Diêm Ái Dân (2001), tlđd, tr. 27. 7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), tlđd, tr. 161. 8. Dẫn theo Lưu Ngọc Quân (2015), Lược thuật về Kinh Học ở Việt Nam, Nguyễn Đức Toàn dịch, ngoc-quan-luoc-thuat-ve-kinh-hoc-o.html. 9. Dẫn theo Lưu Ngọc Quân (2015), tlđd. 10. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục - Chính biên, tập 2, Tổ phiên dịch Viện Sử học (d.), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 285 - 286. 11. Hàn Lâm Viện (biên tập) (năm Minh Mệnh 15 - 1834), 新簨少小開心寶鑑 (Tân toản thiếu tiểu Khai tâm bửu giám), Quốc sử quán in. 12. Nguyễn Tuấn Cường (2015), Bản thảo đề tài cấp cơ sở của Viện nghiên cứu Hán Nôm năm 2015, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, tr. 5, 18. 13. Dẫn theo Phạm Văn Khoái (1995), “Một vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán trong kho sách Hán - Nôm”, trong Thông báo Hán Nôm học 1995, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, tr. 136 - 149. 14. Diêm Ái Dân (2001), tlđd, tr. 168. 15. Tuy Lý Vương (Tự Đức năm Quý Sửu - 1853), 女 範 演 義 (Nữ phạm diễn nghĩa từ), bản chữ Nôm, lưu giữ tại Phủ Tuy Lí Vương, Huế. 16. Nguyễn Đình Hoà, “A Preliminary Study of Tự Đức Thánh Chế tự học - a 19th - Century Chinese-Vietnamese Dictionary” (Sơ bộ nghiên cứu Tự Đức Thánh Chế tự học - cuốn tự điển Hán Việt thế kỷ XIX), Mon-Khmer Study 26:207- 216.www.sealang.net/mks/copyright.htm, Trần Trọng Dương (d.), ttps://hoavouu.com. 17. Nguyễn Phúc Miên Tông (Thiệu Trị năm thứ 7, 1847), 皇訓九篇 (Hoàng huấn cửu thiên), Nguyễn Bá Nghi, Tôn Thất Hợp, Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Văn Siêu, Thân Văn Nhiếp, Bùi Long (chú dẫn), bản chữ Hán. 18. Trần Trọng Kim (1923), “Nho giáo”, trong Việt Nam thanh niên tạp chí, số 3, tr. 236. 19. Tự Đức (biên thuật), 詞訓錄 (Từ huấn lục), bản chữ Hán, 4 tập viết tay. 20. Đặng Huy Trứ (2002), Từ thụ yếu quy - Bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của ngời xưa, Nguyễn Văn Huyền, Phạm Tuấn Khanh (d.), Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 19. 21. Đặng Huy Trứ (2007), Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (Lời nói việc làm của cha tôi, Đặng Hưng Dzoanh, Phạm Tuấn Khanh (sưu tầm), Bùi Văn Côn, Phạm Tuấn Khanh (biên dịch), Nxb. Thanh niên, tr. 20. 22. Diêm Ái Dân (2001), tlđd, tr. 189 - 190. 23. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, Nxb. Thuận Hoá, Huế, tr. 242. 24. Lê Hữu Mục (giới thiệu, phiên âm, dịch thuật, sưu giảng) (1971), Huấn địch thập điều (Thánh Dụ của Vua Thánh tổ, Diễn ca của Vua Dực Tông), Phủ Quốc Vụ Khanh xuất bản, Sài Gòn. 25. Lê Hữu Mục (1971), tlđd, tr. 79 - 84. 26. Diêm Ái Dân (2001), tlđd, tr. 193. 27. Lê Hữu Mục (1971), tlđd, tr. 82. 28. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 7, Viện Sử học (d.), Nxb. Thuận Hoá, Huế, tr. 132. 29. Nội các triều Nguyễn (1993), tlđd, tr. 160 - 161. 30. Nội các triều Nguyễn (1993), tlđd, tr. 140. (Xem tiếp trang 95)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_tu_tuong_trung_hoa_den_gia_giao_hue_duoi_trieu_nguyen_1082_1945_qua_he_thong_thu_tich.pdf