Tài liệu Ảnh hưởng của phản ứng viêm trên nồng độ các dưỡng chất trong máu: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Nhi Khoa 1
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẢN ỨNG VIÊM
TRÊN NỒNG ĐỘ CÁC DƯỠNG CHẤT TRONG MÁU
Bùi Quang Vinh*.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu về dinh dưỡng trên trẻ em
hoặc người lớn thường được thực hiện trên các
cá nhân bề ngoài khỏe mạnh. Tuy nhiên,
những đối tượng này có thể có tình trạng viêm
nhẹ không triệu chứng hay dưới mức lâm sàng
vì nhiều yếu tố. Viêm dưới mức lâm sàng có
thể gây giảm nồng độ retinol huyết tương ở trẻ
Papua New Guinea và nồng độ kẽm huyết
tương ở người lớn khỏe mạnh dương tính với
HIV ở Kenya(6).
Mục đích của tổng quan này là trình bày
ảnh hưởng của phản ứng viêm ở mức độ dưới
lâm sàng trên nồng độ các dưỡng chất trong
máu. Từ đó khảo sát các phương pháp hiệu
chỉnh nồng độ các chất này để đánh giá chính
xác nồng độ và tỷ lệ thiếu dưỡng chất trong
dân số bề ngoài khỏe mạnh.
PHẢN ỨNG VIÊM CẤP
Phản ứng viêm có thể gây triệu chứng lâm
sàng hoặc dưới mức lâm sàng. C...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của phản ứng viêm trên nồng độ các dưỡng chất trong máu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Nhi Khoa 1
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẢN ỨNG VIÊM
TRÊN NỒNG ĐỘ CÁC DƯỠNG CHẤT TRONG MÁU
Bùi Quang Vinh*.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu về dinh dưỡng trên trẻ em
hoặc người lớn thường được thực hiện trên các
cá nhân bề ngoài khỏe mạnh. Tuy nhiên,
những đối tượng này có thể có tình trạng viêm
nhẹ không triệu chứng hay dưới mức lâm sàng
vì nhiều yếu tố. Viêm dưới mức lâm sàng có
thể gây giảm nồng độ retinol huyết tương ở trẻ
Papua New Guinea và nồng độ kẽm huyết
tương ở người lớn khỏe mạnh dương tính với
HIV ở Kenya(6).
Mục đích của tổng quan này là trình bày
ảnh hưởng của phản ứng viêm ở mức độ dưới
lâm sàng trên nồng độ các dưỡng chất trong
máu. Từ đó khảo sát các phương pháp hiệu
chỉnh nồng độ các chất này để đánh giá chính
xác nồng độ và tỷ lệ thiếu dưỡng chất trong
dân số bề ngoài khỏe mạnh.
PHẢN ỨNG VIÊM CẤP
Phản ứng viêm có thể gây triệu chứng lâm
sàng hoặc dưới mức lâm sàng. Các dấu ấn sinh
học cho phản ứng viêm là các (acute‐phase
protein, APP) do gan tổng hợp dưới tác dụng
của các cytokin. Theo WHO và CDC, có 3 APP
được dùng để đo lường phản ứng viêm dưới
mức lâm sàng là protein phản ứng C (CRP), α‐
1 acid glycoprotein (AGP) và α‐1
antichymotrypsin (ACT)(14). Nồng độ CRP tăng
nhanh chóng trong vòng vài giờ sau nhiễm
trùng và đạt nồng độ tối đa trong huyết tương
trong vòng 24 ‐ 48 giờ, thường trước khi các
triệu chứng lâm sàng xuất hiện. Khi các triệu
chứng lâm sàng biến mất, nồng độ CRP giảm
nhanh chóng. Nồng độ ACT tăng nhanh chóng
nhưng còn tăng cao kéo dài hơn CRP sau khi
các triệu chứng lâm sàng biến mất. Nồng độ
AGP bắt đầu tăng chậm và có thể cần 4 ‐ 5
ngày trước khi đạt nồng độ tối đa. Khi các
triệu chứng lâm sàng biến mất, AGP vẫn còn
tăng trong giai đoạn hồi phục. Do đó nồng độ
của AGP có lẽ là chỉ số tốt hơn CRP và ACT
cho sự tồn tại của nhiễm trùng dưới mức lâm
sàng hay mạn tính, chẳng hạn trong trường
hợp thay đổi của nồng độ ferritin trong nhiễm
trùng(19). Dựa trên các APP, nhiễm trùng trải
qua 4 giai đoạn: I, khỏe mạnh hoặc quy chiếu
với CRP, ACT, và AGP bình thường; II, ủ bệnh
với tăng CRP và ACT; III, hồi phục sớm với
tăng CRP, ACT, và AGP; và IV, hồi phục trễ
với CRP và ACT bình thường nhưng AGP
tăng (Hình 1)(12).
Hình 1: Diễn tiến lý tưởng của các protein phản ứng
cấp trong quá trình nhiễm trùng. Nguồn: Thurnham
et al. 2003(12)
THAY ĐỔI CỦA NỒNG ĐỘ DƯỠNG
CHẤT TRONG MÁU
Nồng độ các dưỡng chất trong các mẫu
máu người có thể thay đổi vì nhiều yếu tố như
thời điểm lấy máu, ăn trước lấy máu, tập thể
* Bộ môn Nhi, khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Bùi Quang Vinh ĐT: 0903719200 Email: buiquangvinh@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nhi Khoa 2
dục hoặc stress gần đây, tuổi, giới, và thai kỳ.
Tuy nhiện, nhiễm trùng hoặc quá trình viêm
gây thay đổi rõ rệt tạm thời(6).
Đặc biệt, tình trạng kẽm, sắt, và đồng có
thể bị ảnh hưởng bởi viêm. Trong một nghiên
cứu trên 153 trẻ em Peru từ 11 đến 19 tháng
tuổi, các trẻ em có bằng chứng nhiễm trùng
(được xác định bằng các dấu hiệu nhiễm
trùng, CRP cao, hoặc tăng bạch cầu) có nồng
độ đồng và ferritin huyết thanh cao hơn đáng
kể so với trẻ không có nhiễm trùng(2). Một thử
nghiệm đối chứng ngẫu nhiên trên 418 trẻ sơ
sinh ở Indonesia cho thấy trẻ sơ sinh có các
APP cao (CRP, AGP, hoặc cả 2 cao vào thời
điểm 6 tháng tuổi) có nồng độ kẽm huyết
tương thấp và nồng độ ferritin cao hơn có ý
nghĩa. Một nghiên cứu khác trên người lớn
khỏe mạnh ở Kenya có HIV dương tính nhưng
không có triệu chứng AIDS hoặc giai đoạn IV
cho thấy những người có CRP hoặc AGP cao
có mức độ kẽm huyết tương thấp hơn so với
những người không bị viêm(6).
CƠ CHẾ THAY ĐỔI CỦA NỒNG ĐỘ
DƯỠNG CHẤT
Nhiễm trùng và quá trình viêm gây ra thay
đổi chuyển hóa cơ thể cũng như nồng độ
dưỡng chất trong phản ứng viêm giai đoạn
cấp. Phản ứng viêm cấp bao gồm việc sản xuất
các APP trước khi kích hoạt phản ứng miễn
dịch đầy đủ(18). Mục đích chính của phản ứng
viêm cấp là ngăn ngừa tổn thương mô và loại
bỏ các phân tử có hại và mầm bệnh. Trong thời
gian này, nồng độ của một số protein tăng
trong huyết tương (đáp ứng dương tính) và
một số protein khác giảm (đáp ứng âm tính).
Sự thay đổi nồng độ của các protein trong
huyết tương của giai đoạn cấp tính có thể do
nhiều cơ chế, chẳng hạn như pha loãng máu,
biệt trí trong khoảng kẽ, và tăng hoặc giảm tốc
độ tổng hợp hoặc phân hủy(19).
Cơ chế thay đổi nồng độ của các APP phần
lớn do những thay đổi trong quá trình sản
xuất bởi tế bào gan, vốn được điều hòa bởi các
cytokine, chẳng hạn như IL‐1, IL‐6 và TNFα(4).
Các APP tham gia vào các cơ chế thích ứng và
phòng vệ của cơ thể chủ bằng cách gắn kết với
các vật lạ và điều chỉnh chức năng của tế bào
thực bào. Các APP dương tính bao gồm CRP,
α‐1 antichymotrypsin, alpha‐1 glycoprotein
(AGP) cũng được gọi là orosomucoid, amyloid
huyết thanh A (SAA), fibrinogen, haptoglobin,
ceruloplasmin và ferritin. Cường độ của sự
thay đổi trong nồng độ của các APP trong một
đáp ứng giai đoạn cấp thay đổi đáng kể:
ceruloplasmin có thể tăng khoảng 50% trong
khi CRP có thể tăng gấp 1000 lần(4). Các APP
âm tính bao gồm transferrin, albumin,
transthyretin và retinol binding protein.
Những protein này không có chức năng miễn
dịch, nhưng hoạt động như protein vận
chuyển. Nồng độ dưỡng chất đặc hiệu mà
chúng mang theo trong huyết tương có thể
giảm trong thời gian nhiễm trùng và viêm.
Kẽm huyết thanh
Kẽm huyết tương hoặc huyết thanh kẽm
giảm trong đáp ứng giai đoạn cấp(18).
Metallothionein huyết tương là một chỉ số thay
thế nhưng không mạnh mẽ của thiếu kẽm,
cũng giảm(18). Cơ chế có thể liên quan đến sự
mất kẽm trong nước tiểu đáng kể trong nhiễm
trùng toàn thân, đặc biệt những người bị stress
chuyển hóa rõ rệt dẫn đến hủy cơ bắp, hoặc
calprotectin giải phóng từ các bạch cầu trung
tính bị tổn thương trong quá trình viêm(18).
Giảm kẽm lưu hành có thể liên quan đến tăng
mRNA metallothionein và metallothionein
trong gan dưới ảnh hưởng của các cytokine
viêm được tổng hợp trong đáp ứng với stress.
Hậu quả là việc giảm kẽm tuần hoàn làm giảm
kẽm có sẵn cho sự trao đổi chất của vi sinh vật
trong quá trình nhiễm trùng và có thể mang lại
lợi thế cho cơ thể(14).
Sắt và ferritin huyết thanh
Nồng độ sắt trong huyết tương hoặc huyết
thanh thấp và nồng độ ferritin huyết thanh cao
trong quá trình viêm có liên quan đến việc tái
phân phối sắt thành gan và hệ thống thực bào
đơn nhân, cả hai qua trung gian các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Nhi Khoa 3
cytokine(14). Tiêm các cytokine TNF‐α, IL‐1 và
IL‐6 giảm nồng độ sắt trong huyết thanh và
tăng sản xuất ferritin trên động vật thí nghiệm
và người. Các cytokine dẫn đến tổng hợp
ferritin thông qua một đoạn trong vùng 5' của
đoạn dịch mã. Các cytokine gây viêm, đặc biệt
IL‐6 và IL‐1β, cũng tăng sản xuất hepcidin
trong tế bào gan và các tế bào khác của hệ
thống miễn dịch (ví dụ đại thực bào và bạch
cầu trung tính) thông qua con đường phụ
thuộc thụ thể toll‐like (TLR). Hepcidin liên kết
với ferroportin dẫn đến nhập nội bào và suy
thoái. Mức độ ferroportin thấp giới hạn sự hấp
thụ sắt trong chế độ ăn uống và thúc đẩy sự
lưu giữ sắt của hệ thống võng nội mô.
Đồng huyết thanh
Đồng được đo lường trong phức hợp
protein gắn đồng của ceruloplasmin. Đây là
một APP cấp dương tính được tăng lên trong
giai đoạn đáp ững viêm cấp tính và mãn tính.
Sau chấn thương hoặc phẫu thuật lớn, nồng độ
đồng huyết thanh tăng đều đặn và đến ngày
thứ 7 cao hơn 30%. Sau phẫu thuật ít triệt để
hơn, đồng huyết thanh tăng 12% sau 1 tuần.
Những thay đổi này là kết quả trực tiếp của
tăng sinh tổng hợp ceruloplasmin tại gan qua
trung gian IL‐1 và IL‐6(10). Sự gia tăng
ceruloplasmin sau chấn thương hoặc nhiễm
trùng tương tự như những thay đổi nồng độ
đồng trong khi tỷ lệ đồng: ceruloplasmin
không thay đổi.
Các chất dinh dưỡng khác
Ngoài kẽm huyết thanh, nồng độ ferritin
và đồng, quá trình viêm có thể ảnh hưởng đến
nồng độ huyết tương của các chất dinh dưỡng
khác. Retinol plasma, một dấu ấn sinh học cho
tình trạng vitamin A, giảm trong giai đoạn cấp
tính của một loạt các nhiễm trùng(3), HIV –
AIDS và nhồi máu cơ tim. Thay đổi của nó có
thể được giải thích bởi gan giảm tổng hợp
retinol binding protein (RBP) vận chuyển
retinol trong huyết tương. Tocopherol huyết
tương, một dấu ấn sinh học của vitamin E,
giảm trong viêm, nhưng không có thông tin về
mối liên hệ giữa tocopherol và APP giai đoạn
cấp hoặc mãn nào. Axit ascorbic huyết tương
hoặc bạch cầu là dấu ấn sinh học của vitamin
C và thay đổi rõ trong tình trạng viêm, nhưng
không liên hệ rõ với mức AGP hoặc CRP.
Folate huyết thanh giảm trong viêm cấp tính.
Nồng độ selenium huyết thanh, huyết tương,
và máu giảm trong đáp ứng viêm cấp. Hàm
lượng selen thấp ở một số bệnh nhiễm trùng,
có lẽ do nhiều nhiễm siêu vi kích thích sản
xuất selenoprotein gắn với selen trong máu,
hoặc quá trình dập tắt gốc tự do dẫn đến tiêu
thụ selen là chất chống oxy hóa.
CÁC PHƯƠNG PHÁP HIỆU CHỈNH
Trong một dân số thường xuyên tiếp xúc
với bệnh tật như trẻ em ở các nước đang phát
triển, nhiễm trùng có thể làm sai lệch các ước
tính về tình trạng dinh dưỡng, nổi bật nhất
trong đánh giá thiếu sắt. Ferritin huyết thanh
là chỉ số tốt nhất về tình trạng sắt vì nó phản
ánh cả dự trữ sắt cạn kiệt và tác động của các
can thiệp có sắt(19). Tuy nhiên, nó cũng là một
APP. Để tránh sai lệch, một nghiên cứu đã tìm
cách sử dụng các chỉ số của sắt ít bị nhiễu loạn
do nhiễm trùng hoặc viêm như thụ thể
transferrin (TfR). Tuy nhiên, TfR thay đổi theo
từng ngày (từ 12‐24%), khác nhau khi thực
hiện các mẫu xét nghiệm, và thiếu các tiêu
chuẩn so sánh quốc tế và giới hạn bình
thường. Do đó WHO và CDC khuyến nghị đo
lường nhiều chỉ số sắt (nồng độ huyết sắc tố,
ferritin huyết thanh và TfR) và ít nhất một
APP, trong đó CRP, ACT và AGP là những lựa
chọn đầu tiên(19). Có nhiều cách tiếp cận để
khắc phục hiệu quả viêm.
Cách 1
Đầu tiên là điều chỉnh điểm cắt cutoff cho
thiếu sắt. Ví dụ, ở trẻ em <5 tuổi, điểm cắt cho
ferritin bình thường từ 12‐15 g/L có thể được
chuyển sang 30‐50 g/L nếu có bằng chứng về
bệnh mãn tính hoặc viêm(19). Cách tiếp cận này
có vấn đề vì nó không cung cấp một tiêu
chuẩn quốc tế riêng biệt cho viêm và một điểm
cắt cho các mức độ ferritin.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nhi Khoa 4
Cách 2
Thứ hai là loại trừ các cá nhân bị viêm khi
phân tích. Cách này thường được sử dụng với
điểm cắt CRP tương đối cao (khoảng 10 mg/L)
nhưng có nhược điểm là mất nhiều dữ liệu giá
trị và ảnh hưởng của viêm vẫn tồn tại khi giá
trị CRP trong khoảng từ 5 ‐ 10 mg/L. Sai số
càng lớn khi nghiên cứu trẻ em ở các nước
đang phát triển có tỷ lệ viêm mạn tính cao như
sốt rét và nhiễm giun móc.
Cách 3
Thứ ba là hiệu chỉnh ảnh hưởng của viêm
bằng mô hình hồi quy. Cách tiếp cận này hữu
ích trong việc đánh giá mối liên quan giữa tình
trạng sắt và các kết quả khác như thiếu máu
(240). Tuy nhiên, nó không hữu ích trong việc
ước tính nồng độ trung bình hoặc tỷ lệ thiếu
sắt trong dân số. Gần đây, nhóm BRINDA sử
dụng độ dốc (hệ số hồi quy) của các APP để
hiệu chỉnh nồng độ dưỡng chất(7,16).
Cách 4
Cách tiếp cận thứ tư được Thurnham et al.
đề xuất sử dụng phương pháp phi tham số với
hệ số chỉnh đúng (correction factor) để loại bỏ
ảnh hưởng của hiện tượng viêm(13). Nồng độ
dưỡng chất trong nhóm viêm được điều chỉnh
bằng cách nhân với hệ số chỉnh đúng tính
bằng tỷ lệ của trung vị hoặc trung bình nhân
các giá trị nồng độ dưỡng chất của nhóm viêm
so với nhóm không viêm tham chiếu(13,16). Ví
dụ, dựa trên đo lường 2 APP như CRP và
AGP, dữ liệu được phân loại thành 4 nhóm: (1)
nhóm bình thường tham chiếu có mức CRP và
AGP bình thường, (2) nhóm ủ bệnh có CRP
tăng nhưng AGP bình thường, (3) nhóm hồi
phục sớm có cả CRP và AGP đều tăng, và (4)
nhóm hồi phục trễ có CRP bình thường nhưng
AGP tăng. Cách tiếp cận có thể được sử dụng
cho ferritin và các chất dinh dưỡng khác như
retinol, carotenoids, huyết sắc tố và kẽm.
Nhóm tham khảo có thể được xác định bằng
cách kết hợp 2 chỉ số viêm như CRP và AGP
trong phân tích 4 nhóm, và hiếm hơn, chỉ bằng
một chỉ số viêm như CRP hoặc AGP trong
phân tích 2 nhóm(15).
Một nghiên cứu của Thurnham et al đánh
giá nồng độ và tỷ lệ thiếu sắt bằng đo lượng
ferritin huyết thanh và hiệu chỉnh bằng CRP
và AGP sử dụng phương pháp hệ số chỉnh
đúng(15). So với nhóm tham chiếu (CRP và
AGP bình thường), nồng độ ferritin huyết
thanh trong dân số được đánh giá cao hơn 30%
nếu không có hiệu chỉnh, hơn 13% nếu hiệu
chỉnh CRP, hơn 14% nếu hiệu chỉnh AGP, và
hơn 5% nếu hiệu chỉnh cả CRP và AGP. Tương
tự, tỷ lệ thiếu sắt đo bằng mức ferritin thấp đã
bị đánh giá thấp hơn 14% nếu không hiệu
chỉnh, thấp hơn 5% nếu hiệu chỉnh CRP, thấp
hơn 9% nếu hiệu chỉnh AGP, chênh lệch 0%
nếu hiệu chỉnh cả CRP và AGP(15). Nhóm tham
chiếu được xác định là đối tượng có CRP ≤5
mg/L và AGP <1 mg/L trong đánh giá này.
Tuy nhiên, điểm cắt CRP để hiệu chỉnh viêm
có thể khác nhau tùy thuộc vào phương pháp
đo các APP.
CRP & ĐIỂM CẮT CRP CHO PHẢN ỨNG VIÊM
Lịch sử CRP
Protein phản ứng C (CRP) được phát hiện
bởi Tillett và Francis năm 1930 như một chất
trong huyết thanh của bệnh nhân viêm phổi
cấp gây tủa phần polysacaride C không đặc
hiệu chiết xuất từ phế cầu (C polysaccharide
substance, CPS)(9). CRP không thấy được trong
huyết thanh của các bệnh nhân hồi phục và
người khỏe mạnh bình thường. Năm 1941,
Avery et al. mô tả CRP là 1 protein cần ion
canxi cho phản ứng của nó với CPS, và đưa
vào thuật ngữ giai đoạn cấp (acute phase)
nhằm đề cập đến huyết thanh từ những bệnh
nhân nặng mắc bệnh truyền nhiễm và chứa
CRP. Năm 1944, Lofstrom đã mô tả phản ứng
sưng phồng vỏ (capsule) không đặc hiệu của
một số chủng phế cầu khi trộn với huyết thanh
giai đoạn cấp tính và sau đó cho thấy trách
nhiệm của CRP. Từ khi được phát hiện, CRP
đã trở thành một chất chỉ điểm hữu ích cho
hiện tượng viêm cấp. CRP cũng dự đoán cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Nhi Khoa 5
những biến cố tương lai ở bệnh nhân mắc hội
chứng mạch vành cấp tính, đau thắt ngực ổn
định và đặt stent động mạch vành. Năm 2003,
CDC và Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ AHA
khuyến cáo sử dụng xét nghiệm hs‐CRP trên
lâm sàng cho nguy cơ của các bệnh tim mạch(8).
Dựa vào phân phối của hs‐CRP từ trên 15
quần thể gộp trên 40 000 người, các mức CRP
3,0 mg/L tương
ứng với các nguy cơ thấp, trung bình và cao
của bệnh tim mạch dân số người trưởng
thành(8).
Tính chất của CRP
CRP được tổng hợp bởi các tế bào gan và
bình thường hiện diện như rất ít như vết trong
huyết tương. Nó có trọng lượng phân tử
105500, bao gồm 5 tiểu đơn vị polypeptide
non‐glucosylate. Ngoài phản ứng với CPS của
phế cầu, CRP cũng gắn kết phụ thuộc canxi
với choline phosphatide, các polysacaride và
peptidopolysacaride vốn hiện diện ở nhiều
loại vi khuẩn, nấm, và ký sinh trùng. CRP
cũng gắn kết không cần calci với các điện tích
dương polycation. Do đó, CRP làm kết tủa các
ligand hòa tan và kết tập các ligand phân tử.
Một khi tạo phức hợp, nó trở thành một chất
kích hoạt mạnh mẽ con đường bổ thể cổ điển
và có thể gắn kết với tế bào lympho T hoặc ức
chế kết tập tiểu cầu. Vai trò của CRP còn
không rõ mặc dù nó có thể gây viêm trong một
số trường hợp. Pepys gợi ý rằng vai trò của
CRP là nhận biết các chất nội sinh có độc tính
được giải phóng từ các mô bị tổn thương, để
gắn kết, giải độc, và tạo điều kiện cho sự thanh
thải các chất này(9).
Phương pháp đo CRP
Hầu hết các nghiên cứu dinh dưỡng trong
dân số khỏe mạnh sử dụng phương pháp CRP
truyền thống với immunoturbidimetric assay
(imCRP), phù hợp để đo nồng độ CRP cho các
bệnh nhiễm trùng. Tuy nhiên, phương pháp
này nhạy cảm kém vì không xác định được
nồng độ chính xác khi CRP <10 mg/L). Các
phương pháp CRP tự động thường quy khác
có giới hạn định lượng 3‐8 mg/L và chỉ phát
hiện nồng độ CRP >3 mg/L. Gần đây các xét
nghiệm CRP có độ nhạy cao (high sensitive
CRP, hs‐CRP) đã được đã phát triển và có thể
đo CRP ở nồng độ thấp tới 0,1 mg/L.
Các điểm cắt CRP cho hiện tượng viêm
Hiện tại, không có đồng thuận xác định
viêm dựa trên các dấu hiệu lâm sàng hoặc các
dấu ấn sinh học. Có hai chiến lược được dùng.
Cách thứ nhất
Cách này định nghĩa thống kê dựa trên sự
phân bố của nồng độ chất này trên người khỏe
mạnh để xác định các điểm cắt trên và dưới
như các giá trị bách phân vị (percentile) thứ 2,5
và 97,5 hoặc ‐2 SD và +2 SD của dân số tham
chiếu. Hiện tại, việc điểm cắt CRP thường dựa
trên cách tiếp cận này. Trong một nghiên cứu
năm 1981, giá trị trung bình ở 468 người
trưởng thành khỏe mạnh là 0,8 mg / ml, với
bách phân vị thứ 90 là 3 mg/L và thứ 99 dưới
10 mg/L(9). Do đó, điểm cắt CRP 10 mg/L cho
nồng độ CRP cao đã được sử dụng trong
nhiều nghiên cứu hiệu chỉnh tỷ lệ thiếu sắt của
phản ứng viêm. Gần đây, nghiên cứu
NHANES III tại Hoa Kỳ giai đoạn 1999‐2000
ghi nhận nồng độ CRP trung bình ở đàn ông
và phụ nữ trưởng thành là 1,6 và 2,7 mg/L,
bách phân vị 90 là 7,0 và 11,9 mg/L, và bách
phân vị thứ 95 là 12,2 và 17,9 mg/L tương ứng.
Ở trẻ em và thanh thiếu niên trong nghiên cứu
này, nồng độ CRP tăng theo tuổi và không
khác nhau cho đến 16‐19 tuổi, cao hơn ở nữ
cao so với nam. Nhìn chung, trẻ em và thanh
niên từ 3 đến 19 tuổi có CRP trung bình 0,4
mg/L; bách phân vị 90 là 3,6 mg/L và thứ 95 là
7,5 mg/L. Sau này, nhiều nghiên cứu dinh
dưỡng đã sử dụng các mức cắt CRP khác nhỏ
hơn 10 mg / L, chẳng hạn như 8 mg/L, 5 mg/L
và 3 mg/L, để hiệu chỉnh cho phản ứng viêm(5).
Trong thực tế, điểm cắt CRP được sử dụng tùy
theo dân số và mục tiêu nghiên cứu.
Cách thứ hai
Cách này định nghĩa sinh lý dựa trên các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nhi Khoa 6
mức độ nồng độ mà một số kết cục chức năng
xấu xảy ra. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
mức CRP cao có nguy cơ mắc các bệnh tim
mạch ở người trưởng thành khỏe mạnh. Trung
tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh CDC và
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ AHA đề nghị các
mức độ với hs‐CRP <1 mg / L, 1 đến <3 và mg3
mg / L được sử dụng để thể hiện mức độ nguy
cơ bệnh tim mạch thấp, trung bình và cao(8). So
với mức tham chiếu CRP <1 mg / L, mức CRP
cao 3‐10 mg / L dự đoán tăng nguy cơ nhồi
máu cơ tim và đột quỵ trong các nghiên cứu
tiền cứu. Các mức CRP khác ≥1 mg / L có liên
quan đến nguy cơ cao của các bệnh gây viêm
phổ biến ở nam giới (như bệnh đường tiết niệu
mãn tính, loét dạ dày, ho mãn tính, viêm phế
quản, hen suyễn, viêm khớp dạng thấp và bất
kỳ bệnh ung thư nào. Do đó, phản ứng viêm
trên cận lâm sàng có nguy cơ hại cho sức khỏe
ở mức CRP vừa phải 3‐5 mg/L hoặc >1 mg/L.
Tuy nhiên, ở trẻ em, có rất ít nghiên cứu
đánh giá nguy cơ mãn tính của mức CRP cao
so với CRP thấp. Một nghiên cứu cắt ngang
gần đây cho thấy ở trẻ em Mỹ 1 tuổi đến 17
tuổi, mức CRP> 1 mg / L có liên quan đến mức
độ béo phì BMI ≥99 bách phân vị(11). Một
nghiên cứu ở trẻ sơ sinh khỏe mạnh ở Đức cho
thấy các trẻ có CRP >0,6 mg/L (bách phân vị
75) có nồng độ sắt, retinol, beta‐carotene và
transthyretin huyết thanh thấp hơn đáng kể so
với những người có CRP ≤0,6 mg / L(1). Chưa
có sự đồng thuận về điểm cắt CRP cho nhóm
tham khảo để hiệu chỉnh các đánh giá về chất
dinh dưỡng ở người lớn và trẻ em.
KẾT LUẬN
Tình trạng vi chất trong cơ thể được đánh
giá bằng đo lường nồng độ dưỡng chất trong
máu. Tuy nhiên phản ứng viêm dẫu ở mức
dưới lâm sàng cũng làm thay đổi rõ rệt hầu hết
nồng độ các dưỡng chất trong máu và gây sai
lầm trong đánh giá tỷ lệ thiếu dưỡng chất. Do
đó nghiên cứu trên những dân số có vẻ khỏe
mạnh cần đo lường nồng độ dưỡng chất cùng
với một số APP như CRP, ACT, và AGP để
hiệu chỉnh nồng độ các dưỡng chất và hạn chế
các ước lượng sai lầm do ảnh hưởng của phản
ứng viêm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abraham K, Muller C, Gruters A, Wahn U, Schweigert FJ
(2003). Minimal inflammation, acute phase response and
avoidance of misclassification of vitamin A and iron status
in infants‐ importance of a high‐sensitivity C‐reactive
protein (CRP) assay. Int J Vitam Nutr Res, 73:423‐30.
2. Brown KH, Lanata CF, Yuen ML, Peerson JM, Butron B,
Lonnerdal B (1993). Potential magnitude of the
misclassification of a population's trace element status due
to infection: example from a survey of young Peruvian
children. Am J Clin Nutr, 58:549‐54.
3. Filteau SM, Tomkins AM (1994). Micronutrients and
tropical infections. Trans R Soc Trop Med Hyg, 88:1‐3, 26.
4. Gabay C, Kushner I (1999). Acute‐phase proteins and other
systemic responses to inflammation. N Engl J Med,
340:448‐54.
5. Kung’u JK, Wright VJ, Haji HJ, Ramsan M, Goodman D,
Tielsch JM, Bickle QD, Raynes JG, Stoltzfus RJ (2009).
Adjusting for the acute phase response is essential to
interpret iron status indicators among young Zanzibari
children prone to chronic malaria and helminth infections. J
Nutr, 139:2124‐31.
6. Mburu AS, Thurnham DI, Mwaniki DL, Muniu EM,
Alumasa FM (2010). The influence of inflammation on
plasma zinc concentration in apparently healthy, HIV+
Kenyan adults and zinc responses after a
multi‐micronutrient supplement. Eur J Clin Nutr, 64:510‐7.
7. Namaste SM, Rohner F, Huang J et al (2017). Adjusting
ferritin concentrations for inflammation: Biomarkers
Reflecting Inflammation and Nutritional Determinants of
Anemia (BRINDA) project. Am J Clin Nutr, 106:359S–371S.
8. Pearson TA, Mensah GA, Alexander RW, et al (2003).
Markers of inflammation and cardiovascular disease:
application to clinical and public health practice: A
statement for healthcare professionals from the Centers for
Disease Control and Prevention and the American Heart
Association. Circulation, 107:499‐511.
9. Peys MB (1981). C‐reactive protein fifty years on. Lancet,
1:653‐7.
10. Shenkin A (1995). Trace elements and inflammatory
response: implications for nutritional support. Nutrition,
11:100‐5.
11. Skinner AC, Steiner MJ, Henderson FW, Perrin EM (2010).
Multiple markers of inflammation and weight status:
cross‐sectional analyses throughout childhood. Pediatrics,
125: e801‐9.
12. Thurnham DI, Mburu AS, Mwaniki DL, De Wagt A (2005).
Micronutrients in childhood and the influence of
subclinical inflammation. Proc Nutr Soc, 64:502‐9.
13. Thurnham DI, Mburu AS, Mwaniki DL, Muniu EM,
Alumasa F, de Wagt A (2008). Using plasma acute‐phase
protein concentrations to interpret nutritional biomarkers
in apparently healthy HIV‐1‐seropositive Kenyan adults. Br
J Nutr, 100:174‐82.
14. Thurnham DI, McCabe GP, Northrop‐Clewes CA, Nestel P
(2003). Effects of subclinical infection on plasma retinol
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_phan_ung_viem_tren_nong_do_cac_duong_chat_tron.pdf