Tài liệu Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến nấm thán thư hại ớt (colletotrichum gloeosporioides) và chuối (colletotrichum musae) ở điều kiện in vitro: ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN
THƯ HẠI ỚT (Colletotrichum gloeosporioides) VÀ CHUỐI
(Colletotrichum musae) Ở ĐIỀU KIỆN IN VITRO
Nguyễn Thỵ Đan Huyền1
Lê Thanh Long2
Tóm tắt: Thuốc diệt nấm có nguồn gốc hóa học ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con
người nên việc tìm kiếm các hợp chất có hoạt tính sinh học có khả năng kháng nấm
trên rau quả đang là vấn đề được quan tâm. Một số dịch chiết có nguồn gốc tự nhiên,
chứa các chất có hoạt tính sinh học cao như dịch chiết tỏi đã được sử dụng để kháng
nấm thán thư hại ớt (Colletotrichum gloeosporioides) và chuối (C. musae). Ảnh
hưởng của dịch chiết tỏi đến hình thái tản nấm, sự hình thành sinh khối đã được xác
định thông qua đường kính tản nấm, sinh khối khô sợi nấm và sự ức chế bào tử nảy
mầm ở điều kiện in vitro. Dịch chiết tỏi ở nồng độ 0,5% đã ức chế 79,29% và 61,45%
đường kính tản nấm sau 192 giờ nuôi cấy. Nồng độ dịch chiết tỏi 1% ức chế 100% sự
tạo thành sinh khối sợi nấm sau 168 giờ. Quan sát dưới kính hiể...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến nấm thán thư hại ớt (colletotrichum gloeosporioides) và chuối (colletotrichum musae) ở điều kiện in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN
THƯ HẠI ỚT (Colletotrichum gloeosporioides) VÀ CHUỐI
(Colletotrichum musae) Ở ĐIỀU KIỆN IN VITRO
Nguyễn Thỵ Đan Huyền1
Lê Thanh Long2
Tóm tắt: Thuốc diệt nấm có nguồn gốc hóa học ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con
người nên việc tìm kiếm các hợp chất có hoạt tính sinh học có khả năng kháng nấm
trên rau quả đang là vấn đề được quan tâm. Một số dịch chiết có nguồn gốc tự nhiên,
chứa các chất có hoạt tính sinh học cao như dịch chiết tỏi đã được sử dụng để kháng
nấm thán thư hại ớt (Colletotrichum gloeosporioides) và chuối (C. musae). Ảnh
hưởng của dịch chiết tỏi đến hình thái tản nấm, sự hình thành sinh khối đã được xác
định thông qua đường kính tản nấm, sinh khối khô sợi nấm và sự ức chế bào tử nảy
mầm ở điều kiện in vitro. Dịch chiết tỏi ở nồng độ 0,5% đã ức chế 79,29% và 61,45%
đường kính tản nấm sau 192 giờ nuôi cấy. Nồng độ dịch chiết tỏi 1% ức chế 100% sự
tạo thành sinh khối sợi nấm sau 168 giờ. Quan sát dưới kính hiển vi sau 12 giờ cho
thấy dịch chiết tỏi 1% ức chế hoàn toàn sự nảy mầm bào tử nấm thán thư.
Từ khóa: Dịch chiết tỏi, ớt, chuối, Colletotrichum gloeosporioides, C. musae,
bệnh thán thư
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, chuối và ớt là hai mặt hàng có giá trị kinh tế cao, được trồng phổ
biến hầu hết ở các tỉnh. Ngoài ra, chuối hiện nay còn là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng.
Tuy nhiên, cả hai loại quả này đều có thời hạn bảo quản ngắn và dễ bị tổn thất sau thu
hoạch cả về số lượng và chất lượng. Bệnh thán thư do nấm C. gloeosporioides gây ra
trên ớt và nấm C. musae gây ra trên chuối là một trong những nguyên nhân chính gây
thiệt hại sau thu hoạch (Vũ Triệu Mân, 2007). Phương pháp phổ biến để kiểm soát bệnh
thán thư hiện nay là sử dụng chất hóa học. Tuy nhiên phương pháp này gây hại cho môi
trường và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Còn biện pháp canh tác thủ công dù thân
thiện với môi trường nhưng tốn nhiều công sức và thời gian.
Dịch chiết tỏi (thuộc nhóm Allium) từ lâu đã có những công dụng đặc biệt
quan trọng trong đời sống hàng ngày, chúng được sử dụng dưới dạng gia vị, các bài
thuốc cổ truyền chống các bệnh như đau bụng, cảm cúm, thấp khớp, huyết áp, tim
mạch, tiểu đường, lão hóa Ngày nay, chúng được nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh
vực kháng nấm, kháng khuẩn đem lại hiệu quả rất rõ rệt và được nhiều nhà khoa học
1ThS, Trường Đại học Nông lâm Huế
2ThS, Trường Đại học Nông lâm Huế
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN THƯ HẠI ỚT
51
trên thế giới công nhận (Serge Ankri và David Mirelman, 1999; Lê Thanh Long và
Nguyễn Hiền Trang, 2012).
Mặc dù các dịch chiết có nguồn gốc tự nhiên như dịch chiết tỏi, gừng, hành
có hoạt tính sinh học mạnh, có tiềm năng kháng nấm, kháng khuẩn trong lĩnh vực
nông nghiệp nhưng việc sử dụng dịch chiết tỏi như một chất ức chế, phòng chống
bệnh sau thu hoạch cho ớt và chuối chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Mục tiêu
của bài báo là tiến hành đánh giá ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự hình thành, phát
triển của nấm C. gloeosporioides và nấm C. musae ở điều kiện in vitro.
2. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
+ Vật liệu
- Tỏi trắng (Allium sativum) được mua từ các siêu thị ở thành phố Huế có độ
ẩm 75 ± 2%.
- Nấm Colletotrichum musae gây bệnh thán thư hại chuối và nấm
Colletotrichum gloeosporioides gây bệnh thán thư hại ớt được cung cấp bởi phòng thí
nghiệm Vi sinh, khoa Cơ khí - Công nghệ, trường Đại học Nông Lâm - Huế. Nấm
được nuôi cấy trên môi trường PDA (potato dextrose agar) ở 280C. Sau 7 ngày nuôi
cấy, sử dụng nước cất vô trùng để thu bào tử. Dịch bào tử thu được lọc qua vải vô
trùng để loại bỏ sợi nấm.
- Các hóa chất thông thường đạt tiêu chuẩn phân tích.
+ Thu nhận dịch chiết tỏi
Tỏi được bóc vỏ và đem nghiền nhỏ trong cối sứ, sau đó vắt lấy dịch. Pha loãng
dịch tỏi với nước cất đã vô trùng thành các nồng độ (v/v): 0%, 0,5%, 1%, 1,5%, 2%
(Ngô Thị Mai Vi, 2009).
Phương pháp nghiên cứu
• Xác định ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự phát triển đường kính tản nấm
C. gloeosporioides và C. musae
Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự phát triển đường kính tản nấm được xác
định theo Yao và Tian (2005) với một số điều chỉnh. Dịch chiết tỏi được hòa trộn với
môi trường PDA (ở 50 - 55oC) để đạt được nồng độ dung dịch cuối là 0,5, 1, 1,5 và
2% và đổ vào đĩa petri Φ 9 vô trùng với tổng thể tích 18 ml/đĩa petri. Khi agar đông
đặc, cắt 1 mẫu nấm kích thước 2 mm2 ở rìa tản nấm cho vào giữa đĩa petri và nuôi ở
280C. Theo dõi và đo đường kính tản nấm 2 ngày/lần bằng thước đo điện tử.
Hiệu lực ức chế được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) ức chế tốc độ phát
triển của đường kính khuẩn lạc PIRG % (percentage inhibition of radial growth)
(Al. Hetar M. Y et al (2011)).
NGUYỄN THỴ ĐAN HUYỀN – LÊ THANH LONG
52
PIRG (%) = 100
Trong đó:
R1: Đường kính tản nấm ở công thức đối chứng.
R2 : Đường kính tản nấm ở công thức thí nghiệm.
• Xác định ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự hình thành sinh khối nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự hình thành sinh khối nấm được tiến hành trong
các bình tam giác 100 ml. Dịch chiết tỏi được hòa trộn với môi trường ½ PDB để đạt được
nồng độ dung dịch cuối là 0,2; 0,4; 0,6; 0,8 và 1% được cho vào bình tam giác 100 ml đã
vô trùng với tổng thể tích 50 ml/ bình tam giác. Cắt 1 mẫu nấm thán thư kích thước 2 mm2
ở rìa tản nấm cho vào bình tam giác, bịt kín miệng bình và giữ mẫu trong tủ lắc 7 ngày
(168 giờ). Sau thời gian nuôi, mẫu được lấy ra lọc, sấy khô đến khối lượng không đổi
ở nhiệt độ 550C (trong thời gian khoảng 7 giờ) và cân sinh khối khô của nấm ở từng
công thức thí nghiệm.
+ Hiệu lực ức chế sinh khối sợi nấm khô (Đỗ Tấn Dũng (2007)):
100(%) ×−=
C
TCI
Trong đó:
C: Sinh khối khô của nấm ở công thức đối chứng (không xử lí dịch chiết).
T: Sinh khối khô của nấm ở công thức thí nghiệm.
• Xác định ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự nảy mầm của bào tử nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự nảy mầm bào tử được tiến hành trên lam
kính lõm (Cronin et al., 1996). Ở mỗi nồng độ dịch chiết tỏi, cho 40 μ l vào phần lõm
của lam. Cho 10 μ l dịch bào tử (nồng độ 104 bào tử/ml) lên lam, đậy lam kính và
nuôi ở 280C trong bóng tối. Sau 12 giờ tiến hành đếm số lượng bào tử nảy mầm trong
tổng số 100 bào tử dưới kính hiển vi với độ phóng đại 40 X. Thí nghiệm được lặp lại
3 lần.
Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả thí nghiệm được phân tích phương sai một nhân tố ANOVA
(Anova Single Factor) và so sánh các giá trị trung bình bằng phương pháp DUNCAN
(Duncan’s Multiple Range Test) trên phần mềm thống kê SAS, phiên bản 9.1 chạy
trên môi trường Windows.
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN THƯ HẠI ỚT
53
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1 Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự sinh trưởng, phát triển tản nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Với mục đích chọn ra nồng độ dịch chiết tỏi có khả năng ức chế sự sinh trưởng,
phát triển của nấm C. gloeosporioides và C. musae, chúng tôi thí nghiệm với dịch chiết
tỏi ở các nồng độ 0,0, 0,5, 1, 1,5 và 2%. Sinh trưởng, phát triển của tản nấm C.
gloeosporioides và C. musae sau 192 giờ nuôi cấy được trình bày ở bảng 1 và hình 1.
Đường kính tản nấm ở tất cả các mẫu có xử lý với dịch chiết tỏi với các
nồng độ tương ứng tại các thời điểm khác nhau đều giảm đáng kể so với mẫu đối
chứng. Mức độ giảm theo chiều tăng nồng độ dịch chiết tỏi, từ 72,6 mm xuống
39,1 mm đối với nấm C. gloeosporioides và từ 27,9 mm xuống 6,5 mm đối với
nấm C. musae tương ứng với nồng độ dịch chiết tỏi từ 0,5% lên 2,0% sau 192
giờ nuôi cấy.
Hiệu lực ức chế cũng tăng dần theo chiều tăng dần của dịch chiết tỏi, đạt
41,83% và 57,40% đối với nấm C. gloeosporioides; 87,64% và 93,25% đối với
nấm C. musae tương ứng với các nồng độ dịch chiết tỏi 1,5% và 2,0%. Kết quả
trên cũng cho thấy dịch chiết tỏi ức chế sự hình thành phát triển tản nấm C.
musae tốt hơn so với nấm C. gloeosporioides ở cùng nồng độ và thời gian khảo
sát. Điều này có thể do nấm C. gloeosporioides mạnh hơn so với nấm C. musae.
Bảng 1. Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự sinh trưởng, phát triển tản nấm
NGUYỄN THỴ ĐAN HUYỀN – LÊ THANH LONG
54
Hình 1: Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự sinh trưởng, phát triển của tản nấm
sau 192 giờ nuôi cấy
Hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn của dịch chiết tỏi đã được Xi Yu-Fang
và đồng tác giả (1993) chỉ ra ở nồng độ 2,5% đã ức chế hơn 90% sự nảy mầm của
bào tử nấm mốc Penicillium italitum wekmer và Penicillium digitatum sacc ở quả có
múi. Lê Thanh Long và Nguyễn Hiền Trang (2012) cũng đã nghiên cứu khả năng
kháng nấm Aspergillus flavus của dịch chiết tỏi, kết quả cho thấy nồng độ dịch tỏi
20% cho đường kính vòng kháng nấm lớn nhất. Kết quả thử kháng của chúng tôi có
hiệu lực kháng tốt hơn ở nồng độ thấp hơn so với kết quả của Xi Yu-Fang và đồng tác
giả (1993), Lê Thanh Long và Nguyễn Hiền Trang (2012).
Khả năng kháng nấm mốc của dịch chiết tỏi do thành phần allicin có trong tỏi
tạo ra. Allicin có thể kết hợp với các hợp chất chứa nhóm thiol, có khả năng ức chế
mạnh mẽ một số enzyme (kinase acetate, synthetase phosphotransacetyl-CoA...) tham
gia vào quá trình sinh tổng hợp DNA và RNA, do đó có khả năng làm thay đổi hình
thái cũng như chiều dày của thành tế bào, phá hủy các cơ quan của tế bào, ức chế sự
nảy mầm của bào tử và sự phát triển của sợi nấm (Yasuo and Keizō, 1977, Feldberg
et al., 1988).
3.2. Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự hình thành sinh khối nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Mục đích của thí nghiệm là xác định ảnh hưởng của dịch chiết tỏi khi hòa tan
trong môi trường nuôi cấy đến sự tạo thành sinh khối nấm C. gloeosporioides và C.
musae. Dịch tỏi sau khi chiết được pha loãng đến các nồng độ: 0,2%, 0,4%, 0,6%, 0,8%
và 1% để tiến hành khảo sát sự hình thành sinh khối nấm trong môi trường ½ PDB.
Khi hòa tan trong môi trường lỏng, dịch chiết tỏi đã thể hiện khả năng kháng
nấm tốt hơn so với trên môi trường lỏng, kết quả thể hiện ở nồng độ bằng một nửa so
a. Nấm C. gloeosporioides b. Nấm C. musae
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN THƯ HẠI ỚT
55
với kháng lỏng trên môi trường 1/2 PDA nhưng hiệu lực ức chế lại tăng gấp hai lần.
Kết quả được thể hiện ở bảng 2 và hình 2.
Hình 2. Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sinh khối khô của nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Kết quả ở hình 2 cho thấy, quy luật ức chế sinh khối nấm C. gloeosporioides và
C. musae cũng giống quy luật ức chế sự sinh trưởng, phát triển của hai loại nấm này
trên môi trường đặc. Ở cả 2 loại nấm, các nồng độ dịch chiết khác nhau đều cho hiệu
quả kháng nấm khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê. Nồng độ dịch chiết càng cao
thì khả năng ức chế sự tạo thành sinh khối nấm C. gloeosporioides và nấm C. musae
càng lớn.
Đối với nấm C. gloeosporioides, sinh khối tạo thành nhiều hơn so với nấm C.
musae. Cùng sau 168 giờ nuôi cấy nhưng sinh khối nấm C. gloeosporioides thu được
nhiều gấp 9 lần so với sinh khối khô nấm C. musae (2,372 g so với 0,261 g).
Ở nồng độ 0,6%, dịch tỏi đã ức chế được 68,42% sinh khối sợi nấm C.
gloeosporioides và ở nồng độ 1%, hiệu lực ức chế đã đạt 98,81%. Trong khi đối với
nấm C. musae, cùng nồng độ 0,6% và 1% nhưng hiệu lực ức chế sự hình thành sinh
khối đạt cao hơn, tương ứng là 80,08% và 100%.
Kết quả kháng trên môi trường lỏng tốt hơn trên môi trường đặc (nồng độ thấp
hơn nhưng hiệu lực ức chế lại lớn hơn). Điều này có thể được giải thích do trong môi
trường lỏng diện tích và khả năng tiếp xúc trực tiếp của các thành phần trong dịch chiết
với nấm Colletotrichum sp. cao hơn trong môi trường đặc. Trong tỏi chứa một lượng
allicin nhất định, hoạt tính kháng sinh của allicin rất mạnh, ngay cả độ pha loãng 1:
5.000 đến 1: 12.500, nó cũng hoàn toàn ức chế được nhiều loại vi khuẩn gram (-) và
gram (+). Hoạt tính kháng sinh của 1 mg allicin tương đương với 15 IU penicillin
(xấp xỉ 1% hoạt tính của penicillin). Ngoài ra, có rất nhiều chất khác trong tỏi cũng có
NGUYỄN THỴ ĐAN HUYỀN – LÊ THANH LONG
56
tính kháng sinh như ajoene, diallyl trisulfide, diallyl sulfide, diallyl disulfide Cơ
chế tác động của allicin là gây ức chế quá trình tổng hợp protein, DNA và RNA, làm
chậm quá trình sinh trưởng của vi sinh vật (Phan Thị Sửu, Bùi Quang Thuật, 2005).
Bảng 2. Hiệu lực ức chế của dịch chiết tỏi đến sinh khối sợi nấm C. gloeosporioides và C. musae
3.3. Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự nảy mầm bào tử nấm C.
gloeosporioides và C. musae
Một dịch chiết muốn kháng nấm, kháng khuẩn tốt phải ức chế được sự nảy
mầm của bào tử nấm đó. Do đó, chúng tôi tiến hành khảo sát ảnh hưởng của dịch tỏi
đến sự nảy mầm bào tử nấm. Dịch tỏi sau khi chiết được pha loãng đến các nồng độ
0,2; 0,4; 0,6; 0,8 và 1% và tiến hành thí nghiệm theo phương pháp của Cronin et al.,
1996. Kết quả được thể hiện ở bảng 3 và hình 3 và 4.
Khả năng ức chế sự nảy mầm bào tử của dịch chiết tỏi ở các nồng độ khác
nhau rất rõ rệt, sự sai khác đều có ý nghĩa thống kê. Sau khi nuôi 12 giờ và quan sát
dưới kính hiển vi, chúng tôi nhận thấy sự nảy mầm của bào tử ở các công thức thí
nghiệm đối với từng loại nấm cũng khác nhau. Dịch chiết tỏi ức chế sự nảy mầm của
C. musae tốt hơn so với C. gloeosporioides. Ở nồng độ 0,2% đã ức chế 60% bào tử
nảy mầm so với 48,67%. Nồng độ dịch chiết 1% đã ức chế hoàn toàn sự nảy mầm bào
tử cả 2 loại nấm.
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN THƯ HẠI ỚT
57
Bảng 3. Ảnh hưởng của dịch chiết tỏi đến sự nảy mầm của bào tử nấm C.
gloeosporioides và C. musae sau 12 giờ
Ở các nồng độ dịch chiết khác nhau, chiều dài của ống mầm có sự khác nhau rất
rõ rệt: nồng độ dịch chiết càng cao thì chiều dài của ống mầm càng ngắn so với công
thức đối chứng (0%). Không những ức chế sự nảy mầm bào tử, nồng độ dịch chiết
càng cao càng làm thay đổi về hình dạng của bào tử. Các bào tử khi nuôi trong môi
trường có bổ sung dịch chiết cao phần lớn đều có sự biến dạng về hình dạng, khi quan
sát ở vật kính lớn hơn còn nhận thấy có sự biến đổi thể trong suốt bên trong bào tử .
Điều này chứng tỏ các dịch chiết có khả năng xâm nhập vào tế bào nấm, làm thay đổi
cấu trúc tế bào và làm biến dạng bào tử. Nguyễn Thỵ Đan Huyền và đồng tác giả
(2013) khi nghiên cứu sử dụng oligochitosan để ức chế sự nảy mầm đối với nấm C.
gloeosporioides cũng cho kết quả tương tự nhưng nồng độ oligochitosan ức chế hoàn
toàn sự nảy mầm bào tử là 0,05% thấp hơn kết quả của nghiên cứu này do
oligochitosan có mạch phân tử nhỏ nên có khả năng xâm nhập vào bào tử nấm tốt hơn.
Hiệu lực ức chế sự nảy mầm cũng tăng dần theo chiều tăng dần nồng độ dịch
chiết tỏi. Ở nồng độ dịch chiết khảo sát nhỏ nhất (0,2%), hiệu lực ức chế đạt 50% và
tăng mạnh khi tăng nồng độ dịch chiết. Hiệu lực ức chế đạt trên 90% đối với dịch
chiết tỏi có nồng độ 0,8% và đạt 100% ở nồng độ 1% ở cả 2 loại nấm.
NGUYỄN THỴ ĐAN HUYỀN – LÊ THANH LONG
58
4. Kết luận
Dịch chiết tỏi với nồng độ 2% ức chế 57,40% và 93,25% sự sinh trưởng, phát
triển tản nấm C. gloeosporioides và C. musae. Nồng độ dịch chiết tỏi 1% ức chế
98,81% và 100% sự tạo sinh khối, ức chế hoàn toàn sự nảy mầm của bào tử nấm
tương ứng hai nấm C. gloeosporioides và C. musae.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Tấn Dũng (2007), “Nghiên cứu bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani Kuln) hại một
số cây trồng vùng Hà Nội năm 2005 – 2006”, Tạp chí Bảo vệ thực vật, 1: 20 – 25.
[2] Nguyễn Thỵ Đan Huyền, Lê Thanh Long, Trần Thị Thu Hà, Phạm Thị Ngọc Lan
(2013), “Ảnh hưởng của oligochitosan đến nấm Colletotrichum gloeosporioides
gây bệnh thán thư trên ớt sau thu hoạch”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển
nông thôn (21), 47 – 53.
[3] Lê Thanh Long, Nguyễn Hiền Trang (2012), “Nghiên cứu khả năng kháng nấm
mốc Aspergillus flavus L1 trên lạc của một số hoạt chất có nguồn gốc tự nhiên”,
Tạp chí công nghệ sinh học, 10 (4A): 1023-1032.
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT TỎI ĐẾN NẤM THÁN THƯ HẠI ỚT
59
[4] Phan Thị Sửu, Bùi Quang Thuật (2005), Nghiên cứu công nghệ sản xuất nhựa
dầu gừng và một số gia vị chọn lọc việt nam (ớt, tỏi), Bộ khoa học và công nghệ.
Viện công nghiệp thực phẩm.
[5] Lê Lương Tề, Vũ Triệu Mân (2007), Giáo trình bệnh cây công nghiệp, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
[6] Ngô Thị Mai Vi (2009), “Nghiên cứu bệnh nấm hại hạt giống lạc tại huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An và biện pháp sinh học phòng trừ bệnh”, Luận văn thạc sĩ nông
nghiệp, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội.
[7] Al-Hetar M.Y., Abidin M.A.Z., Sariah M., Wong M.Y. (2011), “Antifungal
activity of chitosan against Fusarium oxysporum f. sp. cubense”, Journal of
Applied Polymer Science, (120): 2434 – 2439.
[8] Cronin, M. J, Yohalem, D. S., Harris, R. F. & Andrews, J. H. (1996), “Putative
mechanism and dynamics of inhibition of apple scab pathogen”, Venturia
inequalis by compost extracts, Soil Biology & Biochemistry, 28: 1241 – 1249.
[9] Feldberg R.S., Chang S.C., Kotik A.N., Nadler M., Neuwirth Z., Sundstrom D.C,
and Thompson N.H.(1988), “In vitro mechanism of inhibition of bacterial cell
growth by allicin”, Antimicrobial Agents Chemotherapy, 32(12): 1763-1768.
[10] Serge Ankri, David Mirelman (1999), “Antimicrobial properties of allicin from
garlic”, Microbes and Infection, 125−129.
Title: EFFECT OF GARLIC EXTRACT ON POSTHAVERST
ANTHARACNOSE OF CHILI CAUSED BY Colletotrichum gloeosporioides
AND BANANA CAUSED BY Colletotrichum musae IN VITRO
NGUYEN THY DAN HUYEN
LE THANH LONG
Hue University of Agriculture and Forestry
Abstract: Chemical origin anti-mildew compound has negative effects on human
health. So, this article concerns itself with the antifungal bioactive compound on
vegetables. Some natural origin extracts have high bioactive substances, such as
garlic extract. These are used for antifungal purposes, such as controlling the
anthracnose disease caused by Colletotrichum gloeosporioides on chilies and C.
musae on bananas. Garlic extract had an effect on the morphological of the fungal
NGUYỄN THỴ ĐAN HUYỀN – LÊ THANH LONG
60
colony. The formation of biomass is defined through diameter of fungus colony, dry
biomass of spawning and deactivation of germinated spore in vitro condition. Garlic
extract at 0.5% concentration deactivates79.29 and 61.45% of diameter of fungus
colony after 192 hour growth. 1% concentration of garlic extract deactivates 100% of
dry biomass of spawning after 168 hour. The observation under the microscope after
12 hours shows that garlic extract completely inhibited the germination of fungal
spores anthracnose.
Key words: Garlic extract, chili, banana, C. gloeosporioides, C. musae,
antharacnose.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4147_8284_2134841.pdf