Tài liệu Ảnh hưởng của benzyl adenine đến khả năng ra hoa của giống lan lai dendrobium bch 12-15-15: 61
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(94)/2018
Effect of culture conditions on degradation of cellulose and starch
by two bacteria strains isolated from trash of edible-canna
Nguyen Xuan Canh, Bui Thi Hoa, Pham Hong Hien, Trinh Thi Van
Abstract
The degradation of cellulose and starch by enzymes from bacteria was studied and applied in a variety of fields. This
research focused on the isolation and identification of culture conditions affecting on degradation of cellulose and
starch by bacteria strains isolated from trash of edible-canna. Among 13 selected bacterial isolates, D4 and X1.2
strains showed high activity on degradation of both cellulose and starch. The activity of both strains was influenced
by culture conditions including time, temperature, pH and concentration of the substrates. The optimum culture
time for strains was three days for cellulose degradation and six days for starch digestion. Both strains showed the
activity when the tem...
4 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của benzyl adenine đến khả năng ra hoa của giống lan lai dendrobium bch 12-15-15, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(94)/2018
Effect of culture conditions on degradation of cellulose and starch
by two bacteria strains isolated from trash of edible-canna
Nguyen Xuan Canh, Bui Thi Hoa, Pham Hong Hien, Trinh Thi Van
Abstract
The degradation of cellulose and starch by enzymes from bacteria was studied and applied in a variety of fields. This
research focused on the isolation and identification of culture conditions affecting on degradation of cellulose and
starch by bacteria strains isolated from trash of edible-canna. Among 13 selected bacterial isolates, D4 and X1.2
strains showed high activity on degradation of both cellulose and starch. The activity of both strains was influenced
by culture conditions including time, temperature, pH and concentration of the substrates. The optimum culture
time for strains was three days for cellulose degradation and six days for starch digestion. Both strains showed the
activity when the temperature increased to 500C, but the activity was highest at 370C. Optimal pH for degradation of
cellulose and starch was 5 - 7 and 5 - 9, respectively. The amount of substrate suitable for the highest activity ranged
from 3 - 4%.
Keywords: Bacteria, cellulose, starch, trash of edible-canna.
Ngày nhận bài: 20/6/2087
Ngày phản biện: 2/7/2018
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Văn Giang
Ngày duyệt đăng: 18/9/2018
1 Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố Hồ Chí Minh
ẢNH HƯỞNG CỦA BENZYL ADENINE ĐẾN KHẢ NĂNG RA HOA
CỦA GIỐNG LAN LAI Dendrobium BCH 12-15-15
Lê Thị Thu Hằng1, Phan Diễm Quỳnh1, Hà Thị Loan1
TÓM TẮT
Dendrobium BCH 12-15-15 là giống lan mới của Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh đã được bảo
hộ trong năm 2017. Hoa có màu trắng, kích thước bông lớn và có mùi thơm nhẹ. Cây có ưu thế trong sản xuất lan
cắt cành. Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của Benzyl Adenine đến khả năng ra hoa của
Dendrobium BCH 12-15-15. Nồng độ BA (0, 100, 150, 200, 250 và 300 ppm) được phun lên cây lan ở độ tuổi 18
tháng sau khi cấy mô. Kết quả cho thấy lan Dendrobium BCH 12-15-15 được xử lý với BA 250 ppm có tỷ lệ ra hoa
cao nhất, đạt 84%; chồi hoa xuất hiện sớm nhất ở 27 ngày sau phun; số lượng phát hoa đạt 2,02 phát hoa trên mỗi
cây và số lượng hoa đạt 17 hoa/phát hoa. Tuổi thọ của hoa là 51 ngày và dài hơn đối chứng không xử lý là 14 ngày.
Từ khóa: BA, giống hoa lan Dendrobium BCH 12-15-15, Cytokinin, ra hoa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lan Dendrobium được trồng phổ biến làm hoa
cắt cành do cây siêng hoa, năng suất hoa cao, lâu tàn,
màu sắc hoa đa dạng. Chu kỳ khai thác lan cắt cành
vào khoảng 3 năm. Do vậy, việc áp dụng các biện
pháp kỹ thuật phù hợp nhằm làm tăng giá trị sản
phẩm của lan Dendrobium qua đó có khả năng cạnh
tranh cao trong ngành công nghiệp sản xuất hoa cắt
cành có tính cạnh tranh cao như hiện nay là rất cần
thiết. Sự ra hoa của hoa lan phụ thuộc vào cường độ
ánh sáng, nhiệt độ và thời gian chiếu sáng (Kataoka
et al., 2004), hoặc thay đổi hoóc môn trong quá
trình sinh trưởng (Campos and Kerbauy, 2004). Một
số các chất điều hòa sinh trưởng như gibberellin,
auxin, cytokinin đã được sử dụng thành công trong
ngành trồng hoa lan cắt cành cho nhiều mục đích
khác nhau, trong đó Benzyl Adenine (BA) được biết
đến như là chất kích thích sinh trưởng có ảnh hưởng
tích cực đến quá trình ra hoa của cây. Cytokinin
kích thích sự phát triển của chồi bên, thúc đẩy hình
thành mầm hoa và nở hoa (Phillips et al., 1991). BA
đã được xác nhận có khả năng điều khiển cảm ứng
và gây ra hoa ở lan Doritaenopsis và Phalaenopsis
trong điều kiện nhiệt độ trong nhà kính được điều
chỉnh từ 28°C xuống 23°C (Blanchard and Runkle,
2007). BAP cũng là tác nhân thúc đẩy tăng trưởng
cây trồng để đẩy nhanh tốc độ ra lá và quá trình
hình thành hoa cho giống Dendrobium Angle White
(Nambiar et al., 2012). Ngoài ra BA còn được thử
nghiệm để kích thích sự nảy chồi hoặc nảy phát hoa
ở nách lá của lan Miltoniopsis trồng chậu (Newton
and Runkle, 2015). Nghiên cứu này được thực hiện
nhằm làm rõ ảnh hưởng của BA đến khả năng ra
hoa của giống lan lai mới Dendrobium BCH 12-15-
62
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(94)/2018
15 qua đó tiến tới hoàn thiện quy trình trồng lan
Dendrobium cắt cành thương phẩm để chuyển giao
cho sản xuất.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Vật liệu là giống lan Dendrobium BCH 12-15-
15 ở độ tuổi cây 18 tháng sau cấy mô, được trồng
bằng giá thể 50% than củi và 50% xơ dừa. Cây đã thu
hoạch lứa hoa đầu tiên.
- Chất điều hòa sinh trưởng Benzyl Adenine (BA)
độ tinh khiết 99% (Sản phẩm của công ty Duchefa
Biochemie).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm một yếu tố được
bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD), 3 lần
lặp lại. Nồng độ BA: 0, 100, 150, 200, 250 và 300 ppm
được phun cho cây vào lúc 16 - 17 h. Các nghiệm
thức thí nghiệm được phun định kỳ 15 ngày/lần cho
đến khi có ít nhất 50% số cây thí nghiệm có số hoa/
phát hoa nở được 50%. Liều lượng phun 10 mL/
chậu. Sau phun lần 1 được 3 ngày tiến hành phun
phân bón chăm sóc cho cây. Chế độ chăm sóc và
BVTV được thực hiện theo quy trình trồng và chăm
sóc lan Dendrobium của Trung tâm Công nghệ sinh
học TP. HCM. Thí nghiệm được thực hiện trên
giống lan D. BCH 12-15-15 ở tuổi cây 18 tháng
sau cấy mô. Bố trí 30 chậu lan/ô cơ sở. Quy mô thí
nghiệm: 540 chậu lan.
- Chỉ tiêu theo dõi: Các chỉ tiêu nông sinh học: tỷ
lệ ra hoa, thời điểm xuất hiện chồi hoa, thời điểm nở
hoa đầu tiên, số phát hoa/chậu, chiều dài phát hoa,
số hoa/phát hoa, đường kính hoa, tuổi thọ hoa. Các
chỉ tiêu được thu thập của 10 chậu/ô cơ sở, lấy giá trị
trung bình.
- Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý thống kê bằng
Microsoft Office Excel và SAS 9.1.3.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến tháng
6/2018 tại Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ
Chí Minh.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của BA đến tỷ lệ ra hoa và thời
điểm xuất hiện phát hoa của lan Dendrobium BCH
12-15-15
Sau khi được kích thích bởi chất điều hòa sinh
trưởng BA ngoại sinh, cây lan cảm ứng và xuất hiện
chồi hoa. Tỷ lệ ra hoa ở các mức BA thí nghiệm được
trình bày trong Bảng 1. Kết quả trong bảng cho thấy
ảnh hưởng của BA đến tỷ lệ ra hoa của cây có sự
khác biệt rất có ý nghĩa thống kê giữa các mức xử lý.
Tỷ lệ ra hoa thấp nhất là ở đối chứng (36,7%), trong
khi đó cao nhất là ở mức BA 250 ppm (84%), sau đó
lần lượt là 300 ppm (79,3%), 200 ppm (52%). Điều
này khẳng định rằng ảnh hưởng của BA ngoại sinh
thúc đẩy việc hình thành chồi hoa của lan D. BCH
12-15-15. Kết quả này phù hợp với kết quả của Po-
Hung Wu và cộng tác viên (2009) khi xử lý BA ở mức
70 ppm tại nhiệt độ 26/18oC cho lan Phalaenopsis thì
cây có xử lý BA đạt 98% số cây xuất hiện chồi hoa,
trong khi đối chứng chỉ đạt 58%.
Bảng 1. Ảnh hưởng của BA đến tỷ lệ ra hoa
và thời điểm xuất hiện hoa của lan D. BCH 12-15-15
Ghi chú: Bảng 1, 2, 3: Trong cùng nhóm trung bình,
các số đi liền với cùng ký tự khác biệt không có nghĩa
thống kê; **: khác biệt rất có ý nghĩa ở mức P ≤ 0,01.
Kết quả cũng cho thấy phát hoa xuất hiện đầu
tiên ở mức xử lý BA 250, 300 ppm và 200 ppm sau
khi phun được 27 - 30 ngày. Trong khi đó đối chứng
phải mất 48 ngày mới xuất hiện phát hoa. Trong
nghiên cứu của Blanchard và cộng tác viên (2007)
cũng cho thấy xử lý BA ở nồng độ 200, 400 ppm cho
lan Doritaenopsis và Phalaenopsis xuất hiện chồi hoa
sớm hơn nghiệm thức không xử lý BA từ 3 - 9 ngày.
Bảng 2. Ảnh hưởng của BA đến thời điểm nở hoa và số
phát hoa/chậu của lan D. BCH 12-15-15
Nồng độ BA
Tỷ lệ ra hoa (%)
(45 ngày
sau phun)
Thời điểm xuất
hiện phát hoa
(Ngày sau phun)
0 ppm (ĐC) 36,7c 48,3a
100 ppm 38,0c 47,7a
150 ppm 43,3c 37,7b
200 ppm 52,0b 30,7c
250 ppm 84,0a 26,7c
300 ppm 79,3a 30,3c
CV (%) 8,69 6,64
F tính ** **
Nồng độ BA
Thời điểm
nở hoa đầu
(ngày sau phun)
Số phát
hoa/chậu
(phát hoa)
0 ppm (ĐC) 59,8a 1,03d
100 ppm 56,7a 1,03d
150 ppm 47,0b 1,33c
200 ppm 43,0b 1,31c
250 ppm 37,3c 2,02a
300 ppm 38,0c 1,57b
CV (%) 5,33 5,79
F tính ** **
63
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(94)/2018
Kết quả trong bảng 2 cho thấy BA có ảnh hưởng
đến quá trình nở hoa đầu tiên. Việc này là cần thiết
trong quá trình kiểm soát thời điểm nở hoa của
lan trong sản xuất. Số ngày cần thiết cho hoa nở ở
nghiệm thức có xử lý BA ngắn hơn so với đối chứng.
Cây được xử lý BA 250 ppm và 300 ppm có hoa nở
sớm nhất (37 - 38 ngày), tiếp theo là BA 200 ppm (43
ngày), 150 ppm (47 ngày) và 100 ppm (57 ngày). Đối
chứng nở hoa muộn nhất (60 ngày). Như vậy trong
nghiên cứu này, tất cả các nghiệm thức được phun
BA đều có số ngày cần thiết để cho hoa đầu tiên nở
thấp hơn so với đối chứng. Điều này có thể là do đặc
tính sinh lý của BA có tác dụng thúc đẩy nhanh quá
trình phân hóa tế bào, dẫn đến cây được phun BA
hình thành chồi hoa sớm và nở hoa cũng sớm hơn
so với đối chứng.
Số phát hoa là một trong nhiều chỉ tiêu thể hiện
năng suất hoa của lan cắt cành. Năng suất hoa càng
cao thì người trồng mau thu hồi vốn và có lợi nhuận
sớm. Kết quả trong bảng 2 cho thấy ở mức BA 250
ppm cho số phát hoa/chậu nhiều nhất (2,02), trong
khi đối chứng là 1,03. Kết quả này cũng phù hợp so
với nghiên cứu của Po-Hung Wu và cộng tác viên
(2009) cho thấy khi xử lý BA cho lan Phalaenopsis ở
150 ppm cho thấy hoa nhiều hơn đối chứng không
xử lý từ 1,3 - 2 phát hoa/cây. Tương tự như khi Saika
và cộng tác viên (1998) đã tiêm BA ở nồng độ 10
mM cho giống lan D. Jap Hawaii “UH 306” cho thấy
số phát hoa hình thành là 1,7 phát hoa, nhiều hơn
hai lần so với đối chứng không xử lý (0,8 phát hoa).
Chiều dài phát hoa và số hoa/phát hoa là những
yếu tố quyết định đến chất lượng hoa cắt cành vì có
liên quan đến thị hiếu của người tiêu dùng. Người
tiêu dùng thường ưa thích phát hoa lan dài và có
nhiều hoa để dễ trang trí. Kết quả theo dõi cho thấy
lan được xử lý BA 250 ppm có chiều dài phát hoa lớn
nhất (52,7 cm), tiếp theo đó là ở mức BA 300 ppm
(50,7 cm), đối chứng có chiều dài phát hoa ngắn
nhất (37 cm).
Bảng 3. Ảnh hưởng của BA đến chất lượng hoa
của lan D. BCH 12-15-15
Số hoa/phát hoa xuất hiện nhiều nhất ở cây có xử
lý BA 250 ppm (17 hoa), cao hơn khác biệt rất có ý
nghĩa thống kê so với đối chứng (8,3 hoa). Kết quả
này cũng tương đối phù hợp so với nghiên cứu của
Blanchard và cộng tác viên (2007) khi thử nghiệm
BA để điều khiển ra hoa cho lan Doritaenopsis và
Phalaenopsis cho thấy ở mức BA 200 và 400 mg/L
thì cây có số hoa/ phát hoa tăng cao hơn đối chứng
không xử lý từ 3 - 8 hoa. Nambiar và cộng tác viên
(2012) đã xử lý BAP với nồng độ từ 100 - 300 mg/L
cho lan D. Angle White cho thấy khi bổ sung BAP
ngoại sinh đều làm tăng số lượng hoa và chiều dài
phát hoa của cây.
Hình 1. Phát hoa lan ở các nghiệm thức có xử lý BA (a): BA 100 ppm;
(b): BA 150 ppm; (c): BA 200 ppm; (d): BA 250 ppm; (e): BA 300 ppm
(a) (b) (c) (d) (e)
Nồng độ
BA
Chiều
dài phát
hoa
(cm)
Số hoa/
phát
hoa
(hoa)
Đường
kính
hoa
(cm)
Tuổi thọ
hoa
(ngày)
0 ppm (Đc) 37,0c 8,3c 7,1 36,7b
100 ppm 37,3c 10,1bc 7,2 37,3b
150 ppm 44,3b 11,3bc 7,3 40,0b
200 ppm 50,3a 12,3bc 7,3 47,7a
250 ppm 52,7a 17,0a 7,1 51,0a
300 ppm 50,7a 13,0b 6,8 34,7b
CV (%) 6,27 9,56 4,28 7,03
F tính ** ** ns **
64
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(94)/2018
Kết quả trong bảng 3 cho thấy các mức BA bổ
sung không làm ảnh hưởng đến kích thước hoa,
nhưng có ảnh hưởng đến tuổi thọ của hoa. Tuổi
thọ hoa thấp nhất ở mức BA 300 ppm (35 ngày).
Điều này có thể là do khi bổ sung BA ở nồng độ
cao, kích thích quá trình phân hóa tế bào mạnh, cây
rút ngắn quá trình sinh trưởng, do vậy hoa nở sớm
và tuổi thọ của hoa thấp. Lorteu và cộng tác viên
(2001) cho thấy rằng BAP có thể kích thích sản xuất
etylen trong thực vật dẫn đến quá trình chín sớm
ở thực vật. Trong nghiên cứu này, những chồi hình
thành sớm thì bị vàng úa sớm ở giai đoạn đầu khi
hình thành. Điều này có thể là do sự hình thành
ethylene ở thực vật đã được xử lý bằng BAP ở nồng
độ cao hơn. Nghiên cứu của Nguyễn và cộng tác
viên (2006) cho thấy khi bổ sung BA cho sự ra hoa
in vitro của hoa hồng ở mức cao thì nụ hoa bị héo
vàng và rụng trước khi chúng kịp nở.
Hình 2. Phát hoa lan của nghiệm thức xử lý
BA 250 ppm (A) và đối chứng không xử lý BA (B)
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Benzyl Adenine có ảnh hưởng đến quá trình
hình thành hoa của lan D. BCH 12-15-15 ở giai đoạn
vườn sản xuất. Phun BA ở nồng độ 250 ppm cho cây
lan có tỷ lệ ra hoa cao nhất, thời điểm xuất hiện phát
hoa sớm nhất và thời gian để hoa nở cũng sớm hơn
so với đối chứng. Số lượng và chất lượng hoa đều cao
hơn đối chứng không có xử lý BA. Như vậy, nghiên
cứu này cho thấy việc bổ sung chất điều hòa sinh
trưởng thực vật, đặc biệt là BA có tiềm năng lớn để
thúc đẩy quá trình ra hoa của cây lan D. BCH 12-15-
15, hỗ trợ cải tiến năng suất và chất lượng hoa.
4.2. Đề nghị
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được,
đề nghị đưa phương pháp xử lý BA để kích thích
ra hoa vào quy trình trồng và sản xuất giống lan lai
mới Dendrobium BCH 12-15-15 nhằm tạo sự ra hoa
đồng bộ và góp phần làm gia tăng hiệu quả kinh tế
của nghề trồng lan cắt cành.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Trung tâm
Công nghệ sinh học thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ
trợ nguồn mẫu, kinh phí và cơ sở vật chất để thực
hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Blanchard M. G. and Runkle E. S., 2007.
Benzyladenine promotes flowering
in Doritaenopsis and Phalaenopsis Orchids. J Plant
Growth Regul (2008) 27: 141-150.
Campos, KA, Kerbauy, GB, 2004. Thermoperiodic
effect on flowering and endogenous hormonal
status in Dendrobium (Orchidaceae). J Plant Physiol,
161: 1385-1387.
Kataoka K1, Suzuki Y, Kitada M, Hashimoto T, Chou
H, Bai H, Ohta M, Wu S, Suzuki K, Ide C., 2004.
Alginate enhances elongation of early regenerating
axons in spinal cord of young rats. Tissue Eng, 10 (3-4):
493-504.
Lorteau MA, James BJ, Catherine F, 2001. Effects of
cytokinin on ethylene production and nodulation in
pea (Pisum sativum) cv. Sparkle. Physiol Plantarum,
112: 421-428.
Nambiar N., Siang T. C., Mahmood M., 2012. Effect of
6-Benzylaminopurine on flowering of a Dendrobium
orchid. AJCS. 6(2): 225-231.
Newton L.A., Runkle E.S., 2015. Effects of
Benzyladenine on vegetative growth and flowering
of potted Miltoniopsis orchids. Acta Horticulturae, V.
1078, p: 121-127.
Nguyen HV, Phan HA, Duong TN, 2006. The role of
sucrose and different cytokinins in the in vitro floral
morphogenesis of rose (hybrid tea) cv. “First Prize”.
Plant Cell Tiss Org Culture, 87: 315-320.
Po-Hung Wu and Doris C.N. Chang1, 2009. The
Use of N-6-benzyladenine to Regulate Flowering
of Phalaenopsis Orchids. Hort Technology. Vol. 19
(No.1): 200-203.
Phillips W. D., Chilton T. J., 1991. Biology. Oxford
University Press, Vol 2. p: 51-62.
Sakai W. S., Joanne Courtney - Suttle, John C., Mark
M. and Ron K., 1998. Inducing Dendrobium Orchid
inflorescence growth by injection of a solution of
benzyladenine. J. Hawaiian Pacific Agric, 9: 33 - 36.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 64_2849_2225420.pdf