Tài liệu Ảnh hưởng của acid salicylic và methyl jasmonate lên sự sinh trưởng và tích lũy menthol ở chồi in vitro phát sinh từ đốt thân bạc hà (mentha avensis l.): 100
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
EBL chỉ làm gia tăng năng suất giống IR28 và
MTL547 trong điều kiện mặn. Tép hành ĐB là giống
có năng suất cao nhất trong điều kiện không mặn
và được cho là giống chịu mặn tốt nhưng lại nhiễm
mặn giai đoạn trổ cho dù có xử lý EBL cũng không
tăng năng suất so với không xử lý EBL, đồng thời
lại cho năng suất thấp hơn giống IR28 trong điều
kiện mặn. Điều này cho thấy một giống lúa chịu mặn
nhưng không phải chịu mặn tốt ở tất cả các giai đoạn
sinh trưởng, mà đôi khi lại mẫn cảm với mặn ở một
số giai đoạn.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Lúa bị mặn giai đoạn nảy chồi và trổ, sử dụng
24-epibrassinolide (EBL) nồng độ 1 ppm đã làm gia
tăng diện tích lá, hàm lượng proline đây là cơ sở giúp
cây chịu mặn tốt hơn và tăng năng suất.
Giống MTL547 là giống triển vọng có thể sử
dụng EBL để gia tăng tính chịu mặn. Giống Tép
hành ĐB là giống chịu mặn nhưng lại mẫn cảm mặn
giai đoạn trổ. Vì v...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của acid salicylic và methyl jasmonate lên sự sinh trưởng và tích lũy menthol ở chồi in vitro phát sinh từ đốt thân bạc hà (mentha avensis l.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
EBL chỉ làm gia tăng năng suất giống IR28 và
MTL547 trong điều kiện mặn. Tép hành ĐB là giống
có năng suất cao nhất trong điều kiện không mặn
và được cho là giống chịu mặn tốt nhưng lại nhiễm
mặn giai đoạn trổ cho dù có xử lý EBL cũng không
tăng năng suất so với không xử lý EBL, đồng thời
lại cho năng suất thấp hơn giống IR28 trong điều
kiện mặn. Điều này cho thấy một giống lúa chịu mặn
nhưng không phải chịu mặn tốt ở tất cả các giai đoạn
sinh trưởng, mà đôi khi lại mẫn cảm với mặn ở một
số giai đoạn.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Lúa bị mặn giai đoạn nảy chồi và trổ, sử dụng
24-epibrassinolide (EBL) nồng độ 1 ppm đã làm gia
tăng diện tích lá, hàm lượng proline đây là cơ sở giúp
cây chịu mặn tốt hơn và tăng năng suất.
Giống MTL547 là giống triển vọng có thể sử
dụng EBL để gia tăng tính chịu mặn. Giống Tép
hành ĐB là giống chịu mặn nhưng lại mẫn cảm mặn
giai đoạn trổ. Vì vậy, khi sử dụng giống chịu mặn cần
phải biết đầy đủ đặc tính chống chịu ở các giai đoạn
sinh trưởng mới có thể bố trí vào mùa vụ thích hợp.
4.2. Đề nghị
Đề nghị thử nghiệm ở điều kiện đồng ruộng ở
nhiều địa phương bị ảnh hưởng mặn để có cơ sở áp
dụng EBL cho các vùng trồng lúa bị ảnh hưởng mặn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abe, H., 1989. Advances in brassinosteroid reseach
and prospects for its agricultural application. Japan
Physiol., 55: 10-14.
Khripach, V.A., Zhabinskii, V.N. and De Groot, A.E.,
2000. Twenty years of brassinosteroids: Steroidal plant
hormones warrant better crops for the XXI century.
Annals of Botany 86: 441-447.
Vardhini, B.V. and Rao, S.S.R., 2003. Amelioration
of osmotic stress by brassinosteroids on seed
germination and seedling growth of three varieties
of sorghum. Plant Growth Regulation, 41: 25-31.
Yoshida S., 1981. Fundamentals of rice crop sience. IRRI,
Los Banos, Laguna, Philippines, pp. 105-164.
Enhancing salt tolerance of rice
by 24-epibrassinolide plant growth regulator
Vu Anh Phap
Abstract
Saline intrusion affects seriously to rice farming in the Mekong delta. Therefore, research on the induction of salt
tolerance in rice is more concerned. The experiments were carried out in the greenhouse conditions, three testing
varieties were MTL547, IR28 and mutant Tep hanh; induced agents were 24-epibrassinolide; agronomic, chemico-
biological traits, and grain yield were collected and analyzed. The results showed that under salt stress, 24-epibrassinolide
growth regulator increased leaf area, proline content, quantity and weight of filled grains and yield.
Keywords: Induction, proline, rice grain yield, 24-epibrassinolide
Ngày nhận bài: 3/9/2017
Người phản biện: TS. Vũ Tiến Khang
Ngày phản biện: 6/9/2017
Ngày duyệt đăng: 11/10/2017
1 Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
ẢNH HƯỞNG CỦA ACID SALICYLIC VÀ METHYL JASMONATE
LÊN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ TÍCH LŨY MENTHOL Ở CHỒI IN VITRO
PHÁT SINH TỪ ĐỐT THÂN BẠC HÀ (Mentha avensis L.)
Nguyễn Thị Quyên1, Trần Thị Lệ Minh1
TÓM TẮT
Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của acid salicylic (SA), methyl jasmonate (MeJA) đến sự sinh
trưởng và khả năng tích lũy menthol của chồi bạc hà khi bổ sung riêng lẻ và phối hợp vào môi trường nuôi cấy in
vitro. Chồi bạc hà được bổ sung riêng lẻ SA (0,5; 1; 1,5 và 2 mg/L) hoặc MeJA (10; 20; 30 và 40 mg/L). Bổ sung SA
nồng độ 2mg/L ức chế sự phát triển sinh khối chồi, cho kết quả trọng lượng khô thấp nhất sau 15 ngày cảm ứng, tỉ lệ
ức chế đạt 28,86% so với đối chứng không bổ sung SA. Sau 20 ngày nuôi cấy hàm lượng tích lũy menthol trong chồi
101
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạc hà châu Á (Mentha arvensis L.) được trồng
chủ yếu cho mục đích thu nhận tinh dầu. Tinh dầu
bạc hà là hợp chất thứ cấp có vai trò quan trọng
trong nhiều ngành công nghiệp và là nguồn nguyên
liệu xuất khẩu cho nhiều nước trên thế giới như Mỹ,
Pháp, Canada. Menthol là thành phần chính trong
tinh dầu bạc hà và hoạt chất này có nhiều tác dụng
dược lý quan trọng như hoạt tính kháng khuẩn,
kháng nấm, kháng viêm, chống co thắt cơ ho, giảm
đau, v.v. Chính vì vậy menthol là hợp chất sinh học
được sử dụng phổ biến trong các ngành công nghiệp
dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm. Như vậy hợp
chất thứ cấp cung cấp cho con người nguồn nguyên
liệu phong phú ứng dụng trong dược phẩm, phụ gia
thực phẩm, v.v. Tuy nhiên, trong tự nhiên các hợp
chất thứ cấp được tạo ra tùy thuộc vào từng giai
đoạn sinh trưởng và phát triển của thực vật nhưng
số lượng là rất ít so với nhu cầu sử dụng. Do đó,
nghiên cứu ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào
thực vật sử dụng chất kích kháng để tăng cường sinh
tổng hợp các hợp chất thứ cấp là một giải pháp đang
được quan tâm hàng đầu (Namdeo, 2002).
SA là một phytohormone được hình thành trong
cây và là một phân tử tín hiệu, có nhiều tác động đến
quá trình sinh lý và sinh hóa của thực vật (Shraiy and
Hegazi, 2009). Hoạt chất này không những đóng một
vai trò quan trọng trong việc điều hòa sự sinh trưởng,
phát triển, hấp thụ, và vận chuyển ion của cây, mà
còn làm tăng khả năng chống chịu các stress phi sinh
học như hạn hán, độ mặn, bức xạ tia cực tím (Hayat
et al., 2008; Shakirova et al., 2003; Rao and David,
1999). Ngoài ra, SA còn là phân tử tín hiệu của một số
quá trình sinh lý như sự nảy mầm của hạt, quá trình
đường phân, sự hấp thu dinh dưỡng và vận chuyển,
tỷ lệ quang hợp và thoát hơi nước (Hayat et al., 2005).
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu sử
dụng SA làm chất kích kháng khả năng phòng vệ các
tác nhân gây bệnh ở một số loại cây trồng như lúa,
rau, mía và cây lâu năm. Gần đây, Quách Ngô Diễm
Phương đã khảo sát quy trình thu nhận các hợp chất
có hoạt tính sinh học từ việc nuôi cấy tế bào hai loài
Drosera đã cho kết quả khi sử dụng SA ở nồng độ 1
mg/L với thời gian cảm ứng 15 ngày cho hàm lượng
plumbagin cao nhất gấp 1,72 lần so với đối chứng
không bổ sung (Quách Ngô Diễm Phương, 2011).
Methyl jasmonate (MeJA) cũng đã được chứng
minh là một chất điều hòa sinh trưởng thực vật mới
có nguồn gốc từ acid linolenic (Kim et al., 2006).
Việc xử lý MeJA ngoại sinh có tác dụng ức chế sự
sinh trưởng theo chiều dọc của cây con, chiều dài rễ,
mầm rễ, mô đang nuôi cấy, quá trình phát sinh phôi,
khả năng nảy mầm của hạt và hạt phấn, sự hình
thành nụ hoa, quá trình tạo diệp lục tố và những
hoạt động quang hợp. Ngoài hoạt tính ức chế, MeJA
còn có tác dụng kích thích gây cảm ứng đến sự vươn
dài của hom mía, phân hóa trong mô nuôi cấy, tạo
thành rễ bất định, sự nảy mầm chồi mùa đông, sự
chín của trái, sự lão hóa của vỏ quả và lá, sự rụng lá,
khả năng tạo củ, quá trình phân rã diệp lục tố, sinh
tổng hợp ethylene và protein (Maciejewska et al.,
2004; Kim et al., 2009; Warabieda and Olszak, 2010).
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
ảnh hưởng của SA và MeJA trên đối tượng cây bạc
hà Mentha arvensis L. Nghiên cứu này được thực
hiện nhằm khảo sát sự ảnh hưởng của SA và MeJA
lên khả năng tích lũy menthol ở cây bạc hà (Mentha
arvensis L.) trong điều kiện in vitro.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Cây bạc hà in vitro 4 tuần tuổi sử dụng trong
nghiên cứu do Bộ môn Công nghệ Sinh học, trường
Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Acid
salicylic là sản phẩm của Merk (Đức) và Methyl
jasmonate do hãng Sigma - Aldrich (Mỹ) cung cấp.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Chuẩn bị mẫu
Mẫu đốt thân sau khi cắt từ cây bạc hà in vitro 4
tuần tuổi được nuôi cấy trong môi trường MS lỏng
có bổ sung 1 mg/L IAA, 3 mg/L BA và 40 g/L sucrose
(Tôn Bảo Linh, 2014).
2.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của SA và MeJA lên chồi
bạc hà in vitro
- Ảnh hưởng của SA: Mẫu đốt thân sau khi nuôi
cấy 15 ngày trong môi trường MS lỏng có bổ sung
1 mg/L IAA, 3 mg/L BA, 40 g/L sucrose sẽ được bổ
sung SA với nồng độ 0; 0,5; 1; 1,5 và 2 mg/L (tiêm
qua màng lọc đường kính 0,2 µm, không chuyển môi
trường) và thời gian cảm ứng là 5, 10, 15, 20 và ngày).
đạt cao nhất với 60,61 mg/g mẫu khô ở nghiệm thức bổ sung 1 mg/L SA (tăng lên gấp 2,09 lần lần so với đối chứng),
và đạt 57,63 mg/g mẫu khô ở nghiệm thức bổ sung 10 mg/L MeJA (tăng 1,7 lần so với đối chứng). Khả năng tích
lũy menthol ở chồi cũng được khảo sat khi bổ sung phối hợp SA (0; 0,5; 1; 1,5 mg/L) và MeJA (0, 10, 20, 30 mg/L),
kết quả nhận được cho thấy sự bổ sung 0,5 mg/L SA kết hợp với 10 mg/L MeJA đã có tác dụng làm cho hàm lượng
menthol tích lũy trong chồi đạt cao nhất với 69,64 mg/g và gấp 1,72 lần so với đối chứng không bổ sung.
Từ khóa: Acid salicylic, methyl jasmonate, menthol, Mentha avensis L., chất kích kháng
102
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
Khảo sát sự sinh trưởng: Đánh giá sự sinh trưởng
thông qua khối lượng tươi, khối lượng khô của chồi
bạc hà.
Đánh giá hàm lượng menthol trong chồi bạc hà
in vitro:
- Xử lý mẫu: Bột mẫu bạc hà khô (1g) ngâm chiết
với petroleum ether (10 ml), lắc 120 vòng/phút trong
30 phút. Lọc qua giấy lọc Ø150 mm, thu dịch chiết.
- Xác định hàm lượng menthol: Sử dụng phương
pháp đo quang để xác định hàm lượng menthol
trong dịch chiết.
- Ảnh hưởng của MeJA: Thí nghiệm này được
tiến hành tương tự thí nghiệm trên nhưng hoạt chất
SA được thay bằng MeJA với nồng độ 0, 10, 20, 30
và 40 mg/L).
- Ảnh hưởng của SA và MeJA: Trong thí nghiệm
này SA ở 4 nồng độ khác nhau (0; 0,5; 1,0 và 1,5
mg/L) được bổ sung kết hợp MeJA ở các nồng độ là
0, 10, 20 và 30 mg/L).
Tất cả các môi trường nuôi cấy được điều chỉnh
pH~5,8 trước khi khử trùng ở 121oC, trong 25 phút.
Các mẫu cây in vitro được duy trì ở nhiệt độ 22 -
25oC, điều kiện chiếu sáng 2000 ± 200 lux và thời
gian chiếu sáng 16 giờ/ ngày.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2014
đến tháng 1 năm 2015 tại Phòng nuôi cấy mô thực
vật Bộ môn Công nghệ sinh học - Trường Đại học
Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của SA lên sự sinh trưởng và tích
lũy menthol trong chồi bạc hà in vitro
Kết quả nhận được từ bảng 1 cho thấy ở nồng độ
SA 1,5 mg/L và 2 mg/L sinh trưởng của bạc hà có
dấu hiệu bị ức chế trong khoảng thời gian 15 ngày
và 20 ngày. SA ức chế mạnh nhất ở nồng độ 2 mg/L
trong 15 ngày cảm ứng (khối lượng khô của mẫu
chỉ đạt 2,07 g/chồi) tỷ lệ ức chế là 28,86% so với đối
chứng không bổ sung (2,91 g/ chồi). Việc bổ sung
SA để cảm ứng tăng tích lũy menthol thích hợp nhất
ở nồng độ từ 0,5 - 1 mg/L và cảm ứng trong thời gian
dài từ 20 ngày cảm ứng trở đi. Thông qua các phân
tử tín hiệu như SA, MeJA, ethylene thực vật chống
lại các tác nhân bất lợi của môi trường bằng cách
tổng hợp các hợp chất thứ cấp (Wiesner et al., 2013).
Do vậy, khi bổ sung SA ở nồng độ thích hợp vào môi
Bảng 1. Ảnh hưởng của nồng độ SA lên sinh trưởng và tích lũy menthol
trong chồi phát sinh từ mẫu đốt thân bạc hà in vitro
Ghi chú: Bảng 1, 2, 3: Trong cùng một cột, các kí tự khác nhau theo sau các giá trị trung bình thể hiện sự khác biệt
có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05).
Thời gian cảm ứng
(ngày)
Nồng độ SA
(mg/L)
Khối lượng tươi
(g/chồi)
Khối lượng khô
(g/ chồi)
Hàm lượng menthol
(mg/g mẫu khô)
5
0 19,37 ± 0,01p 2,02 ± 0,01j 15,09 ± 1,15m
0,5 21,75 ± 0,02k 2,53 ± 0,01ghi 18,42 ± 1,14l
1 22,32 ± 0,03i 2,65 ± 0,01fg 23,12 ± 1,11j
1,5 23,34 ± 0,02g 2,87 ± 0,01def 39,12 ± 0,40f
2 24,25 ± 0,02d 3,07 ± 0,01bcd 44,74 ± 1,14cd
10
0 19,68 ± 0,10o 2,07 ± 0,02j 20,79 ± 1,05k
0,5 21,88 ± 0,01jk 2,56 ± 0,01gh 15,17 ± 1,24i
1 22,56 ± 0,02h 2,71 ± 0,01efg 35,61 ± 1,97g
1,5 23,82 ± 0,03e 2,98 ± 0,01cd 45,44 ± 1,35cd
2 24,66 ± 0,01c 3,16 ± 0,00abc 48,51 ± 1,60cd
15
0 23,52 ± 0,02f 2,91 ± 0,00de 32,82 ± 0,80h
0,5 25,01 ± 0,02b 3,24 ± 0,02ab 38,68 ± 1,05f
1 25,34 ± 0,03a 3,30 ± 0,01a 45,79 ± 0,94cd
1,5 22,58 ± 0,02h 2,71 ± 0,01efg 41,67 ± 1,09e
2 20,02 ± 0,04n 2,07 ± 0,01j 35,00 ± 1,39g
20
0 21,23 ± 0,01l 2,42 ± 0.00hi 43,68 ± 0,80d
0,5 23,89 ± 0,35e 2,99 ± 0.01cd 57,89 ± 1,14b
1 22,29 ± 0,05i 3,26 ± 0,01ab 60,61 ± 1,09a
1,5 21,96 ± 0,03j 3,23 ± 0,01ab 46,05 ± 1,64c
2 20,78 ± 0,07m 2,33 ± 0,01abi 34,56 ± 1,84gh
103
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
trường nuôi cấy cây bạc hà sẽ dẫn đến sự gia tăng
tổng hợp và tích lũy menthol. Hàm lượng menthol
tích lũy trong chồi phát sinh từ mẫu đốt thân cao
nhất ở nồng độ SA 1 mg/L và thời gian cảm ứng tối
ưu nhất là 20 ngày đạt 60,61 mg/g mẫu khô, tăng lên
gấp 2,09 lần so với đối chứng không bổ sung (Bảng 1).
Hesami và cộng tác viên (2012) nghiên cứu trên cây
rau mùi (Coriandrum sativum) khi bổ sung SA ở
nồng độ phù hợp thì sự sinh trưởng và năng suất của
rau mùi tăng lên. Ajungla và cộng tác viên (2009)
khi nuôi cấy rễ cây Datura metel L. cho thấy khi bổ
sung 500 µM SA sẽ tăng tích lũy scopolamine và gấp
3,5 - 4 lần so với đối chứng. Kết quả nghiên cứu
của Wang và cộng tác viên (2004) nghiên cứu ảnh
hưởng của SA lên thành phần tinh dầu loài Salvia
macrosiphon cũng cho thấy khi bổ sung 145 µM SA
làm tăng hàm lượng taxon cao nhất.
Như vậy, ở nồng độ thích hợp, SA kích thích bạc
hà tăng khả năng tích lũy menthol. Điều này tương
tự như nghiên cứu của Nguyễn Thanh Giang và
cộng tác viên (2016), hàm lượng asiaticoside cũng
đạt cực đại khi bổ sung 100 µM SA, gấp 2,2 lần so với
đối chứng trong nuôi cấy tế bào huyền phù rau má.
3.2. Ảnh hưởng của MeJA lên sự sinh trưởng và
tích lũy menthol trong chồi bạc hà in vitro
Kết quả nhận được từ bảng 2, sau 10 - 20 ngày,
MeJA ức chế mạnh nhất ở nồng độ 40 mg/l trong 20
ngày cảm ứng với tỉ lệ ức chế là 11,56% đối với khối
lượng tươi (21,03 g/chồi) so với đối chứng không bổ
sung MeJA (23,78 g/chồi). Tương tự, MeJA có biểu
hiện ức chế sinh khối cây con mạnh nhất ở nồng độ
40 mg/L trong 20 ngày cảm ứng với tỷ lệ ức chế là
48,64% sinh khối khô (1,51 g/chồi) so với đối chứng
(2,94 g/chồi). Để cảm ứng tăng tích lũy menthol
trong chồi phát sinh từ mẫu đốt thân bạc hà, sử dụng
MeJA thích hợp nhất ở nồng độ MeJA 10 mg/L và
thời gian cảm ứng thích hợp nhất là 20 ngày, hàm
lượng menthol được cảm ứng bởi MeJA tăng lên
gấp 1,7 lần (57,63 mg/g mẫu khô) so với đối chứng
(33,85 mg/g mẫu khô) (Bảng 2). Rõ ràng, đối với bạc
hà, MeJA có tác động lên tế bào thực vật nhằm mục
đích cảm ứng sinh tổng hợp hợp chất thứ cấp một
cách có hiệu quả. Lê Thị Hà Thanh và cộng tác viên
(2009) đã sử dụng MeJA để tổng hợp jinsenoside
trong nuôi cấy huyền phù tế bào của nhân sâm bằng
biorector 5L, sau 25 ngày cho thấy ở nồng độ 200
µM thu được hàm lượng jinsenoside cao nhất. Cho
và cộng tác viên (2010) nghiên cứu vai trò của MeJA
lên sự tích lũy Benzophenanthridine alkaloid trong
nuôi cấy tế bào Eschscholtzia california khi bổ sung
MeJA 0,5 mg/L thì hàm lượng benzophenathridine
alkaloid cao gấp 1,7 lần so với tế bào nuôi cấy không
bổ sung chất kích kháng.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ MeJA lên sinh trưởng và tích lũy menthol
trong chồi phát sinh từ mẫu đốt thân bạc hà in vitro
Thời gian cảm
ứng (ngày)
Nồng độ MeJA
(mg/L)
Khối lượng tươi (g/
chồi)
Khối lượng khô (g/
chồi)
Hàm lượng menthol
(mg/g mẫu khô)
5
0 19,11 ± 0,14n 1,94 ± 0,03k 18,33 ± 0,54n
10 19,68 ± 0,09m 2,18 ± 0,01 ij 21,75 ± 0,66m
20 20,24 ± 0,08l 2,05 ± 0,02 jk 24,47 ± 0,52l
30 21,33 ± 0,03hi 2,41 ± 0,01gh 31,13 ± 0,79i
40 22,18 ± 0,04f 2,59 ± 0,01def 34,12 ± 0,40h
10
0 22,72 ± 0,07d 2,70 ± 0,01cd 29,56 ± 1,06j
10 20,62 ± 0,12k 2,25 ± 0,02hi 52,19 ± 0,80c
20 21,61 ± 0,11g 2,47 ± 0,02efg 50,35 ± 0,80d
30 22,30 ± 0,07ef 2,61 ± 0,01def 44,64 ± 0,80e
40 19,62 ± 0,10m 2,04 ± 0,02jk 37,89 ± 0,52f
15
0 23,40 ± 0,14b 3,07 ± 0,05a 35,35 ± 0,80g
10 20,78 ± 0,07k 2,46 ± 0,00fg 38,60 ± 0,41f
20 23,15 ± 0,17c 2,81 ± 0,06bc 36,49 ± 0,80g
30 22,43 ± 0,16e 2,64 ± 0,04de 26,05±0,52k
40 21,62 ± 0,03g 2,29 ± 0,01hi 31,92 ± 0,54i
20
0 23,78 ± 0,05a 2,94 ± 0,01ab 33,85 ± 0,54h
10 22,63 ± 0,07d 2,08 ± 0,09jk 57,63 ± 1,64a
20 21,38 ± 0,15h 1,92 ± 0,14k 55,43 ± 0,66b
30 21,18 ± 0,12ij 1,76 ± 0,38l 43,77 ± 0,30e
40 21,03 ± 0,12j 1,51 ± 0,041m 38,33 ± 0,80f
104
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
Wang và cộng tác viên (2004) khi nghiên cứu
cảm ứng của MeJA vào sản xuất taxol trong nuôi
cấy huyền phù tế bào cây Taxus chinensisvaf mairei
kết quả cho thấy khi bổ sung MeJA ở nồng độ 100
µM, taxol được tích lũy cao là 0,143 µM. Lê Thị Thủy
Tiên và cộng tác viên (2010) khi khảo sát các yếu tố
ảnh hưởng đến sinh tổng hợp taxol cho thấy yếu tố
có tác động hiệu quả đến sự sinh tổng hợp taxol của
dịch treo tế bào là methyl jasmonate 10 mg/L.
3.3. Ảnh hưởng của SA và MeJA lên sự sinh trưởng
và tích lũy menthol trong chồi bạc hà in vitro
Kết quả trình bày ở bảng 3 cho thấy ở tất cả các
nồng độ bổ sung của SA và MeJA đều có biểu hiện
gia tăng sinh khối so với đối chứng, trong đó nghiệm
thức bổ sung 1 mg/L SA kết hợp với 20 mg/L MeJA
sinh khối khô đạt cao nhất với 2,82 g/chồi và gấp
2,39 lần so với đối chứng (1,04 g/chồi). Kết quả từ
Bảng 3 cũng chỉ ra rằng hàm lượng menthol tích lũy
trong chồi ở các nghiệm thức cũng có sự chênh lệch
rõ rệt.
Khi ở nồng độ phù hợp, SA tương tác với MeJA
làm tăng sự tích lũy menthol của cây con. Hàm lượng
menthol đạt giá trị hàm lượng cao nhất ở nồng độ SA
0,5 mg/L kết hợp với MeJA 10 mg/L đạt 69,64 mg/g.
Nhưng ở nồng độ cao của SA và MeJA có dấu hiệu
gây ức chế mạnh quá trình tổng hợp menthol trong
cây điển hình ở mức nồng độ SA 1,5 mg/L kết hợp
MeJA 30 mg/L hàm lượng menthol giảm còn 10,43
mg/g với tỉ lệ ức chế 74,15 % so với đối chứng không
bổ sung (40,35 mg/g), gây héo úa và chết (Bảng 3).
Như vậy, trong giới hạn phối hợp các nồng độ kích
kháng của SA và MeJA, tế bào nuôi cấy sẽ làm tăng
quá trình sản xuất menthol. Tương tự thí nghiệm
của Mohan Ram và cộng tác viên (2013) với nghiên
cứu ảnh hưởng chất kích kháng SA và MeJA lên khả
năng sản xuất anthocyanin từ nuôi cấy sẹo Rosa
hybrida L. kết quả cho thấy khi sử dụng chất kích
kháng MeJA đã có tác động quan trọng đến sinh
trưởng, phát triển và sinh tổng hợp anthocyanin
trong nhân giống từ sẹo cây Rosa hybrida L.
Tóm lại, từ loạt thí nghiệm trên cho thấy hàm
lượng menthol tích lũy đạt giá trị cao nhất dưới tác
dụng phối hợp của SA + MeJA (69,64 mg/g) cao hơn
hàm lượng tích lũy khi bổ sung riêng lẻ SA (60,61
mg/g), MeJA (57,63 mg/g). Cho đến nay vẫn chưa
tìm được tài liệu nào thực hiện nghiên cứu bổ sung
phối hợp các chất kích kháng SA và MeJA có khả
năng tăng cường sự tổng hợp menthol cao hơn là bổ
sung riêng lẻ từng chất kích kháng hoặc ngược lại.
Vì mỗi loại chất kích kháng kích thích menthol bằng
những con đường khác nhau, nên khi bổ sung phối
hợp các dạng kích kháng, cơ chế tương tác rất phức
tạp và phụ thuộc vào sự tác động sinh lý gây ra bởi
tác dụng của từng dạng kích kháng riêng lẻ.
IV. KẾT LUẬN
Bổ sung SA ở nồng độ 1 mg/L vào môi trường
nuôi cấy chồi bạc hà in vitro trong 20 ngày đã cho
hiệu quả tích lũy menthol cao nhất với hàm lượng
thu được là 60,61 mg/g mẫu khô. Trong khi đó đối
với MeJA thì nồng độ bổ sung 10 mg/L cho hiệu quả
tích lũy menthol trong chồi đạt cao nhất với hàm
lượng thu được là 57,63 mg/g mẫu khô. Hàm lượng
menthol tích lũy trong mẫu chồi đạt cao nhất với
69,64 mg/g mẫu khô khi bổ sung đồng thời 0,5 mg/L
SA kết hợp 10 mg/L MeJA.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tôn Bảo Linh, 2014. Chế tạo và thử nghiệm hệ thống
nuôi cấy lỏng ngâm chìm định kì trong nhân sinh
Bảng 3. Ảnh hưởng của SA và MeJA lên sự sinh trưởng và tích lũy menthol
trong chồi phát sinh từ mẫu đốt thân bạc hà in vitro
Nồng độ SA
(mg/l)
Nồng độ MeJA
(mg/L)
Khối lượng tươi
(g/chồi)
Khối lượng khô
(g/chồi)
Hàm lượng menthol
(mg/g mẫu khô)
0 0 18,87 ± 0,03f 1,04 ± 0.00g 40,35 ± 1,06c
0,5
10 19,04 ± 0,02e 1,06 ± 0.00f 69,64 ± 0,40a
20 20,42 ± 0,04b 1,23 ± 0.00b 40,08 ± 0,54c
30 19,29 ± 0,08d 1,10 ± 0.00e 39,47 ± 0,69c
1
10 20,03 ± 0,06c 1,18 ± 0.03c 50,61 ± 1,44b
20 22,16 ± 0,09a 2,82 ± 0.02a 40,26 ± 2,05c
30 18,52 ± 0,02g 1,01 ± 0.00h 11,05 ± 0,78f
1,5
10 19,97 ± 0,05c 1,14 ± 0.00d 29,29 ± 0,92d
20 19,03 ± 0,10e 1,06 ± 0.01f 23,94 ± 0,52e
30 18,86 ± 0,13f 1,04 ± 0.01g 10,43 ± 0,40f
105
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017
khối cây bạc hà Á (Mentha arvensis L.). Báo cáo
nghiệm thu đề tài cấp cơ sở. Trường Đại học Nông
Lâm TP. HCM. 55 trang.
Quách Ngô Diễm Phương, 2011. Khảo sát quy trình
thu nhận các hợp chất có hoạt tính sinh học từ việc
nuôi cấy tế bào hai loài Drosera. Luận văn Tiến sĩ.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh.
177 trang.
Lê Thị Hà Thanh, Đoàn Hữu Nhật Bình, Nguyễn
Hoàng Lộc, 2009. Sản xuất glycoalkaloid từ tế bào
Solanum hainanense Hance. Báo cáo khoa học Hội
nghị Công nghệ sinh học toàn quốc. NXB Đại học
Thái Nguyên, trang 697-700.
Lê Thị Thủy Tiên, Bùi Trang Việt, Nguyễn Đức Lượng,
2010. Khảo sát vài yếu tố ảnh hưởng đến sinh tổng
hợp taxol của các hệ thống tế bào Taxus Wallichiana
Zucc. in vitro. Tạp chí Phát triển và khoa học công
nghệ, 13: 67-77.
Ajungla L., Patil. P.P., Barmuhk R.B., Nikam T.D.,
2009. Influence of biotic and abiotic elicitors on
accumulation of hyoscyamine and scopolamine in
root cultures of Datura metel L.. Indian journal of
biotechnology, 8: 317-322.
Cho H.Y., Rhee H.S., Son S.Y., Park J.M., 2010.
Enhanced accumulation of decursin an decursiol
angelate in roots cultures and intact roots of angelicur
gigas. Nakai following elicitation. Plant Cell Tiss
Organ Cult., 101: 295-302.
Hayat, S.; Fariduddin, Q.; Ali, B.; Ahmad, A., 2005.
Effect of salicylic acid on growth and enzyme
activities of wheat seedlings. Acta Agron. Hung., 53:
433-437.
Hesami S, Nabizadeh E, Rahimi AR, Rokhzadi A., 2012.
Effects of salicylic acid levelsand irrigation intervals
on growth and yield ofcoriander (Coriandrum
sativum) in field conditions. Environmental and
Experimental Biology, 10: 113- 116.
Kim EH, Kim YS, Park SH, Koo YJ, Choi YD, Chung
YY, Lee IJ, Kim JK., 2009. Methyl jasmonate
reduces grain yield by mediating stresssignals to
alter spikel development in rice. Plant Physiology
149: 1751-1760.
Kim HJ, Chen F, Wang X, Rajapakse NC., 2006. Effect
of methyl jasmonate on secondarymetabolites
of sweet basil (Ocimum basilicum L.). Journal of
Agricultural and Food Chemistry, 54: 2327-233.
Maciejewska BD, Kesy J, Zielinska M, Kopcewicz J.,
2004. Jasmonates inhibit flowering inshort-day plant
Pharbitis nil. Plant GrowthRegulation, 43: 1-8
Mohan R., Prasad K.V., Singh S.K., Hada B.S., Kumar
S., 2013. Influence of salicylic acid and methyl
jasmonate elicitation on anthocyanin production in
callus cultures of Rosa hybrida L. Plant Cell. Tissue
and Organ Culture, 113: 459-467.
Namdeo A.G., 2002. Plant cell elicitation for production
of secondary metabolites: Pharmacognosy reviews,
11: 69-79.
Nguyen Thanh Giang, Nguyen Duc Huy, Le Thi Ha
Thanh, Nguyen Hoang Loc, 2016. Efficiency of
the combination of salicylic acid, yeast extract and
methyl jasmonate on asiaticoside production in
centella [Centella asiatica (L.) urban] cells. Plant Cell
Biotechnology and Molecular Biology, 17: 64-71.
Shraiy, A.M.E.; Hegazi, A.M., 2009. Effect of
acetylsalicylic acid, indole-3-bytric acid and
gibberellic acid on plant growth and yield of
pea (Pisum Sativum L.). Aust. J. Basic Appl. Sci.,
3: 3514-3523.
Wang Y.D., Tuan Y.J., Wu J.C., 2004. Induction studies
of methyl jasmonate and salicylic acid on taxane
production in suspension cultures of taxus chinensis
var. mairei. Biochemical Engineering Journal,
19: 259-265.
Warabieda W, Olszak R., 2010. Effect ofexogenous
methyl jasmonate on numerical growth ofthe
population of the two-spotted spider mite
(Tetranychus urticae Koch.) on strawberry plantsand
young apple trees. Journal of Plant Protection
Research 50: 541-544.
Wiesner M., Hanschen F.S., Schreiner M., Glatt H.,
Zrenner R., 2013. Induced production of 1-methoxy-
indol-3-methyl glucosinotate by jasmonic acid and
methyl jasmonate in Sprouts and Leaves of Park
Choi (Brassica rapassp, chinensis). Int.J.Mol.Sci., 14:
14996-15016.
Effects of salicylic acid and methyl jasmonate on growth and menthol synthesis
in in vitro shoots regenerated from nodal segments of Mentha arvensis
Nguyen Thi Quyen, Tran Thi Le Minh
Abtract
Effects of salicylic acid [SA: (0.5; 1; 1.5 and 2 mg/L)], methyl jasmonate (MeJA: 10; 20; 30 and 40 mg/L) and their
combination on growth and menthol accumulation were evaluated in in vitro Mentha arvensis shoots. Supplemented
SA at the concentration of 2 mg/L resulted in the lowest dry weight of shoots/inhibited shoot growth after 15 days.
The inhibition rate was 28.86 % compared to that of the control. The highest menthol content was observed at 60.61
mg and 57.63 mg per gram of shoot dry weight which were 2.09 times and 1.7 times compared to that of the control
when supplementing with 1 mg/L SA and 10 mg/L MeJA, respectively after 20 days of the induction. The combination
of 0.5 mg/L SA and 10 mg/L MeJA also resulted in high accumulation of menthol in Mentha arvensis shoots under in
vitro conditions, which was 69.64 mg per gram of shoot dry weight and 1.72 times compared to the control treatment.
Keywords: Acid salicylic, methyl jasmonate, menthol, Mentha avensis L., elicitor
Ngày nhận bài: 3/9/2017
Ngày phản biện: 7/9/2017
Người phản biện: PGS. TS. Lê Quang Luân
Ngày duyệt đăng: 11/10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 134_248_2153181.pdf