36-41 trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

Tài liệu 36-41 trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 268 36-41 TRẦM CẢM SAU SINH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ SAU SINH TRONG VÒNG 6 THÁNG TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI Nguyễn Hoài Thảo Tâm*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Theo ước tính toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị rối loạn tâm thần chủ yếu là trầm cảm. Ở các nước đang phát triển con số này còn cao hơn lên tới 19,8%. Trầm cảm sau sinh (TCSS) gây ra khuyết tật lớn cho phụ nữ và có liên quan đến các rủi ro đáng kể về hành vi, cảm xúc và nhận thức ở trẻ em, cản trở việc tự chăm sóc và nuôi dạy con cái. Vì những tác hại trên, có nhu cầu rất lớn cho việc tiếp tục nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của trầm cảm sau sinh. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng ở huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 3...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 36-41 trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 268 36-41 TRẦM CẢM SAU SINH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ SAU SINH TRONG VÒNG 6 THÁNG TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI Nguyễn Hoài Thảo Tâm*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Theo ước tính toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị rối loạn tâm thần chủ yếu là trầm cảm. Ở các nước đang phát triển con số này còn cao hơn lên tới 19,8%. Trầm cảm sau sinh (TCSS) gây ra khuyết tật lớn cho phụ nữ và có liên quan đến các rủi ro đáng kể về hành vi, cảm xúc và nhận thức ở trẻ em, cản trở việc tự chăm sóc và nuôi dạy con cái. Vì những tác hại trên, có nhu cầu rất lớn cho việc tiếp tục nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của trầm cảm sau sinh. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng ở huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 320 phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng ở huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Tất cả đối tượng thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được chọn và được phỏng vấn dựa vào bảng câu hỏi soạn sẵn. Nghiên cứu sử dụng thang đo EPDS để xác định đối tượng có trầm cảm sau sinh (EPDS ≥ 13 điểm), thang đo MOS – SSS để tính điểm hỗ trợ xã hội. Và sử dụng phép kiểm chi bình phương hoặc kiểm định Fisher để xác định mối liên quan giữa TCSS với các yếu tố liên quan và lượng giá mối liên quan này bằng tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR với khoảng tin cậy 95%. Kết quả: Tỷ lệ TCSS là 18,1%, trong số đó thì có đến 48,3% có ý định tự tử. Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 28 ± 5,7. Trong 320 người tham gia, đa số phụ nữ làm công nhân và có ½ phụ nữ sau sinh có học vấn từ cấp 3 trở lên. Nghiên cứu tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS với 6 đặc điểm như: sức khỏe lúc mang thai, hình thức sinh con, có tiền sử trầm cảm trước đó, tình trạng sức khỏe trẻ và tình trạng trẻ quấy khóc về đêm, hỗ trợ xã hội. Kết luận: Nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ có sức khỏe lúc mang thai không tốt, sinh thủ thuật, có tiền sử trầm cảm trước đó, có một đứa trẻ hay bị bệnh và hay quấy khóc về đêm, điểm hỗ trợ xã hội thấp đều làm tăng tỷ lệ trầm cảm sau sinh ở đối tượng nghiên cứu. Từ khóa: trầm cảm sau sinh, phụ nữ sau sinh ABSTRACT POSTPARTUM DEPRESSION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG WOMEN WITHIN 6 MONTHS AFTER BIRTH IN TRANG BOM DISTRICT, DONG NAI PROVINCE Nguyen Hoai Thao Tam, Huynh Ngoc Van Anh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 268 – 275 Background: According to global estimates of World Health Organization, about 13% of postpartum women suffer from mental disorders mainly depression. In the developing countries, this number is even higher at 19.8%. Postpartum depression causes major disabilities for women and related to significant behavioral, emotional and cognitive risks of children, hindering self-care and parenting. Because of these harms, it is strongly recommended that further studies need to be done in this field. * Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hoài Thảo Tâm ĐT: 0373588747 Email: thaotam95@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 269 Objective: To determine the rate of postpartum depression and related factors in postpartum women within 6 months in Trang Bom district, Dong Nai province. Method: A cross study was performed on 320 postpartum women within 6 months in Trang Bom district, Dong Nai province. Study subjects were interviewed directly based on a questionnaire drafted. The EPDS scale was used to assess the postnatal depression (EPDS ≥ 13), the MOS - SSS scale was used to assess the social support. Chi-squared test was used to determine factors related to depression and those relationships were estimated by level of prevalence ratio PR and confidence interval 95%. Results: The rate of postpartum depression was 18.1%, of which 48.3% intented to commit suicide. The average age of the research subjects was 28 ± 5.7. Of the 320 participants, most women were workers and a half had learned at high school or higher. The results in the study showed a statistically significant relationship between postpartum depression and six characteristics: pregnancy health, type of childbirth, history of depression, child health status, child crying at night status and social support. Conclusion: This study shows that women who are unwell during their pregnancy, need to be assisted with the delivery, have a history of depression, had a child with bad health or often crying at night, had low points in social support all have high risk of getting postpartum depression. Keywords: postpartum depression, postpartum women ĐẶT VẤN ĐỀ Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến được đặc trưng bởi nỗi buồn, mất hứng thú hoặc niềm vui, cảm giác tội lỗi hoặc tự đánh giá thấp bản thân, bị quấy rầy giấc ngủ hoặc sự thèm ăn, mệt mỏi và kém tập trung. Khoảng 300 triệu người bị ảnh hưởng bởi trầm cảm, đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra khuyết tật trên toàn thế giới. Trong đó, phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn nam giới(22). Đối với phụ nữ, trở thành một người mẹ thường là một niềm vui, nhưng cũng là một sự kiện căng thẳng(16). Thay đổi cuộc sống, trách nhiệm mới và không quen thuộc việc chăm sóc trẻ đi kèm với quá trình chuyển đổi từ mang thai để làm mẹ có thể làm phụ nữ cảm thấy bị cô lập, cô đơn, và kiệt sức(21). Theo ước tính toàn cầu, khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị rối loạn tâm thần chủ yếu là trầm cảm, ở các nước đang phát triển con số này còn cao hơn, có thể lên tới 19,8%(21). Tại Việt Nam, nghiên cứu trầm cảm sau sinh (TCSS) ở cộng đồng thì ghi nhận tỷ lệ dao động từ 15,3 – 19,3%(5,10,11). Trảng Bom có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển công nghiệp của tỉnh Đồng Nai, nghề nghiệp chủ yếu của người dân nơi đây là công nhân. Vấn đề sức khỏe tâm thần mà cụ thể là sức khỏe tâm thần của phụ nữ sau sinh chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy việc thực hiện nghiên cứu tại đây là cần thiết để nhằm góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em để có những trợ giúp và hỗ trợ tâm lý cho các bà mẹ cả từ phía nhân viên y tế và từ phía gia đình. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bao gồm những phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng, đang sống tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai được thực hiện từ tháng 4 - 6/2019. Tiêu chí chọn vào Phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đồng ý tham gia vào nghiên cứu và có thời gian sống hay thường trú tại địa phương trên 1 năm. Tiêu chí loại ra Phụ nữ không có khả năng nghe, nói hoặc có sức khỏe quá yếu không thể trả lời phỏng vấn, không trả lời 100% các câu hỏi của thang đo hỗ trợ xã hội và TCSS. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 270 Cỡ mẫu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng 1 tỷ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 0,05, sai số cho phép d là 0,05 và p = 0,164 là tỷ lệ TCSS dựa vào kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng Dân thực hiện ở Đồng Tháp năm 2018(10) với hệ số thiết kế là 1,5, tỷ lệ mất mẫu là 5% cuối cùng tính ra cỡ mẫu là 333. Phương pháp thực hiện Dựa vào danh sách do trung tâm y tế cung cấp gồm 17 xã/ thị trấn, sử dụng phương pháp chọn mẫu cụm xác suất tỷ lệ với kích thước dân số (PPS). Đầu tiên tính số phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tích lũy. Sau đó gán một cụm cho các số ngẫu nhiên từ số phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tích lũy của cụm trước đó +1 đến số phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tích lũy của cụm đó. Tiếp theo chọn 9 cụm, mỗi cụm 37 người (cỡ mẫu là 333), chọn khoảng cách mẫu k=N/số cụm=1117/9=124, chọn ngẫu nhiên con số R là 35 (1 ≤ R ≤ 124), cụm đầu tiên được chọn là R, cụm tiếp theo được tính theo công thức: R+k, R+2k, R+3k. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có bố cục gồm 5 phần về đặc điểm dân số kinh tế xã hội, tiền sử mang thai và sinh con, đặc điểm trẻ, thang đo trầm cảm sau sinh EPDS, thang đo hỗ trợ xã hội MOS - SSS. Thang đo trầm cảm sau sinh Trầm cảm sau sinh được đo lường bằng thang đo EPDS (Edinburgh Postnatal Depression Scale). Thang đo EPDS gồm 10 câu hỏi, mỗi câu gồm 4 lựa chọn tương ứng với điểm số từ 0–3. Các câu hỏi có thứ tự số 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10 trong thang đo cần được chuyển ngược điểm trước khi tính tổng điểm của thang đo. Tổng điểm từ 0–30 điểm. Đối tượng được xác định là có trầm cảm sau sinh khi tổng điểm thu được từ thang đo EPDS ≥13 điểm(6). Thang đo hỗ trợ xã hội Được đánh giá bằng thang đo MOS – SSS (Medical Outcomes Study: Social Support Survey)(15): gồm 20 câu hỏi, 4 khía cạnh. Mỗi câu hỏi với 5 mức lựa chọn tương ứng với mức độ không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên, luôn luôn. Điểm trung bình thang đo MOS – SSS bằng trung bình điểm của 4 khía cạnh. Phân tích thống kê Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. Sử dụng phần mềm Stata 14 để phân tích số liệu. Sử dụng phép kiểm chi bình phương (hoặc kiểm định chính xác Fisher nếu trên 20% giá trị vọng trị <5) để xác định các yếu tố liên quan đến TCSS. Lượng giá mối liên quan bằng tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR với khoảng tin cậy 95%. Y đức Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng khoa học khoa Y tế công cộng và Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 294/ĐHYD- HĐĐĐ kí ngày 17/04/2019. KẾT QUẢ Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện ở huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai. Có 333 người nằm trong danh sách mời tham gia nghiên cứu, trong đó có 9 người vắng nhà trong 2 lần đến nhà liên tiếp, 4 người chưa trả lời hết câu hỏi trong 2 thang đo hỗ trợ xã hội và TCSS. Vì vậy tiến hành phân tích trên 320 phụ nữ thu được kết quả và được báo cáo chi tiết được trình bày dưới đây. Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 28 ± 5,7, đa số phụ nữ làm công nhân và có 49,3% học từ cấp 3 trở lên. Phụ nữ sống như vợ chồng hoặc đã kết hôn chiếm tỷ lệ 95,3% và hầu hết đều đang sống chung, chủ yếu là sống chung với con, chồng. Tình trạng kinh tế của người phụ nữ đa số là bình thường. 1/2 phụ nữ sau sinh có chồng làm nghề công nhân và 47,5% người chồng học từ cấp 3 trở lên (Bảng 1). Tỷ lệ TCSS ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai là Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 271 18,1%. Như vậy, cứ khoảng 6 phụ nữ sau sinh thì có 1 phụ nữ bị TCSS. Trong những phụ nữ trầm cảm thì phụ nữ đã từng xuất hiện ý nghĩ không muốn sống chiếm gần một nửa (Bảng 2). Bảng 1: Đặc điểm dân số của đối tượng nghiên cứu (n=320) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Nhóm tuổi Đối tượng sống chung (n = 317) <25 tuổi 86 26,9 Con 313 98,7 25 – 29 tuổi 96 30,0 Chồng 303 95,6 30 – 34 tuổi 85 26,5 Ba mẹ chồng 106 33,4 ≥ 35 tuổi 53 16,6 Ba mẹ ruột 37 11,7 Nghề nghiệp Khác 5 1,6 Công nhân 201 62,7 Tình trạng kinh tế (n = 249) Nội trợ 61 19,1 Hộ không nghèo 240 96,4 Lao động tự do 22 6,9 Hộ cận nghèo 6 2,4 Công nhân viên chức 22 6,9 Hộ nghèo 3 1,2 Nông dân 14 4,4 Nghề nghiệp chồng Trình độ học vấn Công nhân 163 50,9 Mù chữ 1 0,3 Lao động tự do 101 31,6 Biết đọc/ viết 4 1,3 Công nhân viên chức 30 9,4 Cấp 1 33 10,3 Nông dân 24 7,5 Cấp 2 124 38,8 Không trả lời 2 0,6 Cấp 3 107 33,4 Trình độ học vấn chồng Trên cấp 3 51 15,9 Mù chữ 3 0,9 Tình trạng hôn nhân Biết đọc/ viết 5 1,6 Chưa kết hôn 8 2,5 Cấp 1 31 9,7 Sống như vợ chồng 9 2,8 Cấp 2 125 39,1 Đã kết hôn 296 92,5 Cấp 3 95 29,7 Ly dị, ly thân 5 1,6 Trên cấp 3 57 17,8 Góa 2 0,6 Không rõ 4 1,2 Hiện sống chung Có 317 99,1 Không 3 0,9 Bảng 2: Tỷ lệ trầm cảm sau sinh theo thang đo EPDS Đặc điểm Tần số (n=320) Tỷ lệ % Trầm cảm sau sinh Có 58 18,1 Không 262 81,9 Xuất hiện ý nghĩ tự tử (n = 58) Có 28 48,3 Không 30 51,7 Bảng 3: TCSS và các mối liên quan bằng mô hình đa biến (n = 320) Đặc điểm Tổng Trầm cảm sau sinh Giá trị Pthô PRthô (KTCthô 95%) Giá trị Phc PRhc (KTChc95%) Có (%) (n = 58) Không (%) (n = 262) Hình thức sinh con Sinh thường 223 (69,7) 37 (16,6) 186 (83,4) 1 1 Sinh mổ 90 (28,1) 16 (17,8) 74 (82,2) 0,800 1,07 (0,63-1,83) 0,396 0,81 (0,49 – 1,32) Sinh thủ thuật 7 (2,2) 5 (71,4) 2 (28,6) <0,001 4,31 (2,47-7,49) <0,001 5,96 (2,99 – 11,88) Tiền sử trầm cảm Có 46 (14,4) 29 (63,0) 17 (37,0) <0,001 5,96 (3,96-8,97) <0,001 3,71 (2,42 – 5,68) Không 274 (85,6) 29 (10,6) 245 (89,4) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 272 Đặc điểm Tổng Trầm cảm sau sinh Giá trị Pthô PRthô (KTCthô 95%) Giá trị Phc PRhc (KTChc95%) Có (%) (n = 58) Không (%) (n = 262) Tình trạng sức khỏe trẻ Thường hay bị bệnh 289 (90,3) 13 (41,9) 18 (58,1) <0,001 2,69 (1,64 – 4,41) 0,003 1,98 (1,26 – 3,12) Sống khỏe mạnh 31 (9,7) 45 (15,6) 244 (84,4) Trẻ quấy khóc về đêm Không/hầu như không 202 (63,1) 22 (10,9) 180 (89,1) <0,001* 1 0,029* 1 Thỉnh thoảng 1-2 ngày/tuần 87 (27,2) 20 (23,0) 67 (77,0) 1,85 (1,55 – 2,23) 1,22 (1,02 – 1,47) Khoảng 3-4 ngày/ tuần 20 (6,3) 9 (45,0) 11 (55,0) 3,46 (2,40 – 4,99) 1,50 (1,04 – 2,15) Hầu hết các ngày hoặc cả tuần 11 (3,4) 7 (63,6) 4 (36,4) 6,43 (3,71–11,16) 1,83 (1,06 – 3,16) Hỗ trợ xã hội 3,69 ± 0,73 3,01 ± 0,86 3,84 ± 0,60 <0,001 0,38 (0,31 – 0,46) <0,001 0,51 (0,42 – 0,62) PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, Trung bình ± Độ lệch chuẩn, * Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng Qua phân tích bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến, các biến số hình thức sinh con, tiền sử trầm cảm, tình trạng sức khỏe trẻ, trẻ quấy khóc về đêm, hỗ trợ xã hội có liên quan đến TCSS. Với cùng đặc điểm như trong Bảng 3 thì: Những phụ nữ sinh thủ thuật thì có tỷ lệ TCSS cao hơn gấp 5,96 lần với KTChc 95% từ 2,99 đến 11,88. Những phụ nữ có tiền sử trầm cảm thì có tỷ lệ TCSS cao hơn 3,71 lần với KTChc 95% từ 2,42 đến 5,68. Những phụ nữ có đứa trẻ thường hay bị bệnh thì có tỷ lệ TCSS cao hơn 1,98 lần với KTChc 95% từ 1,26 đến 3,12. TCSS có mối liên quan có tính khuynh hướng với tần suất trẻ khóc về đêm với phc = 0,029. Khi tần suất trẻ khóc về đêm tăng thêm 1 bậc thì tỷ lệ TCSS tăng thêm 1,22 lần với KTChc 95% từ 1,02 đến 1,47. Những phụ nữ có điểm số trung bình hỗ trợ xã hội cao hơn 1 điểm thì có tỷ lệ TCSS bằng 0,51 lần với KTChc 95% từ 0,42 đến 0,62. BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Các bà mẹ trong nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi từ 20 đến 35 chiếm 88,3%, kết quả này phù hợp vì độ tuổi từ 20 đến 35 là tốt nhất để phụ nữ sinh con(17). Tỷ lệ bà mẹ dưới 20 tuổi trong nghiên cứu là 7,8%. Dưới 20 tuổi là tuổi chưa hoàn thiện về tâm sinh lý, chưa có công việc ổn định. Tỷ lệ phụ nữ sinh con trên 35 tuổi là 11,9% cũng đáng báo động. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở thì người dân có xu hướng kết hôn muộn hơn và tuổi kết hôn lần đầu ngày càng cao(18). Khi sinh con ở độ tuổi này sẽ có nhiều biến chứng y học cũng như tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Nghiên cứu cho thấy nghề nghiệp chủ yếu của đối tượng là công nhân chiếm tới 62,7% phù hợp với đặc điểm địa lí - kinh tế ở huyện Trảng Bom với các khu công nghiệp các cụm công nghiệp. Phụ nữ học từ cấp 3 trở lên chiếm 47,5%, mù chữ chỉ chiếm 0,3% vì xu hướng giáo dục hiện nay là phổ cập giáo dục toàn dân, nâng cao trình độ học vấn và xóa mù chữ. Tỷ lệ đã kết hôn, sống chung như vợ chồng của những phụ nữ trong mẫu nghiên cứu là 95,3%, gần bằng với nghiên cứu của Lê Hoàng Dân là 98,3%(10). Nghiên cứu của Dalia Alhasanat-Khalil ở Hoa Kỳ cũng ghi nhận tỷ lệ kết hôn là 99,1%(2). Tỷ lệ phụ nữ ly dị, ly thân trong nghiên cứu là 1,6% tương tự số liệu của Tổng cục thống kê là 2%(18). Hầu hết các bà mẹ đang sống chung chiếm tới 99,1%. Trong đó sống chung với con chiếm 98,7%, sống với chồng 95,6%, với ba mẹ chồng là 33,4%, với ba mẹ ruột là 11,7%. Đây là một điều kiện thuận lợi để người thân có thể hỗ trợ phụ giúp với việc chăm sóc trẻ. Về tình trạng kinh tế, nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ số hộ nghèo là 1,2%, số hộ cận nghèo là 2,4%. Việc phân chia đánh giá tình trạng kinh tế của gia đình là rất khó vì một phần các đối tượng không muốn khai báo thu nhập gia đình. Cũng như người phụ nữ thì chồng của họ đa số làm công nhân chiếm hơn 1/2. Đáng chú ý là lao động tự do chiếm tỷ lệ không nhỏ là 31,6% cần được quan tâm vì đây là nhóm đối tượng tiềm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 273 ẩn nhiều nguy cơ tai nạn lao động, công việc này khá bấp bênh và thu nhập không ổn định. Học vấn từ cấp 3 trở lên đạt 47,5% tương đương với trình độ học vấn của người phụ nữ. Sinh mổ ngày càng trở nên phổ biến ở cả hai các nước phát triển và đang phát triển(20). Tỷ lệ sinh mổ ở các nước đang phát triển dao động có thể lên tới đến 29%(9). Nghiên cứu này cũng tìm ra tỷ lệ sinh mổ khá cao chiếm 28,1%, sinh thủ thuật (sinh khó) chiếm 2,2%. Tương tự các nghiên cứu khác như nghiên cứu ở Đồng Tháp có tỷ lệ sinh mổ là 33,9%(10), hay nghiên cứu ở Canada sinh mổ chiếm 27,7 %, sinh khó nhờ sự trợ giúp chiếm 7,8%(19). Tỷ lệ phụ nữ có tiền sử trầm cảm trong nghiên cứu là 14,4%, cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng Dân là 7,3% và Lê Thị Trúc là 11,9%(10,11), nhưng lại thấp hơn nghiên cứu của Atefeh Vaezi ở Iran là 16,5%(3). Nghiên cứu tìm ra được trẻ hay bị bệnh chiếm 9,7%. Các nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ này giao động lớn như nghiên cứu ở Iran là 25,5%, ở Israel là 2,8% hay một nghiên cứu ở Việt Nam có tỷ lệ là 16%(1,3,8). Sự khác nhau này cũng có thể được giải thích là do đặc điểm khí hậu giữa các nước, các vùng miền khác nhau, cách chăm sóc trẻ hay khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cũng khác nhau. Nghiên cứu ghi nhận có 6,3% trẻ quấy khóc về đêm 3-4 ngày/tuần, 3,4% trẻ thường xuyên quấy khóc về đêm 5-7 ngày/tuần. Tình trạng trẻ quấy khóc về đêm không những chỉ ảnh hưởng đến trẻ mà còn khiến người mẹ mất ngủ kiệt sức, ảnh hưởng lên cả thể chất và tinh thần của bà mẹ. Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các mối liên quan Theo phân tích tổng hợp về tỷ lệ phổ biến của TCSS toàn cầu trên 296.284 phụ nữ từ 291 nghiên cứu thì tỷ lệ lưu hành toàn cầu của TCSS là 17,7%-18,8%, nếu được điều chỉnh mức cắt EPDS được khuyến nghị thì tỷ lệ TCSS lưu hành toàn cầu là 21,0%(7). Trong nghiên cứu này tìm được tỷ lệ TCSS là 18,1% gần với tỷ lệ TCSS ở phụ nữ trong nghiên cứu của Murray ở Huế là 18,1%, của tác giả Dương Kim Hoa ở Đà Nẵng là 19,3%, của Lê Hoàng Dân ở Đồng Tháp là 16,4%(5,10,12). Có sự khác biệt đôi chút là do khác nhau ở điểm cắt, địa điểm nghiên cứu, đặc điểm nhân khẩu học, hoàn cảnh gia đình - kinh tế - xã hội. Có ý nghĩ tự tử hay không trong TCSS là một vấn đề quan trọng vì tự tử có thể diễn biến bệnh trầm trọng hơn và dẫn đến việc bà mẹ gây hại cho chính bản thân mình và cho cả đứa bé. Trong nghiên cứu này, trong những người có TCSS thì có tới 48,3% có ý nghĩ tự tử - đây là một vấn đề đáng được cảnh báo khi nghiên cứu về TCSS. Hiện nay thì sinh mổ không còn quá xa lạ với các bà mẹ. Nguyên nhân dẫn đến sinh mổ có thể do ngôi thai bất thường, con so lớn tuổi hay thậm chí là người phụ nữ đề nghị được sinh mổ để giảm “đau đẻ”. Những sản phụ này được dự báo trước phương pháp điều trị là sanh mổ nên đã phần nào bớt lo lắng và đây đều là những bệnh lý nhẹ không ảnh hưởng đến tình trạng con. Ngược lại, sinh thủ thuật thì người phụ nữ phải trải qua một cuộc sinh có nhiều khó khăn cần phải can thiệp, nhờ dụng cụ hỗ trợ như giác hút và có thể ảnh hưởng sức khỏe của đứa trẻ. Điều này giải thích tại sao trong nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS và hình thức sinh mổ so với sinh thường, nhưng đã tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS và sinh thủ thuật so với sinh thường, cụ thể là so với nhóm phụ nữ sinh thường thì phụ nữ sinh thủ thuật có tỷ lệ TCSS cao hơn. Tiền sử trầm cảm có liên quan chặt chẽ đến TCSS. Nghiên cứu này đã tìm ra so với người phụ nữ không có tiền sử trầm cảm thì những người phụ nữ có tiền sử trầm cảm có tỷ lệ TCSS cao hơn, kết quả này tương tự với kết quả của những nghiên cứu khác(3,8,13). Hồi phục từ bệnh trầm cảm trước đó là một chặng đường dài và đầy khó khăn, khả năng tái phát của bệnh nhân trầm cảm là khá cao nhất là đối với phụ nữ giai đoạn nhạy cảm là sau khi sinh thì càng dễ bị tái phát. Nghiên cứu này đã chỉ ra so với bà mẹ sinh đứa trẻ sống khỏe mạnh thì bà mẹ sinh được đứa trẻ thường hay bị bệnh thì có tỷ lệ TCSS cao Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 274 hơn. Mọi phụ nữ khi mang thai đều mong muốn đứa con của mình khi ra đời sẽ là một đứa bé khỏe mạnh và lành lặn. Đứa trẻ thường hay bị bệnh thì bà mẹ sẽ lo lắng, tạo thêm nhiều căng thẳng và mệt mỏi là điều kiện để TCSS dễ xuất hiện hơn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS với tình trạng quấy khóc về đêm của trẻ. Tác giả Lê Hoàng Dân và tác giả Huỳnh Thị Thu Huyền cũng tìm ra kết quả tương tự(8,10). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS và hỗ trợ xã hội theo thang đo MOS – SSS, khi phân tích bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến thì hỗ trợ xã hội vẫn giữ nguyên vai trò của nó đối với TCSS với p<0,001. Nhiều nghiên khác cũng đã phát hiện ra rằng mức độ hỗ trợ tăng lên làm giảm TCSS(2,3,4,14). Điểm mạnh của nghiên cứu là nghiên cứu thực hiện phân tích thống kê bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến để tìm và loại bỏ các yếu tố gây nhiễu, góp phần tìm ra những yếu tố liên quan thực sự của TCSS. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi chuẩn đã được đánh giá qua nghiên cứu thử cho Cronbach’s Alpha của thang đo EPDS là 0,89, của thang đo hỗ trợ xã hội MOS-SSS là 0,95. Nghiên cứu còn hạn chế là nghiên cứu cắt ngang nên mối quan hệ nguyên nhân - kết quả chưa được làm rõ. KẾT LUẬN Tỷ lệ TCSS ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai là 18,1%. Một số yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với TCSS cụ thể như sau: những người phụ nữ có sức khỏe lúc mang thai không tốt, sinh thủ thuật, có tiền sử trầm cảm trước đó, có một đứa trẻ hay bị bệnh và hay quấy khóc về đêm, điểm hỗ trợ xã hội thấp có tỷ lệ TCSS cao hơn so với những người phụ nữ không có đặc tính này. Từ những kết quả thu được trong nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất. Thứ nhất, nên sàng lọc TCSS đặc biệt đối với những phụ nữ có tiền sử bị trầm cảm, có thai kỳ nguy cơ cao và nếu phát hiện thì cần được giới thiệu đến phòng khám tâm lý để được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời. Thứ hai, gia đình nên quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn đến người phụ nữ trong giai đoạn sau sinh nhất là đối với người phụ phụ nữ đã trải qua cuộc sinh khó, phụ nữ có một đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt như đứa trẻ có sức khỏe không tốt hay đứa trẻ hay quấy khóc về đêm. Thiếu hỗ trợ xã hội hay thiếu giao tiếp xã hội là một trong những yếu tố có khả năng dẫn đến trầm cảm sau sinh, vì vậy người phụ nữ nên nói chuyện, chia sẻ khó khăn với gia đình bạn bè hay tham gia vào những hội nhóm bà mẹ mới sinh để được chia sẻ, đồng cảm, thấu hiểu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alfayumi-Zeadna S, Kaufman-Shriqui V, Zeadna A, Lauden A, Shoham-Vardi I (2015). The association between sociodemographic characteristics and postpartum depression symptoms among Arab-Bedouin women in Southern Israel. Depress Anxiety, 32(2):120-8. 2. Alhasanat-Khalil D, Fry-McComish J, Dayton C, et al (2018). Acculturative stress and lack of social support predict postpartum depression among U.S. immigrant women of Arabic descent. Archives of Psychiatric Nursing, 32(4):530-535. 3. Atefeh V, Fatemeh S, Arash T.B, Marzieh N (2018). The association between social support and postpartum depression in women: A cross sectional study. Women and Birth, 32(2):238- 242. 4. Chen HH, Hwang FM, Tai CJ, Chien LY (2013). The Interrelationships Among Acculturation, Social Support, and Postpartum Depression Symptoms Among Marriage-Based Immigrant Women in Taiwan: A Cohort Study. Journal of Immigrant and Minority Health, 15(1):17-23. 5. Dương Thị Kim Hoa, Võ Văn Thắng (2015). Trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có chồng tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Y học dự phòng, XXV(8):342. 6. Gibson J, McKenzie-McHarg K, Shakespeare J, Price J, Gray R (2009). A systemic review of studies validating the Edinburgh Postnatal Depression Scale in antepartum and postpartum women. Acta Psychiatr Scand, 119(5):350-64. 7. Hahn-Holbrook J, Cornwell-Hinrichs T, Anaya I (2017). Economic and Health Predictors of National Postpartum Depression Prevalence: A Systematic Review, Meta-analysis, and Meta-Regression of 291 Studies from 56 Countries. Front Psychiatry, 8:248. 8. Huỳnh Thị Thu Huyền, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Huỳnh Ngọc Vân Anh (2015). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại phường 9, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên năm 2014. Y học TP. Hồ Chí Minh, 19(S1): 72-79 9. Kwawukume EY (2001). Caesarean section in developing countries. Best Pract Res Clin Obstet Gynaecol, 15(1):165-78. 10. Lê Hoàng Dân (2017). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại xã Tân Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp năm 2018. Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ Y học Dự phòng, Khoa y tế công cộng, Đại học y dược TP. Hồ Chí Minh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 275 11. Lê Thị Trúc (2012). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại xã Xuân Bình, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên năm 2012. Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế công cộng, Khoa y tế công cộng, Đại học y dược Tp. Hồ Chí Minh. 12. Murray L, Dunne MP, Khawaja N, et al (2015). Postnatal depressive symptoms amongst women in Central Vietnam: a cross-sectional study investigating prevalence and associations with social, cultural and infant factors. BMC Pregnancy Childbirth, 15:234. 13. Nguyễn Thanh Hiệp, Lê Minh Nguyệt (2010). Khảo sát tình trạng trầm cảm sau sanh ở những phụ nữ có thai kỳ nguy cơ cao đến khám tại bệnh viện Từ Dũ từ 01/06/2007 đến 30/12/2008. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(S2):69-74. 14. Pao C, Guintivano J, Santos H, Meltzer-Brody S (2018). Postpartum depression and social support in a racially and ethnically diverse population of women. Arch Womens Ment Health, 22(1):105-114. 15. Sherbourne CD, Stewart AL (1991). The MOS social support survey. Soc Sci Med, 32(6):705-14. 16. Stapleton LR, Schetter CD, Westling E, Rini C, et al (2012). Perceived partner support in pregnancy predicts lower maternal and infant distress. Journal of Family Psychology, 26(3):453-463. 17. The Guardian (2010). The best age to become a mother–between 20 and 35. URL: https://www.theguardian.com/society/2010/dec/31/pregnancy- mothers-fertility-children. 18. Tổng cục thống kê (2009). Cấu trúc tuổi - giới tính và tình trạng hôn nhân của dân số Việt Nam. URL: https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/Age- Sex%20Structure%20and%20Marital%20Status_Viet.pdf. 19. Verreault N, Da Costa D, Marchand A, Ireland K, Banack H, Dritsa M, et al (2012). PTSD following childbirth: a prospective study of incidence and risk factors in Canadian women. J Psychosom Res, 73(4):257-63. 20. Villar J, Carroli G, Zavaleta N, Donner A, Wojdyla D, Faundes A, et al (2007). Maternal and neonatal individual risks and benefits associated with caesarean delivery: multicentre prospective study. BMJ, 335(7628):1025. 21. WHO (2018). Maternal mental health. URL: ntal_health/en/. 22. WHO (2018). Mental disorders. URL: disorders. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf36_41_tram_cam_sau_sinh_va_cac_yeu_to_lien_quan_7159_2212111.pdf
Tài liệu liên quan