Tài liệu 35-40 thời gian sử dụng màn hình và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 260
35-40 THỜI GIAN SỬ DỤNG MÀN HÌNH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT GÒ VẤP, QUẬN GÒ VẤP, TP. HỒ CHÍ MINH
Lương Thị Thùy Dung*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sự gia tăng nhanh của các thiết bị màn hình những năm gần đây dẫn đến việc tăng nhanh thời
gian sử dụng màn hình ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi học sinh. Sử dụng màn hình quá mức có những ảnh
hưởng tiêu cực đến thể chất và tâm lý của học sinh, tuy nhiên tại Việt Nam vấn đề này vẫn chưa nhận được sự
quan tâm đúng mức của xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình (TGSDMH) cao và mối liên quan với các
yếu tố bản thân và gia đình ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2019 tại
trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp. Có tổng cộng 583 học sinh thỏa tiêu chí c...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 35-40 thời gian sử dụng màn hình và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 260
35-40 THỜI GIAN SỬ DỤNG MÀN HÌNH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT GÒ VẤP, QUẬN GÒ VẤP, TP. HỒ CHÍ MINH
Lương Thị Thùy Dung*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sự gia tăng nhanh của các thiết bị màn hình những năm gần đây dẫn đến việc tăng nhanh thời
gian sử dụng màn hình ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi học sinh. Sử dụng màn hình quá mức có những ảnh
hưởng tiêu cực đến thể chất và tâm lý của học sinh, tuy nhiên tại Việt Nam vấn đề này vẫn chưa nhận được sự
quan tâm đúng mức của xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình (TGSDMH) cao và mối liên quan với các
yếu tố bản thân và gia đình ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2019 tại
trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp. Có tổng cộng 583 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu theo phương pháp PPS.
Những học sinh đồng ý tham gia được khảo sát bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm những thông tin về bản thân, gia
đình và bộ câu hỏi thời gian sử dụng màn hình dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh thiếu niên của
HELENA. Kiểm định Chi bình phương (hoặc kiểm định Fisher) và hồi quy Poisson với ngưỡng ý nghĩa khi p
<0,05 được sử dụng để xác định mối liên quan giữa TGSDMH và các yếu tố bản thân, gia đình.
Kết quả nghiên cứu: Thời gian sử dụng màn hình trung vị là 428 phút/ngày (tương đương với hơn 7,1
giờ/ngày), tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao là 93,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian sử
dụng màn hình với các yếu tố giới tính, khối lớp, học lực, kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ. Trong đó học
sinh nam có tỷ lệ sử dụng màn hình cao gấp 1,05 lần học sinh nữ (96,1% so với 90,9%), các khối lớp càng nhỏ
hay học lực càng kém thì tỷ lệ sử dụng màn hình cao càng cao. Những học sinh có điều kiện kinh tế gia đình
trung bình có tỷ lệ sử dụng màn hình cao gấp 1,24 lần những học sinh có điều kiện kinh tế nghèo. Những học
sinh có mẹ là công nhân có tỷ lệ sử dụng màn hình cao thấp hơn những học sinh có mẹ làm công việc kinh doanh,
lao động tự do và nghề nghiệp khác.
Kết luận: Tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao là 93,3%. Các yếu tố liên quan đến thời gian sử dụng màn
hình là giới tính, khối lớp, học lực, điều kiện kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ.
Từ khóa: thời gian sử dụng màn hình, học sinh THPT
ABSTRACT
SCREEN TIME AND ASSOCIATED FACTORS AMONG HIGHSCHOOL STUDENTS
OF GO VAP SCHOOL, GO VAP DISTRICT, HO CHI MINH CITY
Luong Thi Thuy Dung, Huynh Ngoc Van Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 260 – 267
Background: The rapid development of smart devices in recent years has been accompanied by a
dramatic increase in screen time (ST), at all ages, especially student age. Excessive screen time has
beenmany negative effects on student’s physical and mental health, but in Vietnam this issue has not
received adequate attention from society.
Objectives: To determine the prevalence high screen time and associated factors among highs school
students of Go Vap school, Go Vap district, Ho Chi Minh City, in 2019.
*Khoa Y Tế Công Cộng, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lương Thị Thùy Dung ĐT: 0359682418 Email: thuydungelf13@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 261
Methods: A cross ‐ sectional study, was conducted from April 2019 to June 2019 at Go Vap high school, Go
Vap district. Sample size was 554 students selected by the PPS method. Data were collected using a structured
questionnaire that included information about personal, family and “Screen‐time based sedentary behavior
questionnaire” of HELENA. Statistical analysis was performed using chi‐squared test (or using Fisher if there
were more than 20% expected frequency <5) and Poisson Regression with a significance level of p <0.05 to
consider factors related to screen time. Using the prevalence ratio (PR) with 95% confidence interval to measure
the associations.
Result: Students spent 428 minute/day (equivalent over 7.1 hour/day) in screen time. The prevalence of high
ST (screen viewing ≥2 hours per day) was 93.3%. There were significant associations with screen time and
gender, grade, academic performance, family’s economic conditions and maternal occupation. The prevalence of
high ST was in boys 1.05 times higher than in girls. In the smaller grade, the prevalence of high ST was higher
than an upper grade. Prevalence of high ST in the worse academic performance group was higher than the
prevalence of high ST in the better academic performance groups. Students with an average family’s economic
conditions had a prevalence of high ST of 1.24 times higher than students with poor family’s economic conditions.
Students whose mothers are workers had a lower prevalence of high ST than students with mothers doing
business, freelance, and other careers.
Conclusion: The prevalence of high ST (screen viewing ≥2 hours per day) was 93.3%. Factors related to
screen time were gender, grade, academic performance, family’s economic conditions and maternal occupation.
Key word: screen time, high school students
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, học sinh đang lớn lên trong một
thế giới công nghệ cao và là một trong những
đối tượng đi đầu trong xu hướng sử dụng các
thiết bị công nghệ tương tác bằng màn hình.
Theo CDC, năm 2018 thanh thiếu niên từ 15 - 18
dành trung bình 7,5 giờ mỗi ngày để sử dụng các
thiết bị màn hình. Tỷ lệ thời gian sử dụng màn
hình (TGSDMH) cao ở học sinh được ghi nhận
đang tăng nhanh trong những năm gần đây,
năm 2015 tại Brazil tỷ lệ TGSDMH mức độ cao là
79,5% và tỷ lệ này ở nam là 84,3%, ở nữ là
76,1%(4). đến năm 2016 nghiên cứu của
Christofaro DG ở Brazil và cho kết quả tỷ lệ sử
dụng màn hình mức độ cao 93,8% ở nam và
87,2% ở nữ(3).
Bên cạnh đó rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
những tác hại lớn của TGSDMH quá mức lên cả
thể chất lẫn tinh thần của học sinh như tăng tỷ lệ
thừa cân béo phì(8) tăng tỷ lệ lo âu, stress, trầm
cảm(6), và rối loạn giấc ngủ(5). Vì những ảnh
hưởng lớn lên sức khỏe nên một số nước đã đưa
ra khuyến cáo nên hạn chế thời TGSDMH của
học sinh dưới 2 giờ mỗi ngày(1,11).
Tại Việt Nam các thiết bị màn hình được học
sinh sử dụng rất nhiều và đa dạng, tuy nhiên
tình trạng sử dụng màn hình quá mức lại chưa
được quan tâm đúng mức vì vậy mà những
nghiên cứu về vấn đề này còn khá ít và không đi
sâu. Chính vì lý do này việc đánh giá lại
TGSDMH và các yếu tố liên quan ở học sinh là
cần thiết để đưa ra những giải pháp nhằm thay
đổi các hành vi, lối sống mang lại sức khỏe và
kết quả học tập tốt hơn cho học sinh trung học
phổ thông (THPT).
TP. Hồ Chí Minh là một trong 2 thành phố
lớn nhất cả nước vì vậy với điều kiện kinh tế xã
hội phát triển học sinh ở khu vực này có nhiều
cơ hội tiếp cần cũng như sở hữu các thiết bị màn
hình hơn những khu vực khác trong cả nước.
Trường THPT Gò Vấp là một trường công lập
trọng điểm của quận Gò Vấp và số lượng học
sinh khoảng 1700 em, đây là một trường nằm
trong khu vực nội thành và có nhiều nét tương
đồng về đặc tính kinh tế, văn hóa, xã hội với các
trường khác trong khu vực TP. Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên chúng tôi quyết định
thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định tỷ lệ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 262
học sinh có TGSDMH cao và các yếu tố liên
quan ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò
Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Được thực hiện trên học sinh trường THPT
Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh từ
tháng 04/2019 đến tháng 06/2019.
Tiêu chí chọn vào
Học sinh có mặt tại thời điểm điều tra và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Học sinh không trả lời hết các câu hỏi trong
phiếu khảo sát và những học sinh vắng mặt
trong 2 lần thu thập dữ liệu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ,
trong đó sai lầm loại 1 là 0,05; sai số biên cho
phép là 0,05 và p chọn bằng 0,538 (theo nghiên
cứu của Nguyễn Ngọc Vân Phương và cộng
sự(8)), hệ số thiết kế là 2 cho mẫu cụm, được điều
chỉnh cho dân số chọn mẫu hữu hạn là 1722 và
dự trù tỷ lệ mất mẫu 10%, từ đó tính được cỡ
mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 583 học sinh.
Phương pháp thực hiện
Nghiên cứu sử dụng phương pháp PPS để
chọn ra 20 cụm thuộc 3 khối 10, 11 và 12 mỗi
cụm lấy 30 học sinh. Từ danh sách học sinh cộng
dồn với tổng là 1722 học sinh, khoảng cách mẫu
là 86 và số đầu tiên được chọn ngẫu nhiên là 19.
Cụm đầu tiên bắt đầu từ học sinh có thứ tự
cộng dồn là 19, cụm đầu tiên sẽ là những học
sinh có số thứ tự từ 19 đến 48.
Cụm thứ 2 bắt đầu bằng học sinh có số thứ
là 19 cộng với khoảng cách mẫu và bằng 105,
cụm 2 bao gồm các học sinh có số thứ tự là 105
đến 134.
Cụm thứ 3 được tính bằng cách cộng thêm
khoảng cách mẫu vào con số bắt đầu tính được ở
cụm thứ 2.
Tương tự với các cụm còn lại cụm phía sau
sẽ bằng con số bắt đầu tính được ở cụm liền
trước cộng với khoảng cách mẫu.
Thu thập số liệu
Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự
điền về những đặc điểm bản thân, gia đình và
TGSDMH. Tình trạng TGSDMH được đánh giá
bằng bộ câu hỏi “thời gian sử dụng màn hình
dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh
thiếu niên của HELENA”(9). Đây là bộ câu hỏi
được xây dựng bởi Rey-Lopez JP và được đánh
giá có độ tin cậy cao cho hầu hết các câu hỏi các
hành vi sử dụng màn hình với K-value >0,7. Khi
tiến hành nghiên cứu thử trên 30 học sinh chúng
tối thu được kết quả độ tin cậy nội tại
Cronbach’s anpha của bộ câu hỏi này là 0,78.
So sánh với những bộ câu hỏi khác cũng
khảo sát về TGSDMH như ASAQ (Adolescent
Sedentary Activity Questionnaire), YLSBQ
(Youth Leisure-time Sedentary Behavior
Questionnaire) thì bộ câu hỏi “thời gian sử dụng
màn hình dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho
thanh thiếu niên của HELENA” thống kê được
nhiều hành vi sử dụng màn hình trên nhiều thiết
bị màn hình khác nhau hơn, ngoài ra cũng có sự
phân biệt giữa ngày trong tuần và ngày cuối
tuần do tác giả bộ câu hỏi nhận thấy có sự khác
nhau trong thời gian sử dụng màn hình giữa các
ngày đi học và các ngày nghỉ ở học sinh.
TGSDMH trong một ngày sẽ bằng tổng thời
gian thực hiện 5 hành vi khảo sát trong một
ngày. Năm hành vi này gồm: xem TV, chơi trò
chơi trên máy tính, chơi trò chơi trên các thiết bị
cầm tay, sử dụng internet cho mục đích sở thích,
sử dụng internet cho mục đích học tập. Do có sự
khác biệt về TGSDMH giữa các ngày trong tuần
(từ thứ 2 đến thứ 6) và các ngày cuối tuần (thứ 7
và chủ nhật) nên TGSDMH được tính bằng cách
cộng dồn thời gian thực hiện hành vi đó trong 1
tuần và chia cho 7 để lấy số trung bình. Mức độ
sử dụng màn hình gồm 2 giá trị là cao và thấp,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 263
được phân loại dựa vào TGSDMH của học sinh.
Mức độ cao khi TGSDMH ≥120 phút/ngày(9).
Phân tích thống kê
Tần số và tỷ lệ phần trăm đối với các biến
định tính mô tả đặc điểm bản thân, gia đình và
mức độ sử dụng màn hình.
Tuổi được mô tả bằng trung bình và độ lệch
chuẩn. Thời gian thực hiện các hành vi sử dụng
màn hình và TGSDMH được mô tả bằng trung
vị và khoảng tứ phân vị.
Sử dụng kiểm định Chi bình phương (hoặc
phép kiểm Fisher thay thế khi có >20% số ô có
vọng trị <5) để đo lường mối liên quan giữa
TGSDMH với các biến nhị giá với ngưỡng ý
nghĩa khi p <0,05. Để đo lường mối liên quan
giữa TGSDMH với các biến thứ tự như học lực
và khối lớp dùng kiểm định Chi bình phương
khuynh hướng.
Hồi quy Poisson đơn biến và đa biến với tùy
chọn Robust được sử dụng để xác định mối liên
quan giữa TGSDMH với tôn giáo, tình trạng
dinh dưỡng, tình trạng hôn nhân của cha mẹ,
kinh tế gia đình, nghề nghiệp của cha, học vấn
của cha, nghề nghiệp của mẹ và học vấn của mẹ.
Lượng giá mức độ liên quan bằng tỉ số tỷ lệ hiện
mắc PR với khoảng tin cậy 95%.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng
khoa học khoa Y Tế Công Cộng và Hội đồng đạo
đức y sinh học của trường Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh số 203/ĐHYD - HĐĐĐ.
KẾT QUẢ
Trong tổng số 583 phiếu khảo sát phát ra thu
lại được 554 phiếu khảo sát đạt yêu cầu. Nên
tổng số học sinh được đưa vào phân tích là 554
học sinh.
Đặc điểm các yếu tố bản thân
Học sinh tham gia nghiên cứu có tuổi
trung bình là 16 ± 0,9 tuổi trong đó nhỏ nhất là
16 tuổi và lớn nhất là 22 tuổi. Trong nghiên
cứu, tỷ lệ nữ giới nhiều hơn nam giới (53,6%
nữ và 46,4% nam). Hầu hết là dân tộc Kinh,
chủ yếu theo đạo Phật. Trong số học sinh khảo
sát khối 11 chiếm tỷ lệ cao nhất và khối 12
chiếm tỷ lệ thấp nhất. Hơn một nửa số học
sinh có học lực khá (50,7%), học lực dưới trung
bình chiếm 3,2%. Đa số học sinh có tình trạng
dinh dưỡng ở mức bình thường.
Đặc điểm các yếu tố gia đình
Trong nghiên cứu đa số học sinh sống chung
với người thân, trong đó chủ yếu sống cùng cha
mẹ (83,7%), tình trạng hôn nhân của cha mẹ học
sinh đa số là sống chung (83,4%). Điều kiện kinh
tế gia đình của các học sinh chủ yếu thuộc mức
trung bình (61,9%), mức giàu có chỉ chiếm 3,4%
và mức nghèo chiếm 7,1%. Kết quả cho thấy
phần lớn cha của học sinh có học vấn từ THPT
trở lên, nghề nghiệp chủ yếu là lao động tự do,
kinh doanh và công nhân. Có 10 học sinh có cha
đã qua đời chiếm tỷ lệ 1,8% tổng số học sinh
tham gia. Khoảng 57,6% mẹ của học sinh có học
vấn từ THPT trở lên, nghề nghiệp chủ yếu là nội
trợ và kinh doanh.
Đặc điểm thời gian sử dụng màn hình
Bảng 1: Tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao
(n=554)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ %
Mức độ sử dụng màn hình
Cao 517 93,3
Thấp 37 6,7
Theo kết quả nghiên cứu, TGSDMH của học
sinh có trung vị là 428,6 phút với khoảng tứ
phân vị từ 277,4 – 581,0 phút trong đó giá trị nhỏ
nhất là 0 phút và cao nhất là 1174 phút. Trong
nghiên cứu, theo bộ câu hỏi về TGSDMH của
HELENA thì tỷ lệ học sinh có mức độ TGSDMH
cao là 93,3% (Bảng 1).
Trong các hành vi sử dụng màn hình được
khảo sát, “xem TV” là hành vi có TGSDMH ít
nhất (23,6 phút/ngày) và hành vi có TGSDMH
nhiều nhất là “chơi trò chơi trên các thiết bị cầm
tay” với hơn 2 giờ sử dụng mỗi ngày. Học sinh
chỉ dành khoảng 45 phút/ngày để sử dụng màn
hình phục vụ cho học tập (Bảng 2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 264
Bảng 2: Đặc điểm các hành vi sử dụng màn hình
(phút/ngày) (n = 554)
Đặc tính
Trung
vị
Khoảng tứ
phân vị
Xem TV 23,6 0,0 – 90,0
0,0 – 124,3
57,9 – 232,1
57,9 – 215,0
15,0 – 90,0
Chơi trò chơi trên máy tính 43,9
Chơi trò chơi trên các thiết bị cầm tay 124,3
Sử dụng internet theo sở thích 111,4
Sử dụng internet để học tập 45,0
Các yếu tố liên quan đến TGSDMH theo mô
hình hồi quy Poisson đa biến
Nghiên cứu cho thấy có 5 yếu tố liên quan
đến TGSDMH bao gồm: giới tính, khối lớp,
học lực, điều kiện kinh tế gia đình, nghề
nghiệp của mẹ. Kết quả phân tích mối liên
quan theo mô hình hồi quy đa biến Poisson cụ
thể như trong Bảng 3.
Học sinh nam có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao
cao hơn học sinh nữ 1,05 lần với phc = 0,017 và
KTChc 95% là 1,01–1,10. Học sinh lớp 12 có tỷ lệ
TGSDMH cao thấp nhất, cứ giảm xuống một
khối lớp thì tỷ lệ TGSDMH cao tăng lên 1,05 lần
với phc = 0,003 và KTChc 95% là 1,02–1,08. Cứ
giảm xuống một bậc học lực thì tỷ lệ TGSDMH
cao tăng lên 1,05 lần với phc = 0,011 và KTChc 95%
là 1,01–1,09.
Những học sinh thuộc những gia đình có
điều kiện kinh tế trung bình có tỷ lệ TGSDMH
mức độ cao cao hơn học sinh thuộc những gia
đình nghèo 1,24 lần với phc = 0,010 và KTChc 95%
là 1,05–1,47. Những học sinh có mẹ làm công
việc kinh doanh có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao
cao hơn học sinh có mẹ là công nhân 1,12 lần với
phc = 0,016 và KTChc 95% là 1,02–1,22. Những học
sinh có mẹ là lao động tự do có tỷ lệ TGSDMH
cao cao hơn học sinh có mẹ là công nhân 1,12 lần
với phc = 0,008 và KTChc 95% là 1,03–1,23. Học
sinh có mẹ thuộc nhóm nghề nghiệp khác (nghỉ
hưu, thợ may, nghệ sĩ, không rõ nghề nghiệp),
có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao cao hơn học sinh
có mẹ là công nhân 1,14 lần với phc = 0,016 và
KTChc 95% là 1,05–1,24.
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến TGSDMH theo mô hình hồi quy Poisson đa biến (n=554)
Đặc tính TGSDMH cao Tần số (%) Giá trị pthô PR thô (KTC 95% thô) Giá trị phc PRhc (KTC 95%hc)
Giới
Nam
Nữ
247 (96,1)
270 (90,9)
0,014
1,06 (1,01 – 1,10)
0,017
1,05 (1,01–1,10)
Khối lớp
Lớp 12
Lớp 11
Lớp 10
140 (87,0)
189 (95,0)
188 (96,9)
<0,001*
1
1,05 (1,02 – 1,09)
1,11 (1,04 - 1,18)
0,003*
1
1,05 (1,02 –1,08)
1,10 (1,03 –1,17)
Học lực
Giỏi
Khá
TB và dưới TB
47 (81,0)
261 (92,9)
209 (97,2)
<0,001*
1
1,07 (1,03 – 1,12)
1,14 (1,06 – 1,25)
0,011*
1
1,05 (1,01–1,09)
1,10 (1,02–1,18)
Kinh tế gia đình
Nghèo
Trung bình
Khá giả
Giàu có
30 (76,9)
331 (96,5)
138 (90,2)
18 (94,7)
0,010
0,083
0,043
1
1,25 (1,05 - 1,49)
1,17 (0,98 - 1,40)
1,23 (1,01 - 1,51)
0,010
0,143
0,069
1
1,24 (1,05 –1,47)
1,13 (0,96 –1,34 )
1,19 (0,99 –1,43)
Nghề nghiệp của mẹ
Công nhân
Kinh doanh
Nhân viên nhànước
Nội trợ/Thất nghiệp
Lao động tự do
Khác
69 (86,3)
108 (93,9)
73 (93,6)
183 (94,8)
70 (94,6)
14 (100,0)
0,093
0,128
0,079
0,047
0,001
1
1,09 (0,99 – 1,20)
1,08 (0,98 – 1,21)
1,10 (0,99 – 1,22)
1,10 (1,00 – 1,21)
1,16 (1,06 – 1,27)
0,016
0,051
0,059
0,008
0,003
1
1,12 (1,02 –1,22)
1,10 (1,00 –1,21)
1,10 (1,00 –1,21)
1,12 (1,03 –1,23)
1,14 (1,05 –1,24)
phc: p hiệu chỉnh, PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, *:Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 265
BÀN LUẬN
Theo ghi nhận của nghiên cứu (Bảng 2) hành
vi sử dụng màn hình ít nhất là xem TV và hành
vi sử dụng màn hình nhiều nhất là giải trí trên
các thiết bị cầm tay như điện thoại thông minh,
máy tính bảng, ipad. Điều này là một xu hướng
được ghi nhận ở hầu hết các nghiên cứu về
TGSDMH. Do sự phát triển và cá nhân hóa
những thiết bị màn hình, những thiết bị màn
hình cầm tay có kích thước nhỏ gọn thuận lợi
cho việc di chuyển, có thể sử dụng bất cứ khi
nào và ở đâu, trong khi TV chỉ cố định ở một chỗ
chủ yếu là tại nhà riêng. Thêm vào đó những
loại hình giải trí trên các thiết bị cầm tay là đa
dạng và phong phú hơn khi vừa có thể sử dụng
tính năng xem phim xem video như TV vừa có
thể tham dự những loại hình giải trí tương tác.
Đó chính là nguyên nhân mà TGSDMH dành
cho các thiết bị màn hình cầm tay nhiều hơn hẳn
so với thời gian xem TV. Bên cạnh đó các học
sinh chỉ dành khoảng 45 phút mỗi ngày để sử
dụng màn hình phục vụ cho học tập còn hầu hết
thời gian là dành cho các hoạt động giải trí,
tương tác khác. Điều này nói lên những vấn đề
tồn tại trong mục đích sử dụng màn hình và việc
kiểm soát mục đích sử dụng màn hình của con
em mình của các bậc phụ huynh.
TGSDMH trung vị ghi nhận được trong
nghiên cứu là 428,6 phút tương đương với hơn
7,1 giờ sử dụng màn hình mỗi ngày, thời gian
này tương đương với TGSDMH ở độ tuổi từ 15
đến 18 được thống kê bởi CDC năm 2018 là 7,5
giờ mỗi ngày (2). Tuy nhiên TGSDMH trung bình
của nghiên cứu cao gấp 3,5 thời gian được
khuyến cáo (1,11) và vượt xa mức TGSDMH trung
bình trong nghiên cứu vào năm 2010 của
Nguyễn Ngọc Vân Phương là 2,2 giờ(8).
Tỷ lệ học sinh có TGSDMH mức độ cao
trong nghiên cứu là 93,3% (Bảng 1), trong đó tỷ
lệ TGSDMH cao của nam là 96,1% và của nữ là
90,9% (Bảng 3). Tỷ lệ này cao hơn những nghiên
cứu khác đã thực hiện trên thế giới, tuy nhiên có
thể thấy được xu hướng tăng nhanh của tỷ lệ
TGSDMH cao khi so sánh kết quả của các
nghiên cứu theo mốc thời gian, xu hướng này
cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu đoàn
hệ ở Việt Nam, nghiên cứu kết luận rằng
TGSDMH ở học sinh tăng 28% trong 5 năm.(7)
Tính từ 2004 nghiên cứu tại Tây Ban Nha có 34%
nam và 43% nữ có mức sử dụng màn hình cao(10),
năm 2010 tại Việt Nam tỷ lệ có TGSDMH cao là
53,8%(8) đến năm 2015 tại Brazil tỷ lệ TGSDMH
cao là 79,5% và tỷ lệ này ở nam là 84,3%(4), ở nữ
là 76,1%. nghiên cứu năm 2016 của Christofaro
DG ở Brazil cho kết quả tỷ lệ TGSDMH cao là
93,8% ở nam và 87,2% ở nữ(3). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi thu được cao hơn kết quả năm
2016 tại Brazil cũng nằm trong xu hướng tăng
TGSDMH nêu trên. Và không thể loại trừ khả
năng xu hướng tăng TGSDMH này sẽ vẫn còn
tiếp diễn trong thời gian tới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi của các
đối tượng là tương đồng với khối lớp, lớp 10 là
16 tuổi, lớp 11 là 17 tuổi và lớp 12 là 18 tuổi. Kết
quả cho thấy những học sinh ở khối lớp nhỏ hơn
có tỷ lệ TGSDMH cao cao hơn, đồng nghĩa
nhóm học sinh có tuổi thấp hơn có tỷ lệ
TGSDMH cao cao hơn (Bảng 3). Điều này phù
hợp với kết quả của các đã thu được trước đây,
theo Joana Marcela Sales de Lucena có mối liên
quan giữa TGSDMH và lứa tuổi của học sinh, cụ
thể tỷ lệ này ở nhóm tuổi 14 - 15 là 82,1%, ở
nhóm tuổi 16 - 17 là 79,3% và ở nhóm tuổi 18 - 19
là 71,1%(4).
Kết quả phân tích cũng cho thấy mối liên
quan giữa học lực và mức độ sử dụng màn hình.
Theo đó, những học sinh có học lực càng kém thì
có tỷ lệ TGSDMH cao càng cao (Bảng 3). Kết quả
này phù hợp với những kết luận của Wang Hao
trong nghiên cứu thực hiện năm 2017 tại Chiết
Giang trung Quốc, theo Wang Hao những học
sinh có học lực khá có tỷ lệ TGSDMH mức độ
cao gấp 1,55 những học sinh có học lực giỏi,
những học sinh có học lực trung bình trở xuống
có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao gấp 2,35 lần nhóm
học sinh giỏi(12).
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa tình trạng kinh tế gia đình và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 266
TGSDMH, theo đó những học sinh thuộc những
gia đình nghèo có tỷ lệ TGSDMH cao thấp hơn
những học sinh thuộc nhóm kinh tế gia đình
trung bình trở lên (Bảng 3). Kết quả này tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Joana(4). Sự
khác biệt về tỷ lệ TGSDMH cao giữa các nhóm
điều kiện kinh tế gia đình có thể lý giải do khả
năng tiếp cận và sở hữu các thiết bị màn hình
giữa các nhóm kinh tế gia đình là không giống
nhau. Vì khả năng kinh tế hạn hẹn hơn, những
học sinh ở những gia đình nghèo sẽ ít có cơ hội
sở hữu những thiết bị màn hình riêng, hoặc sở
hữu cùng lúc nhiều thiết bị màn hình như
những học sinh thuộc những gia đình có điều
kiện kinh tế cao hơn.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm được mối liên
quan giữa nghề nghiệp của mẹ và TGSDMH của
học sinh (Bảng 3), theo đó những học sinh có mẹ
là công nhân có tỷ lệ TGSDMH cao thấp nhất
(86,3%), sau khi phân tích bằng mô hình đa biến
Poisson kết quả thu được có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp của mẹ là công
nhân với kinh doanh, lao động tự do và những
nghề nghiệp khác. Sự khác biệt này có thể do
nhóm có mẹ làm công nhân thường có điều kiện
kinh tế gia đình chưa cao, nên ít khả năng tiếp
cận với các thiết bị màn hình.
Nghiên cứu có điểm mạnh là sử dụng
phương pháp lấy mẫu PPS, cỡ mẫu đủ để đại
diện cho dân số mục tiêu. Nghiên cứu sử dụng
bộ câu hỏi tự điền nên ít tốt kém, không tốn
nhiều thời gian và hạn chế được những sai lệch
do người phỏng vấn. Bộ câu hỏi TGSDMH dựa
trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh thiếu
niên của HELENA thống kê đầy đủ các hành vi
sử dụng màn hình trên nhiều thiết bị màn hình
khác nhau, với độ tin cậy nội tại Cronbach’s
Alpha đạt trên 0,7 đã được kiểm tra qua nghiên
cứu thử trên 30 học sinh trước khi tiến hành
nghiên cứu. Nghiên cứu dùng mô hình Poisson
đa biến để xác định các yếu tố thực sự liên quan
đến TGSDMH. Tuy nhiên hạn chế của nghiên
cứu là thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả nên
chỉ phản ánh được tình trạng TGSDMH của học
sinh tại thời điểm nghiên cứu mà không thể hiện
được mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố liên
quan. Thêm vào đó, nghiên cứu sử dụng bộ câu
hỏi tự điền nên câu trả lời phụ thuộc vào độ
trung thực của học sinh. Các tài liệu liên quan
đến TGSDMH ở Việt Nam khá ít, do đó nghiên
cứu sử dụng tài liệu, y văn từ nước ngoài để
tham khảo và so sánh nên có thể dẫn đến sự
không tương đồng về một số đặc điểm kinh tế -
văn hóa - xã hội.
KẾT LUẬN
TGSDMH trung vị là 428,6 phút, trong đó
thời gian dành cho “xem TV” là ít nhất và thời
gian “chơi trò chơi trên các thiết bị cầm tay” là
nhiều nhất. TGSDMH phục vụ cho việc học chỉ
chiếm khoảng 45 phút/ngày. Tỷ lệ học sinh có
TGSDMH mức độ cao là 93,3%, trong đó nam là
96,1% nữ là 90,9%. Các yếu tố liên quan đến
TGSDMH gồm giới tính, khối lớp, học lực, điều
kiện kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ.
Từ những kết quả thu được từ nghiên cứu
chúng tôi có một số kiến nghị rằng các học sinh
nên hạn chế tối đa thời gian tiếp xúc với màn
hình, không quá 2 giờ một ngày. Sử dụng màn
hình với mục đích lành mạnh và thiết thực hơn
như phục vụ cho học tập nhiều hơn thay vì chơi
trò chơi. Bên cạnh đó các bậc phụ huynh cũng
cần quan tâm và kiểm soát các loại thiết bị, thời
gian cũng như mục đích học sinh sử dụng các
thiết bị màn hình. Thêm vào đó cha mẹ có thể
đặt ra các quy định về giờ giấc và mục đích sử
dụng thiết bị màn hình của học sinh, đặc biệt là
những học sinh nam, những học sinh có học lực
kém và những học sinh thuộc các khối lớp nhỏ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Australian Government Department of Health (2017).
Australia's Physical Activity and Sedentary Behaviour
Guidelines. URL:
health-pubhlth-strateg-phys-act-guidelines#apa1317.
2. Centers for Disease Control and Prevention (2018). Screen Time
vs. Lean Time Infographic. URL:
https://www.cdc.gov/nccdphp/dnpao/multimedia/infographics/
getmoving.html.
3. Christofaro DG, De Andrade SM, Mesas AE, Fernandes RA,
Farias JJC (2016). "Higher screen time is associated with
overweight, poor dietary habits and physical inactivity in
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 267
Brazilian adolescents, mainly among girls". Eur J Sport Sci,
16(4):l498-506.
4. de Lucena JM, Cheng LA, Cavalcante TL, da Silva VA, de Farias
JJC (2015). "Prevalence of excessive screen time and associated
factors in adolescents". Rev Paul Pediatr, 33(4):407-14.
5. Ghekiere A, Van Cauwenberg J, Vandendriessche A, Inchley J,
et al (2018). "Trends in sleeping difficulties among European
adolescents: Are these associated with physical inactivity and
excessive screen time?" Int J Public Health, 64(4):487-498.
6. Maras D, Flament MF, Murray M, et al (2015). "Screen time is
associated with depression and anxiety in Canadian youth".
Preventive Medicine, 73:133-138.
7. Nguyen HHD Trang, van der Ploeg HP, Hardy LL, et al (2013).
"Longitudinal sedentary behavior changes in adolescents in Ho
Chi Minh City". Am J Prev Med, 44(3):223-30.
8. Nguyen NV Phuong, Robert AR, et al (2016). "Excessive screen
viewing time by adolescents and body fatness in a developing
country: Vietnam". Asia Pac J Clin Nutr, 25(1):174-83.
9. Rey-Lopez JP, Ruiz JR, Ortega FB, Verloigne M, Vicente-
Rodriguez G, Gracia-Marco L, et al (2012). "Reliability and
validity of a screen time-based sedentary behaviour
questionnaire for adolescents: The HELENA study". Eur J Public
Health, 22(3):373-7.
10. Serrano-Sanchez JA, Martí-Trujillo S, Lera-Navarro A, Dorado-
García C, González-Henríquez JJ, Sanchís-Moysi J (2011).
"Associations between screen time and physical activity among
Spanish adolescents". PLoS One, 6(9):e24453.
11. Tremblay MS, LeBlanc AG, Janssen I (2011). "Canadian
sedentary behaviour guidelines for children and youth". Appl
Phys Nutr Metab, pp.36
12. Wang H, Zhong J, Hu R, Fiona B, Yu M, Du H (2018).
"Prevalence of high screen time and associated factors among
students: a cross-sectional study in Zhejiang, China". BMJ Open,
8(6):e021493.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35_40_thoi_gian_su_dung_man_hinh_va_cac_yeu_to_lien_quan_2769_2212110.pdf